Nganhang1 Nganhang1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng
Chương I

TIỀN TỆ VÀ LƯU THÔNG TIỀN TỆ

I. NGUỒN GỐC RA ĐỜI VÀ CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ

1. Sự ra đời và phát triển của tiền tệ

Sự ra đời và phát triển của tiền tệ gắn liền với quá trình phát triển của sản xuất

và lưu thông hàng hoá. Trong thời kỳ đầu của chế độ công xã nguyên thuỷ, với công

cụ lao động thô sơ, con người tự cung cấp cho nhau số sản phẩm ít ỏi kiếm được từ săn

bắn, hái lượm. Khi đời sống cộng đồng ngày càng phát triển, ý thức phân công lao

động được hình thành và lượng sản phẩm dư thừa đã làm nảy sinh quan hệ trao đổi

giữa các thị tộc. Tuy nhiên, trong giai đoạn này trao đổi chỉ mang tính chất ngẫu nhiên

và được thực hiện bằng cách trao đổi sản phẩm trực tiếp.

Cùng với sự chuyên môn hoá lao động phát triển và quá trình phân công lao

động xã hội ngày một sâu hơn, nhu cầu trao đổi hàng hoá ngày càng nhiều và mở rộng,

việc trao đổi trực tiếp gây khó khăn cho việc lưu thông hàng hoá đòi hỏi phải có một

"vật ngang giá chung" làm trung gian cho trao đổi. Vật ngang giá chung là những hàng

hoá có thể trao đổi trực tiếp với nhiều hàng hoá thông thường khác. Ban đầu, vật trung

gian được lựa chọn từ những hàng hoá mang nét đặc trưng phổ biến của vùng, lãnh

thổ...Khi kinh tế phát triển, nhu cầu trao đổi ngày càng mở rộng không chỉ diễn ra

trong phạm vi vùng, lãnh thổ mà còn vượt ra khỏi vùng, lãnh thổ đó thì quá trình trao

đổi gặp khó khăn khi mỗi địa phương có một vật trung gian khác nhau. Để khắc phục

tình trạng này, cần có một vật ngang giá chung duy nhất làm trung gian cho quá trình

trao đổi. Vật ngang giá chung đó chính là tiền tệ.

Có thể nói, sự ra đời của vật trung gian trao đổi đánh dấu giai đoạn mở đầu cho

sự xuất hiện của tiền tệ, đồng thời là bước chuyển hoá từ nền kinh tế đổi chát sang nền

kinh tế tiền tệ. Trải qua tiến trình phát triển, tiền tệ đã tồn tại dưới nhiều hình thức để

đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của đời sống kinh tế.

Trong thời kỳ đầu khoảng 2.000 năm trước công nguyên, vật trung gian trao đổi

thường được chọn từ một hàng hoá có giá trị sử dụng cần thiết chung cho nhiều người,

có tính chất phổ biến, đặc trưng cho địa phương, khu vực nơi diễn ra quan hệ trao đổi.

Chẳng hạn như thời cổ đại, ở Hy Lạp dùng gia súc; Tây Tạng, Mông Cổ dùng chè; ở

Bắc Mỹ dùng thuốc lá, ở Trung Quốc có vùng dùng vải, có vùng dùng vỏ trai hoặc

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -2-

da...Việc sử dụng tiền tệ dưới dạng hàng hoá, còn gọi là hoá tệ, có nhiều bất lợi. Khó

chia nhỏ trong trao đổi, khó bảo quản và vận chuyển. Vì thế, các loại hàng hoá thông

thường được dùng làm tiền tệ dần bị đào thải nhường chỗ cho thời kỳ sử dụng tiền kim

loại.

Từ thế kỷ thứ 7 trước công nguyên, tiền kim loại đã bắt đầu được sử dụng và

phát triển rộng rãi trong suốt thời kỳ phong kiến. Tuy nhiên, trong các kim loại được

chọn làm vật ngang giá chung là sắt, kẽm, thiếc, đồng, bạc và vàng cũng trải qua quá

trình tự đào thải dần dần để cuối cùng còn lại ở kim loại quý là vàng. Đầu thế kỷ XIX,

vàng độc quyền đóng vai trò là vật ngang giá chung, còn gọi là kim loại tiền tệ. Một

khối lượng vàng với một trọng lượng và chất lượng nhất định được gọi là tiền tệ. Việc

sử dụng tiền kim loại tuy có những ưu điểm hơn so với hoá tệ không kim loại nhưng

cũng có những hạn chế như cồng kềnh, khó chuyên chở. Mặt khác, khi quy mô sản

xuất và trao đổi hàng hoá ngày càng phát triển đòi hỏi sự gia tăng của phương tiện trao

đổi trong khi nguồn vàng dự trữ không đủ đáp ứng. Do đó, thay vì dùng vàng trực tiếp

làm tiền, các nước đã có xu hướng chuyển sang sử dụng tiền dấu hiệu ngày càng phổ

biến.

Tiền giấy có mầm mống ra đời từ thế kỷ thứ XIV, khi các ngân hàng cho ra đời

các chứng chỉ tiền gửi do ngân hàng phát hành để huy động tiền gửi của xã hội, được

sử dụng làm phương tiện thanh toán ở các nước Châu Âu. Đến thế kỷ XVI-XVII, nó

được thay thế bằng giấy bạc của ngân hàng phát hành, loại giấy bạc này được đảm bảo

bằng vàng và được lưu hành song song với tiền đúc bằng vàng của nhà nước. Đến đầu

thế kỷ XX, giấy bạc ngân hàng thay thế hoàn toàn cho các kim loại quý như bạc và

vàng. Ngày nay, tiền giấy được sử dụng làm phương tiện trao đổi ngày càng phổ biến

vì những tiện lợi như dễ mang theo trong người, dễ cất trữ. Mặt khác, việc in tiền với

nhiều mệnh giá khác nhau tạo thuận lợi cho quá trình trao đổi hàng hoá. Tuy nhiên

việc lưu thông tiền giấy dễ rơi vào tình trạng bất ổn vì việc điều chỉnh cho nó phù hợp

với nhu cầu trao đổi hàng hoá là cả một nghệ thuật phức tạp.

Cùng với việc phát triển mạnh mẽ của ngân hàng, quá trình thanh toán của nền

kinh tế được tập trung phần lớn qua hệ thống ngân hàng thông qua các bút toàn chuyển

khoản hoặc thanh toán bù trừ trên tài khoản ký thác. Sự ra đời của tiền ghi sổ, còn gọi

là bút tệ, cùng với các chứng từ thanh toán như séc, giấy nhờ thu...đã làm đa dạng các

phương tiện thanh toán bên cạnh các hình thức thanh toán bằng tiền mặt, đồng thời còn

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -3-

tạo điều kiện giảm bớt những chi phí lưu hành tiền giấy như in ấn, bảo quản, kiểm

đếm, vận chuyển. Vì vậy, việc sử dụng tiền qua ngân hàng được coi là xu hướng phát

triển tất yếu của nền kinh tế phát triển.

Hơn nữa, trong thời đại mà những tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày càng đi sâu

vào đời sống kinh tế xã hội thì việc sử dụng những loại thẻ thanh toán trở nên được ưa

chuộng vì người ta có thể thanh toán ngay, giảm thiểu thời gian luân chuyển chứng từ

qua ngân hàng hoặc ghi chép chứng từ thanh toán. Loại tiền điện tử này cho phép giảm

tối đa việc sử dụng tiền mặt trong lưu thông và khắc phục những hạn chế của hệ thống

chi trả bằng séc.

Tóm lại, lịch sử ra đời và phát triển của tiền tệ luôn gắn liền với sự phát triển

và lưu thông hàng hoá. Điều này đã được chứng minh qua quá trình hoàn thiện các

hình thức tiền tệ, từ hình thức sơ khai ban đầu là hoá tệ không kim loại cho đến tiền

điện tử ngày nay. Tuy nhiên cần xác định rằng, các thời kỳ phát triển này không phủ

định lẫn nhau, nghĩa là các loại tiền tệ vẫn tồn tại đan xen nhau trong quá trình lưu

thông.

2. Bản chất của tiền tệ

Quá trình phát triển của tiền tệ cho thấy tiền tệ đã tồn tại dưới nhiều hình thức

từ hoá tệ đến kim tệ. Ngày nay vàng ít được dùng làm tiền tệ mà chủ yếu là tiền dấu

hiệu nên đã hình thành nên nhiều quan niệm khác nhau về tiền.

Các nhà kinh tế học thế kỷ XVI mà đại diện là Thomas-Men (1576-1641) đã

khẳng định: vàng, bạc là tiền tệ, là của cải xã hội chính thống. Trường phái này cho

rằng chỉ có kim loại quý mới thực hiện các chức năng của tiền tệ.

Đến đầu thế kỷ XVIII, khi các loại tiền dấu hiệu như tiền giấy, tiền tín dụng ra

đời nhưng vẫn thực hiện chức năng trao đổi và lưu thông hàng hoá thì các nhà kinh tế

lại đề cao tiền dấu hiệu. Họ cho rằng: tiền tệ chỉ là công cụ kỹ thuật để phục vụ cho

việc trao đổi hàng hoá thuận tiện, chỉ là đơn vị tính toán trừu tượng, nên bản thân tiền

tệ không cần có giá trị nội tại mà Nhà nước hoàn toàn có thể phát hành tiền giấy với

những dấu hiệu quy ước là có thể phục vụ cho trao đổi hàng hoá.

K.Marx (1818-1863) nghiên cứu nguồn gốc ra đời của tiền tệ qua sự phát triển

các hình thái giá trị và khẳng định tiền tệ có nguồn gốc từ hàng hoá. Ông cho rằng:

Tiền tệ là một hàng hoá đặc biệt tách ra khỏi thế giới hàng hoá đóng vai trò là vật

ngang giá chung để đo lường giá trị của tất cả các hàng hoá khác. Ông chỉ ra rằng vàng

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -4-

chỉ trở thành tiền tệ trong những điều kiện lịch sử nhất định. Trước khi trở thành tiền

tệ và sau khi được thừa nhận đóng vai trò là tiền tệ thì vàng vẫn giữ nguyên bản chất là

hàng hóa. Cho đến bây giờ, những quan điểm của K.Marx vẫn mang giá trị lý luận rất

lớn để chúng ta nghiên cứu về tiền.

Ngày nay, cùng với việc phát triển các phương tiện trao đổi, thanh toán, khi đề

cập đến tiền người ta không nhìn nó một cách giản đơn cho rằng tiền chỉ là kim loại

quý hay chỉ là tiền giấy. Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại (đại diện là

P.A Samuelson): "Bản chất của tiền tệ ngày nay đã được phơi bày rõ ràng, người ta

muốn có tiền tệ với danh nghĩa là tiền chứ không phải là hàng hoá, không phải vì bản

thân nó mà là vì những thứ mà có thể dùng nó để mua được". Như vậy, họ cho rằng,

tiền tệ là tất cả các phương tiện thanh toán có thể được chấp nhận làm trung gian trao

đổi và được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, trong điều kiện sản xuất và trao đổi phát

triển như hiện nay, tiền tệ không chỉ đơn thuần là phương tiện trao đổi mà có thể sử

dụng tiền để đầu tư, cho vay và tích luỹ, sở hữu.

Theo những phân tích trên, một định nghĩa về tiền được hiểu đầy đủ như sau:

Tiền tệ là tất cả các phương tiện có thể đóng vai trò trung gian trao đổi được pháp luật

thừa nhận và người sở hữu nó sử dụng để phục vụ cho những nhu cầu trong đời sống

kinh tế xã hội.

Bản chất của tiền được thể hiện rõ hơn thông qua các chức năng của nó.

3. Chức năng của tiền tệ

Theo K.Marx, vàng trong vai trò là vật ngang giá chung là hàng hoá tiền tệ và

ông đã nêu 5 chức năng của tiền tệ là:

- Chức năng thước đo giá trị

- Chức năng phương tiện lưu thông

- Chức năng phương tiện cất trữ

- Chức năng phương tiện thanh toán

- Chức năng tiền tệ thế giới

Ngày nay, chế độ lưu thông tiền kim loại đã nhường chỗ cho chế độ lưu thông

tiền giấy không chuyển đổi ra vàng, đặc biệt người ta đã hạn chế rất nhiều việc sử

dụng vàng trực tiếp làm phương tiện trao đổi ở phạm vi lưu thông hàng hoá trong nước

cũng như mậu dịch quốc tế. Mặc dù vàng vẫn được thừa nhận làm tiền tệ với đầy đủ 5

chức năng ban đầu. Nhưng với sự đa dạng về hình thức tiền tệ được sử dụng trong điều

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -5-

kiện kinh tế hiện nay, các nhà kinh tế học hiện đại đã xem xét các chức năng của tiền

tệ ở góc độ tổng quát hơn với 3 chức năng chủ yếu sau:

3.1. Chức năng phương tiện trao đổi

Đây là chức năng cơ bản đầu tiên của tiền tệ, nó phản ánh lý do tại sao tiền tệ

lại xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế hàng hoá.

Trong nền kinh tế trao đổi sản phẩm trực tiếp, người ta phải tiến hành đồng thời

hai giao dịch bán và mua trong cùng một thời điểm. Điều này thực hiện được trong

điều kiện có ít người tham gia trao đổi, người mua và người bán phù hợp về sản phẩm

trao đổi. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển, việc tìm kiếm nhu cầu phù hợp về sản

phẩm trao đổi là rất khó khăn và tốn kém quá nhiều chi phí. Vì vậy người ta cần sử

dụng tiền làm môi giới trung gian trong quá trình này, tức là trước hết người ta trao đổi

hàng hoá của mình lấy tiền sau đó dùng tiền mua thứ hàng hoá mình cần. Hình thức

trao đổi này có những tiến bộ sau đây:

Thứ nhất, quá trình trao đổi hàng hoá được tách thành hai giai đoạn riêng biệt là

bán và mua. Giai đoạn H-T là giai đoạn bán hàng, chuyển giá trị của hàng hoá thành

tiền. Đây là giai đoạn quan trọng và khó khăn nhất đối với nhà sản xuất kinh doanh, vì

sự chuyển hoá từ hình thái sản phẩm hàng hoá thành hình thái tiền tệ sẽ cho thấy lao

động của người sản xuất được xã hội thừa nhận, đó là vấn đề sống còn của doanh

nghiệp. Giai đoạn H-T là giai đoạn mua hàng, thông thường giai đoạn này được tiến

hành dễ dàng. Hai giai đoạn này được tiến hành độc lập tương đối với nhau, dẫn đến

phương tiện làm trung gian trao đổi lại trở thành mục tiêu trong các cuộc trao đổi và

được mọi người sùng bái. Chính sức mua đồng tiền quyết định điều này.

Thứ hai, hành vi mua và bán có thể tách rời về không gian và thời gian. Người

sản xuất hàng hoá có thể bán ở chỗ này và mua ở chỗ khác, bán lúc này và mua lúc

khác một cách chủ động và linh hoạt.

Như vậy, thực hiện chức năng phương tiện trao đổi, tiền tệ đã góp phần nâng

cao hiệu quả của nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch, đẩy nhanh tốc

độ lưu thông hàng hoá.

Để thực hiện chức năng phương tiện trao đổi tiền tệ phải có những điều kiện

nhất định:

Có thể sử dụng tiền dấu hiệu, mục đích của bán hàng không phải để trở thành

người sở hữu tiền tệ vĩnh viễn mà là để thực hiện việc mua bán hàng hoá, đạt đến một

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -6-

giá trị sử dụng mới. Tiền tệ lúc này chỉ là môi giới trung gian, không phải là mục đích

của trao đổi. Do đó, thực hiện chức năng phương tiện lưu thông có thể sử dụng tiền đủ

giá (tiền vàng) hoặc tiền dấu hiệu (tiền giấy và các dấu hiệu giá trị khác).

Lưu thông chỉ chấp nhận một lượng tiền nhất định, muốn tiền tệ thực hiện tốt

chức năng phương tiện lưu thông đòi hỏi hệ thống tiền tệ mỗi quốc gia phải sức mua

ổn định, số lượng tiền tệ để thực hiện các quan hệ trao đổi phải đủ liều lượng để đáp

ứng nhu cầu trao đổi của mọi hoạt động kinh tế. Điều này có nghĩa là lượng tiền đưa

vào lưu thông phải phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế, nếu yêu cầu này không thoã

mãn sẽ gây khó khăn cho sản xuất và lưu thông hàng hoá.

Ngày nay, khi nền sản xuất hàng hoá phát triển ở mức độ cao thì tiền mặt ít

được sử dụng mà thay vào đó là lưu thông các công cụ thanh toán - tín dụng của hệ

thống ngân hàng. Lưu thông các công cụ này đã đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá,

thúc đẩy sản xuất phát triển.

3.2. Chức năng thước đo giá trị

Chức năng này làm cho tiền tệ đã trở thành thước đo chung để biểu hiện và so

sánh giá trị tất cả hàng hoá, từ đó làm cho sản xuất và trao đổi được đơn giản hoá hơn

rất nhiều. Qua việc thực hiện chức năng này, giá trị của hàng hoá, dịch vụ được biểu

hiện ra bằng tiền và có thể so sánh với nhau, nhờ đó mà việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ

được diễn ra thuận lợi.

Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị, giá trị của tiền tệ được coi là "chuẩn

mực"để giá trị của tất cả hàng hoá khác phải so sánh với nó. Thông qua quan hệ này,

các hàng hoá biểu hiện giá trị của mình thành những lượng có cùng tên, giống nhau về

chất và có thể so sánh được với nhau về lượng, đó là giá cả.

Trong nền kinh tế thị trường, thước đo giá trị của tiền tệ cho phép các nhà kinh

doanh đánh giá được khoản thu nhập của mình bằng tiền để có các quyết định tiếp theo

liên quan đến hoạt động kinh doanh. Đối với người tiêu dùng thì dễ dàng so sánh, lựa

chọn các hàng hoá có giá cả phù hợp. Đó cũng là tín hiệu để nhà kinh doanh điều

chỉnh lại hoạt động của mình nhằm tìm kiếm thêm thu nhập trên thị trường.

Hơn nữa, nhờ có chức năng thước đo giá trị, tiền tệ đã giúp cho việc định lượng

và đánh giá các chỉ tiêu như GNP, GDP, thu nhập, thuế, chi phí sản xuất...một cách dễ

dàng.

3.3. Chức năng phương tiện tích luỹ giá trị

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -7-

Tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện tích luỹ giá trị khi tiền tệ tạm thời rút

khỏi lưu thông và trở về trạng thái tĩnh, chuẩn bị cho nhu cầu tiêu dùng trong tương

lai.

Khi tiền tệ chưa xuất hiện, người ta thường tích luỹ dưới dạng hiện vật. Hình

thức này không tiện lợi vì phải có chỗ rộng rãi, phải tốn chi phí bảo quản, dễ hư hỏng,

khó lưu động và ít sinh lời. Ở chế độ lưu thông tiền kim loại, người ta có quan niệm

tích luỹ tiền tệ (tiền đúc bằng kim loại quý) như một dạng của cải xã hội.

Trong điều kiện nền kinh tế phát triển, khi các doanh nghiệp muốn đầu tư mở

rộng sản xuất kinh doanh, khi tầng lớp dân cư có nhu cầu mua sắm những hàng hoá,

tài sản có giá trị cao người ta thường tích luỹ dưới dạng tiền giấy hoặc số dư trên tài

khoản tiền gửi ở ngân hàng. Trong thực tế, việc cất trữ có thể thực hiện bằng nhiều

phương tiện khác như cổ phiếu, đất đai, nhà cửa...đặc biệt trong điều kiện lạm phát,

việc cất giữ các phương tiện trên có thể đề phòng sự giảm sức mua của đồng tiền.

Song khi thực hiện chức năng này thì dự trữ tiền đã tạo một khả năng có thể chuyển

đổi một cách nhanh chóng ra các tài sản khác. Vì vậy, việc lựa chọn phương tiện nào

để dự trữ còn tuỳ thuộc vào việc sử dụng nó trong ngắn hạn hay dài hạn và chi phí để

chuyển đổi từ phương tiện đó sang hàng hoá theo nhu cầu của người sở hữu.

Ngày nay, việc dự trữ giá trị có thể được thực hiện bằng nhiều phương tiện khác

nhau và các phương tiện chuyển tải giá trị phải thoả mãn các điều kiện sau:

- Giá trị dự trữ phải được thể hiện bằng những phương tiện hiện thực

- Giá trị dự trữ phải bằng những phương tiện được xã hội thừa nhận

- Giá trị dự trữ phải có thời hạn

II. CHẾ ĐỘ LƯU THÔNG TIỀN TỆ

1. Khái niệm chế độ lưu thông tiền tệ

Lưu thông tiền tệ là sự vận động của tổng giá trị tiền tệ so với tổng giá cả hàng

hoá trong từng kỳ. Chế độ lưu thông tiền tệ là tổng hợp các quy định mang tính pháp

luật có liên quan đến hình thức tổ chức lưu thông tiền tệ của mỗi nước nhằm đưa các

nhân tố khác nhau của lưu thông tiền tệ đạt đến sự thống nhất.

Sự phát triển của chế độ lưu thông tiền tệ không những tuỳ thuộc vào sự phát

triển kinh tế của mỗi quốc gia mà còn được quyết định bởi trình độ tổ chức của Nhà

nước. Tuy nhiên cần lưu ý rằng chế độ lưu thông tiền tệ mà Nhà nước ban hành không

phải là vấn đề đơn thuần về mặt luật pháp hay xuất phát từ ý thức chủ quan của Nhà

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -8-

nước, mà để phát huy tác dụng tích cực của chế độ tiền tệ trong đời sống kinh tế xã

hội. Vì thế, khi xây dựng chế độ tiền tệ phải bắt nguồn từ sự tồn tại các quan hệ kinh

tế.

2. Các chế độ lưu thông tiền tệ

2.1. Chế độ lưu thông tiền kim loại

Chế độ lưu thông tiền kim loại ứng với thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản

tự do cạnh tranh trở về trước.

2.1.1. Chế độ đơn bản vị

Đơn bản vị là chế độ tiền tệ lấy 1 thứ kim loại làm vật ngang giá chung. Vật

ngang giá chung là vật liệu đúc tiền có thể là đồng, kẽm, bạc hoặc vàng.

- Nếu chế độ đơn bản vị với kẽm hoặc đồng làm bản vị và trở thành tiền đúc,

gọi là chế độ lưu thông tiền kém giá. Nó phản ánh đặc trưng của nền kinh tế hàng hoá

kém phát triển.

- Nếu chế độ đơn bản vị với vật ngang giá là bạc hoặc vàng và sự xuất hiện của

tiền đúc bằng bạc hoặc vàng người ta gọi là chế độ lưu thông tiền đủ giá.

2.1.2. Chế độ song bản vị

Chế độ song bản vị là chế độ tiền tệ mà vàng và bạc đều được sử dụng với tư

cách là tiền tệ. Vàng và bạc đều là vật ngang giá, đều thực hiện chức năng thước đo giá

trị và phương tiện lưu thông với quyền lực ngang nhau.

Trong chế độ song bản vị có phân biệt 2 loại bản vị:

- Bản vị song song: là bản vị mà theo đó tiền vàng và tiền bạc lưu thông trên thị

trường theo giá trị thực tế của nó, nhà nước không can thiệp. Từ đó xuất hiện 2 thước

đo giá trị và trong 1 nước có 2 hệ thống giá cả: hệ thống giá cả theo vàng và hệ thống

giá cả theo bạc. Hai hệ thống này luôn thay đổi.

- Bản vị kép: là song bản vị nhưng tiền vàng và tiền bạc lưu thông trên thị

trường theo tỷ giá được nhà nước quy định (tỷ giá pháp định). Việc quy định tỷ giá

nhằm khắc phục những rối loạn của chế độ bản vị song song. Tuy nhiên, chính tỷ giá

pháp định lại sinh ra một rối loạn khác trong lưu thông tiền tệ: hiện tượng tiền xấu

đuổi tiền tốt ra khỏi lưu thông. Vì vậy, tiền vàng biến khỏi lưu thông và trở thành

thước đo giá trị, còn tiền bạc thì tràn đầy trong lưu thông. Đến giai đoạn này, chế độ

song bản vị không còn tồn tại nữa mà chuyển sang chế độ bản vị vàng.

2.1.3. Chế độ bản vị vàng

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -9-

Là chế độ tiền tệ điển hình của chủ nghĩa tư bản. Trong chế độ này, 1 lượng

vàng nhất định được nhà nước quy định làm tiêu chuẩn giá cả.

Chế độ bản vị vàng có 3 đặc điểm:

- Tiền vàng được đúc tự do theo tiêu chuẩn giá cả mà Nhà nước quy định và

được thanh toán không hạn chế.

- Tiền giấy được tự do đổi lấy tiền vàng theo giá trị danh nghĩa của tiền giấy

nghĩa là đổi ngang giá. Từ đó sức mua của tiền giấy sẽ ổn định, đây là điều kiện quan

trọng hàng đầu để ổn định và thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

- Vàng được tự do luân chuyển giữa các nước, mọi người được tự do xuất nhập

khẩu vàng.

Với những đặc điểm trên, cho thấy bản vị vàng là chế độ tiền tệ ổn định không

những là chế độ tiền tệ quốc gia mà còn là chế độ tiền tệ quốc tế thống nhất.

2.2. Chế độ lưu thông tiền dấu hiệu

Chế độ lưu thông tiền dấu hiệu (tiền giấy) là đặc trưng cơ bản của lưu thông

tiền tệ trong giai đoạn phát triển sau này của CNTB. Tuy nhiên, trong thời kỳ phong

kiến, tiền giấy đã xuất hiện sớm ở Trung Quốc (TK VII).

Trong thời kỳ phong kiến, tiền giấy ra đời từ lý do là nó tạo ra thu nhập do việc

in tiền và phát hành tiền cho các Nhà nước phong kiến, ngoài ra do các đế chế cần tập

trung kim loại để chế tạo súng, đạn. khí giới...đó cũng là nguyên nhân khiến tiền giấy

ra đời.

Đến giai đoạn phát triển của CNTB, lực lượng sản xuất phát triển nhanh nên

làm nảy sinh sự khan hiếm tiền kim loại, mặt khác việc sử dụng tiền đúc trong lưu

thông cũng có nhiều trở ngại vì nó bị hao mòn, bị biến chất. Và khi hệ thống ngân

hàng phát triển thì càng tạo điều kiện cho sự ra đời của các công cụ lưu thông tín dụng.

Vậy nguyên nhân ra đời của tiền dấu hiệu là xuất phát từ những đòi hỏi thực tế

về lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ dưới tác động của hệ thống ngân hàng.

Sử dụng tiền dấu hiệu trong chế độ lưu thông tiền tệ có 2 tác dụng lớn:

- Giải quyết được tình trạng thiếu phương tiện trao đổi phát sinh từ chế độ lưu

thông tiền kim loại.

- Tiết kiệm nhiều chi phí cho xã hội.

Tóm lại, tiền dấu hiệu là những phương tiện có thể thay thế được cho vàng

trong chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán.

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -10-

Có 2 chế độ lưu thông tiền giấy:

- Chế độ lưu thông tiền giấy khả hoán: Đây là loại tiền giấy được chuyển đổi ra

vàng 1 cách tự do và không hạn chế số lượng.

- Chế độ lưu thông tiền giấy bất khả hoán: Là tiền giấy không chuyển đổi được

ra vàng.

III. QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ

1. Tính chất của quy luật

Quy luật lưu thông tiền tệ do K.Marx nghiên cứu và phát hiện, làm nền tảng lý

luận trong nghiên cứu tiền tệ ngày nay và trong điều hành chính sách tiền tệ. Theo

ông, trong lưu thông, sự vận động của hàng hoá và sự vận động của tiền tệ giữ những

vai trò khác nhau hoàn toàn.

Hàng hoá vận động để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của xã hội và con người.

Sự vận động đó là tương đối bất biến từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực tiêu dùng. Còn

tiền tệ vận động là để phục vụ cho sự vận động của sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Vì

vậy, nó luôn luôn vận động và tồn tại mãi trong lưu thông để phục vụ cho sự luân

chuyển của sản phẩm xã hội.

Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật kinh tế phổ biến, hoạt động trong bất kỳ

một nền kinh tế, xã hội nào nếu ở đó còn tồn tại kinh tế hàng hoá, tồn tại tiền tệ và lưu

thông tiền tệ.

2. Nội dung của quy luật

Có thể nói, quy luật lưu thông tiền tệ chứa đựng 2 nội dung cơ bản:

Thứ nhất, phản ánh mối quan hệ có tính quy luật giữa quy luật lưu thông hàng

hoá với tiền tệ và lưu thông tiền tệ. Trong đó sản xuất lưu thông hàng hoá bao giờ

cũng vai trò cơ sở, quyết định còn tiền tệ và lưu thông tiền tệ có tác động ngược trở lại

đối với sản xuất lưu thông hàng hoá.

Trong nền kinh tế thị trường phát triển sự vận động của hàng hoá và sự vận

động của tiền tệ xoắt xuýt với nhau nhưng lưu thông hàng hoá bao giờ cũng giữ vai trò

cơ sở cho lưu thông tiền tệ. K.Marx nói: "Sự vận động mà lưu thông hàng hoá buộc

lưu thông tiền tệ phải theo, làm cho tiền tệ luôn luôn xa rời điểm xuất phát của nó để

luôn luôn chuyển từ tay người này sang tay người khác: Đó là cái mà người ta gọi là

Lưu thông tiền tệ".

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -11-

Lưu thông tiền tệ diễn ra một cách có quy luật. Quy luật đó bắt nguồn từ chỗ

lưu thông hàng hoá là cơ sở lưu thông tiền tệ và lưu thông hàng hoá chỉ thu hút một

khối lượng tiền tệ nhất định. Như vậy lưu thông tiền tệ, không chỉ là quy luật xác định

khối lượng lưu thông tiền tệ cần thiết cho lưu thông, mà nó còn chỉ rõ mối quan hệ có

tính quy luật giữa các yếu tố số lượng hàng hoá dịch vụ, mức giá cả, số lượng tiền tệ

và tốcđộ lưu thông tiền tệ.

Thứ hai: Đưa ra công thức cơ bản, công thức tổng quát để xác định nhu cầu tiền

tệ cho nền kinh tế (khối lượng tiền tệ cần thiết cho nền kinh tế) và đi đến kết luận có ý

nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn:

- Nhu cầu tiền tệ tăng giảm tỷ lệ thuận với tốc độ tăng trưởng kinh tế - nghĩa là

sản xuất, lưu thông hàng hoá gia tăng thì nhất định làm tăng nhu cầu tiền tệ của nền

kinh tế.

- Nhu cầu tiền tệ tăng giảm tỷ lệ nghịch với tốc độ lưu thông tiền tệ (Velocity of

Money).

K.Marx viết: Như vậy tổng số lượng tiền hoạt động với tư cách là phương tiện

lưu thông trong mỗi một khoảng thời gian nhất định, một mặt được quyết định bởi

tổng số giá cả của thế giới hàng hoá đang lưu thông và mặt khác bởi tốc độ nhanh hay

chậm của những quá trình ngược nhau của lưu thông hàng hoá, tuỳ theo tốc độ này mà

một bộ phận lớn hay nhỏ trong tổng số giá cả có thể được thực hiện với cùng một đồng

tiền.

K.Marx cho rằng lưu thông tiền tệ là: "quy luật theo đó số lượng các phương

tiện lưu thông được quyết định bởi tổng số giá cả các hàng hoá đang lưu thông và tốc

độ lưu thông trung bình của tiền" Quy luật ấy còn có thể diễn đạt như sau: Với một

tổng số giá trị hàng hoá nhất định và với một tốc độ trung bình nhất định của những sự

biến đổi hình thái của các hàng hoá, thì số lượng tiền hay vật liệu tiền đang lưu thông

sẽ phụ thuộc vào bản thân của giá trị vật liệu này. Từ quy luật trên, có thể rút ra những

kết luận quan trọng sau đây:

Một là: Số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông (nhu cầu tiền tệ) được quyết

định bởi 3 yếu tố:

- Tổng số lượng hàng hoá dịch vụ;

- Mức giá cả;

- Tốc độ lưu thông tiền tệ

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -12-

Trong đó nhu cầu tiền tệ biến đổii tỷ lệ thuận với hai yêú tố đầu và tỷ lệ nghịch

với yếu tố thứ ba.

Hai là, số lượng tiền tệ trong lưu thông có ảnh hưởng ngược trở lại với mức giá

cả hàng hoá.

Từ sự phân tích nói trên, nội dung của quy luật lưu thông tiền tệ cho rằng khối

lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian nhất định phụ thuộc vào tổng

giá cả của hàng hoá được sản xuất đưa vào lưu thông và tốc độ lưu thông tiền tệ trong

thời gian đó.

Công thức: Mc =

V

H =

V

Σ PxQ

Trong đó: Mc: Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông

H: Tổng giá cả hành cần được thực hiện

P: Giá cả hàng hoá

Q: Khối lượng hàng hoá đưa vào lưu thông

V: Tốc độ lưu thông của tiền tệ

3. Ý nghĩa của quy luật

Nghiên cứu quy luật lưu thông tiền tệ của K.Marx cũng như tiếp thu có chọn

lọc những học thuyết tiền tệ của các nhà kinh tế học nổi tiếng một cách đúng đắn và có

cơ sở khoa học về phạm trù kinh tế tiền tệ nói riêng và nền kinh tế tiền tệ nói chung

giúp việc hoạch định và thực hiện chính sách tiền tệ hợp lý. Qua đó, đảm bảo cung cấp

đầy đủ các phương tiện cho nền kinh tế nhờ đó mà thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

IV. CUNG CẦU TIỀN TỆ

1. Cầu tiền tệ

1.1. Khái niệm cầu tiền tệ

Cầu tiền tệ là số lượng tiền tệ mà dân chúng, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội

và các cơ quan Nhà nước cần nắm giữ để thoả mãn các nhu cầu giao dịch, dự phòng và

tích luỹ.

1.2. Thành phần và các nhân tố ảnh hưởng mức cầu tiền tệ

* Mức cầu giao dịch

Là nhu cầu tiền tệ với tư cách là phương tiện trao đổi nhằm phục vụ cho nhu

cầu giao dịch hàng ngày của các chủ thể trong xã hội như mua hàng, trả công, trả

lương, thanh toán nợ...Mức cầu giao dịch chịu tác động bởi 3 nhân tố cơ bản:

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -13-

- Chi phí giao dịch liên quan đến việc mua bán các tài sản sinh lời khi cần thiết.

Chi phí này càng cao mức cầu tiền giao dịch càng lớn.

- Mức lãi suất ròng (chi phí cơ hội) phải trả khi nắm giữ tiền. Nếu chi phí cơ hội

của việc nắm giữ tiền tăng lên thì mức cầu tiền giao dịch giảm.

- Mức thu nhập. Nhu cầu chi tiêu tăng lên cùng với sự tăng lên của thu nhập

định kỳ.

* Mức cầu tiền dự phòng

Là nhu cầu tiền nhằm đáp ứng các khoản chi tiêu không dự tính trước được khi

có các nhu cầu đột xuất như ốm đau, hỏng xe, tai nạn hoặc giá cả tăng...Mức cầu tiền

dự phòng chịu tác động của các nhân tố như:

- Tính lỏng của các tài sản tài chính. Nếu các tài sản tài chính được nắm giữ với

tính lỏng cao thì nhu cầu tiền dự phòng giảm xuống và ngược lại.

- Sự biến động của các chính sách vĩ mô, môi trường kinh tế, thất nghiệp..cũng

ảnh hưởng đến nhu cầu tiền dự phòng.

* Mức cầu tiền đầu tư

Là lượng tiền cần nắm giữ nhằm quản lý tài sản một cách linh hoạt và có hiệu

quả trên cả hai góc độ: tối đa hoá lợi nhuận và an toàn.

Nhu cầu về tiền tệ để phục vụ cho nhu cầu đầu tư phụ thuộc vào 2 nhân tố quan

trọng là:

- Lãi suất tín dụng ngân hàng.

- Mức lợi nhuận từ hoạt động đầu tư

2. Cung tiền tệ

2.1. Khái niệm cung tiền tệ

Cung tiền tệ là việc tạo ra và đưa vào lưu thông tổng phương tiện đóng vai trò

tiền để đáp ứng nhu cầu sử dụng tiền trong nền kinh tế.

Khối lượng tiền trong nền kinh tế được cung ứng từ những tác nhân sau:

- Ngân hàng Trung ương

- Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng

- Các tổ chức tài chính phi ngân hàng

2.2. Các nhân tố ảnh hưởng mức cung tiền

Cung tiền tệ trong nền kinh tế do ngân hàng Trung ương quyết định thông qua

chính sách tiền tệ. Khi ngân hàng Trung ương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt thì

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -14-

mức cung tiền giảm và ngược lại. Các yếu tố làm cơ sở để ngân hàng Trung ương

quyết định đến chính sách tiền tệ của mình là:

- Chỉ số trượt giá và tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia trong từng thời kỳ

- Mức độ thâm hụt ngân sách Nhà nước

- Mức độ thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế

2.3. Các khối tiền trong lưu thông

Thành phần mức cung tiền tệ thay đổi thường xuyên từ giai đoạn này sang giai

đoạn khác và khác nhau giữa các nước. Một cách chung nhất, thành phần mức cung

tiền tệ có thể được trình bày khái quát như sau:

* Khối M1 bao gồm:

- Tiền mặt trong lưu thông

- Tiền gửi không kỳ hạn

Đây là một bộ phận tiền tệ có tính lỏng cao nhất và sử dụng chủ yếu cho nhu

cầu giao dịch hàng ngày. Kết cấu M1 gần như giống nhau giữa các nước (trừ trường

hợp ở Mỹ, M1 còn bao gồm séc du lịch). Sự khác nhau bắt đầu được thể hiện trong kết

cấu của khối tiền M2 trở đi và khối tiền càng rộng thì tính lỏng càng giảm.

* Khối M2 bao gồm:

- M1

- Tiền gửi tiết kiệm (tiền gửi có kỳ hạn)

So sánh tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi không kỳ hạn cho thấy tính thanh khoản

của hai loại tài sản này là khác nhau, người gửi tiền phải trả chi phí tài chính hoặc chi

phí thời gian cho tiền gửi tiết kiệm trong trường hợp rút tiền trước hạn, do vậy, tính

thanh khoản của tiền gửi tiết kiệm là thấp hơn tiền gửi không kỳ hạn.

- Hợp đồng tín dụng ngắn hạn

* Khối M3 bao gồm:

- M2

- Một số khoản tín dụng ngắn hạn có khả năng chuyển đổi

- Một số chứng khoán nợ như tín phiếu Kho bạc, trái phiếu chính phủ...

* Khối M4 bao gồm:

- M3

- Giấy chứng nhận sở hữu bất động sản

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -15-

Chương II

LẠM PHÁT TIỀN TỆ

I. KHÁI NIỆM VÀ ĐO LƯỜNG LẠM PHÁT

1. Khái niệm lạm phát

Một trong những vấn đề hóc búa nhất mà các xã hội phải đối mặt trong quá

trình chuyển từ một nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường là lạm phát. Tuy

nhiên, đó là thách thức mà các xã hội đó phải vượt qua nếu muốn hưởng những lợi ích

vật chất mà nền kinh tế thị trường có thể mang lại.

Có nhiều quan điểm nhìn nhận và định nghĩa lạm phát rất khác nhau:

- Có quan điểm cho rằng lạm phát là sự tăng lên liên tục của giá cả, nói cách

khác đó là tình trạng mức giá cả tăng và tăng liên tục.

- Quan điểm khác cho rằng lạm phát là việc phát hành tiền giấy vượt quá mức

đảm bảo bằng vàng, bạc, ngoại tệ ...của quốc gia, vì vậy gây ra sự mất giá của tiền

giấy làm cho giá cả hàng hoá bị đẩy lên cao.

- Lại có quan điểm cho rằng lạm phát là sự mất cân đối nghiêm trọng giữa tiền

và hàng trong nền kinh tế, sự mất cân đối khiến cho giá cả tăng lên nhanh ở mọi lúc

mọi nơi.

Từ những quan điểm trên có thể đưa ra một khái niệm về lạm phát như sau:

Lạm phát là hiện tượng kinh tế khi trong lĩnh vực lưu thông tràn ngập khối

lượng tiền thừa, làm cho tiền tệ ngày càng bị mất giá so với toàn bộ sản phẩm, hàng

hóa, vàng, ngoại tệ và được đo lường bằng chỉ số giá cả tổng quát ngày càng tăng.

2. Đo lường lạm phát

Vì sự thay đổi giá cả hàng hoá và dịch vụ không đều nhau, có mặt hàng tăng giá

nhanh, một số khác tăng chậm thậm chí có mặt hàng giảm giá, nên để đo lường lạm

phát có thể đo lường qua các chỉ số sau:

2.1. Chỉ số giá tiêu dùng xã hội (CPI) (Consumer Price Index): (CPI là chỉ số

được sử dụng một cách phổ biến trong việc đánh giá mức độ lạm phát)

CPI đo lường mức giá bình quân của một nhóm hàng hoá và dịch vụ cần cho

tiêu dùng của các hộ gia đình trong một giai đoạn nhất định. Người ta thường chọn

một rổ hàng tiêu dùng có chia các nhóm: áo quần, nhà cửa, chất đốt, vận tải, y tế...và

xác định mức độ quan trọng của từng nhóm hàng trong tổng chi tiêu để làm căn cứ

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -16-

tính chỉ số giá bình quân. Vào đầu kỳ tính CPI thì các số liệu về giá cả hàng hoá, dịch

vụ cần thiết được thu thập và sau đó chỉ số CPI được tính bằng cách so sánh giá trị

hiện tại và giá trị gốc của rổ hàng hoá, dịch vụ được lựa chọn.

Ở Việt Nam, CPI được tính cho toàn quốc và cho từng địa phương, chỉ số giá

bình quân được thông báo hàng tháng, hàng quý và hàng năm. Hiện nay để tính CPI,

một rổ hàng hoá được lựa chọn bao gồm 400 mặt hàng được phân thành 138 nhóm cấp

4, 86 nhóm cấp 3, 35 nhóm cấp 2 và 10 nhóm cấp 1. Quyền số gốc để tính mức giá

bình quân là cơ cấu chi tiêu hộ gia đình theo kết quả điều tra kinh tế hộ gia đình năm

2000.

Trên cơ sở xác định được chỉ số giá tiêu dùng bình quân, tỷ lệ lạm phát phản

ánh sự thay đổi mức giá bình quân của giai đoạn này so với giai đoạn trước và được

tính theo công thức sau:

Mức giá năm hiện tại - Mức giá năm trước

Tỷ lệ lạm phát =

Mức giá năm trước

x 100

2.2. Chỉ số giá cả sản xuất PPI (Producer Price Index). Đây là chỉ số giá

thành sản xuất của một số mặt hàng và dịch vụ tiêu biểu. Ở Mỹ người ta sử dụng giá

của 3.400 loại hàng hoá để tính PPI. Chỉ số này thường được các doanh nghiệp sử

dụng, cách tính của PPI hoàn toàn giống như cách tính của CPI.

II. PHÂN LOẠI LẠM PHÁT

Tùy theo tiêu thức dùng để phân loại lạm phát mà có các loại lạm phát khác

nhau. Thông thường người ta phân loại lạm phát trên cơ sở định lượng và định tính.

1.Về mặt định lượng

Đó là dựa trên tỷ lệ phần trăm lạm phát được tính trong năm, phân theo cách

này thì lạm phát có các loại sau:

- Lạm phát vừa phải: là loại lạm phát ở mức một con số (dưới 10%/năm). Loại

lạm phát này được xem là là tích cực và cần thiết vì nó có khả năng tạo điều kiện thúc

đẩy phát triển kinh tế.

- Lạm phát phi mã: là loại lạm phát ở mức hai đến ba con số, từ 10%, 100%,

900% ... một năm. Loại lạm phát này tác động tiêu cực đến nền kinh tế, với những hậu

quả cực kỳ khó khăn cho đời sống kinh tế, xã hội, chính trị trong nước.

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -17-

- Siêu lạm phát: là loại lạm phát 4 con số, từ 1000 % trở lên. Đây thực sự là một

giai đoạn cực kỳ hỗn loạn, bất ổn định kinh tế xã hội và đời sống nhân dân.

2. Về mặt định tính

- Lạm phát thuần túy: đây là trường hợp đặc biệt của lạm phát, hầu như giá cả

của mọi loại hàng hóa đều tăng lên cùng một tỷ lệ trong cùng một đơn vị thời gian.

- Lạm phát cân bằng: là loại lạm phát có mức giá chung tăng tương ứng với

mức tăng thu nhập.

- Lạm phát được dự đoán trước: là lạm phát mà mọi người có thể dự đoán trước

nhờ vào sự diễn tiến liên tục theo chuỗi thời gian trong nhiều năm.

- Lạm phát không được dự đoán trước: là lạm phát xảy ra bất ngờ, ngoài sự tiên

liệu của mọi người về quy mô, cường độ cũng như mức độ tác động.

- Lạm phát cao và lạm phát thấp: theo quan điểm của Gary Smith thì lạm phát

cao là mức lạm phát mà tỷ lệ tăng thu nhập tăng thấp hơn tỷ lệ lạm phát. Ngược lại

lạm phát thấp là mức tăng thu nhập tăng tăng cao hơn mức độ tăng của tỷ lệ lạm phát.

III. NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ CỦA LẠM PHÁT

1. Nguyên nhân của lạm phát

Có nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến lạm phát và mỗi loại lạm phát được xuất

phát từ những nguyên nhân khác nhau. Các nguyên nhân này có thể xuất phát từ phía

tổng cầu trong nền kinh tế, cũng có thể là các nguyên nhân xuất phát từ phía cung, và

cũng có thể chúng xuất hiện đồng thời có cả phía cung lẫn phía cầu. Trong khi quan

sát thực tế có thể nhận thấy rằng, trong môi trường đang có lạm phát thì bản thân môi

trường đó nó cũng có khả năng và là nguyên nhân thúc đẩy hoặc tiếp tục gây ra một

chu trình lạm phát mới, tức là tạo sự lẫn quẩn trong vòng xoáy lạm phát. Dù có sự

khác nhau, nhưng tựu trung lại thì những nguyên nhân của lạm phát có thể được xếp

vào các nhóm chủ yếu sau:

1.1. Lạm phát do cầu kéo (Demand pull inflation)

Nguyên nhân này xảy ra khi tổng cầu trong nền kinh tế cao hơn tổng cung

trong cùng thời điểm đó. Trường hợp này xuất hiện có thể là do tổng cầu tăng nhưng

tổng cung không đổi, hoặc tổng cung cũng tăng nhưng tăng không bằng tổng cầu.

- Khi tổng cầu tăng như vậy tức là có nhiều người muốn mua và sẵn sàng mua

hàng hóa, trong khi đó lượng cung không tăng hoặc tăng ít hơn, thì đương nhiên trên

thị trường sẽ xảy ra tình trạng thiếu hụt hàng hóa, theo quy luật cung cầu thì trong

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -18-

trường hợp này giá cả thị trường tăng lên là điều tất yếu. Như vậy đã xuất hiện lạm

phát.

- Tổng cầu trong nền kinh tế bao gồm chi tiêu của hộ gia đình-C, chi tiêu của

Chính phủ-G, đầu tư trong nền kinh tế-I, nhu cầu hàng hóa cho xuất khẩu-X, lượng

hàng hóa nhập khẩu-M, (hàng hóa nhập khẩu làm phong phú thêm hàng hóa trong

nước làm giảm căng thẳng của tổng cầu nên được biểu diễn bằng dấu âm (-) trong biểu

thức cộng các yếu tố của tổng cầu).

Nếu gọi tổng cầu là AD thì: AD = C + I + G + X - M.

Tổng cầu tăng có thể do một hoặc một số các yếu trong vế bên phải của biểu

thức tăng lên:

+ Các hộ gia đình tăng chi tiêu do thu nhập tăng, hoặc được Chính phủ giảm

thuế, hoặc cảm thấy các chế độ an sinh xã hội hay bảo hiểm tốt nên quyết định cắt

giảm tiết kiệm để chi tiêu, hoặc được Chính phủ tăng trợ cấp.

+ Chính phủ tăng các khoản chi tiêu cho an ninh quốc phòng, tăng các khoản

đầu tư của Chính phủ, cũng làm tăng tổng cầu.

+ Các doanh nghiệp tăng đầu tư do xuất hiện nhiều cơ hội kinh doanh hấp dẫn.

+ Kim ngạch XNK thay đổi theo hướng chênh lệch (X-M) ngày càng tăng do đồng nội

tệ mất giá so với ngoại tệ, do chất lượng sản phẩm ngày càng tốt hơn nên bán được

nhiều hơn, do công tác quảng cáo giới thiệu tốt hơn.

+ Ngân hàng Trung ương thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ, làm lãi suất

giảm, các doanh nghiệp vay tiền đầu tư nhiều hơn, bên cạnh đó dân chúng hạn chế gửi

tiền vào ngân hàng mà rút ra mua hàng hóa hay đầu tư vào chứng khoán, cũng tạo điều

kiện cho các doanh nghiệp mở rộng đầu tư.

Đó là một số nhân tố gây lạm phát xuất phát từ phía tổng cầu trong nền kinh tế,

tiếp theo chúng ta sẽ bàn đến lạm phát do chi phí đẩy.

1.2. Lạm phát do chi phí đẩy (Cost push inflation)

Lạm phát loại này xuất hiện khi chi phí đầu vào cho sản xuất tăng hoặc năng

lực sản xuất của nền kinh tế giảm sút.

Chi phí đầu vào tăng có thể do giá các nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất

tăng. Điều kiện khai thác khó khăn hơn đòi hỏi nhiều chi phí hơn, thiên tai làm mất

mùa, lụt bão, động đất làm giảm năng lực sản xuất, khủng hoảng ngành dầu mỏ do các

liên minh dầu mỏ tăng giá hoặc chiến tranh làm tăng giá. Khi giá dầu tăng làm tăng chi

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -19-

phí trong ngành năng lượng, từ đó làm tăng chi phí đầu vào trong các ngành khác. Các

chi phí sản xuất tăng làm tăng giá thành sản phẩm và buộc doanh nghiệp tăng giá bán

để bù đắp chi phí. Giá bán của các hàng hoá tăng - tạo lạm phát. Nhưng mặt khác giá

bán tăng kéo dài, theo quy luật cung cầu sẽ làm tổng cầu giảm xuống, các doanh

nghiệp sẽ cắt giảm sản xuất, sa thải công nhân. Hậu quả dẫn đến cho nền kinh tế lúc

này là vừa có lạm phát lại vừa bị suy thoái.

Nếu lạm phát do cầu kéo ở mức vừa phải là một điều kiện rất tốt cho nền kinh

tế, nó sẽ kích thích đầu tư mở rộng sản xuất, người ta còn ví nó như một chất dầu mở

dùng để bôi trơn cho bộ máy kinh tế. Nhưng lạm phát chi phí đẩy thì dù bất kỳ mức độ

nào cũng đều không tốt, vì bản thân nó đã mang trong mình sự suy thoái kinh tế. Cùng

một hiện tượng là lạm phát, nhưng bản chất và nguyên nhân khác nhau nên tác động

của chúng là khác nhau.

1.3. Lạm phát do những nguyên nhân liên quan đến sự thiếu hụt mức cung

Khi nền kinh tế đạt đến mức toàn dụng, nghĩa là các yếu tố sản xuất: công nhân,

nguyên vật liệu, máy móc thiết bị...gần như được khai thác tối ưu. Khi đó, mức cung

hàng hoá và dịch vụ trên thị trường có khuynh hướng giảm dần. Bên cạnh đó, tình

trạng tắc nghẽn của thị trường cũng làm giới hạn mức cung hàng hóa. Đó là tình trạng

mất cân đối các yếu tố sản xuất giữa các khu vực nhưng thị trường lại không tạo ra cơ

chế điều phối có hiệu quả, khiến cho khối lượng hàng hóa không đáp ứng tốt nhu cầu

tăng lên của thị trường. Hàng hóa khan hiếm làm cho giá cả tăng lên, đó là hậu quả tất

yếu. Cũng cần lưu ý rằng, ngay lúc nền kinh tế chưa đạt mức toàn dụng nhưng nếu cơ

cấu kinh tế tổ chức bất hợp lý thì cũng không cho phép tạo ra một khối lượng hàng hóa

và dịch vụ đầy đủ để thoả mãn nhu cầu ngày càng gia tăng của thị trường. Trường hợp

này cũng làm nảy sinh hiện tượng lạm phát.

1.4. Một số nguyên nhân khác

- Những nguyên nhân chủ quan có liên quan đến chính sách quản lý kinh tế của

Nhà nước: chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách tiền tệ và tài chính... của Nhà nước

không phù hợp làm cho nền kinh tế quốc dân bị mất cân đối, kinh tế tăng trưởng chậm

ảnh hưởng đến nền tài chính quốc gia. Một khi Ngân sách Nhà nước bị thâm hụt thì

điều tất yếu là Nhà nước phải tăng chỉ số phát hành tiền. Đặc biệt đối với một số quốc

gia, trong những điều kiện nhất định, Nhà nước chủ trương dùng lạm phát như là một

công cụ để thực hiện chính sách phát triển kinh tế.

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -20-

- Những nguyên nhân khách quan đưa đến như thiên tai, chiến tranh, tình hình

biến động của thị trường nguyên vật liệu, nhiên liệu trên thế giới...

- Những nguyên nhân khác liên quan đến nội tại của đất nước như: chiến tranh,

nội chiến, khủng hoảng chính trị làm cho đồng tiền không còn giữ được chức năng

thước đo giá trị.

2. Hậu quả của lạm phát

Tác động kinh tế - xã hội của lạm phát rất khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ lạm

phát, khả năng dự đoán chính xác sự biến động của mức lạm phát. Khi giá cả có xu

hướng tăng lên từ thời gian này qua thời gian khác, mọi người đều nhận thức được

thực tế đó và cố gắng dự đoán tỷ lệ lạm phát trong thời gian tới. Tỷ lệ mà mọi người

dự đoán rằng lạm phát sẽ đạt tới gọi là tỷ lệ lạm phát dự tính hoặc tỷ lệ lạm phát được

trông đợi. Nếu dự đoán này đúng với tỷ lệ lạm phát thực tế xảy ra thì loại lạm phát đó

là lạm phát có thể dự tính được. Ngược lại, nếu tỷ lệ lạm phát trông đợi không giống

với tỷ lệ lạm phát thực tế xảy ra thì loại lạm phát đó là lạm phát không dự tính được.

Những ảnh hưởng của lạm phát sẽ khác nhau tuỳ thuộc đó là loại lạm phát có thể dự

tính được hoặc không thể dự tính được.

2.1. Đối với lạm phát dự tính được

Trong trường hợp lạm phát có thể được dự tính trước thì các thực thể tham gia

vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó. Tuy vậy nó vẫn gây ra những tổn thất

cho xã hội.

- Chi phí da giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và

lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm cho

người ta giữ ít tiền hơn hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải thường xuyên

đến ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ "chi phí mòn giày"

để chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà người ta

phải hứng chịu nhiều hơn so với không có lạm phát.

- Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh

nghiệp sẽ mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.

- Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường hợp do

lạm phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn) còn

doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh chi phí thực đơn thì

giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với doanh nghiệp

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -21-

tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm

phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mô.

- Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý

muốn của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm phát.

Ví dụ: Trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng thu

nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả phần

chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế.

- Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm thước

đo trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước đo này co giãn và vì

vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình.

2.2. Đối với lạm phát không dự tính được

Điều nguy hiểm của lạm phát không chỉ nằm ở mức độ lạm phát mà nó còn ở

sự xuất hiện bất ngờ của nó. Khi tỷ lệ lạm phát biến động ngoài dự tính, nó tạo nên sự

biến động bất thường về giá trị tiền tệ và làm sai lệch toàn bộ thước đo các quan hệ giá

trị, ảnh hưởng đến mọi hoạt động kinh tế - xã hội:

- Lạm phát tạo nên sự bất ổn trong môi trường kinh tế - xã hội

Sự biến động bất thường của tỷ lệ lạm phát từ thời gian này đến thời gian khác

gây khó khăn trong việc xác định mức sinh lời chính xác của các khoản đầu tư. Điều

này tạo nên một tâm lý ngần ngại khi quyết định đầu tư, nhất là đầu tư vào các dự án

đầu tư dài hạn. Hơn nữa sự bất ổn định của thu nhập có thể làm cho người đầu tư thích

đầu tư vào các tài sản tài chính hơn là các dự án đầu tư thật sự. Kết quả là nguồn lực

của xã hội bị phân bổ một cách thiếu hiệu quả và ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh

tế.

Trong điều kiện lạm phát biến động, các quyết định tài chính cũng bị bóp méo,

các doanh nghiệp thích vay ngắn hạn hơn là bị ràng buộc chặt vào các hợp đồng vay

dài hạn với lãi suất cố định, chứa đựng rủi ro lãi suất tiềm năng.

Lạm phát cũng gây những ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường lao động khi các

công đoàn tìm cách đấu tranh đòi tăng lương danh nghĩa với nguy cơ của các cuộc

đình công hoặc sự đe dọa của một tỷ lệ lạm phát cao hơn.

- Lạm phát làm phân phối lại thu nhập quốc dân và của cải xã hội

Khi lạm phát tăng, tổng thu nhập danh nghĩa tăng lên, nhưng trong đó chứa

đựng sự phân phối lại thu nhập giữa các nhóm dân cư với nhau: giữa giới chủ và người

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -22-

làm công, giữa người cho vay và người đi vay, giữa Chính phủ với người đóng thuế.

Nói tóm lại, tác động chính của lạm phát về mặt phân phối lại nảy sinh từ những tác

động không thể đoán trước đối với giá trị thực tế của thu nhập và của cải của nhân dân.

- Lạm phát làm cho lãi suất tăng

Lạm phát làm cho lãi suất danh nghĩa tăng lên bởi tỷ lệ lạm phát dự tính tăng.

Vấn đề nảy sinh khi tỷ lệ lạm phát dự tính cấu thành trong mức lãi suất danh nghĩa

không phù hợp với tỷ lệ lạm phát thực tế và ảnh hưởng đến mức lãi suất thực. Điều

này, có nghĩa chính lạm phát gây ra những ảnh hưởng đến tiết kiệm, đầu tư và cuối

cùng ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng kinh tế.

- Lạm phát làm ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế

Nếu tỷ lệ lạm phát trong nước cao hơn tỷ lệ lạm phát nước ngoài thì hàng xuất

khẩu trong nước trở nên kém hấp dẫn vì giá cả tăng lên, trong khi hàng xuất khẩu của

nước ngoài trở lại rẻ hơn, thúc đẩy nhập khẩu, làm xấu đi tình trạng của tài khoản vãng

lai gây áp lực đối với tỷ giá. Tỷ lệ lạm phát cao cùng với tỷ lệ bội chi tài khoản vãng

lai có thể tạo tâm lý trông đợi vào sự giảm giá của đồng nội tệ so với ngoại tệ, từ đó

tạo nên áp lực mạnh hơn đối với tỷ giá và nếu điều này thực sự xảy ra thì có thể đẩy

mức lạm phát trong nước cao hơn bởi giá của hàng nhập khẩu trở nên đắt, đẩy mức giá

cả chung tăng lên.

- Lạm phát ảnh hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp

Mức giá chung tăng lên có thể gây nên sự giảm sút của tổng cầu và công ăn

việc làm, do đó gia tăng tỷ lệ thất nghiệp. Tổng cầu giảm khi lãi suất danh nghĩa tăng

lên, giá trị tài sản thực tế giảm xuống và sự giảm sút của khả năng cạnh tranh quốc tế.

IV. CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT

Ngày nay, trong thời đại lưu thông tiền giấy bất khả hoán, lạm phát hầu như là

hiện tượng tất yếu ở các nước song chỉ khác nhau ở mức độ cao, thấp. Trải qua lịch sử

lạm phát hiện đại hầu như chưa có nước nào có thể dập tắt hoàn toàn lạm phát, mà chỉ

có kiềm chế, kiểm soát lạm phát ở mức độ phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế,

giải quyết công ăn việc làm.

Các biện pháp kiềm chế lạm phát rất đa dạng, tuỳ theo điều kiện của mỗi quốc

gia mà có thể áp dụng những biện pháp khác nhau. Có thể chia các biện pháp kiềm chế

lạm phát thành hai loại: những biện pháp cấp bách và những biện pháp chiến lược.

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -23-

1. Những biện pháp cấp bách

Những biện pháp cấp bách hay còn gọi là những biện pháp tình thế. Áp dụng

những biện pháp này với mục đích giảm tức thời cơn sốt lạm phát, để có cơ sở áp dụng

những biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài.

Khi nền kinh tế xảy ra tình trạng lạm phát cao hoặc siêu lạm phát, để kiềm chế

lạm phát các nước thường áp dụng những biện pháp tình thế sau:

* Biện pháp về chính sách tài khoá

Áp dụng biện pháp về chính sách tài khoá có ý nghĩa quan trọng và then chốt vì

trong nhiều trường hợp Ngân sách Nhà nước bị thâm hụt là nguyên nhận chính của

lạm phát, do đó nếu dập tắt được nguyên nhân này thì tiền tệ sẽ được ổn định, lạm phát

sẽ được kiềm chế. Khi lạm phát tăng ở mức độ phi mã hoặc siêu lạm phát, Nhà nước

có thể thực hiện các biện pháp như:

- Tiết kiệm triệt để trong chi tiêu Ngân sách Nhà nước, cắt giảm những khoản

chi chưa cấp bách.

- Tăng thuế trực thu để tăng nguồn thu cho ngân sách

- Vay nợ trong nước và nước ngoài không đi kèm điều kiện chính trị

* Biện pháp thắt chặt tiền tệ

Để góp phần giảm lượng tiền thừa trong lưu thông, Nhà nước có thể thực hiện

chính sách siết chặt lượng cung tiền tệ bằng nhiều biện pháp khác nhau như:

- Ngừng phát hành tiền lưu thông hay còn gọi là "đóng băng tiền tệ"

Ngân hàng Trung ương tạm ngừng thực hiện các nghiệp vụ tái chiết khấu, tái

cấp vốn, cho vay theo hồ sơ tín dụng. Ngay cả số bội chi của Ngân sách Nhà nước

cũng không được phát hành tiền để bù đắp. Mục đích của biện pháp này là không cho

tăng thêm tiền trong lưu thông.

- Nâng cao lãi suất tín dụng

Lãi suất tiền gửi tăng, đặc biệt là tiền gửi tiết kiệm có tác dụng thu hút tiền mặt

trong dân cư và doanh nghiệp vào ngân hàng. Một tác hại có thể xảy ra là nếu lãi suất

tiền gửi cao hơn lợi tức đầu tư thì các nhà kinh doanh sẽ không đầu tư cho sản xuất

nữa mà tìm cách đưa vốn của mình vào ngân hàng vì nó đưa đến lợi tức cao mà không

chịu sức ép rủi ro lớn. Mặt khác, lãi suất cho vay tăng cũng làm giảm khả năng mở

rộng tín dụng của các ngân hàng.

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -24-

- Quản lý và hạn chế khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại bằng cách

tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc.

* Biện pháp kiềm chế giá cả

Để chống lại sự tăng giá của hàng hóa, Nhà nước có thể thực hiện chính sách

kiềm giữ giá cả bằng nhiều biện pháp khác nhau như:

- Nhập hàng hoá của nước ngoài để bổ sung cho khối lượng hàng hóa trong

nước tạo ra một sự cân bằng giữa cung và cầu hàng hóa. Đây là biện pháp "chữa cháy"

tuy rất hữu hiệu trong việc chặn đứng sự khan hiếm hàng hóa nhưng có nhiều mặt hạn

chế.

- Nhà nước bán vàng và ngoại tệ nhằm thu hút tiền mặt trong lưu thông, ổn định

giá vàng, ổn định tỷ giá hối đoái, từ đó tạo tâm lý ổn định giá cả các mặt hàng khác.

- Quản lý thị trường, chống đầu cơ tích trữ...

* Biện pháp đóng băng lương và đóng băng giá

Ở đây trước hết cần có sự cam kết của các nhà lãnh đạo công đoàn chấp nhận

đóng băng lương vì việc tăng lương không giúp ích gì cán bộ công nhân viên, bời vì

thông thường sau khi tăng lương thì giá cả cũng tăng. Mặt khác, hiệp hội các chủ

doanh nghiệp cũng phải cam kết đóng băng giá. Thoả hiệp đó phải được Nhà nước

công nhận và về phần mình Nhà nước cam kết cố gắng hết sức giữ các yếu tố khác

không diễn biến xấu hơn như không làm tăng thêm số thiếu hụt Ngân sách Nhà nước,

cố gắng giảm thiểu số thiếu hụt đó. Đạt được một thoả hiệp như vậy là một yếu tố rất

quan trọng trong tiến trình kiềm chế lạm phát.

* Biện pháp cải cách tiền tệ

Đây là biện pháp tình thế bắt buộc khi lạm phát ở mức độ cao mà việc vận dụng

các biện pháp trên không đưa lại kết quả như mong muốn. Ở đây, Nhà nước huỷ hoặc

thu hồi tiền cũ, phát hành tiền mới để lập lại trật tự mới trong lưu thông tiền tệ.

2. Những biện pháp chiến lược

Đây là biện pháp nhằm tác động đồng bộ lên mọi mặt hoạt động của nền kinh

tế, với ý tưởng tạo ra một sức mạnh về tiềm lực kinh tế của đất nước, tạo cơ sở để ổn

định tiền tệ vững chắc. Trong thực tiễn, những biện pháp thường được áp dụng là:

* Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn

Do lưu thông hàng hóa là tiền đề của lưu thông tiền tệ nên nếu quỹ hàng hóa

được tạo ra có số lượng lớn, chất lượng cao, chủng loại phong phú thì đây là tiền đề

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -25-

vững chắc nhất để ổn định lưu thông tiền tệ, nhằm huy động tốt các nguồn lực để phát

triển kinh tế. Nhà nước cần xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

đúng đắn, trong đó cần chú trọng điều chỉnh cơ cấu kinh tế hợp lý, phát triển ngành

mũi nhọn xuất khẩu.

* Kiểm soát thường xuyên thu chi Ngân sách Nhà nước

Chính sách thu phải khai thác và quản lý chặt chẽ các nguồn thu, tăng thu từ

thuế chủ yếu dựa trên cơ sở mở rộng và nuôi dưỡng nguồn thu, chống thất thu có hiệu

quả. Ngân sách Nhà nước phải đảm bảo tính hiệu quả và tiết kiệm. Thực hiện cân đối

ngân sách tích cực làm cơ sở cho các cân đối khác trong nền kinh tế.

* Thực hiện chiến lược thị trường cạnh tranh hoàn hảo

Ở đây các nhà kinh tế chủ trương cần phải xoá bỏ mọi ngăn cản đối với hoạt

động của thị trường. Nếu quá trình cạnh tranh được nâng cao lên ở mức độ hoàn hảo

thì giá cả sẽ có xu hướng giảm xuống. Mặt khác, cạnh tranh thúc đẩy các nhà kinh

doanh cải tiến kỹ thuật, cải tiến quản lý và do đó giảm được chi phí sản xuất kinh

doanh, giảm được giá bán hàng hóa.

* Dùng lạm phát để chống lạm phát

Đối với các quốc gia còn nhiều tiềm năng về lao động, đất đai, tài

nguyên...Nhà nước có thể tăng chỉ số phát hành tiền để có nguồn lực tăng chi phí cho

việc mở rộng đầu tư và hy vọng các công trình đầu tư này mang lại hiệu quả và góp

phần kiềm chế lạm phát. Áp dụng biện pháp này đòi hỏi phải có một tiềm lực mạnh về

các yếu tố sản xuất, có trình độ khoa học - kỹ thuật tiên tiến, trình độ quản lý kinh tế

cao thì mới có thể thành công được.

V. LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM VÀ CÁC BIỆN PHÁT KIỀM CHẾ LẠM

PHÁT NHẰM ỔN ĐỊNH TIỀN TỆ TRONG ĐIỀU KIỆN CỦA VIỆT NAM

HIỆN NAY

Việt Nam đã trải qua thời kỳ lạm phát cao kéo dài với những ảnh hưởng nặng

nề trong suốt thập kỷ 80, được coi như là hậu quả tất yếu của cơ chế quản lý kinh tế

thiếu hiệu quả và tình trạng bao cấp tràn lan. Mặc dù lạm phát đã được kiềm chế ở

mức một con số trong những năm 90, nhưng sự bất ổn của nó cùng với những biểu

hiện lạm phát cao gần đây đặt ra nhiều vấn đề cho các nhà làm chính sách. Căn cứ vào

mức độ, tính chất và nguyên nhân chủ yếu của lạm phát ở Việt Nam có thể được chia

thành các giai đoạn như sau:

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -26-

1. Giai đoạn 1976 - 1980

Lạm phát ở Việt Nam là lạm phát "ngầm" nghĩa là tuy chỉ số giá cả ở thị trường

có tổ chức tăng không nhiều bởi chính sách kiềm chế giá cả, nhưng chỉ số này ở thị

trường tự do lại tăng khá cao. Mặc dù vậy, mức giá cả chung tăng với tốc độ chậm bởi

vào thời gian này ở khu vực thị trường có tổ chức chiếm tỷ trọng quyết định trong

cung cấp hàng hóa tiêu dùng cho xã hội và thói quen hạn chế tiêu dùng trong chiến

tranh, điều này làm giảm sự căng thẳng trong quan hệ cung cầu hàng hóa. Tuy nhiên,

tình trạng phát hành bù đắp sự thiếu hụt của Ngân sách Nhà nước liên tục với số lượng

lớn nhằm bù lỗ, bù giá và thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội đã làm cho

mức giá chung thời kỳ 1976-1980 tăng 2,62 lần trong khi tổng sản lượng thực tế tăng

5,8%, thu nhập quốc dân tăng 1,5%.

2. Giai đoạn 1980-1989

Đây là thời kỳ lạm phát phi mã với chỉ số giá cả thưởng xuyên ở mức 3 con số.

Giá cả ở thị trường có tổ chức và thị trường tự do đều tăng mạnh. Trong đó giá cả thị

trường tự do tăng nhanh hơn kéo theo sự điều chỉnh giá trên thị trường có tổ chức.

Những ảnh hưởng lạm phát bao trùm lên tất cả các lĩnh vực: sản xuất, tiêu dùng, tài

chính tín dụng, đời sống nhân dân và sự ổn định của chế độ chính trị.

Nguyên nhân chủ yếu của lạm phát thời kỳ này là do nhu cầu có khả năng thanh

toán tăng lên vượt xa so với khả năng cung ứng hàng hoá của xã hội. Lạm phát còn

xuất phát từ sự thiếu hiệu quả trong kinh doanh do sử dụng lao động và phân bổ các

nguồn lực xã hội không hợp lý, không tôn trọng yêu cầu hạch toán kinh tế dẫn đến làm

tăng giá thành sản phẩm và làm suy giảm mức sản lượng thực tế.

Tuy nhiên nguyên nhân sâu xa của tất cả các vấn đề trên là do cơ chế quản lý

kinh tế quan liêu, mệnh lệnh dựa trên chế độ công hữu và Nhà nước nắm độc quyền

trên tất cả các lĩnh vực.

3. Giai đoạn 1990-2006

Trong giai đoạn này Chính phù đã thực hiện đồng thời các giải pháp, trước hết

là các biện pháp hạn chế sự tăng cầu quá mức đã được áp dụng đem lại kết quả tức

thời: hạn chế chi tiêu ngân sách, khơi tăng nguồn thu, giảm bội chi, hạn chế và tiến tới

ngừng phát hành tiền bù đắp thiếu hụt ngân sách (từ năm 1992). Chính sách tiền tệ

khan hiếm bắt đầu được sử dụng để kiểm soát lượng cung tiền, cùng với sự thay đổi

trong khái niệm về tiền tệ cũng như quản lý tiền tệ, hệ thống ngân hàng đã được cải

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -27-

tiến theo hướng hiệu quả và chất lượng nhằm tăng cường hiệu lực của chính sách tiền

tệ. Chính sách lãi suất cao được áp dụng, lần đầu tiên sau nhiều thập kỳ người gửi tiền

tiết kiệm nhận được mức lãi suất dương.

Các giải pháp chiến lược nhằm tạo sự ổn định tiền tệ vững chắc vẫn tiếp tục

được hoàn thiện trong suốt những năm của thập kỷ 90 và những năm đầu của thế kỳ

21: tăng cường hiệu lực chính sách tiền tệ, kết hợp với việc điều chỉnh hợp lý tỷ giá

ngoại tệ, cải cách chính sách tài khoá, chính sách thuế, thực hiện cổ phần hoá các

doanh nghiệp Nhà nước một cách triệt để là cơ sở để duy trì mức lạm phát vừa phải

trong suốt những năm 1990-2006.

4. Lạm phát 2007 đến nay

Năm 2007, lạm phát của nước ta đã tăng cao và rơi vào tình trạng khó kiểm

soát, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng vọt từ hơn 6% năm 2006 lên 12,69% năm 2007.

Nguy cơ tỷ lệ lạm phát tiếp tục ở mức cao trong năm 2008 là rất rõ ràng khi chỉ riêng

hai tháng đầu năm, tỷ lệ này đã ở mức 5,94% so với 2007. Nếu chúng ta dùng các biện

pháp tác động tích cực thì tỷ lệ lạm phát năm 2008 có thể xoay quanh mức17% với chỉ

số giá tiêu dùng trong các tháng của năm 2008 được biểu diễn qua sơ đồ sau:

a. Nhận diện lạm phát ở Việt Nam hiện nay

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -28-

Nhận diện lạm phát hiện tại ở Việt Nam là sự tích hợp của lạm phát tiền tệ, lạm

phát cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy, ba loại này tác động lẫn nhau làm cho lạm phát

càng trở nên phức tạp.

* Lạm phát tiền tệ

Do việc thực thi chính sách chính sách tiền tệ không nghiêm, có thể chưa phù

hợp nên việc phát huy tác dụng của chính sách không được như mong muốn. Quản lý

yếu kém dẫn tới lượng cung tiền trong lưu thông đã vượt quá lượng tiền cần có trên thị

trường nhiều lần do đó dẫn tới lạm phát.

Có thể kể ra các nguyên nhân trực tiếp làm lượng cung tiền tăng lên như sau:

- Thứ nhất, chi tiêu ngân sách ngày càng lớn: chi tiêu ngân sách năm sau cao

hơn năm trước do yêu cầu phát triển tế xã hội đòi hỏi các điều kiện hạ tầng như đường

xá, cầu cống, bến cảng, các khu đô thị, khắc phục hậu quả của thiên tai ... Trong đó có

nhiều các vụ việc tiêu cực, hiệu quả chi tiêu ngân sách thấp, nhiều công trình kéo dài,

tốn kém, hiệu quả thấp. Những khoản chi tiêu ngân sách này đã đưa một lượng tiền

mặt lớn ra thị trường.

- Thứ hai, quản lý tiền mặt kém hiệu quả: hiện nay ở Việt Nam có nhiều đơn vị

như Ngân hàng Nhà nước, hệ thống các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng

phi ngân hàng, công ty bảo hiểm ... liên quan tới công tác lưu hành tiền tệ. Lượng tiền

cần có (D) để cân đối với hàng hoá không đồng nhất với lượng tiền mặt thực tế đang

có trên thị trường. Lượng tiền này không chỉ phụ thuộc vào lượng tiền mặt thực tế (T)

mà còn phụ thuộc vào vòng quay đồng tiền (V), chúng tỷ lệ thuận với nhau theo công

thức:

D = T . V.

Lượng tiền D cân đối với hàng cần phải được kiểm soát chặt và thường ổn định

trong một thời gian thích hợp có lợi cho sự phát triển kinh tế. Khi có nhu cầu tăng D,

các nhà quản lý thường tăng vòng quay của đồng tiền (V), hạn chế tăng T. Vấn đề này

rất quan trọng cả đối với quản lý vĩ mô và quản lý vi mô.

- Thứ ba, ngoại tệ tăng mạnh: năm 2007 đầu tư nước ngoài vào Việt nam tăng

cao, kiều hối cũng tăng đáng kể, riêng hai khoản này cũng đã gần 30 tỷ USD. Với

lượng tiền đó đòi hỏi phải có lượng tiền VNĐ lớn tung ra thị trường, làm cho lượng

tiền mặt trên thị trường tăng lên.

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -29-

- Thứ tư, sức hút của thị trường chứng khoán: thị trường chứng khoán phát triển

mạnh trong thời gian qua đã hút một lượng tiền lớn vào đây. Ngoài lượng tiền nhàn rỗi

trong dân được huy động, lượng vốn bằng tiền còn được huy động thông qua vay ngân

hàng, rút tiết kiệm, bán tài sản (do thay đổi mục tiêu kinh doanh), từ các nhà đầu tư

nước ngoài....

Ngoài ra, một nguyên nhân quan trọng khác là tâm lý hoang mang của người

dân trước giá cả thị trường tăng cao, đồng tiền giảm giá nhanh chóng. Để bảo toàn vốn

của mình, các nhà đầu tư cũng như dân chúng đã chuyển sang mua vàng hoặc kim loại

quý, đá quý khác thay vì dùng vốn đó kinh doanh hoặc gửi tiết kiệm. Do vậy một

lượng tiền lớn được tung vào lưu thông đã làm cho lạm phát trầm trọng hơn.

Tất cả những nhân tố trên làm cho lượng tiền mặt thực tế có trong lưu thông (T)

tăng lên quá nhiều, vượt xa lượng tiền mặt thực tế cần có.

* Lạm phát cầu kéo

Lạm phát cầu kéo có nguyên nhân bắt nguồn từ nội bộ nền kinh tế, vì vậy loại

lạm phát này thường chỉ diễn ra đối với từng nền kinh tế cá biệt. Lạm phát cầu kéo do

tốc độ phát triển kinh tế cao, quy mô đầu tư lớn và dàn trải, hiệu quả đầu tư thấp, vượt

quá khả năng đáp ứng về tài nguyên tiềm năng của nền kinh tế. Nền kinh tế phát triển

nóng khiến cho nhu cầu quá lớn trong khi khả năng cung ứng có hạn, mất cân đối này

làm giá cả tăng liên tục với tỷ lệ cao. Năm 2007 nền kinh tế Việt Nam đã rơi vào tình

trạng phát triển nóng. Điều này thể hiện rõ nhất ở mất cân đối cao giữa cung cầu, cung

luôn thấp hơn cầu (năng lượng, nhân lực chất lượng cao, tắc nghẽn mạch thông tin liên

lạc, hạ tầng quá tải, công trình, dự án chậm tiến độ ...). Chúng ta đang tập trung mọi nỗ

lực nhằm đạt tỷ lệ tăng trưởng GDP 8,5 - 9% trong năm 2008, điều này sẽ dẫn tới mất

cân đối cung cầu hơn nữa và sẽ làm lạm phát tăng cao hơn.

* Lạm phát chi phí đẩy

Lạm phát chi phí đẩy do giá vật tư đầu vào tăng. Trong năm qua, nhiều loại

nguyên vật liệu giá tăng rất cao như dầu mỏ, than đá, sắt thép, nhựa, ... Những loại chi

phí tăng lên đó đã tác động tới hầu hết các nền kinh tế, tạo nên chi phí đầu vào rất cao

đối với nhiều loại hàng hoá, dẫn tới chi phí sản xuất cao, buộc các doanh nghiệp tăng

giá bán hàng hoá của mình. Làn sóng tăng giá này làm giá cả chung trên thị trường

tăng mạnh mẽ, đẩy nền kinh tế tới lạm phát.

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -30-

Năm 2007 và năm 2008, giá dầu tăng cao tác động tới hầu hết các ngành sản

xuất trong nước, dẫn tới tăng giá bán ở đầu ra. Trong năm qua, không ngành sản xuất

nào trong nước cưỡng lại được xu thế này, bao gồm cả ngành giao thông vận tải, than,

khai thác đá, luyện cán thép... sắp tới là ngành điện.

Lạm phát chi phí đẩy mang tính toàn cầu song mức độ diễn ra ở mỗi nước có

khác nhau. Những nền kinh tế đang trong thời kỳ suy giảm sẽ không lạm phát, tăng giá

dầu chỉ là yếu tố dẫn tới tăng giá trong nước. Đối với những nền kinh tế tăng trưởng

nóng như Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, giá dầu tăng đã thực sự đẩy lạm phát cao.

Do vậy, việc nhập khẩu các yếu tố đầu vào từ những nền kinh tế tăng trưởng nóng

cũng bao hàm việc nhập cả những yếu tố lạm phát của các nền kinh tế đó.

b.Những giải pháp kiềm chế lạm phát trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện

nay

Từ những vấn đề đã được nêu ở trên, trong ba loại lạm phát tích hợp xuất hiện trong

nền kinh tế thì lạm phát tiền tệ là nguy hiểm và khó kiềm chế, cần được quan tâm chú

ý đặc biệt. Những giải pháp được đề xuất sẽ bao gồm cả trước mắt và lâu dài.

* Một là, cần thực hiện chính sách tài chính - tiền tệ năng động và hiệu quả.

Ngoài những giải pháp Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng trong thời gian qua có

thể áp dụng những giải pháp dưới đây nhằm điều chỉnh lượng cung tiền phù hợp, điều

chỉnh chính sách tài khoá, tích cực quản lý và tăng hiệu quả của chi ngân sách:

- Việc cần làm trước mắt hiện nay là giảm nhanh lượng tiền mặt trong lưu

thông. Một số giải pháp như điều chỉnh lãi suất vay nóng giữa các Ngân hàng, nới lỏng

tỷ giá hối đoái... là rất cần thiết, tuy nhiên, như vậy vẫn chưa đủ. Cần phải quản lý

lượng cung tiền trong lưu thông chặt hơn nữa, chủ động tăng vòng quay của đồng tiền.

Trước mắt nên giảm hạn mức tín dụng đối với các ngân hàng thương mại nhằm hạn

chế và kiểm soát lượng tiền tiếp tục được tung vào lưu thông. Ngân hàng Nhà nước

cần có cơ chế kiểm tra giám sát các ngân hàng thương mại, nhất là những ngân hàng

thương mại lớn trong việc xây dựng và thực hiện các biện pháp tăng vòng quay đồng

tiền, quản lý lượng cung tiền cho lưu thông. Nếu không quản lý và tăng vòng quay tiền

tệ sẽ hoàn toàn bị động trong quản lý lượng tiền mặt trong lưu thông, lượng tiền sẽ

tăng lên nhiều gây ra những hậu quả xấu và dẫn tới lạm phát thường trực. Mặt khác

phải xác định được lượng tiền thực có trong lưu thông (T), xây dựng chỉ tiêu vòng

quay tiền, lấy đó làm mục tiêu phấn đấu của toàn ngành. Trên cơ sở đó, Ngân hàng

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -31-

Nhà nước chủ động giảm lượng tiền trong lưu thông nhằm thúc đẩy các ngân hàng

thực hiện các giải pháp tăng vòng quay đồng tiền của mình. Như vậy lượng tiền sẽ

được cung ứng trong giới hạn an toàn đối với nền kinh tế.

- Tiếp đó, cần quản lý chặt chẽ chi tiêu ngân sách. Cần xem xét lại các chương

trình, dự án đầu tư, hoạt động chi tiêu của Chính phủ, của các ban ngành. Tập trung

ngân sách vào những công trình cấp thiết, những chương trình không cấp thiết nên

chuyển vào những năm sau. Tăng hiệu quả chi tiêu ngân sách bằng việc hoàn thành

các chương trình, các dự án đúng thời hạn để sớm phát huy tác dụng. Giảm chi phí

trong các cơ quan khối công quyền, tích cực chống tiêu cực và lãng phí.

- Các cơ quan chức năng cũng cần nghiên cứu điều chỉnh lãi suất ngân hàng

năng động hơn. Có thể đảm bảo mức lãi suất bình quân cả năm 12%, song mức hiện

tại có thể điều chỉnh cao hơn nhằm rút bớt lượng tiền mặt ra khỏi lưu thông. Tăng lãi

suất tiết kiệm trong giai đoạn hiện tại tuy có ảnh hưởng tới thị trường chứng khoán, tới

tăng trưởng song trong hiện thời là hợp lý và tác động tích cực tới kiềm chế lạm phát.

Ngoài ra, cũng cần phải quản lý chặt chẽ hoạt động chi tiêu thu đổi ngoại tệ trên

thị trường. Tích cực thu hút ngoại tệ trong dân bằng việc khuyến khích gửi tiết kiệm

ngoại tệ với lãi suất hấp dẫn; thực hiện tỷ giá hối đoái linh hoạt giữa tiền Việt với một

số ngoại tệ, nhất là ngoại tệ mạnh chi phối hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam

như USD, EURO, Yên, Nhân dân tệ... đảm bảo tác động khách quan vào xuất nhập

khẩu, không gây thiệt hại chung cho nền kinh tế. Khuyến khích chi tiêu không dùng

tiền mặt, đặc biệt là khách nước ngoài, cần tạo cơ chế để nhóm khách này có thể giam

gia, nhất là đối với thị trường chứng khoán.

- Bên cạnh đó, Chính phủ nên thực hiện bán trái phiếu Chính phủ, tín phiếu kho

bạc cho dân, thu hồi tiền mặt. Hoạt động này có tác dụng rất tích cực làm giảm nhanh

lượng tiền mặt trong lưu thông và tác động trực tiếp tới giảm lạm phát. Trong trường

hợp cấp bách hiện nay, không nên đấu thầu trái phiếu và tín phiếu qua trung gian.

Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước nên triển khai bán trực tiếp cho dân. Bán

trực tiếp sẽ tránh được các khâu trung gian nên mức lãi suất đối với người mua sẽ cao

hơn, thu hút được nhiều người tham gia. Có thể tổ chức thành những chiến dịch phân

phối tín phiếu, trái phiếu trong thời gian cụ thể với cơ chế thuận lợi kết hợp với sự

tuyên truyền cổ động mạnh mẽ để động viên mọi tầng lớp nhân dân, mọi tổ chức xã

hội tham gia.

Khoa Tài chính - Ngân hàng Tập bài giảng môn Tiền tệ - Ngân hàng

http://www.ebook.edu.vn -32-

* Hai là, điều chỉnh tăng trưởng kinh tế

Trước thực trạng nền kinh tế phát triển quá nóng, cần phải giảm tốc độ tăng

trưởng, duy trì tốc độc tăng trưởng xoay quanh 8% là hợp lý. Cần kiểm soát chặt chẽ

hoạt động đầu tư cả Trung ương và địa phương, đầu tư của các thành phần kinh tế, chủ

động điều chỉnh kế hoạch triển khai các dự án đầu tư, có thể chuyển những dự án chưa

cấp thiết xuống tiếp những năm sau nhằm giảm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.

- Kiểm tra tiến độ thực hiện các dự án, các công trình đầu tư. Khẩn trương hoàn

thành các dự án, các công trình, đặc biệt là những công trình trọng điểm, hoàn thành

dứt điểm các công trình dây dưa kéo dài để chúng sớm phát huy tác dụng.

- Đẩy mạnh sản xuất hàng hoá vật chất, tăng năng suất lao động hơn nữa, nhất

là sản xuất vật tư, nguyên vật liệu, hàng hoá tiêu dùng nhằm tăng năng lực của nền

kinh tế, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng để thúc đẩy tiêu dùng nội địa.

- Kiểm tra, xem xét các doanh nghiệp lớn đã cổ phần hoá, đánh giá hiệu quả

vốn đầu tư huy động từ thị trường chứng khoán. Hạn chế các doanh nghiệp loại này

chuyển hướng kinh doanh từ sản xuất hàng hoá hiện hữu sang dịch vụ, đặc biệt là kinh

doanh tiền tệ.

Ba là, hạn chế tăng chi phí

- Giảm mức tăng chi phí phải thực hiện tiết kiệm trong sản xuất. Để làm được

điều này, bản thân các doanh nghiệp cần tăng cường quản lý sản xuất theo định mức,

kiểm tra chặt chẽ các yếu tố đầu vào theo đúng quy cách, phẩm chất, chủ động nghiên

cứu tìm vật tư thay thế với chi phí thấp, nhất là đối với vật tư nguyên liệu nhập khẩu.

Một giải pháp giảm mức tăng chi phí khác có thể áp dụng là hoàn thiện công nghệ, đổi

mới công nghệ, cải tiến tố chức quản lý nhằm tăng năng suất lao động.

Tóm lại, lạm phát là hiện tượng của kinh tế thị trường mang tính khách quan, dù

muốn hay không chúng ta cũng vẫn phải đón nhận. Chính vì vậy, cần phải bình tĩnh

nhìn nhận tìm hiểu bản chất sự việc để có những phản ứng điều chỉnh. Tuy nhiên, để

thực hiện kiềm chế lạm phát trong giai đoạn này, Việt Nam sẽ phải chấp nhận từ bỏ

một số mục tiêu khác. Do đó, Nhà nước Việt Nam cần có sự tham khảo ý kiến của các

nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế cũng như học hỏi kinh nghiệm từ các nước khác

trên thế giới để có những quyết sách đúng đắn, kịp thời.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenFun.Vip