The Lost Symbol The Lost Symbol

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng
Mở đầu

Tại House of Temple (đền thờ của hội Tam điểm tại Washington D.C)

8:33 tối.

Bí mật là chết như thế nào.

Từ thưở hồng hoang, bí mật đã là chết như thế nào rồi.

Một kẻ được thụ giáo 43 tuổi đang nhìn chằm chằm cái sọ người đặt trong lòng bàn tay hắn. Cái sọ đó rỗng, giống như một cái bát, đựng đầy thứ rượu đỏ như máu.

Uống đi, hắn tự nhủ, mày không phải sợ.

Theo truyền thống,hắn bắt đầu cuộc hành trình này với việc khoác trên mình bộ đồ tế lễ của người theo dị giáo thời Trung cổ khi bị đưa đi treo cổ. Chiếc áo rộng thùng thình để lộ ra bộ ngực xanh tái, ống quần trái xắn tới đầu gối, ống tay áo phải thì kéo lên tận khuỷu tay. Cổ hắn đeo một cái thòng lọng bằng dây chão nặng nề - dây thừng-cáp, như đồng đạo hắn vẫn gọi. Tuy nhiên, tối nay, giống như những người đồng đạo làm chứng, hắn ăn vận theo kiểu giáo chủ.

Nhóm đồng đạo bao quanh hắn, đều mặc trang phục đặc trưng của hội: áo choàng da cừu, khăn quàng vai, và găng tay trắng. Họ đeo quanh cổ một loại trang sức nghi lễ sáng lấp lánh như mắt quỷ lúc tranh tối tranh sáng.

Rất nhiều người có mặt ở đây nắm giữ quyền lực cao trong xã hội, dù cho kẻ được thụ giáo này biết vị trí xã hội chẳng có nghĩa lý gì khi họ đang đứng giữa bốn bức tường này.

Khi quan sát những người đồng đạo này, kẻ đang được thụ giáo kia băn khoăn liệu có ai bên ngoài kia tin rằng những người này đang tập hợp tại nơi nào...kém hơn nơi này không. Căn phòng này giống một điện thờ của thế giới cổ đại. Tuy nhiên sự thật còn vẫn còn ở phía trước.

Ta chỉ cách Nhà Trắng vài toà nhà.

Dinh thự khổng lồ này, nằm tại số 1733 đường 16 Tây Bắc thủ đô Washington D.C là bản sao ngôi đền thời kỳ trước khi Chúa Jesu ra đời - đền thờ Vua Mausolus, lăng tẩm thời kỳ đầu...nơi ở sau khi chết.

Ngoài lối vào chính, 2 tượng nhân sư nặng 17 tấn canh gác những cánh cửa bằng đồng. Nội thất là một mê hồn trận những thứ lộng lẫy: nào những phòng, những đại sảnh, những hầm mộ, thư viện và thậm chí cả một bức tường lưu giũ hai xác người. Kẻ thụ giáo kia được dạy rằng mỗi căn phòng đều chứa một bí mật, tuy nhiên hắn biết không căn phòng nào mang bí mật lớn hơn căn phòng khổng lồ nơi hắn quỳ gối với chiếc sọ người trong lòng bàn tay.

Phòng Thờ.

Căn phòng là một hình vuông hoàn mỹ. Và rộng rãi. Trần nhà cao đến cả trăm feet, được chống đỡ bằng những cây cột làm từ đá granit xanh nguyên khối. Một dãy ghế làm bằng gỗ hồ đào Nga tối màu với tay ghế bọc da lợn đặt xung quanh phòng. Một cái ngai cao 33 feet choán hết toàn bộ tường phía tây, đối diện nó là một cây đại phong cầm. Những bức tường chính là kính vạn hoa của những biểu tượng cổ đại: chữ Ai Cập, chữ Hebrew, ký hiệu thiên văn, hoá học và nhiều nhiều thứ khác chưa được biết đến.

Đêm nay, Phòng thờ được thắp sáng với hàng loạt nến sắp xếp một cách chính xác.Cùng với ánh sáng lờ mờ từ nến là ánh trăng nhợt nhạt chiếu xuống qua cái giếng trời trên trần chiếu sáng thứ đặc biệt nhất trong phòng - một bàn thờ được đẽo ra từ một tảng đá cẩm thạch Bỉ đen nguyên khối sáng bóng, đặt tại tâm điểm chết của căn phòng vuông.

Bí mật là chết như thế nào, người được thụ giáo tự nhủ.

'Đến lúc rồi,' ai đó thì thầm.

Kẻ được thụ giáo nhìn dáng người trong bộ áo chùng trắng dễ nhận trước mặt ông. Thầy tư tế tối cao.

Người đàn ông đó, ở độ tuổi năm mươi, là một hình tượng Mỹ, được yêu mến, tráng kiện, và giàu có không lường được. Mái tóc đen giờ đã bạc, vẻ mặt nổi tiếng của ông phản chiếu một cuộc đời quyền lực và hiểu biết hơn người.

'Hãy thề,' thầy tư tế nói, giọng ông ta nhẹ tựa tuyết rơi. 'Hoàn thành cuộc hành trình của ngươi.'

Cuộc hành trình của người được thụ giáo, giống như tất cả những cuộc hành trình khác, bắt đầu ở cấp độ một.

Đêm đó, trong buổi tế lễ giống như bây giờ, thầy tư tế đã bịt mắt anh ta với một khăn bịt mắt bằng nhung và ấn một con dao găm dùng trong tế lễ vào ngực trần của anh ta, hỏi: 'Ngươi có long trọng thề danh dự, không bị hám lợi hay những cảm xúc không đáng giá khác chi phối, rằng ngươi hoàn toàn tự do và tự nguyện hiến dâng chính ngươi cho sự huyền bí và quyền lợi của những đồng đạo này không?'

'Tôi thề', kẻ được thụ giáo nói dối.

'Vậy hãy để đây là một vết chích để cho ngươi ý thức rằng,' thầy tư tế cảnh báo hắn, " phải chết ngay nếu như ngươi nghĩ đến việc phản bội lại những bí mật được trao cho ngươi.'

Lúc đó, kẻ được thụ giáo kia không hề sợ hãi. Họ sẽ không bao giờ biết mục đính thực sự của ta ở đây.

Đêm nay, thế nào đi nữa, hắn vẫn cảm thấy một sự trang trọng trong Phòng thờ này, tâm trí hắn bắt đầu nhớ lại những lời cảnh báo kinh khủng anh ta đã nghe trong cuộc hành trình, những hậu quả tồi tệ tiếp theo nếu hắn dám nói ra những bí mật cổ đại hắn biết: cổ họng bị cắt từ tai này đến tai kia... lưỡi bị rút ra từ cuống họng... ruột bị moi ra và thiêu đốt... phân tán cho bốn ngọn gió của thiên đường... tim bị moi ra và được đem đi cho những con dã thú.

'Người anh em,' người thầy với đôi mắt màu xám nói, đặt tay trái lên vai người được thụ giáo. 'Hãy thề lời thề cuối cùng.'

Cứng rắn cho bước cuối cùng của cuộc hành trình, kẻ được thụ giáo dịch chuyển những bắp thịt của hắn và tập trung vào cái sọ người trong lòng bàn tay. Rượu đỏ lại giống như màu đen trong ánh sáng những cây nến mờ ảo. Căn phòng rơi vào sự im lặng chết người, hắn có thể cảm thấy tất thảy những nhân chứng đang nhìn hắn, chờ đợi hắn tuyên thệ lần cuối rồi gia nhập vào hàng ngũ tinh nhuệ của họ.

Đêm nay, hắn nghĩ, cái gì đó đang xảy ra trong những bức tường này chưa từng xảy ra trong lịch sử của hội kín này.

Chưa từng một lần, trong hàng thế kỷ.

Hắn biết nó là ánh sáng... và nó sẽ cho hắn quyền lực không thể đo đếm được. Bị kích thích, hắn hít một hơi sâu và nói to lên những từ mà vô số người đã nói trước anh ta ở khắp các quốc gia trên thế giới.

'Cầu cho rượu này khi tôi uống sẽ trở thành một liều thuốc độc chết người đối với tôi nếu tôi dám vi phạm lới thề của tôi có ý thức.'

Từng từ của anh ta âm vang khắp không gian.

Sau đó tất cả đều im lặng.

Thả lỏng tay, kẻ được thụ giáo nâng cái sọ người lên miệng và cảm thấy môi hắn chạm vào xương khô. Anh ta nhắm mắt và đưa cái sọ người lên miệng, uống rượu trong đó một ngụm lâu và sâu. Khi uống hết giọt cuối cùng, anh ta hạ cái sọ xuống.

Trong một tích tắc, anh ta cảm thấy phổi như thắt chặt lại, và tim bắt đầu đập điên dại.

Chúa tôi, họ biết!

Và nhanh như khi nó xuất hiện, cảm giác đó biến mất.

Một cảm giác ấm áp thoải mái bắt đầu chảy qua cơ thể anh ta. Người được khai sáng thở phào, cười thầm trong thâm tâm khi anh ta nhìn lên người với đôi mắt xám không chút hoài nghi kẻ đã ngu ngốc cho phép anh ta tham gia tình hàng ngũ bí mật nhất của tình huynh đệ này.

Không lâu ngươi sẽ mất tất cả những gì ngươi đang nắm giữ, cưng ạ.

Chương 2

Chương 1

Thang Otis đang chạy theo trục nam của tháp Eiffel giờ đã chật ních khách du lịch. Trong cái thang chật chội đó, một doanh nhân giản dị đang nhìn cậu bé kế bên. "Trông con xanh lắm. Tốt nhất con nên nhìn xuống dưới đi"

"Con ổn mà...." cậu bé trả lời, cố gắng vượt qua sự sợ hãi của chính cậu. "Con sẽ dời thang máy ở tầng kế tiếp" Mình không thở được

Người doanh nhân lại cúi xuống gần cậu "Cha nghĩ là con sẽ vượt qua được nỗi sợ hãi của mình thôi." rồi ông ấy âu yếm vuốt má cậu.

Cậu bé cảm thấy xấu hổ vì làm cha thất vọng, nhưng cậu không thể làm ngơ trước những tiếng ong ong bên tai cậu. Mình không thở được, phải thóat khỏi cái hộp ngột ngạt này .

Nhân viện vận hành thang máy đang nói gì đó nhằm trấn tĩnh mọi người rằng mọi chuyện sẽ ổn cả. Xa xa dưới chân họ, những ngóc ngách của thành phố Paris trải dài ra mọi hướng.Gần tới rồi, cậu bé tự nhủ, nghển cổ lên nhìn nóc thang máy. Cố lên nào.

Càng lên đến đỉnh, thang máy dường như co rút lại, chật hẹp lại giống như một đường hầm chật chội và dựng đứng.

"Cha, con không nghĩ...."

Đột nhiên một âm thanh khô khốc vang lên từ phía trên. Buồng thang máy đột ngột giật mạnh, nghiêng hẳn về một bên.Những sợi dây cáp bắt đầu quấn quanh hộp thang máy giống như những con rắn . Cậu bé nhào tới bên cha mình.

"Cha!"

Mắt hai cha con đã giao nhau trong một giây đầy kinh hãi.

Rồi tất cả bỗng dưng biết mất.

Robert Langdon bật dậy trên chiếc ghê da êm ái của mình, hỏang hốt tỉnh dậy sau cơn mê. Ông đang ngồi trong cabin rộng lớn của chiếc phản lực Falcon 2000EX xóc lên do đi qua vùng thời tiết xấu. Đằng sau, động cơ đôi Pratt & Whitney đang rên lên đều đều.\

"Ngài Langdon?" Tiếng máy bộ đàm vang lên "chúng ta đã tới"

Langdon ngồi thẳng dậy, bỏ giáo án của mình vào cặp. Ông đã đi nửa đường đến tham dự buổi nghệ thuật tượng hình Masonic trước khi đầu óc ông chìm trong giấc mơ. Ông nghi ngờ việc ông mơ thấy người cha quá cô là do lời mời của cố vấn viên đã từng làm việc lâu năm với ông - Peter Solomon

Đó là một người nữa mình không muốn làm buồn lòng.

Một nhà hảo tâm, một nhà sử học, một nhà khoa học vặn năng 58 tuổi đã dìu dắt Langdon gần 30 năm trước, nói về nhiều mặt đã bù đắp lại khoảng trống mà cha Langdon đã để lại. Mặc dù Solomon xuất thân từ một dòng họ quyền quý và sở hữu lượng tài sản đồ sộ, Langdon thấy được lòng nhân ái và ấm áp từ đôi mắt xám nhạt của ông.

Bên ngòai cửa sổ, mặt trời đã lặn, nhưng Langdon vẫn có thể thấy cái hình dáng mảnh khảnh của đài tưởng niệm lớn nhất thế giới, vươn lên khỏi đường chân trời giống như chiếc kim của chiếc đồng hồ mặt trời thời xa xưa. Đài tưởng niệm gồm 555 bậc bằng cẩm thạch trở thành biểu tượng của một quốc gia. Xung quanh toà tháp là những khối hình học được thiết kế tỉ mỉ của đường phố và những tượng đài toả ra xung quanh. Từ trong không khí, Washington D.C đã toát ra một sức mạnh huyền bí rồi.

Langdon yêu thành phố này, và ngay khi máy bay hạ cánh, ông đã cảm thấy một sự sung sướng trào dâng đối với những cái ở dưới chân ông. Chiếc phi cơ đỗ xuống phần cuối trong bãi đỗ tư nhân tại một nơi nào đó nằm trong khu đất rộng bạt ngàn của Sân bay Quốc tế Dulles.

Langdon lấy hành lý của mình và cảm ơn những người phi công, bước xuống khỏi chiếc phi cơ sang trọng đê xuống thang. Cái lành lạnh của Tháng Giêng bao quanh ông. Hít thở đi, Robert, ông tự nhủ, trân trọng vô cùng không gian rộng mở trước mắt.

Màn sương mờ phủ lên lối ra. Khi ngửi thấy nhựa đường ẩm ẩm, ông cảm thấy như mình đang dấn thân vào một vùng đầm lầy nào đó.

"Xin chào! Xin chào!" Một giọng Anh trầm bổng la lớn ở phía bên kia màn sương "Có phải giáo sư Langdon đó không?"

Anh ngước lên nhìn thầy lờ mờ người phụ nữ trung niên đứng bên kia và đang giơ tấm biển và vội vã bước tới chỗ ông, vẫy tay lia lịa khi ông bước tới. Mái tóc xoăn how vàng đang ẩn nấp dưới chiếc mũ len sành điệu.

"Chào mừng ngài đến Washington"

Langdon mỉm cười "Cảm ơn"

"Tôi là Pam, từ bộ phận tiếp khách." Người phụ nữ thể hiện sự cởi mở có chút hơi thái quá "Phiền ngài đi theo tôi, xe đang đợi"

Ông đi theo cô, xuyên qua đường băng, thẳng đến một chiếc taxi sang trọng. Một thứ dành cho giới thượng lưu đây.

"Tôi không muốn làm ông ngại nhưng ông là giáo sư Robert Langdon, người viết những cuốn sách về biểu tượng và tôn giáo không ạ?"

Sau một hồi do dự, anh gật đầu.

"Tôi đã nghĩ thế mà" cô nói, nở một nụ cười rạng rỡ "Nhóm của tôi đã đọc quyển những nữ tu và nhà thờ của anh! Đó là một hay ho! Anh có vẻ rất khóai thả hổ về rừng nhỉ nhỉ!"

Langdon cười. "những vụ bê bối không phải là mục đích của tôi."

Người phụ nữ dường như nhận ra Langdon ko có hứng thú bàn luận về tác phẩm của mình. "Tôi xin lỗi. Nhưng nghe tôi này. Tôi biết anh chán ốm việc bị người khác nhận ra nhưng... đó là lỗi của anh đấy." Cô tếu táo về bộ đồ của anh. "Chính đồng phục của anh đã chỉ điểm anh đấy!"

Đồng phục của mình? Anh nhìn xuống quần áo mình. Vẫn là bộ đồ hàng ngày anh quen mặc, áo cổ lọ màu than, áo véc hiệu Harris Tweed, giày lười dùng cho sinh viên hiệu cordovan.... loại trang phục lên lớp, chụp ảnh bìa sách và các hoạt động xã hội của Langdon Người phụ nữ cười ngất lên "Cái áo cổ lọ của anh trông lỗi thời rồi, trông anh sẽ gọn gàng hơn nếu thắt cà vạt đấy."

Không thể Langdon nghĩ giống thòng lọng thì có.

Học viện Phillips Exeter yêu cầu Langdon đeo cà vạt sáu ngày trong một tuần khi giảng dạy tại đây,và kệ cho lời tuyên bố đầy lãng mạn rằng nguồn gốc của cà vạt hiện đại là loại cà vạt bằng vải lụa được những nhà hiền triết La Mã cổ dùng để làm ấm dây thanh quản nhưng Langdon biết rằng nguồn gốc của cà vạt bắt đầu từ việc những băng lính đánh thuê Croat đeo 1 chiếc khăn ở cổ trước khi lao vào trận đánh. Cho đến ngày nay, kiểu trang phục đánh trận cổ này được các nhân viên văn phòng sử dụng để những kẻ thù nơi công sở của họ hãy dè chừng.

"Cám ơn vì lời khuyên" Langdon vừa khúc khích vừa trả lời "Tôi sẽ cân nhắc việc mang một chiếc cà vạt trong tương lai"

Đội ơn chúa, một người đàn ông trong bộ com-lê tối màu bước ra khỏi chiếc xe Lincoln Twon bóng lộn đỗ gần dải phân cách bước tới bắt tay ông. "Ngài Langdon? Tôi là Charles và đây là là chiếc limo Beltway." Nói rồi Charles mở cửa xe "Buổi chiều tốt lành thưa ngài. Chào mừng ngài đến với Washington"

Anh boa cho Pam vì lòng hiếu khách trước khi nhét mình vào trong chiếc limo. Tài xế xe chỉ cho anh cần chỉnh nhịêt độ, nước và giỏ đựng bánh nướng xốp nóng hổi. Vài giây sau, Langdon đã trên đường tới khu vực tư . Vậy đây là nơi một nửa thế giới sống.

Trong khi phóng vù vù trên đường Windstock Drive, người tài xế hỏi vị khách của mình về danh sách hàng hoá và gọi một cú điện.

"Đây là limo Beltway" người tài xế nói với giọng chuyên nghiệp "Tôi gọi để báo là hành khách của tôi đã đáp xuống máy bay rồi." Anh dừng lại một chút "Vâng, thưa ngài. Khách của ngài, ngài Langdon đang trên đường đến. Tôi sẽ đưa ngài Langdon đến trước cửa tòa nhà quốc hội vào khoảng 7 giờ tối. Không có chi, thưa ngài" Rồi anh ta cúp máy.

Langdon buôc phải mỉm cười. Không bỏ xót một chi tiết nào. Không gì có thể qua được mắt Peter Solomon. Một vài tỉ đô la trong ngân hàng cũng không thành vấn đề.

Langdon đã ngả người vào bộ ghế da mềm mại sau lưng, nhắm mắt lại, thả lỏng người, để những tiếng ồn của sân bay lại phía sau.

Tòa nhà quốc hội Hoa Kì cách đây nửa giờ xe chạy, và ông trân trọng những giây phút được một mình suy ngẫm. Mọi thứ diễn ra trong ngày hôm nay quá nhanh, nhanh đến mức tới tận bây giờ anh mới có thể suy ngẫm xem những gì đang xảy ra quanh mình.

Kín đáo tới nơi, Langdon nghĩ, lấy làm thích thú với viễn cảnh trước mắt.

Mười dặm từ tòa nhà quốc hội, một hình dáng cô độc đang đứng chờ sự hiện diện của Robert Langdon.

Chương 2:

Một người tự gọi mình là Mal'akh cứ châm cây kim vào da đầu mình rồi rên lên những tiếng đều đều trong sự vui thích. Âm thanh u, u phát ra từ loa cũng là một thú tiêu khiển của hắn... giống như mũi kim cứ đâm vào, sâu dưới lớp biểu bì, rồi rút ra. Những giọt mực cứ thế được phun vào.

Bản thân ta là một kiệt tác.

Mục đích khi xăm mình không bao giờ là để làm đẹp. Xăm là để thay đổi. Từ việc những quan tư tế Ai Cập cổ đại tự rạch nông trên da thịt mình, đến những hình xăm của những thầy tu dòng Cybele (một hình thức thờ thần Đất) cho đến những vết sẹo Moko của tộc người Maori hiện đại ( Moko là một dạng vẽ lên mặt và cơ thể của thổ dân New Zealand. Nếu như xăm, da người vẫn giữ được độ mịn, thì Moko để lại trên da những đường rãnh), con người xăm lên da họ giống như một hình thức hy sinh vì tôn thờ sự thay đổi.

Bất chấp cảnh báo ở quyển Leviticus 19:28 (cuốn thứ ba trong Kinh Cựu ước), ngăn cấm những hình thức làm hại đến da thịt, hình xăm đã trở thành một nghi thức, được chia sẻ từ những thiếu niên sáng sủa đến những người nghiện ngập, đến những bà nội trợ nơi tỉnh lẻ.

Nghệ thuật xâm mình được coi như một tuyên ngôn về sức mạnh, một lời tuyên bố với toàn thế giới rằng Tôi kiểm soát máu thịt tôi.Cảm giác nghiện kiểm soát với hình thức thay đổi ngoại hình đã lôi kéo hàng ngàn người vào những hoạt động nhằm thay đổi cơ thể vốn có: phẫu thuật thẩm mỹ, hành xác, thể hình,... kể cả chứng cuồng ăn hay chuyển đổi giới tính. Ý thức con người luôn muốn làm chủ và vượt qua lớp vỏ trần tục.

Một tiếng chuông nhỏ phát ra từ chiếc đồng hồ của ông nội Mal'akh làm gã phải ngước nhìn nó. Sáu rưỡi tối. Bỏ đồ nghề xuống, gã quấn tấm áo choàng lụa Kiryu quanh thân hình trần truồng cao 6 feet 3 và đi xuống tiền sảnh. Không khí trông tòa nhà nặng nề bởi mùi của thuốc xâm và sáp ong Mal'akh dùng để khử trùng cái kim của mình. Người đàn ông cao to đi xuống hành lang, lướt qua những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc cổ đại Ý vô giá: bản khắc axít của Piranesi (1756-1810, một nhà điêu khắc và kiến trúc sư người Ý), chiếc ghế của Savonarola (thầy tu dòng thánh Dominic và là lãnh chúa vùng Florence) và ngọn đèn dầu bạc Bugarini.

Gã ta nhìn qua của sổ, lướt nhìn từ dưới lên trên, chiêm ngưỡng của đường chân trời ở phía xa xa kia.

Mái vòm tòa nhà quốc hội Hoa Kì đang phát ra một thứ anh sáng với một sức mạnh của sự uy nghi chống lại cái tối tăm của đêm đông. Đây là nơi giấu nó, gã nghĩ chắc chắn nó đang bị chôn vùi ở chỗ nào đó thôi.

Rất ít người biết nó tồn tại... và càng ít hơn nữa biết được sức mạnh đáng kinh ngạc của nó và cách tài tình người ta giấu nó. Đến ngày hôm nay, nó vẫn là một bí mật quốc gia tối mật nhất. Những con người đã từng biết đến báu vật này, đã che đậy nó dưới những biểu trưng, truyền thuyết, ngụ ngôn.

Cánh cửa đang được mở ra trứơc mắt ta Mal'akh nghĩ.

Ba tuần trứơc, một nghi thức bí mật được tổ chức dưới sự chứng kiến của những người có tầm ảnh hưởng nhất Hoa Kì, Mal'akh đã leo lên 33 cấp bậc, cấp độ cao nhất trong hội.Kể cả hiện giờ gã đã ở một đẳng cấp mới, nhưng đồng đạo vẫn không hé răng với hắn. Hoặc chưa thôi. Không phải là nó hoạt động như thế nào. Mà đó là những vòng lẩn quẩn trong những vòng lẩn quẩn.... đồng đạo trong đồng đạo. Dẫu cho Mal'akh có đợi bao lâu năm đi nữa thì gã có thể không bao giờ có được lòng tin tuyệt đối từ họ.

May mắn thay, gã không cần niềm tin của mọi người để có được bí mật sâu sa nhất đó..

Việc gia nhập hội phục vụ cho mục đích của nó.

Giờ đây, hắn lại càng vững tin hơn trứơc những gì sắp diễn ra, hắn bứơc những bước dài qua phòng ngủ của mình. Gã Đi khắp căn nhà trong khi đài những âm thanh khắc khổ kỳ quái của bản Lux Aeterna (Ánh sáng vĩnh cửu) trích trong bản Requiem của Verdi (Giuseppe Verdi) - gợi nhớ lại kiếp trước của mình.. Mal'akh lấy bộ điều khiển chuyển sang bài Dies Irae dữ dội...

Rồi trong tiếng trống ầm ĩ chói tai với những quãng năm, hắn nhào đến cầu thang làm bằng cẩm thạch, áo choàng của hắn phất phới khi hắn bước lên với đôi chân gân guốc khỏe mạnh.

Khi chạy, bụng gã sôi lên. Đã hai ngày nay, hắn nhịn ăn, chỉ uống nước, chuẩn bị cho cơ thể phù hợp với những phương pháp cổ.

Chỉ sáng mai thôi mày không còn đói đâu, hắn tự nhủ với mình, cả những cơn đau nữa. Mal'akh bước vào căn phòng ngủ thiêng liêng của mình với sự thành kính tôn nghiêm và khóa cửa lại. Hắn bước về phía khu vực thay đồ, dừng lại, và cảm nhận hình ảnh mình trải dài trên tấm gương khổng lồ mạ vàng trên tường. Không thể cưỡng lại được, quay lại và đối diện với chính hắn trong gương. Một cách chậm chạp, cẩn thận như mở một món quà vô giá, Mal'akh cởi bỏ áo choàng để lộ thân hình trần truồng của gã.

Hình ảnh trước mắt đã đánh thức hắn.

Ta là một kiệt tác

Đó là 1 cơ thể được chăm chút tỉ mỉ. Thân hình đồ sộ của hắn nhẵn nhụi và bóng mượt. Trước hết hắn nhìn xuống bàn chân, nơi được xăm móng vuốt và lớp vẩy trên chân chim ưng. Còn đôi chân cơ bắp của hắn được xăm đầy những họa tiết hình cột - chân trái là những đường xoắn ốc, còn chân phải là những sọc đứng. Boaz and Jachin. Vùng háng và bụng hắn được trang trí như hình mái vòm, phía trên là vùng ngực nở nang là phượng hoàng hai đầu mà mắt của mỗi đầu trùng với núm vú hắn . Vai, cổ, mặt, và cái đầu trọc của được phủ đầy những con dấu và ký tự cổ phức tạp.

Là một tạo tác, biểu tượng của tiến hoá. Một người đàn ông chết cách đây 18 tiếng, khi nhìn thấy hắn trần truồng, đã thốt lên trong sợ hãi "Chúa ơi, mày là hiện thân của quỉ dữ".

"Nếu như mày có thể hiểu thấu được ta đến thế", Mal'akh trả lời, hiểu như người Hy Lạp cổ từng tin rằng thiên thần và ác quỉ cũng giống nhau - có thể hoán đổi hình dạng cho nhau - vấn đề chỉ là sự đối chiều: Thiên thần bảo vệ giúp ngươi đánh bại kẻ thù của ngươi thì đối với kẻ đó thiên thần của người là ác quỷ của hắn.

Mal'akh quay người lại và để lộ một phần đỉnh đầu của hắn. Trong một vùng sáng hình giống vương miện, có một vùng da thịt trắng xanh, không xăm trổ. Đó là nơi duy nhất thân thể hắn còn giữ được làn da vốn có và chỉ tối nay thôi... nó sẽ được xăm thôi. Mặc dù Mal'akh chưa có được cái hắn cần để hoàn thành kiệt tác của mình, nhưng hắn biết rằng khoảnh khắc đó rồi sẽ đến nhanh thôi.

Hào hứng với hình ảnh phản chiếu chính mình, hắn có thể cảm nhận rõ năng lượng đang trỗi dậy trong cơ thể. Hắn khoác áo choàng lại rồi tiến đến cửa sổ, một lần nữa chăm chú nhìn vào thành phố huyền bí trước mắt. Nó được cất giấu tại nơi nào đó ngoài kia.

Chuyển lại sự tập trung vào tay mình, Mal'akh đi lại phía bàn thay đồ và cẩn thận dùng đồ hoá trang che đậy lên mặt, da đầu,cổ cho đến khi những hình xăm biến mất. Sau đó hắn mặc đồ và đeo một vài món đặc biệt mà hắn đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho tối nay.

Sau khi xong , hắn nhìn lại mình trong gương. Hài lòng, hắn vuốt lòng bàn tay mềm mại lên đầu và mỉm cười. Ngoài kia, hắn nghĩ, và đêm nay, một người đàn ông sẽ giúp ta tìm ra nó.

Để làm chấn động đất nước của gã, gã đã phải chuẩn bị bản thân mình chu đáo dành cho sự kiện sẽ làm rung chuyển Toàn nhà quốc hội Hoa Kỳ. Hắn sẽ có sức mạnh to lớn để điều khiển mọi thứ. Sau tối nay.

Chương 3:

Robert Langdon đang bận rộn xem lại những tài liệu của mình trong khi chiếc bánh xe bên dưới đang trồi lên lõm xuống vì mặt đường xuống dốc. Langdon ngước mắt nhìn lên và ngạc nhiên rằng đây là đâu.

Đã tới cầu Memorial Bridge rồi sao?

Anh đặt tài liệu xuống, hướng mắt nhìn dòng nước yên bình trên sông Potomac dưới kia. Một màn sương dày đặc đang lượn lờ trên mặt nứơc. Một cái tên thích đáng, Foggy Bottom (trụ sở ngọai giao Hoa Kì), dường như luôn có một giáo khu độc lập trong tòa nhà. Từ ngàn xưa, những người đầu tiên ở New York đã đặt nền móng nơi đây, một thành phố không tưởng, bên bờ một dòng sông.

Langdon đưa mắt sang trái, bên kia bờ hồ Tidal Basin, thẳng tới đài tưởng niệm Thomas Jefferson hình bầu dục. Đài tưởng niệm của Lincoln phần nào làm anh liên tưởng đến đền thờ Parthernon trên Acropolis. Từ đây, xa trung tâm thành phố, Langdon vẫn có thể thấy những đường xoắn ốc như trên không trung. Nhìn vào kiến trúc của nó, anh có cảm giác rằng nó cổ xưa hơn cả những gì của người La Mã hay Hy Lạp cổ đại.

Tháp Bút Chì.

Những đường xóan ốc xung quanh đài tưởng niệm Washington hiện ra lờ mờ trứơc mặt anh, nó hướng thẳng lên bầu trời như cột buồm hùng vĩ đứng sừng sững giữa con tàu. Theo hướng nhìn của Langdon, toà tháp xuất hiện không vững trải giống như chiếc cột buồm lắc lư hteo con thuyền chìm trong giông bão. Chuyến đi của anh đến Washington là một đều thình lình ập tới, không báo trứơc. Mình thức dậy vào buổi sáng chủ nhật đầy hy vọng.... và giờ đây, mình chỉ cách tòa nhà quốc hội chưa đến vài vài phút.

Sáng sớm, vào lúc 4h45 phút như thường lệ, Langdon lại ra bể và bơi 50 vòng trong hồ của trường đại học Harvard. Thân hình anh không cơ bắp như những vận động viên nhưng vẫn còn đủ để cho những người ở cái tuổi 40 phải thèm muốn. Vấn đề mà anh đang nan giải là sức bền để duy trì được phong độ như hiện nay.

Khi Langdon trở về nhà lúc 6h, theo thói quen, anh lấy tay nghiền nhỏ những hạt cà phê. Cái mùi thơm đặc biệt của nó đã lan tỏa khắp gian bếp. Anh đã khá nhạc nhiên khi thấy chấm đỏ báo hiệu có một tin nhắn ở máy diện thọai. Ai gọi mình vào 6 giờ sáng ngày chủ nhật? Anh nhất nút để nghe mẩu tin.

"Chào buổi sáng ngài giáo sư Langdon, tôi thành thật xin lỗi khi làm phiền anh vào buổi sáng sớm chủ nhật thế này." Giọng nói thanh nhã, lịch sự kia dừng lại đôi chút, anh có cảm nhận rằng đâu đó có một chút chất giọng của người miền Nam. "Tôi là Anthony Jebart, là người phụ tá của ngài Peter Solomon. Ngài Solomon có bảo tôi rằng anh là người hay dậy sớm... Và ngài Solomon có một số thông tin quan trọng cần thông báo. Vậy xin anh hãy gọi cho Peter ngay khi nhận được mẫu tin này. Có thể ông biết số cầm tay của Solomon, nếu không phiền ông gọi theo số 202-329-5746"

Langdon cảm nhận có được mối lo âu của mình về người bạn cũ, Peter. Solomon là một con người tỉ mĩ, cẩn thận, thanh lịch không chê vào đâu được, và chắc chắn sẽ không bao giờ gọi điện vào một sáng cuối tuần nếu chẳng có chuyện gì đó rât quan trọng đang diễn ra.

Bỏ dỡ việc nghiền cà phê, Langdon chạy đến bên điện thọai

Hy vọng rằng Peter không sao.

Solomon đã trở thành người bạn, người thầy, và là người cha lớn hơn anh 12 tuổi kể từ ngày đầu tiên họ gặp nhau ở đại học Princeton. Vào năm hai đại học, Langdon đã yêu cầu được đi dự những buổi diễn thuyết vào buổi chiều của một sử gia, một nhà từ thiện trẻ tuổi trẻ tuổi. Ông đã giảng thuyết với tất cả sự yêu mến, truyền cảm về những dấu hiệu, kí hiệu, hiện tượng lịch sử. Từ đó, nó đã trở thành một phần không thể thiếu trong suốt cuộc đời Langdon, một nỗi say mê những kí tự cổ.

Không phải vì sự thông thái của Solomon, mà vì lòng nhân ái trong đôi mắt xám/ đầy kinh nghiệm đã tiếp thêm ý chí cho Langdon quyết định viết lá thư cảm ơn gửi tới ông. Và điều mà một sinh viên năm hai đại học không bao giờ ngờ là con người tài cao, hiểu rộng ấy lại có bao giờ trả lời thư. Từ đó, một tình bạn thật sự đã bắt đầu.

Có một điểm đặc biệt ấn tượng ở vị giáo sư này là ông xuất thân từ một gia đình danh giá và giàu có, ngang hàng với dòng họ Rothschilds đã từng chi phối tòan bộ thị trường tiền tệ châu Âu trong một thời gian dài. Cái họ Solomon luôn mang bên mình một sức mạnh, quyền lực và thành công. Peter, một người đã thừa hưởng tất cả những đức tính ấy từ người cha quá cố của mình, hiện đang nắm giữ một vị trí quyền lực rất quan trọng trong cuộc đời. Ông đang là người đứng đầu viện Smithsonian (tức Smithsonian Institution là một học viện nghiên cứu và bảo tàng viện của chính phủ Hoa Kì). Langdon vẫn thường chọc ông rằng cái phả hệ Solomon chính là bằng cấp đại học thứ hai mà trường Yale có thể cấp cho ông. Và, bất ngờ, kinh ngạc hết độ, Langdon phát hiện rằng mình nhận được một tờ fax từ Peter.

Peter Solomon

Văn phòng bộ chính trị (OFFICE OF THE SECRETARY)

Cơ quan Smithsonian

Chào buổi sáng, Robert,

Tôi cần nói chuyện với anh. Gọi theo số máy 202-329-5746 sớm nhất có thể.

Peter.

Langdon ngay lập tức gọi theo số máy trên, ngồi xuống cạnh bàn gỗi sồi, đợi đường dây kết nối.

"Văn phòng Peter Solomon xin nghe" giọng nói quen thuộc của người phụ rá trả lời "đây là Anthony. Tôi có thể giúp gì được cho quí khách?"

"Xin chào, tôi là Robert Langdon. Anh có để lại mẫu tin nhắn sáng nay....."

"Vâng, giáo sư Langdon!" Người đàn ông đầu dây bên kia trả lời nhanh nhẹ "cảm ơn vì đã gọi lại. Ngài Solomon đang rất nóng lòng muốn nói chuyện với giáo sư. Để tôi nói máy với ngài Solomon, giáo sư vui lòng chờ trong giây lát được chứ ạ?"

"Dĩ nhiên rồi"

Trong khi chờ đợi kết nối với Solomon, anh liếc nhìn xuống đầu trang giấy fax rồi mỉm cười. Không có bao nhiêu người không tiếp nối được truyện thống của dòng họ Solomon nhĩ. Trong cây gia đình của dòng họ này, có nhiều cái tên nổi đình đám trong làng kinh tế, nhiều người có ảnh hưởng chính trị lớn lao, nhiều nhà khoa học lỗi lạc, có sức ảnh hửơng ngang tầm London's Royal Society (tổ chức khoa học có uy tín nhất nước Anh, tương đương Viện Hàn Lâm Khoa học ở các nước khác). Em gái Solomon, Katherine được di truyền một gen trội về lòng yêu Khoa học, chính vì vậy mà cô đã trở thành nhà lãnh đạo hàng đầu trong ngành tân tiếnmột ngành khoa học mới mang tên Tâm linh học.

Tôi chẳng hiểu gì cả.Langdon nghĩ, lấy làm thích thú khi nhớ lại một lần giải thích Katherine đã giải thich cho ông về ngành Tâm linh nhưng thất bại tại nhà Peter năm ngóai. Langdon đã lắng nghe một cách cẩn thận và trả lời:

"Nghe có vẻ giống trò phù thuỷ hơn là khoa học"

Katherine nháy mắn vui vẻ "Nó gần gũi hơn anh tưởng đấy, Robert"

Phụ tá của Solomon quay lại trả lời diện thọai "Thật tình xin lỗi giáo sư, ngài Solomon đang phải tiếp một cuộc gọi hội ý. Mọi thứ đã diễn ra thật hỗn loạn vào sáng nay."

"Không sao, tôi sẽ gọi lại sau"

"Thật ra thì, ngài Solomon có yêu cầu tôi nói với anh lý do tại sao đã gọi điện cho giáo sư, giáo sư không phiền chứ?"

"Dĩ nhiên không"

Người trợ tá hít một hơi thở sâu "Như giáo sư đã biết, tại Washington này, hàng năm, có một cuộc hội nghị để cảm ơn những người tham gia viện Smithsonian. Và chỉ những người có cấp bậc, vị trí chính trị, hiểu biết về văn hóa rất cao mới được đến tham dự."

Langdon biết rằng trong tài khỏang ngân hành mình cũng có một số tiền khá khá, và có một nguồn kiến thức đủ để gọi là ưu tú, nhưng anh đang thắc mắc liệu Solomon có định mời anh tham dự?

"Và năm nay, cũng như thường lệ" người phụ tá tiếp tục "hôi nghị sẽ được tổ chứ ở một địa điểm quan trọng. Chúng tôi đã có đủ lực lượng để bảo đảm an tòan cho sảnh vinh danh Quốc gia (the National Statury Hall) nằm trong điện Capitol của Quốc hội."

Tòa nhà tối nghiêm nhất trong tòan thủ đô đây mà, Langdon nghĩ, một bài diễn thuyết chính trị sẽ gấy được cảm xúc mạnh mẽ trong tiền sảnh vòm bán nguyệt ấy. Thật khó để quên 500 cái ghế gập, xếp xiên trong hình vòng bán nguyệt hòan hảo ấy, bao quanh bởi 38 bức tượng kích cỡ như thật, và đó cũng là một phòng được coi là Hạ Viện Hoa Kì (in a room that had one served as the nation's original House of Representatives chamber.)

"Vấn đề là" người phụ tá nói "người diễn thuyết của chúng tôi đã ngả bệnh, và cô ấy sẽ không thể đến được." Anthony lúng túng một chút "và chúng tôi đang tuyệt vọng để tìm người thay thế. Ngài Solomon hy vọng rằng giáo sư sẽ suy nghĩ và chấp nhận thay thế."

Langdon nhắc lại để chắc chắn "Tôi á?" Đó không phải là những gì anh mong đợi "Tôi chắc rằng Peter có thể tìm được một người thay thế tốt hơn tôi."

"Giáo sư là sự lựa chọn đầu tiên của ngài Solomon, và có lẽ giáo sư đang quá khiêm tốn đấy. Những khách mời có lẽ sẽ rất xúc động nếu được nghe từ ông đây. Ngài Solomon hy vọng rằng giáo sư có thể diễn thuyết như trong chương trình Bookspan trên Tivi vài tuần trứơc. Như vậy, giáo sư không cần có sự chuẩn bị trứơc. Ngài Solomon nói, bài diễn thuyết của giáo sư sẽ bao gồm chủ nghĩa tượng trưng của nghệ thuật kiến trúc trong tòa nhà quốc hội, đó sẽ là một chủ đề hòan hảo cho bữa tiệc."

Langdon không dám chắc "Bài diễn thuyết có liên quan đến lịch sử hội Tam Điểm trong tòa nhà hơn là ...."

"Chính xác! Như giáo sư đã biết, ngài Solomon là một hội viên hôi Tam Điểm, và cả những người bạn cấp cao của ông nữa. Tôi chắc chắn rặng họ sẽ rất lấy làm vinh hạnh khi được nghe ông nói về nó."

Có lẽ nó không quá khó. Langdon luôn giữ lại những bài diễn thuyết của mình sau mỗi lần lên lớp. "Tôi sẽ cân nhắc cho việc này. Khi nào thì hội nghị diễn ra?"

Người phụ tá hắng giọng, nghe có vẻ không được thỏai mái cho lắm "Uhm, thật ra thì, thưa giáo sư, ngay hôm nay."

Langdon cười ngất lên "Tối nay?!"

"Đó là lý do tại sao mọi thứ lại bề bộn sáng nay. Tòan bộ bảo tàng đang lúng túng trước tình thế này...." người phụ tá bắt đầu nói khẩn khỏan hơn "Ngài Solomon đang rất sẵn lònhg gửi một chiếc máy bay phản lực thẳng đến Boston để đón ngài. Chuyến bay chỉ khỏang 1 giờ, và giáo sư có thể về nhà trước nửa đêm nay. Ngài sẽ đến sân bay Logan chứ?"

"Vâng" Langdon miễn cưỡng chấp nhận. Không quá ngạc nhiên khi Peter làm điều này.

"Tuyệt vời! Vậy giáo sư hãy chuẩn bị lên máy bay vào lúc 5h chiều."

"Có vẻ như anh cho tôi nhiều lựa chọn nhĩ" Langdon cười khúc khích.

"Tôi chỉ làm theo những gì ngài Solomon dặn thưa giáo sư"

Peter có ảnh hưởng đối với nhân viên quá nhĩ. Langdon suy nghĩ, đắn đo, xem xét cẩn thận một chút rồi phát hiện rằng anh không có con đường khác để lựa chọn "Được rồi. Nói với Peter rằng tôi sẽ tham dự"

"Chưa xong thưa giáo sư" người phụ tá la tóang lên, giọng có vẻ hỏang hốt rồi đưa số máy bay phản lực cho Langdon và một vài thông tin khác.

Sau khi cúp máy, Langdon hốt thêm 1 nắm hạt cà phê bỏ vào máy xay. Thêm một chút cà phê cho buổi sáng, anh nghĩ. Hôm nay sẽ là một ngày dài đây.

Chương 4

Tòa nhà quốc hội Mỹ nằm uy nghi ở cuối phía đông của National Mall, trên một vùng đất rộng bằng phẳng, nơi mà nhà quy hoạch thành phố - Pierre L'Efant miêu tả như một bệ chờ cho tựợng đài. Móng của Tòa nhà quốc hội 750 feet chiều dài và 350 feet chiều sâu. Tổng dịch tích mặt sàn lên đến 16 mẫu Anh chia thành 541 phòng tuyệt đẹp. Những kiến thức tân cổ điển được thiết kể tỉ mĩ gợi nhắc lối kiến trúc uy nghiêm của người La Mã cổ mà những lý tưởng của họ đã truyền cảm hứng cho những người sáng lập ra nước Mỹ về việc xây dựng luật pháp và văn hoá cho một nền cộng hoà mới.

Các trạm kiểm soát an ninh mới dành cho du khách vào tham quan Toà nhà quốc hội được đặt sâu bên trong trung tâm quan sát khách du lịch ngầm bên dưới lớp kính hào nhoáng tạo nên mái vòm toà nhà quốc hội.

Nhân viên an ninh mới Alfonso Nuñez cẩn trọng quan sát gã đàn ông đang đi qua trạm kiểm tra của mình. Đầu gã trọc lóc và gã đã đi lòng vòng dọc theo hành lang lối vào, chờ nói chuyện xong trên điện thoại trước khi bước vào cổng kiểm tra.

Tay phải của gã được nẹp cố định và ga đi khập khiễng. Gã măc áo chòang quân đội rách nát, và với cái đầu trọc khiến Nuñez nghĩ hắn ta là quân nhân. Những người đã từng phục vụ trong quân đội Mỹ nằm trong số những khách du lịch thường xuyên tới Washington.

"Chúc ngài buổi tối tốt lành" Nuñez nói, anh làm theo đúng qui định đối với những người đàn ông một mình vào tham quan nhà Quốc hội

"Xin chào" người khách trả lời, liếc mắt nhìn những lối vào gần như bỏ ngỏ, "Một tối yên tĩnh nhỉ."

"Có một trận tranh vé vớt giải NFC ( National Football Conference: giải bóng bầu dục Mỹ)

Nuñez trả lời "Tối nay mọi người ở nhà xem trận đấu của đội Redkins" và anh cũng ước gì mình cũng được thế nhưng đây là tháng đầu tiên anh nhận việc và đây lại là một công việc khó nhằn. "Làm ơn đặt những vật dụng kim loại vào khay kia."

Người hành khách đưa cánh tay nguyên vẹn của mình mò mẫm chiếc túi áo khoác của mình.Nuñez quan sát kỹ lưỡng. Bản năng của con người là tạo ra những ngoại lệ đối với người bị thương hay tàn tật, nhưng đó cũng là bản năng mà Nunez được dạy phải vứt bỏ.

Nuñez chờ vị khách kia lôi những thứ trong túi ra, nào là tiền xu lẻ, chìa khóa, và hai cái điện thọai. "Bong gân à?" Nuñez hỏi, mắt hướng nhìn cánh tay bị thương của gã. Một bên tay được băng bó cẩn thận với lọai băng khá dày.

Người hành khách đầu trọc gật đầu "Té trên băng. Tuần trước. Đau kinh"

"Tôi rất lấy làm tiếc. Đi qua máy nào"

Người hành khách đi qua máy quét kim lọai thì máy kêu lên báo động.

Hắn cau mặt "Tôi biết trước rồi mà. Tôi đeo một chiếc nhẫn nhưng vì tay sưng phù nên bác sĩ đành phải băng bó mà không lấy nó ra"

"Không sao" Nuñez nói "Tôi sẽ dùng máy quét tay"

Nuñez bật máy quét tay lên và quét cánh tay bó bột của hắn. Mà dĩ nhiên là chiếc máy kêu lên ở ngón tay đeo nhẫn của hắn. Anh đưa máy quét khắp từng milimét bàn tay của hắn. Anh biết rằng như thế là quá cẩn trọng nhưng có lẽ người quản lý đang quan sát anh ở đài quan sát và tất nhiên anh không muốn mất việc ở đây vì anh cần nó. Cẩn thận vẫn tốt hơn.

Hắn rên lên đau đớn.

"Xin lỗi"

"Không sao, tôi ổn" hắn nói "Nhưng anh đâu cần quá cẩn thận những ngày này nhĩ?"

"Phải cẩn thận trước mọi thứ" Nuñez thích người khách này. Bản năng con người, đối với người Mỹ trước hết là chống khủng bố. Và sự thật đã được kiểm chứng là trực giác con người là một thứ máy dò nguy hiểm chính xác hơn tất cả các hộp số điện tử trên thế giới - như một trong những cuốn sách tham khảo về vấn đề an ninh của chính người Mỹ đã gọi tên - đó là món quà của sự sợ hãi.

Trong trường hợp này,bản năng của Nuñez báo động một hiểm hoạ nào khiến anh phải sợ hãi. Điều duy nhất làm anh bối rối là họ đang đứng khá gần nhau, cái nhìn trực diện làm anh có cảm giác vị khách này hoặc là đang hóa trang hoặc vừa mới đi ra khỏi phòng tắm nắng nhân tạo. Kệ, đâu ai thích nhìn bộ dạng trắng xanh của mình vào mùa đông cơ chứ.

"Ngài có thể qua" Nuñez nói, sau khi kiểm tra xong và tắt máy quét

"Cảm ơn" Gã bắt đầu lấy lại đồ của mình trên khay.

Trong khi hắn làm thế, Nuñez để ý thấy rằng hắn có hai hình xăm trên hai ngón tay lòi ra khỏi lớp gạc. Có một hình vượng niệm ở đầu ngón trỏ và một ngôi sao ở đầu ngón cái. Có vẻ như ai cũng muốn có một hình xăm, Nuñez nghĩ, phải đau lắm mới làm được như vậy.

"Cái đó có đau không?"

Gã nhìn xuống ngón tay mình và cười "Không đau như anh tưởng đâu"

"Hên nhé" Nuñez nói "Của tôi rất đau. Tôi xăm hình một nàng tiên cá sau lưng khi đi trại huấn luyện lính."

"Một nàng tiên cá?" Hắn cười khúc khích.

"Đúng thế" Nuñez nói ngượng ngùng 'Thời tuổi trẻ nông nổi ấy mà"

"Tôi cũng như anh" hắn nói "Tôi cũng là do tuổi trẻ mà ra. Giờ đây thì ngày nào cũng thức dậy với "cô ấy" kề bên mỗi buổi sáng"

Cà hai cùng cười khi gã bước vào.

Trò con nít, Mal'akh nghĩ khi đi ngang qua Nuñez, thẳng tới cầu thang vào tòa nhà Quốc Hội. Đi vào dễ hơn là hắn nghĩ.Điệu bộ khập khiễng và cái bụng phệ tự tạo giúp hắn dấu đi hình thể thật, trong khi lớp hoá trang trên khuôn mặt và bàn tay che đi những hình xăm vằn vện trên người hắn. Tuy nhiên, thiên tài là ở chỗ, dải dây cố định đã giúp gã giấu đi thứ hắn muốn mang vào trong toà nhà.

Một món quà cho một người giúp ta có được thứ ta đang tìm kiếm.

Chapter 5

Viện bảo tàng lớn và tối tân nhất thế giới cũng là một trong những nơi tốt nhất để cất giấu những bí mật. Nơi đây lưu trữ nhiều hiện vật hơn cả Hermitage, Viện Bảo Tàng Vatican và bảo tàng Mĩ thuật Hoa Kì tại New York Metripolian...cộng lại. Tuy sở hữu bộ sưu tập khổng lồ các hiện vật nhưng rất ít người từng được mời bước vào những bức tường được bảo vệ cẩn mật này.

Tọa lạc tại số 4210 đường Silver Hill ngay phía ngoài Washington, D.C., viện bảo tàng là một công trình xây dựng lớn hình chữ chi gồm năm cái khu được nối liền với nhau - mỗi khu có kích thước lớn hơn một sân bóng đá. Mặt ngoài kim loại ánh xanh của tòa nhà rõ ràng đang che giấu một điều kỳ quái bên trong- một thế giới của người ngoài hành tinh rộng đến sáu trăm ngàn feet vuông, bao gồm các khu vực cấm, các thùng chứa và các kho dài đến 12 dặm.

Đêm nay, nhà khoa học Katherine Solomon có cảm giác bất an khi cô chạy chiếc Volvo trắng về phía cổng an ninh của tòa nhà chính.

Người bảo vệ cười với cô. "Cô không phải là một fan bóng bầu dục đá à, cô Solomon?' Anh ta giảm âm lượng trận play-off (trận tranh vé vớt) của đội Redskins.

Katherine gượng cười đáp lại "Giờ là tối Chủ nhật mà".

"Oh, đúng vậy. Cuộc hẹn của cô."

"Ông ấy tới đây chưa?" Cô lo lắng hỏi.

Anh ta liếc xuống đốnggiấy tờ. 'Tôi không thấy ông ấy trên danh sách .

"Tôi đến sớm rồi." Katherine vẫy chào rồi tiếp tục đi theo con đường quanh co dẫn vào điểm

đỗ xe thường ngày tại tầng dưới của một nhà để xe 2 tầng nhỏ. Cô lấy đồ và ngắm lại mình qua gương chiếu hậu - điều này như một thói quen khó bỏ hơn là vì chải chuốt.

Katherine Solomon được ưu ái với làn da căng mịn thuộc vùng Địa Trung Hải như tổ tiên cô, ngay cả ở tuổi năm mươi cô vẫn sở hữu làn da ô liu mềm mại. Cô hầu như không trang điểm và để xõa mái tóc đen dày tự nhiên của mình. Giống anh trai cô, Peter, mắt cô đen, dài, thanh lịch và đài các.

Hai người giống như một cặp sinh đôi, mọi người thường bảo họ như vậy. Cha của họ qua đời vì căn bệnh ung thư khi Katherine mới bảy tuổi, và cô cũng không có nhiều ký ức về ông. Anh cô, hơn cô tám tuổi, lên mười lăm khi cha qua đời, phải trở thành trưởng họ Solomon sớm hơn nhiều thời điểm mà mọi người có thể nghĩ tới. Dù vậy, đúng như kỳ vọng, Peter đem lại tiếng tăm, sự cao quý cho dòng họ. Tới bây giờ, anh vẫn chăm sóc cho cô như khi xưa.

Bỏ qua lời châm chọc của anh trai, và không thiếu người theo đuổi nhưng Katherine chưa bao giờlập gia đình. Khoa học đã trở thành người bạn đời của cô, và công việc đã chứng minh rằng nó hoàn hảo và thú vị hơn bất cứ người đàn ông nào có thể đem lại. Katherine chưa từng thất vọng. Lĩnh vực cô chọn - Khoa học tâm linh - lúc đầu cô không hề nghe đến nó, nhưng trong những năm gần đây, nó đã hé lộ những hiểu biết về khả năng não bộ con người.

Những khả năng chưa được hé lộ của con người thật đáng kinh ngạc.

Hai cuốn sách của cô về Khả năng siêu nhiên đã đưa cô đến vị trí đầu trong ngành lĩnh vực khoa học còn quá mới mẻ này, những phát hiện mới đây nhất của cô, sau khi được công bố, hứa hẹn sẽ làm Khoa học siêu nhiên trở thành đề tài chính xuyên suốt các buổi hội thảo trên toàn thế giới.

Tuy nhiên khoa học lại là thứ cuối cùng cô nghĩ đến. Sáng sớm nay, cô đã nhận được những thông tin hết sức không hay liên quan tới anh trai mình. Tôi không thể tin là nó là sự thật. Cô không nghĩ về cái gì khác suốt cả buổi chiều. Những giọt mưa phùn rơi lên kín chắn gió, và Katherine nhanh chóng thu nhặt các thứ bên trong xe. Cô đang định bước ra khỏi xe thì điện thoại reo.

Cô kiểm tra số gọi đến và hít thật sâu.

Cô vén tóc ra sau tai và nghe điện.

Cách đó sáu dặm, Mal'akh đang đi qua những hành lang của Tòa nhà Quốc hội Hoa kỳ với điện thoại di động trên tai.

Ông ta đang kiên nhẫn chờ tín hiệu từ bên kia.

Cuối cùng, một giọng phụ nữ vang lên. "Vâng?"

"Chúng ta cần gặp nhau, một lần nữa," Mal'akh nói.

Im lặng kéo dài. 'Mọi thứ vẫn ổn chứ?'

"Tôi có tin mới," Mal'akh nói.

"Nói đi."

Mal'akh hít một hơi sâu. "mà anh cô tin rằng đang được giấu ở D.C. ...?"

"Vâng?"

"Có thể tìm được."

Katherine Solomon cảm thấy váng vất. 'Ông nói rằng - nó có thật?'

Mal'akh tự cười một mình. "Đôi khi một truyền thuyết tồn tại hàng thế kỷ... lạitồn tại vì một lý do nào đó."

Chương 6

'Đây là nơi gần nhất rồi à?', Robert Langdon đột nhiên nhận thấy một một cơn sóng lo lắng dội lên khi người tài xế đậu tại Đại lộ I, cách toà nhà Capitol ¼ dặm.

'Tôi e là vậy,' người tài xế nói. ' Vấn đề An ninh quốc gia. Không phương tiện nào được đến gần các tòa nhà này. Tôi rất tiếc, thưa ngài.'

Langdon kiểm tra đồng hồ, giật mình nhận ra đã 6.50. Một khu vực công trình quanh Khu mua sắm quốc gia đã làm chậm họ lại, và bài giảng của anh sẽ bắt đầu trong 10 phút nữa.

'Thời tiết đang thay đổi,' người tài xế nói, bước ra và mở cửa cho Langdon. 'Ông nên nhanh lên.' Langdon lấy ví để lấy tiền boa cho tài xế thì ông ta xua đi. 'Người mời ngài đã thêm một khoản tiền boa rộng rãi vào tiền phí rồi."

Đúng là Peter, Langdon nghĩ và thu nhặt đồ đạc. 'Được rồi, cảm ơn vì chuyến đi.'

Vài giọt mưa đầu tiên bắt đầu rơi khi Langdon đến được phòng đợi với mái vòm thanh nhã dẫn đến cửa vào cho khách thăm viếng mới dưới đất.

Trung tâm thăm viếng Capitol (The Capitol Visitor Center) là một dự án giá trị với nhiều tranh cãi. Là một thành phố ngầm tương xứng là một địch thủ của Disney World, khoảng không gian dưới lòng đất này được ước tính có thể cung cấp nửa triệu feet vuông cho các nhà trưng bày, nhà hàng và hội trường.

Langdon đã trông chờ được thăm quan nó, mặc dù không đoán trước rằng sẽ mất khá nhiều thời gian đi bộ. Trời có thể mưa bất cứ lúc nào, và ông bước vội vã hơn, đôi giày của ông hầu như chẳng có chút ma sát nào với mặt xi măng ướt át này cả . Mình mặc đồ để đi thuyết trình, không phải kẻ mắc dịch nào đó chạy bốn trăm yard đường dốc dưới mưa.

Khi đến nơi, ông thở không ra hơi và tim đập thình thịch. Langdon đi qua cánh cửa xoay, dừng lại một chút ở phòng nghỉ để lấy lại hơi và phủi những giọt mưa vương lại. Khi đã xong, ông giương mắt lên nhìn khoảng không gian mới vừa được hoàn thành trước mặt.

Goao! Thật là ấn tượng.

Trung tâm thăm viếng Capitol (The Capitol Visitor Center) không phải tất cả những gì ông mong đợi. Vì khoảng không này nằm trong lòng đất nên Langdon sợ đi qua nó. Thời niên thiếu một tai nạn đã làm ông bị mắc kẹt ở đáy giếng cạn suốt đêm, và Langdon giờ vẫn sống cùng nỗi ác cảm với những không gian hẹp. Nhưng khoảng không dưới lòng đất này thì... theo một cách nào đó, thoáng đãng.

Sáng sủa. Rộng rãi.

Trần nhà là một kính rộng với hàng loạt đèn được gắn cố định gây ấn tượng mạnh toả ánh sáng lên những nội thất màu ngọc trai.

Bình thường, Langdon sẽ dành nguyên cả tiếng đồng hồ ở đây để chiêm ngưỡng kiến trúc này, nhưng chỉ còn năm phút nữa là đến giờ bắt đầu, ông cúi đầu và đi nhanh qua đại sảnh, hướng về trạm kiểm soát an ninh và thang máy. Thư giãn đi, ông tự nhủ. Peter biết là ngươi đang tới. Buổi diễn thuyết sẽ không bắt đầu nếu không có ngươi.

Tại điểm kiểm soát an ninh, một nhân viên an ninh người Mỹ gốc Bồ Đào Nha nói chuyện với Langdon trong khi ông lấy hết đồ trong các túi ra và gỡ cái đồng cũ ra.

'Chuột Mickey à?' người nhân viên nói, có vẻ buồn cười về chiếc đồng hồ này.

Langdon gật đầu, ông quá quen với những ý kiến về cái đồng hồ. Cái đồng hồ hình chuột Mickey phiên bản cho người sưu tập này là quà của cha mẹ ông vào sinh nhật thứ chín của ông.

'Tôi đeo nó để nhắc nhở mình rằng cần sống chậm lại và đừng làm cuộc sống trở nên nghiêm trọng.'

'Tôi không nghĩ nó có tác dụng,' nhân viên nói với một nụ cười. 'Ông trông như đang rất vội.'

Langdon cười và đặt cái túi đi đường vào máy chiếu tia X.

'Đường nào đến Gian trừng bày tượng'

Người nhân viên chỉ về hướng thang máy. 'Ông sẽ thấy biển chỉ dẫn.'

'Cảm ơn.' Langdon lấy cái túi khỏi băng chuyền và đi tiếp.

Khi đi thang máy lên, Langdon hít một hơi sâu và cố gắng tập trung suy nghĩ. Ông nhìn qua mái trần thủy tinh phủ đầy nước mưa ở cái đỉnh Mái vòm Capitol được chiếu sáng rực rỡ trước mặt. Thật là một tòa nhà kỳ dị. Trên cao của mái nhà, gần ba trăm feet trong không trung, tượng Nữ thần Tự do vươn lên trong màn đêm đầy sương mù như một bóng ma lính canh. Langdon luôn thấy mỉa mai khi những người công nhân đưa từng phần của bức tượng đồng cao mười chín foot rưỡi đó lên vị trí cuả nó lại là những nô lệ - một bí mật của Capitol mà hiếm khi nào trở thành đề tài cho bộ môn lịch sử tại các trường trung học.

(còn tiếp)

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenFun.Vip