Độ mặn (và những cách đo lường nước lợ)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

"Vào lúc bạn nhận ra mình đã yêu luôn là quá trễ. Như các nhà thơ thường hay nói: đến rồi đây".

Anne Carson, Ái Tình buồn vui lẫn lộn (Eros The Bittersweet).

Hãy kể tôi nghe về Tận Thế.

Hãy kể tôi nghe về những gì xảy ra sau đó. Có những ai biết chuyện? Chúng ta có thể nói về chàng Achillies hàng giờ, chúng ta biết hết những điều cần biết về nàng Electra. Chúng ta hào hứng với khổ đau, chỉ cần chút nghiên cứu, chúng ta liền có thể bày tỏ cơn đau thành lời.

Nơi đây là South Downs và Crowley thường hay đến chỗ bến tàu. Ở đây cũng chẳng có gì hay ho để làm, phải không nhỉ? Hắn đã đi dò la hết các quán bar lẫn các cửa hàng bán đĩa. Hắn đã lùng sục hết mọi ngóc ngách của ngôi làng buồn hiu này, dọa cho đám hồng của mình sợ phát khiếp. Vậy nên hắn đến chỗ bến tàu với cái cơ thể như chiếc roi da này. (Ban đầu hắn là rắn, hắn mãi mãi là rắn. Bọn rắn chỉ nằm thẳng khi chúng tèo, vậy nên hắn luôn di chuyển như một con mãng xà. Hệt như dấu móc lửng hay dấu phẩy, từ thảnh thơi tản bộ cho đến thình lình tự cuộn tròn). 

Bây giờ thì hắn đang cuộn tròn, nghiêng đầu bên mặt nước, chăm chú chờ đợi lũ nhện nước và tảo, đám cá ngoi lên mặt nước. Mái tóc màu đỏ (màu của ngôi sao sắp tàn) của hắn bị gió biển thổi tứ tung. Hắn ra lệnh cho đôi giày da không được ướt, không được thấm muối biển. Bạn phải thật cẩn thận với các hồ thủy triều, đừng đi chân trần. Chỉ cần bạn đi chân trần thì khi da bạn chạm đá, hãy chuẩn bị cho việc bị thương. Mang đôi xăng - đan hay giày da vào, đừng phơi nắng bản thân như thế.

Hắn đã luôn thích nước. Lúc đầu Chúa tạo ra lửa, rồi mới tới nước. Trước đây Crowley là một con rắn, dù dạo gần đây hắn thích mình có đầy đủ hai tay hai chân hơn. Một con rắn nằm úp sấp, hòa mình vào đám sậy của dòng sông. Phải, hắn còn hòa mình vào nước, bãi rêu và bụi đất nữa.

Chuyện đó diễn ra như thế nào? Cú rơi ấy? Sai lầm ấy? Khi chuyến tản bộ dần dần lao dốc? Chuyện đó bắt đầu bằng những đường nét trên khuôn mặt. Chúng ở đó, quanh đôi mắt của Aziraphale, cũng ở dưới cằm và quai hàm nữa. Trên mái đầu mềm như bông của anh, giống hệt như hoa bồ công anh thổi là bay đi mất. Trong nụ cười ngập ngừng của anh, cái chớp mắt thoáng qua. Crowley và cơn đói khát của hắn. Sao bạn có thể đổ lỗi cho một người đang chết đói chỉ vì hắn mò tay lên bàn? Lần này mình sẽ không làm như thế nữa, sẽ không. (Hắn trừng mắt với mái tóc quỷ quái của mình trong gương, ép cho chúng nghe theo lệnh, hoài nghi bộ quai hàm khác lạ và chiếc mũi gầy của mình).

Dù vậy, cũng chẳng có gì quan trọng. Nó chưa bao giờ là quan trọng cả. Những gì bạn nói trước gương không bao giờ quan trọng. Chưa bao giờ vượt quá hai mươi phút gặp nhau mà Crowley không diễn trò cho Aziraphale coi, chỉ để làm Aziraphale trưng ra nụ cười tinh quái của mình (Không phải là một hình ảnh thiên thần kiểu mẫu, Crowley thích thú với chuyện đó). Mỗi lần ở bên em là tôi hệt như một thằng dở. Điều đó là bất khả thi, nếu được thì hắn đã tự móc mắt của mình ra rồi. Hắn không thường nghĩ về khao khát của mình, cái khao khát bệnh hoạn ấy. (Hắn luôn nghĩ về nó). Hắn đã hăm dọa dòng sông lương tâm trong mình, tống đi nỗi khao khát bẩn thỉu, những dòng chảy hài hòa của ước muốn (và tệ hơn thế nữa) đến một nơi nào đó sâu thẳm. Ở mực nước ngầm. Không thể nhìn thấy, không thể chạm tới. Em sẽ làm gì nếu tôi nói ra đây? (Không thể nào biết được).

Mặt trời đang đổ bóng. Hắn nên quay về thôi.

Hắn đã hứa tối nay sẽ nấu ăn còn gì.
...

Điệu nhảy kỳ quặc nhất là giữa hai con tàu đang chạy song song, cố nhòm vào ô cửa sổ của đối phương. Hai cá thể nước, đang cố gắng thăm dò độ sâu. Bạn sẽ hỏi thế nào đây? Bạn sẽ nói Tôi sâu một trăm bảy mươi tư mét. Độ mặn của tôi là ba mươi lăm phần trăm. Còn ông thì sao? như thế nào kia chứ?

Để tôi nói bạn nghe chúng tôi đã làm như thế nào. Lấy ra một sợi dây đo, cái loại dây màu trắng có bọc nhựa vinyl với cục dằn bằng đồng ở đuôi ấy. Chúng ta thả sợi dây xuống nước, đo xem nó xuống bao sâu. Đây là cách bạn biết được những nơi mình chưa từng đặt chân tới. Không, tôi không nghĩ thế nhưng tôi đã từng thả dây đo của mình xuống nước và cảm nhận độ sâu của biển chỉ với một sợi chì. Giờ đây thì có nhiều cách để làm thế hơn, dùng thiết bị điện tử để đo âm vang xuống lòng biển. Cứ ném xuống rồi lại kéo lên. Nhưng như thế thì không hoàn hảo. Thực sự thì có nhiều thứ không hề thay đổi. Chúng ta vẫn không biết rõ cách người Hy Lạp làm ra sao, cả người La Mã nữa. Bạn và tôi, cùng chiếc thuyền nhỏ với sợi dây đo như này.

Có những ai biết được? Những ai đã vượt biển khơi, những ai đo lường được độ sâu thăm thẳm. Chúng ta đã lãng quên những khoảng lặng, những vũng vịnh, đường bờ biển và những vũng nước đọng. Bạn biết đấy, Ơ-đíp có được mọi thứ. Những câu chuyện kể và cả chiếc vương niệm nữa. Không ai nói gì về căn nhà tranh nhỏ, về Baucis và món bánh của bà, về Philemon và bộ lưới đánh cá của ông. Không ai nhớ gì đến vùng biển lặng.

Vậy nên chỉ một lần thôi, hãy cùng nhìn xem.
...

Hắn đang đứng trong bếp, nhăn nhó với cái nồi. Hãy để tôi giải thích lý do.

Tất nhiên là cả hai đã say rượu. Chuyện đó không hoàn toàn là lỗi của Crowley (lần này thì không). Aziraphale mới là người đề nghị khui chai rượu nho Screaming Eagle Cabernet Sauvignon đời 2007. ( "Thiên thần ơi thiên thần hỡi, ông đã biết tôi với rượu California rồi mà. Chọn chai khác đi." Nhưng Aziraphale vẫn kiên quyết). Nếu Crowley có đề nghị làm thêm một bộ sưu tập rượu vang  Sauternes tuyệt hảo sau khi nốc hết vài chai, thì cũng không thể hoàn toàn đổ lỗi cho hắn được.

Phải, vào cái lúc Crowley lôi ra được câu hỏi ấy thì cả hai đã say quắc cần câu, đó là một trong vô số câu hỏi nhỏ hắn chưa bao giờ nói thành lời vì sợ rằng cả hai sẽ chẳng thể cùng nhau như thế này được nữa. Sợ rằng những câu hỏi ấy sẽ để lộ ra, quá rõ ràng.

"Tôi chắc chắn nợ ông một chút phép quỷ của mình vì chai rượu kia, ông biết đấy."

"Ồ. Không bao giờ. Tôi cũng chẳng chia sẻ điều này với ai khác ngoài ông." Aziraphale nói, chơi đùa với tay áo của mình.

"Không, chọn gì đó đi. Bất cứ thứ gì ông thích."

Crowley đang nghĩ đến việc cuỗm đi mấy ngôi sao và giấu chúng vào túi áo trước ngực của mình, hắn nghĩ đến chuyện đưa Aziraphale quay lại quán ăn ở Bờ Trái sông Seine. Hắn đang nghĩ tới việc chôm bức Đức Mẹ Sầu Bi (có thể không, hắn đã từng chôm bức Mona Lisa một lần rồi, chỉ trả lại vì cái nhăn mày của Aziraphale).

Aziraphale trưng ra nụ cười vui tính đó của mình. Cười nhẹ, nghiêm túc rồi lại cười lần nữa. Ánh mắt đó bao trùm cả người Crowley.

"Tôi muốn nhìn ông nấu ăn."

"Tới giờ tỉnh rượu rồi thiên thần."

"Tôi nghiêm túc đấy."

"Ông điên rồi. Hai ta có thể đến quán sushi mà, cái quán ở Osaka đó, với-"

"Crowley à."

Crowley chăm chú nghiên cứu ly rượu trên tay, tự hỏi liệu trong rượu có đặc tính gây ảo giác vì đã ủ quá lâu trong cái hiệu sách siêu mức ẩm thấp đó của Aziraphale hay không.

"Nấu kiểu gì mới được?"

Cái điệu cười lố lăng, vớ vẩn và tuyệt vời đó. Hệt như bông hoa vươn mình đón nắng. Ánh bình minh chói loà.

"Kiểu gì cũng được." Aziraphale khựng lại -  "Nếu được thì tôi thách ông đấy, chàng quỷ của tôi."

"Nghe đây, nếu ông có chết mục xương vì bị ngộ độc thực phẩm thì đừng có trách tôi đấy."
...

Căn nhà tranh nằm ở dãy đồi South Downs.

Aziraphale đã cần một nơi để ở. Hiệu sách ở Luân Đôn giờ đây đã cháy rụi. Cái đống ghế cũng không còn hình thù hệt như bọn phù thủy đã chết cháy trên giàn thiêu.

Tất nhiên là Crowley có đề nghị căn hộ của hắn, dù Aziraphale đã trình diễn màn bĩu môi điêu luyện và thẳng thắn thông báo với hắn rằng thực ra căn hộ của Crowley ảm đạm cực. (Chuyện đó thật nực cười. Chẳng có gì ảm đạm về thị hiếu cả. Một thiên thần cứng nhắc không biết gì về ca sĩ Lou Reed thì biết quái gì về khái niệm thị hiếu cơ chứ?)

Vậy nên, căn nhà tranh này nằm trên dãy đồi đá phấn cứ trải dài khắp, một hỗn hợp trời xanh mây trắng cỏ xanh mướt một màu và không hề, không hề có âm thanh ken két của tàu điện ngầm, mùi rác thải và chua lòe của quán rượu, mùi hôi thối trong gió từ những thùng rác tọng đầy ứ. Ở đây có ánh mặt trời rực rỡ, quá chói mắt mà không có những tòa nhà cao tầng che khuất đi. Crowley khoác trên mình chiếc áo khoác tối màu với dáng người cao dong dỏng, thì đúng là nổi bần bật giữa ban ngày.

Rồi còn một Aziraphale trắng hệt như đồi đá phấn ấy, kiên quyết cực kỳ. Anh là một điểm trắng ở bên đồi, là một nụ cười bất ngờ. Với đôi môi mềm mại và bờ vai vững chãi đó. Crowley cau mày, cảm giác ngứa ngáy ở hai bả vai. Hắn không thể với tới chỗ ấy, không hẳn là không thể, và cạ lưng vào tường. Aziraphale đã rất hài lòng và hào hứng với việc bắt đầu cuộc sống ở nơi đây. Tất nhiên không phải là mãi mãi (bạn không thể hứa hẹn mãi mãi khi thực tế đó là một điều rất khả thi). Aziraphale chỉ mới bắt đầu công việc kinh doanh, hiệu sách của anh mới mở ở ngôi làng nhỏ này. Tất nhiên, Crowley đã nói ừ, chắc chắn rồi, thỉnh thoảng tôi sẽ  ghé qua. Để kiểm tra xem cửa nẻo đóng chặt chưa, khè lưỡi dọa đám cây cỏ và quét nhà cho sạch sẽ.

Phải, tạm thời là vậy.

Và bằng cách nào đó giờ đây hắn đứng trong căn bếp, trước cửa sổ với hai bàn tay ướt đẫm nước muối. Hắn đang làm bắp cải cuộn Rumani. Món Sarmale. Đầu tiên, bạn ngâm lá bắp cải vào nước muối. Lấy một cuộn bắp cải và tách từng lá ra. Giữ những lá tươi tốt nhất, ném những lá rách cho lũ chó. Crowley thường dùng những ngón tay nhanh nhẹn này để trộn phân bón (Aziraphale cứ khăng khăng đòi mãi). Có một nồi nước muối trên bếp đang sôi. Bạn không cần nấu chúng lâu lắm đâu, có lẽ ba phút là đủ.

Hắn tách dần những lá bắp cải ra. Crowley cuộn không được khéo cho lắm, không giống với món mà hắn và Aziraphale từng ăn (một bàn ở Sighișoara với một chai rượu ở giữa, cả hai cùng ngắm nhìn thành phố trung cổ có tường bao quanh, những tòa tháp cao vút và nhà thờ trang nghiêm, nơi chôn nhau cắt rốn của Vlad Tepes, ánh mặt trời trải dài trên sông Târnava Mare). Hắn đang tức. Hắn có thể dễ dàng sửa lại mọi chuyện, chỉ với chút trí tưởng tượng là xong hết. (Nhưng Aziraphale đã yêu cầu Crowley nấu ăn. Theo cách của con người. Theo lối trần tục).

Chết tiệt chết tiệt chết tiệt, mẹ nó chứ. Mình không thể nấu nhiều vậy. Tệ rồi đây.

Nhưng Aziraphale đã yêu cầu. Cái khó là nằm ở đó.

Cả mặt Crowley đỏ bừng. Sự đồng nhất trong tâm trí và lời nói ra của hắn bị cắt mất giữa chừng. Hắn muốn nói, chờ chút, mình đã từng nghĩ tới chuyện này rồi. Nó hệt như lớp màng phổi tách rời tim và phổi, lớp mô liên kết các gân với nhau. Phải, ở mặt ngoài thì những lời Crowley nói ra là câu từ bình dân, tiếng lóng cụt lủn, những câu đùa biếng nhác. Nhưng nội tâm bên trong lại là một câu chuyện hoàn toàn khác. Hắn nhếch mép cười và nhìn ra xa. 

Hắn đã quên mất gì cơ chứ? Đến màu xanh cũng có hai mặt cơ mà. Xanh da trời hệt như bầu trời mùa hè dịu dàng và bình yên. Cũng là màu xanh của bão tố dữ dội. Xanh hệt như băng lạnh lùng, thế mà sâu tuốt trong lòng lửa đỏ cháy cũng là sắc xanh quen thuộc ấy.

Hãy nhìn hàng râu mới nhú trên phần quai hàm, cả quanh miệng nữa. Chiếc mũi thẳng và cặp mắt xanh xám đó của người ấy. Ôi Chúa ơi, em đẹp tuyệt trần. (Hắn không thể nghĩ như thế, vì đó là tội lỗi chống lại Địa Ngục. Hắn đã biết từ lâu là mình không nên nghĩ thế. Hắn đã đấu tranh với tri thức từ xưa đến giờ. Tôi thuộc về em). Hắn thấy mình như sắp ngất trước khung cảnh tuyệt vời đó, máu đổ dồn lên não với trái tim như muốn phóng ra ngoài. Hệt như cây cỏ đâm chồi dưới ánh mặt trời.

Chúng ta đã quên mất phần nước lợ. Chúng ta quá đắm chìm với trải nghiệm vượt xa tầm với và cục đoan của mình, nước hồ và biển cả. Nước ngọt và nước mặn. Chúng ta quên mất đi phần ở giữa, đoạn giao nhau, phần tôi - không - biết. Thật là ngu xuẩn khi đánh giá phần nằm giữa, chúng phải tồn tại còn gì. Phải có một hỗn hợp giữa cả hai, điểm giữa. Chúng ta đâu thể đi dọc hết bờ sông Thames từ Battersea đến Gravesend mà thét lên với con sông nước lợ rằng mày quyết định đi. (Chúng ta đâu có nói mày phải quyết ngay. Mày muốn dồn vào hay tách ra? )

Tôi muốn em. Tôi muốn em ngay cả khi trời đang sáng. Tôi muốn ngắm em làm món bánh mì nướng bơ ngu ngốc ấy với mứt dâu ngọt ngấy. Tôi muốn ngắm em ngồi trên bờ sông ở phía đuôi thuyền. Nếu em có nói mình muốn Mặt Trời, thì tôi cũng sẽ lấy nó cho em. (Tôi muốn em theo nhiều cách khác nhau, tôi có thể nói dối nhưng như vậy cũng có lợi gì đâu? Tôi muốn một em chân thật, trần trụi, tôi muốn hàm răng em trên da thịt mình. Tôi muốn hai ta hòa hợp với nhau đến mức ngay cả những dây thanh quản của đôi ta cũng không thể nào tách rời. Tôi không phải là Thánh, tôi chưa bao giờ, chưa bao giờ, chưa bao giờ là Thánh, vậy nên em không thể bất ngờ trước khao khát bệnh hoạn này trong tôi được).

Hắn không chắc chuyện đó xảy ra lúc nào, hay nó sẽ xảy ra. Khó mà nói lắm, phải không nhỉ? Lúc nào cũng quá ư là dễ dàng để gán cho bàn tay đặt trên vai hắn, điệu cười quen thuộc ấy, nụ cười toe toét của Aziraphale mỗi lần Crowley làm chút phép quỷ là thứ gì đó quan trọng. Nhưng cho đến giữa ngày, khi Aziraphale đã vắng mặt trong hiệu sách chật hẹp, lốm đốm bụi của anh gần bốn tiếng đồng hồ thì Crowley chắc chắn rằng mình đã hiểu sai. Phải, hắn đã từng sai trước đây. Mày vẫn luôn giỏi trong việc làm bung bét mọi chuyện còn gì, phải không?

Cánh cửa sập lại sau lưng Aziraphale, dù lớn tiếng nhưng không phải cố tình. Crowley nhếch mép. Aziraphale luôn quên mất phải đóng cửa nhẹ nhàng mỗi lần gửi đi thành công một món hàng. Anh lúc nào cũng  tràn đầy khao khát và niềm vui, rạng rỡ như ánh mặt trời, như một niềm vui vô bờ bến dù cho có đang gặp khó khăn.

"Crowley, mùi thơm nức mũi thật đấy."

"Tất nhiên phải thế rồi. Ông cứ đi mà ban phúc cho mối mọt gì đó đi như bọn thiên thần các ông hay làm ấy." Hắn nói mà không quay đầu lại. 

(Sau khi Aziraphale rời bếp, Crowley mới hít một hơi thật sâu, để mùi hương ấy thấm vào tận sâu trong đáy phổi mình, giữ nó yên vị ở đó).
...

"Tôi muốn nhìn ông nấu ăn." (Một thứ gì đó do chính tay Crowley làm ra. Hoàn toàn là do Crowley làm hết. Không hề có thứ gì ở tuốt trên trển, không được cho sẵn và có sẵn, không hề. Là bất cứ thứ gì do chính tay hắn làm ra).

Hắn nhìn vào đôi bàn tay mình. Giơ chúng lên cao và vung vẩy qua lại dưới trần nhà. Đôi bàn tay của hắn vẫn như cũ, ngày này qua tháng nọ. Chúng sạch sẽ nhưng đã có vết nhơ. Những ngón tay dài và phí phạm, vài khớp ngón tay, mạch máu và dây chằng ngày càng nổi rõ. Phải đấy, ngày càng rõ. Hắn chẳng biết thân thể phàm trần của mình đang ở giai đoạn nào nhưng hắn sẽ cho là ở khoảng bốn mươi tuổi. Ở ngón vô danh của hắn có vết xước măng rô, hai bên viền những ngón tay có dính nhựa cây cà độc dược, ở những chỗ chai tay.

Cây cà độc dược, cái cây xanh màu diệp lục độc bỏ bà đó. Crowley là người làm vườn và hắn trồng cây cà độc dược trong phòng ngủ. Hắn tường tận về chất độc hệt như Aziraphale thuộc làu hệ thống thập phân Dewey vậy. Phải, hắn tường tận về cây cối, đã từng cúi gập người qua quầy hàng của mình, kéo ra từng chiếc lá, bóc ra từng cuống hoa. Giằm nát các hạt giống. Hắn biết sau đó mình không được liếm ngón tay, vì lá cây và quả của nó là chất độc đối với một người đàn ông trưởng thành, có lẽ vì vậy mà Liva đã dùng nó để nhỏ giọt vào ly rượu của Augustus. Thực sự thì chất độc đó không khiến hắn đi đời nhà ma được. Sự bất tử là một phần hay ho của việc làm quỷ mà. 

Có thứ gì có thể gây hại tới hắn đây, cái gì có thể làm hắn chết dần chết mòn? Chỉ có nước Thánh và những gì được ban phước lành mà thôi. (Aziraphale là Thiên thần, là tạo vật được làm ra từ phước lành. Crowley không biết sẽ có chuyện gì nếu hắn hôn anh, môi kề môi. Nếu nước Thánh có thể làm bỏng hắn, vậy thì hắn trông đợi gì từ bờ môi chưa từng hôn ai của một thiên thần chứ?)

Hắn nghĩ đến nấu nướng.

Có nhiều cách để chế biến những cảm xúc này. Thái nhỏ chúng ra, om chúng, hầm bằng nồi áp suất, phải đấy. Cho thêm chút muối và axít để vừa miệng. Cả rau mùi tây và cỏ xạ hương nữa. Bạn có thể dầm chúng ra cho mềm như với thịt bạch tuộc. Dẫm lên, rồi lùi lại. Cứ ném qua ném lại con quái vật ấy trên mặt bàn bếp thép không gỉ. Rồi sau đó nấu chúng lên, ăn thì ngon phải biết.

Phải, có nhiều cách còn tốt hơn gấp vạn lần cách hắn đã làm với mớ cảm xúc bòng bong này.
...

"Chúng trông ngon miệng quá." Aziraphale bày dĩa lên bàn như cách mà anh vẫn thường hay thưởng thức các món ăn ngon. Hàng răng nĩa chĩa xuống dưới, đặt trên đĩa theo hướng mười giờ. Trên tay anh là chiếc khăn ăn gấp gọn để phủi đi những vụn bánh mì vô hình. 

"Tôi nhớ hồi chúng ta ở Rumani. Lúc đó chúng ta cũng ăn bắp cải cuộn mà đúng không?"

Phải. Crowley nhún vai, dịch chuyển những bả vai góc cạnh quá mức, phần áo chỗ bả vai kéo căng chặt.

"Cũng có thể lắm, ông biết đấy. Đã ăn ở đâu đó thôi."

"Lúc đó là khi nào ấy nhỉ? Ngày đó ấy?"

"Đâu đó ở thế kỷ 15."

"Ồ, phải. Cùng Vlad và đám người Thổ Nhĩ Kỳ." Aziraphale gật gù, nụ cười nhẹ nhàng bên viền môi. Vượt qua cả những cạnh bàn, đường viền của ly rượu. Những lãnh thổ quốc gia riêng biệt. Thiên thần và ác quỷ. (Muối và nước ngọt, biển cả và trời cao).

"Cái nào là do bên ông làm nhỉ?"

Crowley nhăn nhó. "Ông biết gì không - tôi chẳng nhớ nữa."

"Hồi đó ông với Vlad thân thiết lắm mà."

"À, cái tên đó cũng vui tính. Thế kỷ 15 thì chán ngắt. Dù không tệ như hồi thế kỷ 14 nhưng nghe đây thiên thần, hồi đó chán muốn chết."

Aziraphale lắc ly. Rượu sóng sánh, như những cơn sóng xô. "Ông biết đấy, hồi đó tôi tưởng hai người là -"

"Gì chứ? Ý ông là -"

Mặt Aziraphale hơi đỏ. Chỉ ở chỗ chóp mũi và phần xương gò má, chút thoáng qua ở tai. Khi bạn đã thuộc lòng thứ gì, bạn sẽ biết ngay dù chỉ là thay đổi nhỏ nhất. Crowley nhìn chòng chọc.

"Thì, hai người hồi đó cực kỳ thân thiết mà."

"Lạy Satan, tha cho tôi đi. Tuyệt đối không có cửa." Crowley dài giọng.

"Ý ông là kiểu không bao giờ có cửa ấy hả?" Aziraphale khựng lại "Ôi trời, thứ lỗi. Tất nhiên là tôi không nên hỏi rồi."

"Không bao giờ. Không đời nào."

"Ồ."

Crowley làm một phát hết ly rượu. Sẽ phải mất mấy thiên niên kỷ nữa hắn mới dám nhìn lá bắp cải lần nữa mất. Có khi hắn nên làm một cuộc cách mạng cho chúng tuyệt chủng luôn.
...

Căn nhà tranh nằm trên mặt nước. Các bến tàu nằm gần cửa sông đổ ra biển. Hỗn hợp nước mặn và nước ngọt kỳ lạ này, là hỗn hợp nước lợ. Sẽ chẳng ai nói cho bạn biết ở đây có gì đâu. Sự giao thoa giữa hai thế giới, giữa hai thứ không hề thuộc về nhau. Hắn ấn tượng với những bờ sông, vị trí chuyển giao như thế. Đôi mắt cay xè do nước mưa axít của hắn rất bất thường, hắn có thể nhìn sâu xuống đáy nếu muốn. Vậy nên hắn nhìn, vì còn gì để làm nữa đâu? Hắn ngắm nhìn đồng cỏ biển và cá râu, cá rô và cả những chùm sáng chiếu xuống. Hắn đo lường độ mặn bằng hơi thở và đồng tử của mình.

Hắn là một cột muối. Vợ của Lót đã quay đầu lại trong ngờ vực. Crowley đã từng một lần để mối nghi ấy chiến thắng mình, để nêu ra những câu hỏi. Hắn vẫn luôn ngờ vực, không chắc chắn, lòng vẫn tràn đầy khao khát muốn được biết. Hắn nghĩ đến âm thanh, của một sợi dây thừng rớt xuống biển. Hắn có thể làm thế với bất cứ con người nào, đọc được bất cứ tâm trí ai.

Nhưng không phải dòng sông này. Dòng sông mang tên Aziraphale, là ngây thơ và dịu dàng.

"Tôi nghĩ ông sẽ ở đây." Dòng sông ấy cất tiếng, đứng cạnh hắn. Crowley có cao hơn chút đỉnh, hắn ngó qua mái tóc trắng mềm như bông. Một đồng hoa bồ công anh.

"À, kiếm chuyện cho bọn cá động não chút đỉnh thôi, ông biết mà."

"Crowley. Im miệng đi." Aziraphale cau mày nói, vẫn còn hụt hơi vì đi nhanh.

"Gì chứ?" Crowley chớp mắt.

Bạn thấy đấy, sông hồ là thế. Biển cả sẽ không bao giờ chảy vào còn sông hồ sẽ luôn tuôn ra. Dòng nước ngọt sẽ đổ ra trước, tràn vào vịnh và nói rằng Xin chào xin chào ông có ở đó không? Tôi vào được chứ?Aziraphale và làn sóng của anh, dòng chảy như tuyết tan ấy kéo lấy chiếc khăn quàng cổ màu xám của Crowley và rồi, môi kề môi, vừa khít như thể một quyển sách được đặt vào đúng kệ của nó. Những ngón tay siết chặt này, sự va chạm giữa tĩnh lặng và hư không và không lời nào được cất lên. Không ai nói gì. Đôi mắt hắn nhói đau, cả bờ môi nữa, phải phải phải phải tôi yêu em.

(Có khi hắn đã vô tình cầu nguyện).

(Thực tế thì hắn không hề bị bỏng).

"Như vậy được chứ?" Aziraphale nói trên làn môi hắn, anh thả từng từ một lên đó.

"Được." Được, luôn là được, xin em xin em xin em. Ai có thể nghĩ được gì khi có vòng ngực tựa vào mình cơ chứ? Một tiếng vang đến từ bên kia thung lũng, tim kề tim, nhịp đập hai bên hoà làm một, cả hai chúng ta đều hòa vào nhau. Em và tôi, tôi và em. Xin em.

"Ông sẽ nói với tôi nếu có gì không được nhé?" (Cả hai đều ngập ngừng).

"Tôi sẽ nói mà." Nó sẽ luôn luôn là được.

Vào buổi sáng thế, chẳng có gì cả. Chúng ta biết điều này từ khi có ánh sáng. Rằng bầu không khí tĩnh lặng này còn dày đặc hơn bất cứ lúc nào. Một ngày không có hôm qua. Phải, rồi tới vụ nổ Big Bang, chính vụ nổ đã cho ra đời vật chất. Phải, từ đó có Vũ trụ và đã tồn tại trong một khoảng không dài vô tận. Sẽ mất hàng tỉ năm nữa mới xuất hiện một tia sáng. Phải, đã có một thời gian không hề có ánh sáng. Phải, hãy có sự sáng.

Khi chúng chỉ nhìn vào sông hồ và biển cả, chúng ta quên mất các bãi thủy triều. Hãy nhìn vào dòng nước lợ. Biển và Sông, một hỗn hợp nước lợ giữa cả hai.

Tay chạm tay, môi chạm môi và hai trán chạm nhau. Một nụ hôn thoáng qua mi mắt, lưỡi liếm nhẹ xương quai xanh, không phải góc cạnh nào cũng nhọn, thỉnh thoảng có những đường cong rộng, thỉnh thoảng có khoảng trống ở giữa vừa đủ để chúng ta xây nên một ngôi nhà, một căn bếp nhỏ, nơi mà hai ta có thể sống trong khoảng không yên bình và trơ trọi. Chỉ có hai ta với nhau.

Đó là tận thế.

Nhưng bạn thấy đấy, còn có sau đó.

END.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenFun.Vip