Lời giới thiệu

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đất nước chỉ hạnh phúc khi nào người cầm quyền trở thành triết gia và triết gia thành nhà

cầm quyền.

Plato - Cộng hoà

Marcus sinh ra trong một gia đình hết sức danh giá. Năm ông ra đời cũng là năm ông nội ông giư chức Chấp chính quan nhiệm kì thứ hai, chức vụ cao nhất về lí thuyết ở La Mã, mặc dù lúc đó tầm quan trọng của chức vụ này chỉ có tính nghi thức. Và ông nội ông đã nuôi dạy ông, vì cha ông mất khi ông còn rất nhỏ. Trong Suy tưởng, Marcus nói về tính cách của cha mình theo nhưng gì ông nhớ được hoặc nghe người khác kể lại, nhưng hiểu biết của ông về người cha chắc là từ nhưng câu chuyện được nghe kể hơn là từ trí nhớ của chính ông. Về nhưng gì còn lại trong thời thơ ấu và niên thiếu của ông, chúng ta biết nhiều hơn trong Suy tưởng một chút. Tiểu sử của ông trong cái gọi là Historia Augusta (một tác phẩm lạ lùng và không đáng tin cậy vào cuối thế kỉ thứ 4, có lẽ dựa trên một loạt tiểu sử bị thất lạc do nhà viết tiểu sử thế kỉ thứ 3 Marius Maximus biên soạn) kể với chúng ta rằng ông là một cậu bé nghiêm túc, thích đấu quyền, vật, chạy và nuôi chim ưng, rằng ông đá cầu giỏi và thích săn bắn. Nhưng thú vui như thế chẳng có gì là lạ ở một thanh niên thuộc tầng lớp thượng lưu.

Quyển 1 của Suy tưởng lướt qua việc học hành của Marcus, và qua bức tranh đó chúng ta có thể hình dung việc giáo dục thanh niên thượng lưu thời kì đó như thế nào. Nhưng người thầy đầu tiên của ông, như người thầy không nêu tên trong Suy tưởng 1.5, có lẽ là nhưng nô lệ, nhờ họ mà ông nắm sơ được cách đọc và viết. Vào một thời kì muộn hơn ông được trao cho nhưng vị thầy riêng để học văn chương, đặc biệt chắc chắn là Aeneid - bản anh hùng ca vĩ đại của Virgil. Nhưng văn chương chỉ là bước chuẩn bị cho mục chính yếu - khoa hùng biện, chìa khóa đi vào sự nghiệp chính trị dưới thời đế chế cũng như trước đó dưới thời Cộng hòa. Dưới sự chỉ dạy của một nhà hùng biện lão luyện, Marcus bắt đầu với nhưng bài tập ngắn


trước khi tiến tới nhưng bài hùng biện tầm cỡ, trong đó ông được yêu cầu bảo vệ bên này hoặc bên kia trong một vụ kiện tưởng tượng hoặc cố vấn cho một nhân vật lịch sử kiệt xuất trong nhưng bước ngoặt sự nghiệp của ông ta (Caesar có nên vượt Rubicon không? Alexander có nên quay trở lại Indus không? Tại sao nên hay không nên).

Nhưng nhưng nhà tư tưởng lớn - Plato, Aristotle, Theophrastus, Zeno, Chrysippus, Epicurus, v.v. - tất cả đều là người Hi Lạp. Nghiên cứu triết học một cách nghiêm túc đòi hỏi phải quen thuộc với thứ tiếng mà họ viết v nhưng thuật ngư mà họ sáng tạo ra. Bởi thế Marcus đã biên soạn Suy tưởng của ông bằng tiếng Hi Lạp thật tự nhiên trôi chảy.

vua đời trước là cha nuôi, và là người có họ xa với ông, Trajan. Theo gương Trajan, Hadrian đã chỉ định nhà quý tộc lỗi lạc Lucius Ceionius Commodus kế vị ông. Nhưng nãm 137 Ceionius mất đột ngột, và Hadrian buộc phải tìm người kế vị khác. Ông chọn nguyên lão Antoninus, với điều kiện là Antoninus sẽ phải nhận Marcus (cháu trai họ) và con trai của Ceionius là Lucius Verus, khi đó mới 7 tuổi làm con nuôi. Marcus lấy họ của cha nuôi, và trở thành Marcus Aurelius Antoninus.

Hadrian băng hà vào năm sau, để lại Marcus đứng ở hàng đầu nhưng người thưa kế ngai vàng. Học vấn của ông và của Verus, người trẻ tuổi hơn, bây giờ là vấn đề được quan tâm hơn nhiều, và rõ ràng công sức đã không hề uổng. Để được đào tạo hùng biện bằng tiếng Hi Lạp, ông được giao phó cho Herodes Atticus, một nhà hùng biện Athens vô cùng giàu có, mà nhưng mối quan hệ bão táp của ông với gia đình, đồng bào và ngay cả với triều đình có thể cung cấp đủ tài liệu cho một vở ca kịch bình dân (soap opera). Thầy dạy hùng biện tiếng Latin của ông là Marcus Cornelius Fronto, một nhà hùng biện xuất sắc đến tư Cirta ở Bắc Phi. Do một sự tình cờ của số phận, nhiều bức thư Fronto gửi Marcus vẫn còn đến ngày nay, và chúng cho thấy mối quan hệ thân thiết giưa thầy và trò. Chúng cũng gợi cho ta thấy nỗi luyến tiếc của Fronto khi thấy Marcus rời khoa hùng biện để đi sâu nghiên cứu triết học.

Quyển 1 của Suy tưởng bày tỏ lòng tôn kính nhiều nhà triết học mà Marcus học được, dù chính thức hay không chính thức, trực tiếp theo học hay nghe qua nhiều người khác.

Marcus cũng đã học được nhiều điều tư bên ngoài lớp học. Trong đào tạo về nhưng vấn đề luật học và chính trị, có một lối học nghề/truyền nghề (apprenticeship) không chính thức đã gắn giới trẻ quý tộc với các nhân vật kì cựu của xã hội, nhưng người như Junius Rusticus, mà ảnh hưởng đối với Marcus được ghi lại trong 1.7. Nhưng ảnh hưởng lớn nhất chắc chắn là tư cha nuôi của Marcus, Antoninus Pius. Chắc Marcus đã chứng kiến nhưng khi Antoninus tiếp các đại sứ, xử các vụ kiện và đọc (cho thư kí ghi) nhưng bức thư gửi các người phó của ông. Trong khi đó địa vị hoàng thái tử của Marcus được báo hiệu qua nhiều dấu hiệu. Năm 140 (khi 19 tuổi) ông lãnh chức tổng tài [consul] và được tái cử vào năm 145. Cùng năm này ông cưới con gái của Antoninus là Faustina, mà ông viết lời ca ngợi trong Suy tưởng 1.17.


Cuốn Lịch sử Suy tàn và Sụp đổ của Đế quốc La Mã của Edward Gibbon mô tả triều đại của Antonius "cung cấp rất ít tài liệu cho lịch sử, hơn là ghi lại nhưng tội ác, nhưng chuyện điên rồ và nhưng bất hạnh của nhân loại". Nó cung cấp tài liệu về tiểu sử của Marcus cũng ít như thế. Tư năm 145 đến năm 161 chúng ta biết rất ít về nhưng hoạt động của Marcus, và chỉ biết thoáng qua sự phát triển nội tâm của ông tư nhưng thư tư trao đổi giưa ông và Fronto. Nhưng hai cực đã chi phối phần còn lại của cuộc đời Marcus - triều đình và triết học - dường như được định hình chính ở thời điểm này. Không có bằng chứng nào về việc Marcus trải qua điều gì như là một sự "cải đạo" sang triết học, như nhiều nhân vật cổ đại khác đã trải nghiệm (hay chịu ảnh hưởng) nhưng rõ ràng tư giưa đến cuối nhưng năm 140 triết học ngày càng trở thành trung tâm cuộc sống của ông.

Ngày 31, tháng Tám năm 161, Antoninus qua đời, để lại Marcus là người thưa kế duy nhất của ông. Marcus ngay lập tức hành động để thực hiện điều dường như là ý định ban đầu của Hadrian (có lẽ đã bị Anthoninus lờ đi) bằng cách chỉ định người em nuôi, Lucius Verus, làm đồng nhiếp chính. Tính cách của Verus chịu nhiều thiệt thòi khi so với tính cách của Marcus. Nhưng nguồn tài liệu cổ, đặc biệt là Historia Augusta có khuynh hướng vẽ anh ta như một kẻ thoái hóa tự nuông chiều mình - gần như một Nero khác. Điều này có lẽ không công bằng, ít nhất nó không giống hình ảnh của anh ta mà chúng ta có được tư nhưng hồi ức của chính Marcus, trong Suy tưởng. Tuy nhiên, có thể thấy rõ rằng Marcus đã hành xử như một hoàng đế đàn anh trên thực tế chứ không chỉ trên danh nghĩa. Sẽ là đáng ngạc nhiên nếu ông không làm như vậy. Ông lớn hơn gần chục tuổi, và đã được chính bản thân Antoninus đào tạo cho ngôi vị ấy.

Vậy ông vua-triết gia này là nhà cai trị thuộc loại nào? Có lẽ không khác mấy với nhưng bậc tiền nhiệm của ông như người ta mong đợi. Mặc dù một hoàng đế về lí thuyết là người có toàn quyền, nhưng khả năng của ông kiểm soát chính sách trong thực tế bị hạn chế hơn nhiều. Phần nhiều thời gian của ông phải dùng để xử lí nhưng vấn đề trên thực địa: tiếp sứ tư các thành phố lớn của đế quốc, xử chung thẩm nhưng vụ án hình sự, trả lời thắc mắc của các tổng trấn, và xử lí đơn thỉnh nguyện của các cá nhân. Ngay cả với hệ thống bưu trạm công của đế quốc, tin tức phải mất nhiều tuần lễ mới tư ngoại vi về đến được trung tâm, các chỉ dụ của hoàng đế mất nhiều thời gian để đi xuống qua nhiều cấp truyền. Trong khi quyết định của hoàng đế có hiệu lực pháp lí, thì việc thực thi pháp luật hầu như nằm trọn trong tay tổng trấn các tỉnh, mà sự tận tụy của họ bị ánh hưởng bởi tình trạng thiếu khả năng, tham nhũng hay một mong muốn dễ hiểu là tránh làm mất lòng giới quyền thế ở địa phương.

Chúng ta có dịp liếc qua nhưng bổn phận hằng ngày của Marcus tư bằng chứng của nhưng quyết định còn được lưu lại trong thư tư, các bản khắc và các bộ luật. Văn bản pháp luật còn sót lại cho thấy một mối quan tâm nhất định đến việc giải phóng nô lệ và nhưng quy định liên quan đến giám hộ trẻ mồ côi. Đã có nhiều cố gắng gắn việc thứ nhất với nhưng niềm tin triết học của Marcus, và việc thứ hai với nhưng kí ức của riêng ông về một tuổi thơ thiếu cha. Nhưng vẫn còn vấn đề là chính sách này bao nhiêu phần là do chính Marcus, và nó khác đến đâu so với chính sách của vị tiền bối của Marcus, Antoninus. Có lẽ thú vị hơn là nhưng nét nhân cách của Marcus đuợc thể hiện rõ trong việc soạn nhưng tài liệu của hoàng đế, ở đó ta thấy sự chú ý đến tưng chi tiết và một sự đắn đo trong sử dụng ngôn ngư có vẻ làm cho Marcus khác biệt với các vị tiền bối của ông. Không có nét khác biệt bất ngờ trong tác giả của Suy tưởng và người học trò của Fronto, nhưng bức thư còn lại của ông thầy này cho thấy sự nhấn mạnh yêu cầu dùng tư ngư tinh tế nhất.

Một trong nhưng ưu tiên của Marcus là duy trì mối quan hệ tốt với Viện Nguyên lão. Mục đích là che giấu đi tính tuyệt đối của quyền hành hoàng đế: để giư lấy cái vẻ ngoài của - và đôi khi chắc chắn là để đạt được trong thực tế - sự đồng thuận và hợp tác. Một trăm năm trước giới quý tộc có lẽ đã mơ về việc phục hồi một nước Cộng hòa (một số chắc chắn đã làm). Nhưng vào thế kỉ thứ 2 rõ ràng là không có giải pháp thay thế cho nguyên tắc này. Viện Nguyên lão mong chờ sự tôn trọng trong xã hội và hi vọng có được ảnh hưởng sau hậu trường, các hoàng đế "tốt" sẵn sàng hợp tác. Trong việc gây dựng các giai cấp thượng lưu (sic), Marcus theo sát bước chân Antoninus và Trajan, hơn là Hadrian, quan hệ của ông này với Viện Nguyên lão đầy gai góc. Và chính điều này cùng với nhiều điều khác, đã làm cho ông có tiếng là một chính


khách nhân tư độ lượng. Một hoàng đế có thể làm theo ý thích khi đang còn sống, nhưng chính nhưng nhà sử học là nguyên lão nghị viện - như Cornelius Tacitus trong nhưng năm 120 hay Cassius Dio thuộc thế hệ sau khi Marcus băng hà mới là nhưng người có tiếng nói cuối cùng.

Một lĩnh vực khác, trong đó chính sách của Marcus tiếp tục chính sách của các tiền bối của ông liên quan đến một giáo phái nhỏ và kì dị được biết như nhưng người Cơ Đốc giáo. Trong thế kỉ sau họ đã trở thành một vấn đề ngày càng lớn cho chính quyền của đế quốc, và sự nổi bật của họ trong thời của Marcus đã khiến một Celsus nào đó lên tiếng phản đối mạnh mẽ; một phần của tác phẩm Chống những người Cơ đốc của ông này vẫn còn lại đến ngày nay. Giáo phái này gặp phải sự khinh bỉ tư nhưng tri thức hạ cố để ý đến nó (thầy dạy của Marcus, Fronto, rõ ràng là một trong số này), và sự nghi ngờ và thù địch tư nhưng dân thường và nhà cầm quyền. Sự căm ghét nhưng người Cơ Đốc xuất phát tư chỗ họ không thưa nhận nhưng vị thần mà cộng đồng bao quanh họ thờ cúng. Sự "vô thần" của họ - việc họ tư chối chấp nhận bất kì vị thần nào khác ngoài vị thần của họ - gây nguy hiểm cho nhưng láng giềng của họ cũng như cho bản thân họ, và việc họ không sẵn lòng thưa nhận tính chất thần thánh của hoàng đế đã đe dọa trật tự xã hội và phúc lợi của nhà nước.

Cơ Đốc trở thành bất hợp pháp tư đầu thế kỉ thứ 2, khi một chất vấn của Pliny-Trẻ (khi đó là tổng trấn Bithynia thuộc Tiểu Á) gợi ý hoàng đế Trajan lập ra một chính sách chính thức: khi nhưng người Cơ Đốc còn chưa bị truy nã, nhưng ai tự thú tin theo nó sẽ bị hành hình. Nhưng cuộc khủng bố cho đến rất lâu về sau vẫn chưa diễn ra trên toàn đế quốc. Mối đe dọa chủ yếu cho nhưng người Cơ Đốc trong thế kỉ thứ 2 đến tư cá nhân các tổng trấn, hành động theo sáng kiến của chính họ hoặc dưới sức ép của các cộng đồng địa phương. Chẳng hạn, vào cuối nhưng năm 170 tình trạng náo loạn trong dân chúng ở Lyons dẫn đến một cuộc tàn sát thật sự nhưng cư dân Cơ Đốc giáo nói tiếng Hi Lạp ở đó. Thầy dạy của Marcus là Junius Rusticus, với quyền hành của một thái thú, đã xử và hành hình nhưng người Cơ Đốc giáo (trong đó có cả người biện hộ cho họ là Justin Martyr). Chắc chắn bản thân Marcus đã biết về đạo Cơ Đốc, nhưng không có lí do gì để nghĩ rằng nó chiếm phần quan trọng trong đầu óc của ông. Một lần trực tiếp nhắc đến nó trong Suy tưởng (11.3) hầu như là sau đó ông tự ý thêm vào, còn nhưng ẩn ý mà một số học giả nêu ra chắc chắn là không có thực.

Chính Verus, ông vua trẻ hơn đã được cử sang phương Đông, và ở đó cho bốn năm. Cả ông ta lẫn Marcus đều chưa có kinh nghiệm quân sự gì để nói (cuộc trị vì êm ả của Antoninus không cho họ nhiều cơ hội), và việc chỉ huy cuộc chiến hằng ngày chắc chắn phải để lại cho nhưng người chuyên nghiệp. Sau nhưng đợt rút lui ban đầu, quân La Mã tập hợp lại, dưới sự chỉ huy của Avidius Cassius trẻ tuổi và năng nổ, đã buộc quân Parthia cầu hòa. Parthia vẫn còn là mối đe dọa, nhưng trước mắt có thể đối phó bằng các phương sách ngoại giao.

Tuy nhiên Verus và ông vua đàn anh của mình không có thời gian để ăn mưng chiến thắng. Trong vòng một năm đế quốc bị một trận dịch tàn phá kinh hoàng, trận dịch rõ ràng là do quân lính của Lucius mang về tư phương Đông. Nhưng hậu quả của nó có lẽ không đến nỗi thảm khốc như nhưng tác giả sau này vẽ ra, nhưng số người chết chắc chắn là cao, và nó cũng làm cho nhà vua chậm đối phó với mối nguy thứ hai. Đó là sự bất ổn ngày càng tăng ở vùng biên giới khác, biên giới phía bắc ngăn cách La Mã với các dân tộc dã man của Đức, Đông Âu và Scandinavia. Trong thời kì này một số bộ lạc dưới sức ép của các dân tộc xa


hơn về phía bắc, đã phản ứng bằng cách vượt qua nhưng biên giới của đế quốc - không phải chinh phục, mà chỉ tìm đất để định cư. Phản ứng của La Mã luôn thay đổi tư kháng cự quân xâm lược đến cố gắng hòa giải, việc nó không đưa ra được một chính sách hưu hiệu cuối cùng đã dẫn đến sự sụp đổ của đế quốc Đông La Mã sau đó khoảng 3 thế kỉ.

Phần lớn giai đoạn cuối của triều được dùng cho nhưng cuộc chiến tranh rải rác, đầu tiên là trong cái gọi là các cuộc chiến tranh Marcomannic nhưng năm đầu thập kỉ 170, sau đó là chiến dịch thứ hai vào cuối thập kỉ. Hầu hết gánh nặng ấy Marcus phải gánh một mình, vì Verus chết đột ngột (rõ ràng do đột quỵ) đầu năm 169. Đó là loại chiến tranh rất khác với truyền thống mà các đạo quân của Verus phát động. Quân đội thông thường và các sách lược ngoại giao nhằm chống Parthia ở đây được dùng rất hạn chế. Trái lại người La Mã phải thương lượng với tưng cá nhân tù trưởng, thẩm quyền của họ thì hạn chế mà độ tin cậy thì luôn đáng ngờ. Khi thương lượng thất bại, thì chỉ còn cách chấp nhận nhưng cuộc giao chiến liên tiếp với quy mô nhỏ nhưng đẫm máu hơn là nhưng trận đánh lớn. Tiến trình của chiến dịch được khắc trên cây cột dựng ở Roma để ghi nhớ sự kết thúc nhưng cuộc chiến tranh Marcomannic. Dù mục đích là chiến thắng, nhưng cảnh khắc trên đường xoắn ốc quanh tượng đài vẽ nên một bức tranh dư dội của cuộc chiến ác liệt, tàn phá và hủy diệt. "Nhưng con nhện tự hào bắt được nhưng con ruồi", Marcus nhận xét một cách chua cay, "nhưng con người [thì tự hào] bẫy được thỏ rưng, đánh được cá bằng lưới, bắt được lợn lòi, gấu, và người Sarmatian" (10.10). Đoạn văn ngắn kinh khủng mở đầu Suy tưởng (8.34: "một bàn tay hay bàn chân đứt lìa, một cái đầu bị chặt") cho thấy trải nghiệm của chính Marcus.

Năm 175 người La Mã dường như đã đạt được thế thượng phong. Nhưng vào thời điểm này nhưng tin tức rối bời lại đến. Avidius Cassius, kẻ nổi bật với vai trò tướng lĩnh trong Chiến tranh Parthia và là tổng trấn Syria nay như một nhiếp chính thực thụ của đế quốc Đông La Mã, đã nổi loạn và tự xưng hoàng đế. Một số tỉnh phía Đông (nhất là Cappadocia) vẫn còn trung thành với Marcus nhưng Cassius được thưa nhận là hoàng đế ở hầu khắp miền Đông, và đặc biệt ở Ai Cập, nơi quan trọng cung cấp thóc lúa cho thủ đô. Nội chiến dường như khó tránh khỏi, và chỉ bị ngăn chặn bằng cuộc ám sát Cassius bởi một thủ hạ của ông ta. Tuy nhiên Marcus buộc phải sang phương Đông để tái khẳng định quyền của mình, mang Faustina đi theo (nàng chết trong chuyến đi). Ông đi thăm nhưng thành phố lớn của miền Đông, Antioch và Alexandria, cuối cùng đến Athens, tại đó ông được thụ giáo Eleusinian Mysteries một hệ thống nghi lễ thần bí liên quan đến việc thờ Demete - nư thần nông nghiệp.

Lúc này Marcus 50 tuổi, sức khoẻ đi xuống, mà cuộc nổi loạn của Cassius là nhằm vào dàn xếp việc kế vị. Faustina đã sinh ít nhất 13 người con, nhiều người trong số đó chết non. Vào khoảng giưa nhưng năm 170, Marcus chỉ còn lại một người con, Commodus, đang bước vào tuổi thiếu niên. Marcus không có lí do gì theo chính sách nhận con nuôi của nhưng người tiền nhiệm, và không có lí do gì để nghĩ về việc xem xét chuyện đó. Nhiều năm tiếp theo Commodus nhanh chóng được thăng lên một chức vụ gần như đồng-hoàng đế (co-emperor). Năm 177 anh ta đã là quan chấp chính tối cao ở tuổi 15. Cùng năm đó anh ta được ban tất cả nhưng đặc quyền chủ yếu của đế quốc, giư suốt đời, trư chức vụ Pontifex Maximus - đứng đầu tôn giáo nhà nước La Mã - do chính đương kim hoàng đế giư.

Nhưng thành quả của Chiến tranh Marcomannic hóa ra không phải là vĩnh viễn, và năm 178 Marcus và Commodus lại tiến quân ra phía bắc. Hai năm sau Marcus mất ở tuổi 58, vị hoàng đế đầu tiên truyền ngôi cho con kể tư Vespasian ở thế kỉ trước. Đáng buồn là hành trạng của Commodus đã không xác nhận bất cứ kì vọng nào mà Marcus đặt vào anh ta. Anh ta được người đời nhớ đến như một tên bạo chúa phóng đãng, một Caligula hay Nero thứ hai, nhưng khuyết tật của anh ta chỉ càng gây chú ý vì tương phản với người cha. Vụ ám sát anh ta sau 12 năm trị vì là báo hiệu đầu tiên của chuỗi tranh giành quyền lực đè nặng lên đế quốc suốt thế kỉ sau.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenFun.Vip