Thung Lung Khung Khiep Thung Lung Khung Khiep

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng
MỤC LỤC

ABBEY GRANGE.................................................................................................. 3

CUỘC PHƯU LƯU CỦA SÁU PHO TƯỢNG NAPOLEON ............................. 27

DẢI BĂNG LỐM ĐỐM........................................................................................ 47

HỘI TÓC HUNG ................................................................................................. 73

KẺ DỊ DẠNG ....................................................................................................... 93

NHỮNG NGHIÊP CHỦ Ở REIGATE .............................................................. 107

NGƯỜI KHÁCH TRỌ ĐƯỢC HƯỞNG BỔNG LỘC ....................................... 125

NGƯỜI THÔNG NGÔN HY LẠP..................................................................... 141

THUNG LŨNG KHỦNG KHIẾP ..................................................................... 157

Phần thứ nhất TẤN BI KỊCH Ở LÂU ĐÀI BIRLSTONE . 158

Chương I Tin báo .............................................................. 158

Chương 2 Ông Sherlock Holmes diễn thuyết ................. 163

Chương 3 Tấn bi kịch ở Birstone ..................................... 168

Chương 4 Tối mò............................................................... 175

Chương 5 Những nhân vật của tấm thảm kịch............... 182

Chương 6 Một tia sáng chợt lóe ....................................... 190

Chương 7 Giải đáp ............................................................ 198

Phần thứ hai NHỮNG NGƯỜI TIÊN PHONG ................. 207

Chương 1 Con người ấy .................................................... 207

Chương 2 Người trưởng toán ........................................... 211

Chương 3 Chi nhánh 341 ở Vermssa .............................. 221

Chương 4 Thung lũng khủng khiếp ................................ 232

Chương 5 Giờ đen tối nhất ............................................... 238

Chương 6 Nguy hiểm........................................................ 245

Chương 7 Bốc-đy sập bẫy ................................................. 251

ABBEY GRANGE

Vào một buổi sáng lạnh lẽo và buốt giá của mùa đồng năm

1897, tôi bỗng thức giấc vì có ai lay mạnh vai tôi. Hoá ra là Holmes. Ngọn nến trên tay anh soi rõ gương mặt hăm hở, mà chỉ thoáng nhìn qua cũng biết ngay là có chuyện vừa xảy ra.

Đi thôi, Watson, đi thôi! - anh giục - Đừng hỏi han gì cả! Mặc ngay quần áo vào, rồi lên đường !

Mười phút sau, hai chúng tôi đã ngồi trên một chiếc xe ngựa và

lóc cóc băng qua những đừơng phố yên tĩnh đến ga Charing Cross. ánh bình minh yếu ớt của một ngày đông bắt đầu ửng lên, nên thỉnh thoảng chúng tôi có thể thấy được bóng dáng lờ mờ của một người thợ đi làm sớm. Sau khi chúng tôi uống mấy chén trà nóng ngoài ga và được yên vị trên chuyến tàu đi Kent, anh mới thấy đủ ấm người lên để nói, còn tôi thì mới đủ tỉnh trí để nghe được câu chuyện. Holmes rút trong túi ra một mảnh giấy và đọc to lên:

Abbey Grange, Marsham, Kent, 3.30 sáng

Ông Holmes thân mến. Tôi sẽ rất lấy làm sung sướng, nếu ông vui lòng trợ lực cho tôi ngay lập tức trong việc điều tra một vụ án nhiều điều thú vị. Vụ này rất hợp với sở thích của ông. Ông sẽ thấy

tôi vẫn giữ nguyên hiện trường, đúng như lúc tôi được mời đến. Chỉ xin ông đừng bỏ lỡ thời gian.

Người bạn trung thành của ông. Stanley Hopkins".

- Hopkins đã bảy lần mời tôi và lần nào cũng rất thích đáng,

Holmes nói. Tôi nghĩ chúng ta sẽ có một buổi sáng thú vị. Vụ án mạng xảy ra lúc mười hai giờ đêm qua.

- Căn cứ vào đâu mà anh có thể nói chắc như thế?

- Vào giờ tàu và cách tính thời gian. Đầu tiên họ phải mời cảnh sát địa phương. Tiếp đó mới trình báo với Scotland yard. Rồi Hopkins phải đến tận hiện trường, sau đó mới có thể đánh điện cho tôi. Phải mất trọn một đêm mới làm dược chừng đó việc. À, ga Chislehurst kia rồi. Mọi chuyện rồi sẽ sớm ngã ngũ thôi.

Vượt qua quãng đường vài dặm trên một hương lộ hẹp, chúng

tôi đến trước cổng một khu vườn. Người gác cổng già vội mở cổng cho chúng tôi. Một lối đi rộng vắt ngang khu vườn, chạy giữa hai hàng cổ thụ, dẫn đến trước một toà nhà rộng và thấp. Phần chính toà nhà rất cổ kính, ẩn mình dưới những dây trường xuân sum suê, nhưng những khung cửa sổ rộng cho thấy chủ nhân đã cho sửa sang lại theo kiểu dáng hiện đại. Một bên trái xem ra mới làm thêm. Đón chúng tôi trước cánh cửa mở rộng là viên thanh tra Stanley Hopkins, dáng trẻ trung, gương mặt lộ rõ vẻ nôn nóng.

- Ông Holmes, rất mừng là ông đã đến Và cả ông nữa, bác sĩ Watson. Thực ra giá được biết sớm, chắc tôi chẳng dám làm phiền ông. Từ khi tỉnh lại, phu nhân đã cho chúng tôi biết về vụ này một cách rành rọt đến nỗi chúng ta có lẽ chẳng còn bao nhiêu công việc

để làm nữa. Ông chắc còn nhớ băng trộm ở Lewisham?

- Sao? Băng ba cha con nhà Randall phải không?

- Đúng vậy. Ông bố với hai thằng con. Rõ ràng là bàn tay của chúng. Tôi không còn hồ nghi chút nào. Chúng mới ra tay ở Sydenham cách đây hai tuần. Người nhà ở đấy đã nhận diện được chúng. Thật kỳ lạ là chúng lại dám tiến hành một vụ nữa sớm như vậy. Nhưng đây chính là băng đó, chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Lần này thì nhất định chúng khó lòng thoát khỏi giá treo cổ. Ngài Eustace Brackenstall, một trong những người giàu có nhất ở Kent,

đã bị sát hại. Chúng đã dùng chính thanh cời than trong phòng đập

vỡ sọ ông. Phu nhân Brackenstall hiện đang nằm trong phòng tiếp khách buổi sáng. Tội nghiệp cho phu nhân, bà đã phải một phen hãi hùng. Bà gần như chết khiếp khi tôi vừa đặt chân đến đây. Tôi nghĩ, hai ông nên gặp phu nhân, để được nghe chính bà kể lại đầu đuổi vụ này. Sau đó, chúng ta sẽ cùng xem xét phòng ăn.

Phu nhân Brackenstall quả là một người phụ nữ phi thường.

Mái tóc bà vàng óng, mắt xanh, dáng người thanh tú, dung nhan thật diễm lệ. Ngay phía trên một bên mắt là một vết bầm tím, sưng vù, trông chẳng đẹp chút nào. Bà hầu của phu nhân đang dùng nước chườm vết thương. Còn phu nhân thì mệt mỏi nằm dài trên đi

- văng, người khoác một chiếc áo choàng rộng màu xanh điểm ngân tuyến.

- Ông Hopkins, toi đã kể hết mọi chuyện với ông rồi - bà nói, giọng mệt nhọc. Ông không thể thay tôi thuật lại được sao? ấy, nếu ông thấy cần, tôi đành kể lại lần nữa với các quí ông mới tới này. Hai vị ấy đã vào phòng ăn chưa?

- Tôi nghĩ tốt hơn cả là nên để hai ông đây nghe phu nhân kể trước đã.

- Tôi hy vọng các ông có thể dàn xếp được mọi việc. Thật khủng khiếp khi nghĩ đến cảnh nhà tôi vẫn còn nằm nguyên đó. - Phu nhân rùng mình, đưa tay che mặt một lát. Khi bà đưa tay lên, ống tay áo rộng hạ xuống tận khuỷu. Holmes thốt lên:

- Ồ, thưa phu nhân, phu nhân còn bị mấy vết thương trên tay nữa kìa! Sao thế này? -Hai vệt đỏ ửng nổi bật trên cánh tay trắng muốt tròn trĩnh của phu nhân. Bà vội kéo ống tay áo xuống che đi.

- Ồ, không có gì đâu. Mấy cái vệt này chẳng dính dáng gì đến

vụ đêm qua cả. Nếu ông và các bạn ông chịu phiền ngồi xuống, tôi xin kể hết những gì tôi biết được.

- Tôi là vợ huân tước Eustace Brackenstall. Chúng tôi kết hôn với nhau được gần một năm nay. Cuộc hôn nhân chẳng lấy gì làm êm thấm. Có lẽ một phần là tại tôi. Tôi lớn lên trong khung cảnh của miền nam nước úc, vốn tự do hơn và ít lễ nghi hơn, nên tôi không thích lối sống ở Anh quốc.Nhưng lý do chính mà ai cũng biết

là ông Eustace nhà tôi là một người nghiện rượu thâm căn cố đế. Sống với một con người như vậy thì dù chỉ một giờ cũng chẳng được thế nào là tình cảnh tôi, một phụ nữ nhạy cảm, lại bị trói chặt cả ngày lẫn đêm với một người như thế?

Tôi xin kể với các ông chuyện đêm qua. Tất cả người hầu kẻ hạ

trong nhà này đều ở trong dãy nhà dọc mới xây. Toàn bộ toà nhà chính được phân thành những phòng khách; còn sau lưng là nhà bếp. Ông nhà tôi cho bố trí phòng ngủ của hai chúng tôi trên lầu. Người hầu gái của tôi, bà Theresa, thì ngủ trong một căn phòng ngay bên trên phòng chúng tôi. Ngoài bà ta ra trên lầu không còn một ai; nên không một tiếng độ nào có thể vọng xuống đám gia nhân ở dưới kia. Bọn kẻ trộm chắc hẳn biết rõ điều đó; nếu không, nhất định chúng đã không dám hành động như thế.

Tối qua, ông Eustace nhà tôi lui về phòng riêng lúc mười rưỡi. Đám gia nhân cũng đều lui về phòng của họ. Chỉ còn một mình bà Theresa vẫn thức trên phòng mình, ở tầng trên cùng toà nhà, chờ xem tôi có cần sai bảo gì không. Tôi ngồi tại căn phòng này đến quá mười một giờ, mê mải đọc sách. Rồi tôi đảo một vòng quanh nhà, để xem mọi thức đã ngăn nắp chưa, trước lúc lên gác. Tôi luôn tự mình cáng đáng việc này, vì như tôi đã nói, không phải lúc nào tôi cũng

có thể cậy vào nhà tôi. Tôi xuống nhà bếp, ghé phòng viên quản gia, lên phòng khách, rồi cuối cùng là phòng ăn. Vừa đến gần khung cửa

sổ có che một tấm màn dày, tôi hiểu rằng cửa sổ để ngỏ. Tôi kéo tấm rèm sang một bên thì thấy mình đang đứng đối mặt với một gã đàn ông to ngang, đứng tuổi, vừa đặt chân vào phòng. Cái cửa sổ đó

là thứ cửa sổ cao, kiểu Pháp, có thể dùng như một cửa ra vào thông

ra vườn. Nhờ ánh nến từ phòng ngủ tôi hắt ra, tôi thấy còn có hai tên nữa theo vào sau lưng gã kia. Tôi lùi lại, nhưng gã đàn ông xông vào tôi ngay. Mới đầu gã chộp cổ tay tôi tiếp đến chẹn chặt cổ. Tôi mở miệng định kêu, nhưng hắn đã đánh rất mạnh vào trán tôi ngay bên trên mắt, khiến tôi khuỵu xuống. Tôi ngất đi, chắc phải một lát sau mới tỉnh lại, lúc bấy giờ tôi thấy bọn chúng đã giật đứt một sợi dây kéo chuông và trói tôi vào chiếc ghế mức không thể cựa quậy được, rồi một chiếc khăn tay bịt quanh miệng tôi làm cho tôi không còn cách nào kêu la. Đúng lúc đó, người chồng bất hạnh của

tôi bước vào phòng. Chắc ông ấy nghe thấy những tiếng động khả nghi nên đã chuẩn bị sẵn sàng để ứng phó. Ông ấy mặc sơ -mi và quần dài, tay cầm chiếc gậy ưa thích. Ông ấy lao đến một gã trong

băng trộm, nhưng một gã khác, gã đứng tuổi, đã kịp cúi xuống nhặt

cái thanh cời than trong lò sưởi ra, và giáng mạnh một vồ khi ông

ấy đi ngang qua trước mặt gã. Nhà tôi gục ngã, không còn rên nổi một tiếng, và nằm bất động không bao giờ còn dậy nữa. Tôi lại ngất

đi, nhưng cũng chỉ trong vài phút. Lúc tỉnh lại, tôi tháy bọn chúng

đã vơ hết từ trong tủ buýp phê ra mấy bộ đồ dọn ăn bằng bạc, mở một chai rượu cũng lôi từ đó ra. Mỗi tên cầm một cốc. Như tôi đã nói, một gã trong bọn đã đứng tuổi, có râu; hai đứa kia còn trẻ măng. Chắc chúng là ba bố con. Chúng trò chuyện với nhau khe khẽ. Xong, chúng tới chỗ tôi, xem tôi đã bị trói chặt chưa. Cuối cùng, chúng chuồn ra ngoài, không quên đóng chặt cửa sổ. Mười lăm phút, tôi mới gỡ được chiếc khăn khỏi miệng. Nhờ thế, tôi mới

la lên được, gọi bà hầu gái tới giúp mình. chúng tôi cho người đến báo cho cảnh sát đại phương. Họ lập tức báo lên Luân đôn. Đó là tất

cả những gì tôi có thể kể cùng quí ông, và tôi hy vọng sẽ không phải

nhắc lại câu chuyện đau lòng này nữa.

- Ông có hỏi gì không, ông Holmes? - Hopkins hỏi.

- Tôi không muốn lạm dụng lòng kiên nhẫn và thời giờ của phu nhân Brakenstall nữa - Holmes nói. Rồi anh đưa mắt về phía bà hầu gái - Trước lúc sang phòng ăn, tôi muốn được nghe câu chuyện của bà.

- Tôi đã trông thấy bọn chúng trước lúc chúng vào nhà - bà nói. Khi ngồi bên cửa sổ trong phòng ngủ, tôi thấy ba người đàn ông hiện ra bên cổng dưới ánh trăng, nhưng lúc đó tôi không nghĩ bọn chúng là kẻ trộm. Hơn một tiếng sau, tôi bỗng nghe thấy tiếng bà chủ kêu, tôi mới chạy xuống và thấy bà chủ lâm vào tình cảnh đúng như bà ấy vừa kể; còn ông chủ thì nằm dưới sàn. Cảnh đó quá đủ dể làm cho một người phụ nữ mất vía, nhất là khi bị trói chặt. Nhưng phu nhân tôi không bao giờ thiếu can đảm cả. Qúi ông hỏi bà chủ

tôi lâu quá rồi đó ạ, nên bây giờ xin quí ông cho tôi đưa bà chủ về phòng nghỉ vì mệt mỏi quá rồi.

Như một người mẹ hiền, bà hầu phòng vòng tay qua lưng chủ, đỡ bà về phòng.

- Bà ta quấn quít với phu nhân từ nhỏ tới giờ - Hopkins nói-

chăm chút phu nhân từ khi còn là một hài nhi sang Anh rồi họ lần đầu rời úc cách đây một năm rưỡi.

Tên bà ấy là Theresa Wright. Ông Holmes, mời ông đi lối này.

Vẻ hào hứng biến mất trên gương mặt sinh động của Holmes,

và tôi hiểu ra rằng vụ này chẳng còn lôi cuốn anh chút nào nữa vì

đã hết tính chất bí ẩn ly kỳ. Một người thầy thuốc từng trải được mời tới chữa một ca cảm lạnh thông thường cũng sẽ có cảm giác giống hệt như vậy thôi. Nhưng cảnh tượng trong phòng ăn tại Abbey Grange đủ kỳ lạ để khơi dậy sự chú ý của anh.

Phòng này rất rộng, trần cao, ghép bằng những tấm gỗ sồi có chạm trổ, trên bốn vách tường trưng bày la liệt cả một bộ sưu tập tuyệt vời những gạc nai và vũ khí kiểu cổ. Trong góc xa nhất của căn phòng kể từ cửa ra vào là cánh cửa sổ kiểu Pháp mà chúng tôi

đã được nghe kể. Ba khung cửa sổ nhỏ hơn bên tay phải làm cho căn phòng tràn ngập ánh nắng lạnh lẽo của mùa đông. Phía bên trái là một cái lò sưởi rộng, xây sâu vào tường, với những súc gỗ sồi nguyên khối viền quanh. Cạnh lò sưởi có đặt một chiếc ghế bành gỗ

sồi dáng nặng nề. Luồn qua một lỗ nhỏ trên những hoa văn chạm trổ trên chiếc ghế bành ấy là một sợi thừng đỏ, được cột chặt ở cả hai bên. Khi cởi trói cho phu nhân, người ta nới rộng sợi dây, nhưng những chỗ thắt nút vẫn chưa được tháo hẳn. Tuy vậy tâm trí chúng

tôi bị thu hút hoàn toàn vào các vật khủng khiếp, đang nằm dài trước mặt lò sưởi: xác của ông chủ nhà.

Nạn nhân là một người đàn ông cao lớn, thân hình cân đối, tuổi trạc tứ tuần. Ông ta nằm ngửa, cằm nghếch lên, hàm răng trắng lộ

rõ phía dưới hai mép hơi nhếch lên sau bộ râu đen xén ngắn. Hai bàn tay nắm chặt đang ở tư thế còn giơ cao quá đầu. Một chiếc gậy nặng trích nằm vắt ngang qua giữa hai bàn tay. Trên gương mặt đẹp trai, ngăm đen hằn rõ một vẻ căm thù ghê gớm. Chắc ông đang ngả lưng trên giường khi nghe tiếng động, vì trên người vẫn còn mặc nguyên áo ngủ, và phía dưới gấu quần còn thấy rõ đôi chân đi đất. Đầu ông bị một vết thương khủng khiếp.Cạnh đó nằm chơ

chỏng chiếc thanh cời than bị cong lại vì cú giáng mạnh vào đầu.

Holmes xem kỹ thanh sắt và xác nạn nhân.

- Lão kia hẳn phải có sức lực phi thường, lão Randall bố ấy - anh nhận xét.

- Đúng thế - Hopkins đáp - chúng tôi đã thu thập được một vài thông tin về lão và biết rõ lão là kẻ hết sức cộc cằn.

- Tóm cổ lão ta, chắc đối với ông sẽ chẳng có gì khó khăn.

- Không khó chút nào. chúng tôi đã theo dõi lão từ lâu, vì lão đã tính chuồn sang Mỹ. Bây giờ,biết bọn chúng còn ở đây, tôi nghĩ bọn chúng chỉ còn cách mọc cánh mới hy vọng trốn thoát. Chúng tôi đã cho yết thị nhân dạng bọn chúng tại tất cả các hải cảng, và định chiều nay thì công bố giải thưởng cho ai tóm được. Tôi thật không thể hiểu nổi tại sao bọn chúng lại làm một chuyên điên rồ như vậy,

vì chúng thừa biết sẽ bị phu nhân tả lại diện mạo, và nhất định chúng tôi sẽ nhận ra chúng.

- Đúng vậy. Tôi rất lấy làm lạ sao chúng không bắt phu nhân vĩnh viễn im lặng một thể.

- Tôi tôi dự đoán có lẽ chúng không biết là phu nhân đã tỉnh lại

- tôi nói.

- Có lẽ thế. Vì phu nhân xem ra đã bị ngất xỉu, nên chúng không thấy cần giết. Thế còn ông chủ tội nghiệp này thì sao, ông Hopkins? Tôi nhớ hình như có nghe đồn một số chuyện kỳ quặc về ông ta.

- Khi tỉnh rượu, ông ta là người tốt bụng, nhưng hễ quá chén rồi, thì hoá thành một con quỉ dữ. Vào những lúc như vậy, ông ta có thể làm đủ mọi chuyện. Có lần, ông ta đã gây nên một chuyện rắc rối: ông ta tẩm dầu hoả khắp người một con chó rồi châm lửa đốt - mà đó lại chính là con chó của phu nhân, mới lôi thôi chứ, và người

ta phải chật vật lắm mới giữ kín được vụ này. Về sau, ông ta còn ném cảm một cái chai vào bà hầu phòng Theresa Wright. Chuyện này lại gây nên rắc rối. Nhìn chung, cái này tôi nói riêng với ông

thôi, giá không có ông ấy thì cả nhà sẽ thấy dễ chịu hơn nhiều . Ông

đang nhìn gì vậy?

Holmes đang quì gối xuống sàn hết sức chăm chú xem xét những nút thắt trên sợi thừng đỏ dùng để trói phu nhân. Tiếp đến, anh xem kỹ chỗ đầu dây sờn bị đứt ra khi bọn trộm giật sợi thừng xuống.

- Khi chúng giật sợi dây này, cái chuông dưới bếp hẳn phải vang lên rất to - anh nhận xét.

- Không một ai nghe thấy cả. Nhà bếp nằm ngay sau nhà.

- Do đâu mà kẻ trộm biết được là sẽ không có ai nghe thấy tiếng chuông? Sao hắn lại dám liều lĩnh giật sợi dây như vậy nhỉ?

- Đúng thế, ông Holmes, đúng thế. Ông nêu lên chính câu hỏi mà tôi vẫn tự hỏi đi hỏi lại nhiều lần. Không còn ngờ vực gì nữa, kẻ

đó phải biết rõ nhà này và thói quen sinh hoạt của những người đang ở đây. Chúng phải hiểu cặn kẽ tất cả gia nhân đều đang ngủ

và không một ai ở dưới bếp để có thể nghe được tiếng chuông cả.

Như vậy là hắn phải quen biết rõ ai đó trong đám gia nhân. Chuyện này không còn gì phải nghi ngờ nữa. Nhưng trong nhà chỉ có tám gia nhân, và hạnh kiểm của họ đều rất tốt.

- Bình thường ra - Holmes nói - Người mà tôi nghi sẽ chính là

kẻ bị ông eustace ném vỏ chai rượu vào mặt: bà Theresa Wringt. Tuy nhiên, nếu thế thì bà lại là kẻ phản chủ, người chủ mà bà ta hình như đã hầu hạ hết sức tận tuỵ. Thôi được, đó chỉ là chuyện nhỏ nhặt. Câu chuyện phu nhân kể rõ ràng là rất chính xác, nếu căn cứ vào những gì mà chúng ta đang thấy trước mắt - Anh tiến về phí khung cửa sổ kiểu Pháp, và đẩy cả hai cánh ra - Chỗ này chẳng

có dấu vết gì, vả lại mặt đất lại cứng như sắt nên tôi không có hy vọng tìm thấy dấu vết. Theo tôi, những ngọn nến trên mặt lò sưởi lúc đó đã được thắp sáng.

- Đúng thế, chính nhờ những ngọn nến đó và mấy ngọn nến trong phòng ngủ của phu nhân mà bọn trộm thấy đường.

- Thế bọn chúng đã lấy đi những gì?

- Chẳng bao nhiêu. Mấy bộ đồ đã trong tủ buýp - phê. Phu

nhân Brackenstall nghĩ rằng chắc bọn chúng đã hốt hoảng với cái chết của Sir eustace. Nếu không, chắc chúng đã sục sạo khắp nhà.

- Đúng thế thật. Nhưng tôi thấy chúng đã ung dung uống rượu.

- Chắc để tự trấn tĩnh thôi.

- Đúng thế. Ba chiếc cốc trong gụ chắc chưa ai động tới thì phải.

- Chưa. Cả chai rượu vẫn để nguyên như khi bọn chúng bỏ lại.

- Nào, để ta xem thử. Ồ, cái gì thế này?

- Ổn cả rồi, Watson ạ - anh nói. Chúng ta đã khám phá được một trong những vụ án thú vị nhất trong bộ sưu tập của chúng ta. Nhưng tôi thật tối dạ, vì suýt nữa phạm phải một sai lầm tệ hại nhất đời mình! Bây giờ tôi nghĩ chỉ còn thiếu vài khâu bị mất nữa

là tôi đã có trong tay hầu như toàn bộ chuỗi sự kiện.

- Anh đã dò ra được các hung thủ?

- Chỉ một thôi, Watson, một hung thủ thôi. Một thôi, nhưng là một kẻ đáng gờm. Hắn khoẻ như gấu - cái thanh cời than bị bẻ cong kia là một minh chứng. Cao lớn, nhanh như sóc, khéo tay kinh khủng. Ngoài ra, còn tinh khôn rất mực, vì chính hắn đã dàn dựng nên toàn bộ vở kịch tài tình này. Có điều trên sợi dây kéo chuông kia, chính hắn đã để lại dấu vết của riêng mình, giúp chúng ta có được một đầu mối để loại bỏ hết mọi ngờ vực.

- Thế cái đầu mối đó nằm ở đâu?

- Thế thì anh nghe đây, Watson. Nếu anh giật sợi dây chuông thì anh thử liệu xem nó sẽ đứt ở đoạn nào? Rõ ràng nó sẽ đứt ở chỗ nối với sợi dây thép. Vậy thì sao nó lại đứt ở cách chỗ ấy tám phân như anh đã thấy?

- Vì chỗ đó bị sờn?

- Đúng. Đầu dây này, như chúng ta đã xem xét, quả có bị sờn thật. Và gã nọ quả đã đủ tinh quái, nên hắn mới dùng dao để làm

cho sợi dây có vẻ như bị sờn. Nhưng đầu ở trên kia thì không. Đứng

đây, anh không thể thấy được đâu, nhưng nếu anh trèo lên lò sưởi, anh sẽ thấy rõ nó đã bị cắt, chứ chẳng có dấu hiệu nào cho thấy là

bị sờn cả. Bây giờ, anh có thể tự mình tái lập được mọi diễn tiến. Hung thủ cần một sợi dây. Hắn không thể giật xuống vì sợ chuông rung, đánh động mọi người. Hắn phải làm gì? Trèo lên lò sưởi, nhưng vẫn không với tới, nên phải tỳ đầu gối vào đầu rầm chìa, anh

sẽ thấy dấu vết in lại trên lớp bụi ngoài đó, vì còn thấy hơn ít nhất tám phân nữa. Bởi vậy, hắn phải cao hơn tôi ít nhất tám phân. Này bây giờ anh thử nhìn xem vết gì trên mặt chiếc ghế bành gỗ sồi? Vết gì?

- Vết máu.

- Đúng là vết máu. Chỉ riêng chi tiết này thôi cũng đủ cho thấy:

câu chuyện của phu nhân Brackenstall là chuyện bịa. Nếu bà ta đã

bị trói vào đó trước lúc hung thủ giết ông chồng. Ước gì tôi được trò chuyện ngay bây giờ với bà vú nuôi Theresa. Chúng ta phải thật thận trọng, nếu chúng ta muốn thu thập được những thông tin mình muốn.

Bà ta, bà vú nuôi người úc nghiêm nghị ấy, quả là một nhân vật đáng chú ý. Bà ta đa nghi và ít thiện ý, nên thái độ hoà nhã của Holmes phải mất một thời gian mới chiếm được thiện cảm của bà.

Bà chẳng hề giấu giếm lòng căm ghét cả bà đối với ông chủ quá cố.

- Vâng, thưa ngài, quả tình ông ấy có ném cái vỏ chai vào tôi được. Tôi thấy ông ấy lăng mạ bà chủ tôi, nên tôi bảo thẳng với ông

ta rằng giá anh trai bà chủ có mặt ở đây thì ông ta đừng hòng ăn nói như thế. Vậy là tôi bị ông ấy ném thẳng cái vỏ chai vào mặt.

Ông ấy thường xử tệ với phu nhân Brakenstall, mà bà chủ tôi vốn kiêu hãnh, không bao giờ than phiền. Bà ấy thậm chí cũng không kể cho tôi nghe những cách hành hạ của ông ta đối với bà. Ngay cả những vết bầm trên tay mà ông thấy sáng nay cũng vậy, như tôi biết rõ chính là vết đinh ghim mũ. Ông ấy tỏ ra hết sức dịu dàng hồi chúng tôi gặp nhau lần đầu chỉ mới cách đây có mười tám tháng. Nhưng cả hai chúng tôi lại cảm thấy mười tám tháng ấy dài

chẳng khác nào mười tám năm. Hồi đó, bà chủ tôi vừa chân ướt

chân ráo tới Luân Đôn. Vâng, đó là lần xa nhà đầu tiên, chứ trước

đó phu nhân chưa bao giờ đi đâu cả. Ông ấy đã dùng tước vị, tiền bạc và cả thủ đoạn giả dối để chiếm đoạt bà chủ. Lấy ông ta, bà ấy

đã phạm một sai lầm, và bà ấy đã trả giá xong cho sự sai lầm ấy. Ông hỏi: chúng tôi gặp ông ấy hồi tháng nào, đúng không ạ? Thế thì xin thưa là chúng tôi gặp ông ta ngay sau ngày đến: chúng tôi sang hồi tháng Sáu, và gặp ông ta hồi tháng Bảy. Ông ấy cưới bà chủ tôi vào tháng Giêng năm ngoái. Vâng bà chủ vẫn đang nằm nghỉ dưới phòng khách, và dĩ nhiên sẽ vui lòng gặp ngài. Nhưng xin ngài đừng gạn hỏi bà ấy nhiều, vì bà ấy vừa phải chịu đựng hết thảy những gì ít người phàm trần đủ sức kham nổi.

Phu nhân Brakenstall vẫn nằm trên chính chiếc đi văng đó, nhưng trông đã đỡ thất sắc hơn hồi sáng, bà hầu phòng cũng theo vào cùng chúng tôi; và bắt tay vào thay tấm khăn chườm lên trán

cô chủ.

Tôi hy vọng - phu nhân lên tiếng - rằng ông đến đây không phải để thẩm vấn tôi lần nữa?

- Ồ, không, Holmes đáp, giọng hết sức lịch sự. Tôi sẽ không quấy rầy bà thêm nữa đâu, thưa phu nhân Brakenstall. Tôi chỉ muốn cất đỡ gánh nặng cho phu nhân thôi.

- Vậy ông muốn tôi phải làm gì?

- Kể hết sự thật.

- Ông Holems!

- Ồ, không, không, phu nhân Brakenstall làm như vậy hoàn toàn vô ích. Tôi biết chắc rằng câu chuyện của phu nhân kể là hoàn toàn sai sự thật.

Cả phu nhân Brakenstall lẫn bà hầu phòng đều chằm chằm nhìn Holmes, mặt tái đi, ánh mắt lộ vẻ sợ hãi.

- Ông thật là thô lỗ! - bà Theresa kêu lên - Ông muốn ám chỉ bà chủ tôi đã nói dối?

Holmes đứng ngay dậy.

- Phu nhân không có gì để kể với tôi sao?

- Tôi kể hết với ông rồi còn gì.

- Mong phu nhân nghĩ lại, phu nhân Brakenstall. Chân thật, tôi nghĩ, sẽ tốt hơn nhiều.

Một thoáng lưỡng lự lướt qua gương mặt kiều diễm của phu nhân. Nhưng rồi một quyết định mới khiến khuôn mặt ấy cứng lại như thể đeo mặt nạ.

- Tôi đã kể hết với ông những gì mình biết. Holmes cầm lấy mũ, nhún vai.

- Tôi rất lấy làm tiếc - anh nói. Rồi không thốt thêm một lời nào nữa, chúng tôi rời khỏi phòng, ra về. trong khu vườn có một cái ao,

và bạn tôi lôi tôi đi về phía đó. Mặt ao đóng băng gần hết, và chỉ còn chừa một khoảnh nhỏ dành làm nơi trú đông cho một con thiên nga

cô độc. Holmes nhìn chòng chọc vào vũng nước nhỏ đó một lúc, rồi

đi tiếp về phía cổng vườn. Dừng chân bên cổng, Holmes ngệch ngoạc một mấu giấy ngắ, troa cho người gác cổng, nhờ chuyển lại cho ngày Stanley Hopkins.

- Chúng ta có thể hoặc trúng đích, hoặc chệnh mục tiêu, nhưng đằng nào cũng phải làm được một chút gì giúp ông bạn Hopkins, dù chỉ để thanh minh cho chuyến viếng thăm thứ hai - anh nói. Rồi không thốt thêm lời nào nữa, chúng tôi rời khỏi phòng, ra về. Trong khu vườn có một cái ao, và bạn tôi lôi tôi đi về phía đó. Mặt ao đóng băng gần hết, và chỉ còn chừa một khoảnh nhỏ dành làm nơi trú đông có một con thiên nga cô độc. Holmes nhìn chòng chọc vào vũng nước nhỏ đó một lúc, rồi đi tiếp về phía cổng vườn. Dừng chân bên cổng, Holmes nguệc ngoạc một mẩu giấy ngắn, trao cho người gác cổng, nhờ chuyển lại cho ngài Stanley Hopkins.

- Chúng ta có thể hoặc trúng đích, hoặc chệch mục tiêu, nhưng đằng nào cũng phải làm được một chút gì giúp ông bạn Hopkins, dù chỉ để thanh minh cho chuyến viếng thăm thứ hai - anh nói. Tuy

vậy tôi vẫn chưa dám tiết lộ hết bí mật với ông ấy. Tôi nghĩ, bây giờ

nơi kế theo mà ta cần đến để điều tra vụ này là văn phòng của hãng hàng hải Adelaide - Southampton.

Qua viên Giám đốc, Holmes nhanh chóng thu thập được mọi thông tin mà anh cần biết. Vào tháng sáu năm 1895, hãng chỉ có duy nhất một con tàu cập bến Anh quốc. Đó là chiếc Rock of Gibraltar, con tàu lớn và đẹp nhất hãng. Bản danh sách hành khách cho thấy: cô Fraser xứ Adelaide cùng bà hầu của cô đã đi chuyến này. Hiện thời con tàu đang chạy ngang qua một nơi thuộc mạn nam kênh Suez, trên hải trình sang úc như lệ thường. Thành phần sĩ quan trên con tàu vẫn giống hệt như hồi năm 1895, ngoại trừ một điều: viên phó thuyền trưởng, ông Jack Croker, đã được đề bạt lên cấp thuyền trưởng và chuyển sang chỉ huy con tàu mới của hãng, chiếc Bass Rock, hai ngày nữa sẽ rời Southampton. Viên sĩ quan này hiện sống tại Sydenham, nhưng sáng nay anh ta có lẽ sẽ đến đây, và nếu chúng tôi muốn thì có thể chờ gặp anh ta.

- Không, thưa ông. Chúng tôi không định gặp, nhưng rất lấy làm sung sướng nếu được biết thêm về lý lịch và hạnh kiểm của anh ta.

Lý lịch của anh ta tuyệt hảo. Trong hạm đoàn, không một sĩ quan nào được đánh giá cao như thế. Còn về hạnh kiểm, tuy anh ta

là một người ngông cuồng, liều lĩnh khi lên bờ, nóng nảy, dễ bị kích động, nhưng lại la một sĩ quan đáng tin cậy lúc thi hành phận sự, cương trực, chân thành và tốt bụng. Nắm được những thông tin dó, chúng tôi rời văn phòng hãng Adelaide - Southamton, và vòng tới sở điện tín Charing Cross. Holmes gửi một bức điện, rồi chúng tôi lại quay về Baker Street.

Ba chiếc cốc trong tủ để cạnh nhau. Một chiếc vãn còn ít cặn dưới đáy. Chai rượu đặt bên cạnh, chỉ vơi hết một phần ba, và nằm bên cạnh là cái nút chai dài ngấm rượu rất sâu. Thái độ của Holmes bỗng đổi khác, và tôi lại thấy cặp mắt sâu và tinh của anh ánh lên

vì hào hứng. Anh giơ cao cái nút chai lên ngắm nghía rất kỹ.

- Bọn chúng mở nút chai rượu bằng cách nào nhỉ"- anh hỏi.

Hopkins chỉ vào cái ngăn kéo đang mở nửa chừng, bên trong có

vài chiếc khăn trải bàn vải lanh và một cái mở nút chai.

- Phu nhân Brackenstall có nói tới chuyện chúng dùng cái mở nút chai này không?

- Không. Ông không nhớ à, phu nhân đã bị ngất xỉu khi chúng mở chai rượu.

- Nhớ chứ. Thực ra cái mở nút chai này đã không được dùng đến. Chúng mở chai rượu bằng một cái mở nút loại bỏ túi, có lẽ nằm trong một con dao nhíp, và không dài quá ba phân. Nếu ông quan sát phần trên của cái nút thì ông sẽ thấy ngay rằng cái nút chai của bọn chúng đã phải xoáy vào ba lần mới mở được chai rượu. Còn nếu dùng cái trong ngăn kéo kia thì chỉ cần một lần xoáy là được. Khi tóm được gã nọ, các ông sẽ phát hiện được rằng hắn có một con dao nhíp.

- Tuyệt! - Hopkins nói - Nhưng, thú thực, ba cái cốc này lại khiến tôi băn khoăn. Phu nhân Brackenstall đã từng tận mắt ba gã

nọ uống rượu phải không.

- Có. Phu nhân đã kể rõ rồi còn gì.

- Vậy là câu chuyện đã kết thúc. Còn biết nói gì nữa kia chứ? Nhưng ông phải thừa nhận rằng ba cái cốc này rất đáng để ý, thưa ông Hopkins. Sao, ông không nhận thấy gì sao? Thôi được, không sao cả. Dĩ nhiên, mấy cái cốc này chỉ là chuyện ngẫu nhiên thôi. Thôi, chào ông Hopkins. Tôi không nghĩ rằng tôi có thể giúp ông được gì, vì với ông, vụ này coi như đã rõ cả rồi. Khi nào ông bắt được Randall, ông nhớ báo cho tôi biết, và cũng xin ông cho biết những gì có thể xảy ra sau đó nữa. Tôi hy vọng sẽ sớm được chúc mừng ông kết thúc vụ án thắng lợi.

Trên đường về, qua nét mặt của Holmes, tôi có thể thấy rõ là anh vẫn bị dằn vặt vì một điều gì đó mà chính mình vừa quan sát được. Cứ mỗi lần như vậy anh lại cố gạt bỏ những ý nghĩ ấy đi và trò chuyện như thể vụ án đã rõ cả rồi. Nhưng sau đó, mối người vực

lại ám ảnh anh, và vẻ mặt anh cho thấy anh lại đang mải nghĩ về

căn phòng ăn lớn rộng tại Abbey Grange. Cuối cùng, đúng vào lúc

sắp sửa rời ga, anh bỗng nhảy phắt xuống và kéo tôi xúông theo.

- Anh Watson thân mến ạ, anh thứ lỗi cho tôi nhé, - anh nói trong khi chúng tôi nhìn theo những toa cuối cùng của đoàn tàu khuất sau một khúc quanh. Tôi rất lấy làm tiếc là gây phiền phức cho anh, nhưng thực tình tôi không thể để yên vụ án trong tình trạng như thế này. Mọi bản năng trời cho ở trong tôi đều lên tiếng phản đối việc đó: không ổn rồi, sai to rồi. Tôi dám quả quyết rằng mình đã đi chệch hướng, xác nhận của bà hầu phòng cũng rất đầy đủ. Mọi chi tiết đều rất chính xác. Vậy tôi lấy gì để bác lại? Ba cái cốc, chỉ có vậy thôi. Nhưng sự thể ra sao, nếu ta không tin hoàn toàn vào những chuyện ấy? Nết ta cứ tự xem xét sự việc một cách thận trọng, như lẽ ra ta phải làm trong trường hợp phu nhân Brackenstall không nói gì hết? Lúc bấy giờ, chẳng lẽ ta không tìm được một cái gì cụ thể hơn để điều tra tiếp hay sao? Dĩ nhiên là được. Ngồi xuống đi, Watson! Trong lúc chờ chuyến tàu quay lại Chislehurst tôi sẽ trình bày cho anh thấy những bằng chứng. Chúng ta không nên tin vào bất cứ điều gì mà bà hầu phòng hoặc cô chủ ba ta đã nói. Đừng để cho cái nhân cách khả ái của phu nhân Brackenstall tác động đến những nhận định của chúng ta.

- Chắc chắn là trong câu chuyện của phu nhân có những chi tiết mà nếu xem xét lại, ta sẽ thấy rất đáng nghi. Băng trộm này vừa làm một vụ gây xôn xao cách đây hai tuần. Một số hành tung

và diện mạo của bọ chúng đã được báo chí đăng tải, nên bất cứ ai muốn dựng lên một cậu chuyện trộm cắp tưởng tượng cũng đều nghĩ đến chúng. Thực ra, những bọn kẻ trọm vừa được một vố béo

bở thì thường chỉ thích ngồi yên tận hưởng món "chiến lợi phẩm" nọ, chứ không dại gì lại tiến hành một vụ mạo hiểm mới. Việc chúng đánh một người đàn bà để buộc bà ta câm miệng cũng thật lạ đời, bởi lẽ theo tôi nghĩ, đó chính là cách chắc chắn nhất để khiến

bà ta kêu ầm lên. Cũng lạ đời và việc gì chúng phải giết một mạng người trong khi bọn chúng thừa sức bắt ông ta ngồi im mà không cần gây án mạng. Cũng lạ đời là tại sao bọn chúng lại mãn nguyện chỉ với vài món dọn đồ ăn bằng bạc, trong khi chúng có thể vơ vét

được nhiều hơn thế nhiều. Và điều lạ đời cuối cùng là tại sao bọn

chúng lại chịu vứt lại chai rượu mới uống có một ít. tất cả những điều vừa nói đó không khiến anh ngạc nhiên sao, Watson thân mến?

- Toàn bộ, những điều đó gộp lại thì rõ ràng là rất đáng lưu ý, nhưng nếu xét từng điểm một thì thấy chẳng có gì là lạ.

- Và bây giờ ta nói đến điều đáng chú ý nhất: mấy cái cốc uống rượu.

- Mấy cái cốc đó thì có gì là lạ?

- Người ta khai với chúng ta là cả ba đều đã uống rượu. Anh có tin lời khai đó không?

- Sao lại không? Vết rượu vẫn còn nguyên trong cả ba.

- Đúng. Nhưng chỉ một là còn thấy cặn rượu dưới đáy. Anh nên để ý chi tiết đó. Anh giải thích thế nào về chi tiết này?

- Chiếc cốc có cặn là chiết rót sau cùng.

- Ồ, không, không. Chai rượu còn đầy, nên không thể có chuyện rượu ở hai cốc đầu thì trong, còn cốc thì ba thì không. Có hai khả năng giải thích, và chỉ có thể có hai thôi. Khả năng thứ nhất: rót xong hai cốc đầu, bọn chúng đã lắc mạnh chao, rồi mới rót cốc thứ ba, nên cặn chỉ lắng xuống cốc thứ ba. Nhưng khó có chuyện đó lắm. Phải, phải. Tôi tin chắc mình hoàn toàn đúng.

- Vậy thì anh lý giải thế nào?

- Họ chỉ dùng có hai chiếc cốc, và đổ những giọt cuối cùng trong hai cốc này sang cốc thứ ba để tạo cho người ngoài cái ấn tượng là

đã có ba người cùng uống với nhau. Chính vì vậy, nên cặn rượu chỉ thấy có ở đáy chiếc cốc cuối cùng, đúng không? Phải, tôi quả quyết

sự việc đã diễn ra đúng như thế. Nhưng nếu quả như vậy được, thì

có nghĩa là phu nhân Brakenstall và bà hầu phòng của phu nhân cố tình nói dối chúng ta. Không một lời nào trong câu chuyện họ kể còn có thể tin cậy được cả. Họ phải có những lý do hết sức nghiêm trọng để che giấu kẻ thủ phạm đích thực, và chúng ta chỉ còn cách

phải tự mình dựng lại vụ án, chứ đừng hy vọng vào bất cứ sự giúp

đỡ nào từ phía họ. Đó chính là sứ mạng mà ta phải gánh vác kể từ giờ phút này, và kìa, Watson tàu đi Chislehurst đã tới kia rồi.

Những người sống ở Abbey Grange rất sửng sốt khi tháy chúng

tôi quay lại. Stanlay Hopkins đã về gặp thượng cấp để báo cáo kết quả, nên Sherlock Holmes chiếm ngay lấy phòng ăn, khoá trái cửa

lại và dành trọn hai giờ đồng hồ để khám xét cẩn thận mọi thứ. Tôi thì ngồi xuống một chiếc ghế kê ở góc phòng, hệt như một sinh viên chăm chỉ theo dõi thầy giáo thao diễn, và cố theo sát từng bước một tiến trình của cuộc khám phá thú vị kia. Khung cửa sổ, mấy tấm rèm, chiếc thảm, chiếc ghế, rồi sợi dây - tất cả đều lần lượt được xem xét tỉ mỉ. Thi thể huân tước eustace đã đượ cmang đi rồi, nhưng mọi thứ vẫn còn được giữ nguyên như chúng tôi đã thấy sáng nay. Thế rồi, trước sự ngạc nhiên của tôi, Sherlock Holmes trèo lên mặt cái lò sưởi rộng. Trên đầu anh lủng lẳng một đoạn dây giật chuông màu đỏ, dài chừng vài phân, vẫn còn buộc chặt vào sợi dây thép nối liền với cái chuông treo dưới nhà bếp. Sherlock Holmes ngắm nó hồi lâu, rồi để vươn người lên cho gần thêm chút nữa, anh

tì hẳn gối vào một đường gờ bằng gỗ áp trên tường. Nhờ vậy tay anh chỉ còn cách đầu sợi dây thừng vài phân, nhưng việc đó không khiến anh chú ý bằng cái rầm chìa trên tường. Xong xuôi, anh nhảy xuống, miệng khẽ reo lên một tiếng tỏ ý mãn nguyện.

Gần tới, viên thanh tra Staley Hopkins ghé thăm chúng tôi. Công việc của ông rõ ràng chẳng mấy suôn sẻ.

- Ông Holmes, ông quả là một pháp sư. Thỉnh thoảng tôi nghĩ thầm ông có một sức mạnh siêu phàm. Này, nhờ đây mà ông biết được những bộ đồ bằng bạc bị đánh cắp đó chúng đã vứt xuống đáy ao?

- Thật vậy sao? Thế mà tôi không biết đấy.

- Nếu vậy thì tại sao ông lại dặn tôi thử mò đấy ao?

- Ông đã vớt lên được rồi chứ gì?

- Phải, đúng thế.

- Tôi rất lấy làm mừng là đã giúp được ông.

- Nhưng ông có giúp gì tôi đâu! Ông làm cho vụ án rắc rối thêm thì có. Làm gì có thứ kẻ trộm cố vơ vét đồ đạc bằng bạc, lại đem vứt xuống cái ao gần nhất?

- Quả là một hành vi khá kỳ quặc. Tôi chỉ có ý là chỗ đồ bạc lấy

đi chỉ để đánh lạc hướng chúng ta. Vì thế, dĩ nhiên, bọn chúng chỉ muốn vứt bỏ nó đi cho nhanh.

- Nhưng tại sao ông lại đi đến ý nghĩ đó?

- Ồ, tôi nghĩ đó là chuyện có thể có được. Khi chúng tẩu thoát qua cái cửa sổ kiểu Pháp, ngay trước mặt chúng đã hiện ra một cái ao. Trên mặt ao lại có một chỗ nước chưa đóng băng đầy sức quyến rũ. Tìm đâu ra một nơi cất giấu tốt hơn thế?

- À, một nơi cất giấu! Hay quá - Stanley Hopkins reo lên. Vâng, vâng, giờ thì tôi hiểu hết cả rồi! Dọc đường sẽ có người, chúng sợ chạm trán với họ giữa lúc đang mang mấy bộ đồ ăn bằng bạc, nên chúng vội tẩu tán tang vật xuống ao, chờ dịp thuận tiện sẽ quay lại lấy lên. Tuyệt quá, ông Holmes ạ. ý tưởng này đắc địa hơn ý tưởng lúc đầu. Nhưng tôi vẫn vướng phải một trở ngại lớn.

- Trở ngại?

- Đúng thế, ông Holmes ạ. Băng Randall vừa bị bắt sáng nay tại New york.

- Trời ơi, ông Hopkins! Vậy thì rõ ràng giả thuyết của ông về việc bọn này gây ra vụ án mạng tại Kent tối qua đã hoàn toàn đổ vỡ.

- Ông Holmes, đó quả là một đòn chết người, thực sự chết người. Tuy vậy, chắc là còn có nhiều băng trộm khác, ngoài bọn Randall, cũng gồm ba tên, hoặc có một băng mới nào đó nữa, mà cảnh sát chưa hề nghe nói.

- Có lẽ thế. Rất có thể là đúng thế thật. Nếu vậy thì ông còn phải điều tra tiếp?

- Vâng, ông Holmes. Tôi còn chưa được nghỉ ngơi chừng nào

vẫn chưa làm sáng tỏ ngọn ngành vụ này. Tôi hy vọng ông sẽ vui lòng gợi cho tôi một ý tưởng nào hay hay?

- Thì tôi đã mách cho ông rồi đấy thôi

- Mách gì kia?

- Phải, tôi đã nói với ông là bọn chúng cố đánh lạc hướng.

- Nhưng để làm gì, ông Holmes, để làm gì?

- À, dĩ nhiên, đó chính là vấn đề. Nhưng ông có thể thấy là có một cái gì trong đó. Ông không thể ở lại dùng cơm với chúng tôi à? Vậy thì xin tạm biệt ông, và nhớ cho chúng tôi biết kết quả cuộc điều tra.

Ăn tối xong, Holmes châm một tẩu thuốc, rồi đưa chân lại gần ánh lửa đang reo vui trong lò sưởi. Thình lình anh liếc nhìn đồng hồ.

- Tôi đang chờ một sự việc nữa xảy ra, Watson ạ.

- Bao giờ?

- Chỉ vài phút nữa thôi. Chắc lúc này anh đang nghĩ rằng tôi đã đối xử không phải với Stanley Hopkins đúng không?

- Tôi tin vào sự phán đoán của anh.

- Một lời đáp thật tế nhị. Watson, anh phải nhìn sự việc theo cách sau đây: những gì tôi biết chỉ mang tính chất riêng tư, còn những gì ông ta biết lại là chuyện công vụ. Tôi có quyền phán đoán theo cách của riêng tôi; còn ông ta thì không thể. Ông ta phải phơi bày hết thảy mọi chuyện, nếu không sẽ bị xem là không làm tròn công vụ. Trong một vụ còn nhiều ngờ vực, tôi không thích đẩy ông

ta vào một tình thế khó xử, và vì vậy, tôi phải giữ kín mọi thông tin cho tới lúc nội vụ đã được làm sáng tỏ.

- Nhưng đến bao giờ thì mới sáng tỏ?

- Sắp rồi. Anh sắp được chứng kiến màn chót của một vở kịch nhỏ đặc sắc.

Có tiếng chân lên cầu thang, rồi cửa mở và một người đàn ông

trẻ tuổi, cao lớn xuất hiện. Khách là một chàng trai để ria vàng, mắt xanh, da rám nắng. Anh đóng cửa lại, rồi đứng yên, hai tay nắm chặt lại như đang cố nén một cảm xúc mãnh liệt nào đó.

- Mời ông ngồi, thuyển trưởng Croker. Chắc ông đã nhận được bức điện?

- Khách gieo phịch người xuống chiếc ghế bành, rồi đưa cặp mắt dò xét hết nhìn tôi lại nhìn Holmes.

- Tôi vừa nhận được bức điện, và đến đúng giờ ông đã chỉ định trong bức điện. Tôi nghe nói ông có đến đằng văn phòng. Thật chẳng có cách nào lẩn tránh được ông. Tôi sẵn sàng nghe những lời phán xử tồi tệ nhất. Ông định xử lý với tôi thế nào đây? Bắt tôi? Ông nói đi! Chứ đừng ngồi đó mà đùa giỡn với tôi như mèo vờn chuột.

- Tôi sẽ không ngồi đây phì phèo tẩu thuốc trước mặt ông nếu

tôi cho ông là một tên tôi phạm, ông có thể tin chắc như vậy - Holmes nói. Hãy thành thực với tôi, thì ông và tôi sẽ có thể làm một việc gì tốt đẹp. Còn nếu ông định giở trò lừa gạt tôi, thì tôi sẽ triệt

hạ ông ngay.

- Xin ông cho biết: ông muốn tôi làm gì?

- Thuật lại một cách trung thực cho tôi nghe những gì đã diễn

ra tại Abbey Grange tối qua, không thêm, không bớt. Tôi đã biết đủ

tới mức nếu ông kể sai sự thật dù chỉ một chút, là tôi sẽ gọi cảnh sát,và thế là vụ này sẽ vĩnh viễn vuột khỏi tầm tay tôi đấy.

Chàng thuyền trưởng đăm chiêu một lúc, rồi nắm chặt bàn tay to, rám nắng giáng mạnh một cái xuống đùi.

- Thôi, đành liều vậy - anh thốt lên. Tôi tin ông là người trọng

lời hứa, nên xin kể cho ông nghe hết câu chuyện. Nhưng trước tiên,

tôi phải nói diều này. Tôi chẳng ân hận, mà cũng chẳng sợ hãi bất

cứ điều gì. Ví thử phải làm lại từ đâu, tôi cũng sẽ làm đúng như vậy, sẽ lấy làm tự hào vì đã làm như thế. Nhưng hễ nghĩ tới chuyện

mình sẽ gây rắc rối cho Mary Fraser, là lòng tôi lập tức thấy hãi

hùng. Tôi sẵn sàng đổi mạng sống của mình để được nhìn thấy gương mặt thân yêu của nàng một nụ cười tươi vui.

Tôi phải kể lùi câu chuyện lại một chút. Ông hình như đã biết hết mọi chuyện; vì vậy, tôi nghĩ ông đã biết tôi gặp nàng khi nàng

là một hành khách, còn tôi là phó thuyền trưởng trên tàu Rock of

Gibraltar. Ngay từ lần đầu gặp nàng, nàng đã trở thành người phụ

nữ duy nhất của đời tôi. Và càng ngày, tôi càng yêu thương nàng hơn trong suốt cuộc hành trình đó. Tôi thường quì trong bóng tối và hôn lên boong tàu, vì tôi biết rằng chân nàng đã đi qua đó. Nàng chẳng bao giờ có tình cảm đặc biệt với tôi. Nàng cư xử với tôi tử tế, như bất cứ người đàn bà nào cũng có thể đối xử với một người đàn ông. Tôi không có điều gì phải trách cứ nàng. Về phía tôi là một tình yêu toàn tâm, còn về phía nàng chỉ là thiện cảm và tình bằng hữu. Khi chúng tôi chia tay nhau, nàng vẫn là một cô gái tự do; còn

tôi thi không bao giờ còn có thể thấy mình tự do được nữa.

Sau ngày trở về từ chuyến đi kế tiếp, tôi được tin nàng đã lấy chồng. Ồ, sao nàng lại không được quyền lấy người nàng yêu kia chứ? Tôi chẳng đau buồn gì về cuộc hôn nhân đó. Tôi không phải là một kẻ vị kỷ. Tôi chỉ mừng vì hạnh phúc đã mỉm cười với nàng, và khỏi chứng kiến cảnh nàng phải gắn bó đời mình với anh chàng thuỷ thủ nghèo khổ. Tôi yêu Mary Fraser say đắm đến thế đấy!

- Ồ, tôi không bao giờ nghĩ là mình sẽ được gặp lại nàng. Nhưng rôi tôi bỗng được thăng chức sau chuyến đi mới đây. Con tàu mới chưa được hạ thuỷ; vì vậy, tôi phải về nhà ở Sydenham vài tháng trong lúc chờ đợi. Một hôm, đang đi dạo trên đường làng, tôi bỗng gặp Theresa Wright, bà hầu già của nàng. Bà ta kể cho toi nghe về nàng, về lão ta, về mọi chuyện. Thưa quí ngài, tôi phải cho quí ngài hay rằng tôi suýt phát điên, khi biết gã chó chết nghiện ngập đó đã dám đánh nàng, thiên thần của tôi! Tôi gặp lại bà Theresa. Rồi gặp chính Mary, rồi lại gặp nàng lần thứ hai. Sau đó, nàng không cho tôi gặp nữa. Nhưng gần đây tôi có nhận được một thông báo: một tuần nữa tôi sẽ phải lên đường. Vì thế, tôi quyết

định phải gặp lại nàng lần nữa. trước ngay rời Anh quốc. Tôi bao

giờ cũng coi bà Theresa như bạn, vì bà cũng yêu Mary và cũng căm ghét cái lão hung ác nọ chẳng thua kém gì tôi. Qua bà ấy, tôi biết rõ đường đi lối lại trong nhà. Mary thường ngồi đọc sách trong căn phòng nhỏ của nàng ở tầng trệt. Tối qua, tôi đi vòng qua đó, rồi cào vào cửa sổ ra hiệu. Thoạt tiên nàng không mở cửa. Nhưng tôi biết bây giờ nàng đã thầm yêu tôi và không nỡ để tôi phải đứng trong bóng tối giá rét. Nàng thầm bảo tôi hãy vòng ra cánh cửa sổ lớn ở phía trước. Tôi thấy cửa đã mở sẵn, để tôi có thể trèo vào phòng ăn. Vâng, thưa quí ngài, tôi đang đứng với nàng bên cửa sổ thì lão ta lao vào, như một thằng điên. Lão chửi nàng một câu thậm tệ, rồi giơ cao chiếc gậy đang lăm lăm trong tay, lão vụt vào mặt nàng. Tôi chồm tới, vớ lấy thanh cời than và giữa hai chúng tôi đã nổ ra một cuộc đọ sức sòng phẳng. Ông nhìn đây, trên tay tôi vẫn còn nguyên dấu vết chiếc gậy của lão, vì lão ra đòn trước. Tôi không chút ân hận. Bởi lẽ đây là chuyện một mất một còn; hoặc là lão, hoặc là tôi.

Và hơn thế nữa: hoặc là tính mạng của lão ấy, hoặc là tính mạng của nàng, vì làm sao tôi có thể phó mặc nàng cho cái lão điên rồ ấy? Tôi đã giết lão như vậy đấy. Tôi có sai trái không? ấy, thử hỏi hai ông thì hai ông sẽ làm gì, nếu ở vào địa vị tôi?

Nàng đã thét lên khi bị lão đánh, nên bà Theresa nghe thấy vội chạy xuống. Thấy trong tủ buýp - phê có một chai rượu, tôi liền lấy

ra, mở nút, đổ vài giọt vào miệng Mary, vì nàng đang bất tỉnh do bị

choáng. Rồi cũng uống một hợp. Bà Theresa thì bình tĩnh như không, và cách khai báo với cảnh sát chính là do tôi và bà ta nghĩ

ra. chúng tôi buộc phải làm cho người ta tưởng vụ án mạng do bọn

trộm gây nên. Trong lúc tôi trèo lên cắt sợi dây chuông, thì bà Theréa cứ nhắc đi nhắc lại cho Mary thuộc lòng câu chuyện bịa đặt kia. Sau đó, tôi trói nàng vào chiếc ghế, làm xơ dầu dây cho có vẻ tự nhiên. Nếu không người ta sẽ phải tự hỏi: làm cách nào mà tên trộm có thể leo lên tận đó? Rồi tôi vơ vội một vài bộ ấm chén, thìa đĩa bằng bạc, làm ra vẻ đây là một vụ trộm. Tôi để Mary và bà Theresa ở lại, dặn họ chỉ hô hoán sau khi tôi đã rời khỏi nhà mười lăm phút. Tôi vứt những bộ đồ ăn bằng bạc xuống ao và về lại

Sydenham, lòng mãn nguyện vì đã làm một việc tốt thật sự. Đó là

sự thật, ông Holmes ạ, dù tôi có phải trả giá cho nó bằng tính mạng của tôi chăng nữa.

Holmes trầm ngâm hút thuốc và im lặng hồi lâu. Rồi anh tiến đến bắt tay viên thuyền trưởng.

- Tôi biết mỗi lời ông nói ra đều đúng sự thật, - anh nói - vì ông không cho tôi biết thêm một điều gì mới lạ cả. Ngoài trừ một thuỷ thủ không một ai có thể thắt được những nút buộc chặt đến thế khi trói phu nhân Brackenstall vào chiếc ghế bành. Mà phu nhân thì chỉ mới gặp dân thuỷ thủ đúng một lần hồi bà đáp tàu sang Anh.

Và người đó ắt phải cùng giai tầng với bà; vì bà đã cố che chở, và điều này cho thấy bà rất yêu con người đó. Ông thấy đấy, tôi đã dễ dàng tìm ra dấu vết ông, một không tôi đã đi đúng đường.

- Tôi nghĩ rằng cảnh sát sẽ không bao giờ phát hiện được sự thật qua câu chuyện chúng tôi bày ra.

- Và quả nhiên họ đã không phát hiện được - và tôi không tin là

họ sẽ phát hiện được. Thuyền trưởng Croker, vụ này rất nghiêm trọng, tuy tôi sẵn lòng thừa nhận ông đã hành động như một trang quân tử. Tôi rất có thiện cảm với ông, cho nên nếu ông chọn phương

án là sẽ rời khỏi Anh quốc sau hai mươi bốn tiếng nữa, tôi xin hứa ông sẽ không bị một ai cản trở.

- Sau đó ông sẽ báo cho cảnh sát?

- Dĩ nhiên.

Sắc mặt viên thuyền trưởng vụt ửng đỏ vì phẫn nộ.

- Sao ông lại đề nghị với tôi kỳ cục như vậy? Tôi biết rõ luật pháp nên thừa hiểu Mary sẽ bị bắt vì tội đồng loã. Ông tưởng tôi sẽ

bỏ mặc nàng để tẩu thoát một mình sao? ồ, không, thưa ông. Cứ để mặc họ muốn làm gì tôi thì làm, nhưng ông Holmes, xin ông vì Chúa, hãy nghĩ cách giúp Mary tội nghiệp của tôi khỏi phải ra toà.

Holmes lại chìa tay lần nữa cho viên thuyền trưởng.

- Tôi chỉ thử lòng ông vậy thôi. Được rồi, tôi xin nhận cái trọng trách ông trao cho tôi, nhưng tôi đã cho Hopkins một lời gợi ý rất

đáng giá, và nếu ông ấy không biết khai thác cái ý đó, thì tôi không

thể làm gì hơn. Nào, thuyền trưởng Croker, bây giờ chúng ta sẽ làm đúng thể thức của toà án. Ông là bị cáo, còn Watson, anh là bồi thẩm đoàn,t ôi không thấy ai thích hợp hơn anh để đảm nhận vai này. Tôi là chánh án. Vâng, thưa các vị trong bòi thẩm dodàn, các vị

đã nghe lời khai, các vị thấy bị cáo có tội hay vô tội?

- Vô tội - tôi nói.

- Vậy ông được trắng án, thyền trưởng Croker ạ. Và trong khi luật pháp chưa tìm được một con mồi nào khác, thì ông được hoàn toàn bình yên vô sự từ phía tôi.

CUỘC PHƯU LƯU

CỦA SÁU PHO TƯỢNG NAPOLEON

Ông Lestrade, thanh tra Scotland yard, buổi tối thỉnh thoảng ghé thăm chúng tôi và Sherlock Holmes rất hoan nghênh những buổi tối ấy, vì nhờ đó mà anh có được mối liên hệ thường xuyên với Tổng nha cảnh sát. Để đền đáp lại cho những tin tức mà Lestrade đem đến, Holmes luôn chăm chú lắng nghe mọi tình tiết về các vụ

án mà viên thanh tra này đang phụ trách điều tra. Đôi lúc, như hoàn toàn vô tình, anh biết cách đưa ra những lời khuyên và gợi ý rút từ vốn tri thức và kinh nghiệm phong phú của anh.

Riêng tối hôm đó Lestrade, sau khi nói về thời tiết và tin các báo, không nói thêm gì nữa, chỉ làm thinh. Holmes nhìn xoáy vào ông.

- Ông có vụ nào đáng chú ý không? - Holmes hỏi.

- Ồ không, ông Holmes ạ, chẳng có gì đặc biệt cho lắm.

- Vậy thì ông cứ kể cho tôi nghe đi. Lestrade cười:

- Khó mà giấu nổi ông điều gì, ông Holmes ạ. Đúng là tôi đang nghĩ đến một chuyện, nhưng nó thật vớ vẩn nên tôi cứ phân vân không biết có nên làm phiền ông không. mặt khác, việc này lại rất đặc biệt, chắc chắn như thế. Tôi biết ông vốn rất thích tất cả những chuyện khác thường. Nhưng theo tôi, chuyện này nên để bác sĩ Watson quan tâm hơn là tôi với ông.

- Bệnh tật gì không? - tôi hỏi.

- Chứng điên. Mà lại là một bệnh điên kỳ quặc nữa Các ông chắc không tưởng tượng được bây giờ mà lại có người căm ghét

Napoleon Đệ nhất đến mức hễ thấy bất cứ một hình tượng nào của

ông ta là đập vỡ cho bằng được.

Holmes ngả người trên ghế.

- Chuyện này không thuộc lĩnh vực của tôi, - anh nói.

- Đúng thế, thì tôi đã nói mà. Nhưng khi thằng cha đó phạm tội

ăn trộm để đập nát những pho tượng không phải của hắn, thì câu chuyện đã chuyển từ tay bác sĩ sang tay cảnh sát rồi.

Holmes lại ngồi thẳng dậy.

- Ăn trộm à! Câu chuyện đã thú vị hơn rồi. Xin ông kể chi tiết cho tôi nghe với.

Lestrade rút cuốn số ghi chép công vụ ra, và lật từng trang để nhớ lại cho rành mạch.

- Vụ thứ nhất chúng tôi được báo là cách đây bốn hôm. Sự việc xảy ra tại cửa hiệu ông Morse Hudson làm nghề bán tranh, tượng ở đường Kennington Road. Người phụ việc vừa rời khỏi cửa hiệu một

lát thì nghe có tiếng loảng xoảng. Anh ta vội quay vào và thấy pho tượng bán thân Napoleon vẫn bày trên quầy cùng với các tác phẩm nghệ thuật khác đã vỡ tan tành trên sàn nhà. Anh ta chạy vụt ra đường nhưng không thấy ai, tuy có nhiều người qua đường nói rằng

họ trông thấy một người từ trong cửa hiệu chạy ra. Pho tượng thạch cao nọ không đáng giá là bao, và toàn bộ sự việc đó chỉ như một trò trẻ con không đáng phải mở cuộc điều tra.

- Nhưng vụ thứ hai thì nghiêm trọng hơn và cũng kỳ quặc hơn. Chuyện mới xảy ra đêm qua.

- Ở đường Kennington Road, cách cửa hiệu Morse Hudson vài trăm mét là nhà một bác sĩ có tiếng, tên là Barnicot. Tuy nhà ở đường Kennington Road, bác sĩ này có một phòng mổ ở đường Lower Brixton Road, cách đấy ba cây số. Bác sĩ Barnicot là người rất hâm mộ Napoleon. Nhà ông đầy sách và tranh của vị hoàng đế Pháp này. Mới đây ông mua được ở cửa hiệu Morse Hudson hai bức tượng bán thân Napoleon bằng thạch cao do nhà điêu khắc người

Pháp Devine tạc. Ông bày một bức trong đại sảnh của căn nhà trên

đường Kennington Road, còn bức kia ông đặt trên mặt lò sưởi tại phòng mổ ở Lower Brixton. Sáng nay, từ trên gác bước xuống, bác

sĩ Barnicot phải sửng sốt khi phát hiện ra đêm qua nhà ông bị kẻ trộm đột nhập, song trong nhà không mất gì cả, ngoài bức tượng bán thân bằng thạch cao đặt ở đại sảnh. Tên trộm đã mang pho tượng ra khỏi nhà và đập nát vào bức tường ngoài vườn, vì sáng ra người ta thấy mảnh tường vỡ nằm vung vãi dưới chân tường.

Holmes xoa tay nói:

- Chuyện này quả là rất mới lạ.

- Tôi vẫn nghĩ là ông sẽ thích chuyện này mà. Nhưng tôi vẫn chưa kể hết. Bác sĩ Barnicot phải đến phòng mổ lúc mười hai giờ trưa. Đến nơi, ông thấy cửa sổ phòng mổ đã bị phá tung từ đêm qua

và khắp sàn vung vãi những mảnh vỡ của pho tượng thứ hai. Pho tượng bị đập vụn ngay tại chỗ. Trong cả hai vụ đều không có manh mối gì về tên tội phạm (hay kẻ điên rồ) đã làm ra vụ này. Đấy sự việc là như vậy đấy, ông Holmes ạ.

- Tôi muốn biết hai pho tượng bị đập vụn của bác sĩ Barnicot có giống hệt với pho tượng bị phá tan tại cửa hiệu ông Morse Hudson không?

- Những pho tượng đó đều đúc từ một khuôn ra mà.

- Điều đó bác bỏ cái giả thuyết cho rằng kẻ đập tượng hành động do căm thù Napoleon: vậy thì việc kẻ đó bắt đầu bằng ba bản sao của cùng một pho tượng bán thân, khó lòng có thể là do một sự trùng hợp ngẫu nhiên.

- Chính tôi cũng nghĩ như ông, - Lestrade nói, - Tuy nhiên, Morse Hudsson là người bán tượng ở khu vực đó của Luân Đôn và suốt mười năm qua cửa hiệu ông ta chỉ có duy nhất ba pho tượng kia. Cho nên tuy ông nói ở Luân Đôn có hàng trăm pho tượng Napoleon, nhưng cũng rất có thể ba pho tượng kia là những pho tượng duy nhất trong vùng đó. Vì vậy, cái người điên sống trong vùng mới khởi sự bằng chính ba pho tượng ấy.

- Tôi chỉ xin nhận xét là hắn hành động tuy rất kỳ lạ nhưng có

tuân theo một nguyên tắc nào đấy. Chẳng hạn, ở đại sảnh trong nhà bác sĩ Barnicot, nơi mà tiếng động có thể làm cho chủ nhà thức giấc, hắn đã đem pho tượng ra ngoài rồi mới đập vỡ. Còn ở phòng mổ ít nguy hiểm hơn, hắn đã đập vụn pho tượng ngay tại chỗ. Vụ này có lẽ như nhố nhăng, nhưng một số vụ hay nhất của tôi khi mới khởi đầu cũng không có chút gì hứa hẹn. Vì vậy, tôi sẽ rất biết ơn ông, Lestrade, nếu ông báo cho tôi bất cứ tiến triển mới nào trong

vụ này.

Các sự kiện tiếp theo của vụ án mà bạn tôi đang trông chờ xảy

ra nhanh và dưới một hình thức bi đát hơn chúng tôi tưởng tượng nhiều . Sáng hôm sau, tôi còn đang mặc quần áo trong phòng ngủ thì Holmes gõ cửa bước vào, tay cầm một bức điện. Anh đọc to lên:

"Đến ngay Kensington, Pitt Street, 131. Lestrade".

- Thế là thế nào nhỉ?- Tôi hỏi.

- Không rõ. Cái này có thể hiểu thế nào cũng được. Nhưng tôi nghi đây là câu chuyện về những pho tượng kia. Nhưng trong trường hợp này, có lẽ anh bạn đập phá tượng của chúng ta đã chuyển hoạt động sang một khu khác của Luân Đôn. Cà phê đã pha sẵn cho anh ở trên bàn và xe ngựa đã đợi sẵn ngoài cửa rồi.

Nửa giờ sau chúng tôi đã có mặt ở Pit Street. Lúc chúng tôi đến gần, một đám người hiếu kỳ đã tụ tập trước ngôi nhà. Holmes huýt sáo;

- Thế này thì ít ra cũng là một vụ mưu sát. Nếu không thì dân

vô công rồi nghề ở Luân Đôn không tụ tập đông đến thế. ồ, Lestrade đang đứng bên khung cửa sổ trước nhà kia kìa. Chúng ta sẽ biết hết mọi việc ngay thôi.

Lestrade với vẻ mặt trịnh trọng bước ra đón chúng tôi và dẫn vào phòng khách. Chúng tôi thấy một người đàn ông đứng tuổi, mặc

áo choàng nội tẩm, đang đi đi lại lại trong phòng. Vẻ băn khoăn lo

lắng, Lestrade giới thiệu đó là chủ nhà - ông Horace Harker, một nhà báo.

- Chuyện pho tượng Napoleon lại tiếp diễn, - Lestrade nói - Tối

qua ông tỏ ra quan tâm tới chuyện này, ông Holmes, nên tôi nghĩ ông sẽ vui lòng có mặt khi giờ đây vụ việc đã dẫn đến một sự kiện đáng buồn như thế này.

- Sự kiện gì vậy?

- Án mạng. Ông Harker, phiền ông kể lại cho các vị đây nghe đầu đuôi câu chuyện vừa xảy ra. Người đàn ông mặc áo choàng quay về phía chúng tôi.

- Tôi đã nghe tiếng ông, ông Holmes ạ, - ông nói, - và nếu ông làm sáng tỏ được sự việc kỳ lạ này thì tôi cũng thấy mình được đền

bù hậu hĩnh cho cái công trình bày tất cả những việc vừa xảy ra.

Mọi việc đều như xoay quanh cái pho tượng bán thân Napoleon

tôi mua bốn tháng trước đây. Tôi mua được với giá rẻ tại hiệu

Harding Brothers, gần nhà ga High Street. Tôi hay viết bài về đêm

và thường ngồi làm việc đến tận sáng sớm. Hôm nay cũng vậy. Tôi ngồi làm việc trong phòng mình ở mặt sau tầng thượng, gần ba giờ sáng bỗng nghe có tiếng động dưới nhà. Tôi lắng tai nghe nhưng chẳng thấy động tĩnh gì nữa, nên tôi nghĩ đó là tiếng động từ ngoài phố đưa vào. Nhưng độ năm phút sau, bỗng có tiếng hét hết sức khủng khiếp - tôi chưa bao giờ nghe thấy một âm thanh nào ghê rợn đến thế ông Holmes ạ. Tiếng hét đó sẽ vang mãi trong tai tôi cho đến suốt đời. Người tê dại đi vì hãi hùng, tôi ngồi bất động vài phút, sau đó tôi cầm lấy cái que sắt thông lò và bước xuống nhà. Vừa bước vào phòng này tôi thấy cửa sổ mở toang và pho tượng đặt trên mặt lò sưởi đã biến mất. Tôi không hiểu tại sao tên trộm lại lấy

đi một vật như thế, vì pho tượng thạch cao ấy có đáng giá gì đâu.

Như các ông thấy đấy, bất cứ người nào nhảy một bước dài từ cửa sổ này xuống, đều có thể ra đến bậc lên xuống ở cửa chính. Tên trộm rõ ràng đã ra dùng cách ấy, nên tôi đi vòng ra cửa chính và mở cửa. Tôi bước ra ngoài, và trong bóng tối tôi vấp chân suýt ngã đè lên một xác chết đang nằm đó. Tôi chạy vào nhà đem đèn ra. Cổ họng kẻ bất hạnh bị đâm một vết rộng hoác, quanh xác chết máu loang đầy. Người bị giết nằm ngửa, hai đầu gối co lên, miệng há hốc

ra trông rất gớm ghiếc. Từ nay trở đi hắn sẽ hiện lên thường xuyên

trong những cơn ác mộng của tôi. Tôi chỉ còn kịp gọi cảnh sát, và

sau đó chắc là tôi đã ngất đi, vì tôi không còn hay biết gì nữa cho đến khi tôi tỉnh lại trong đại sảnh. Tôi mở mắt nhìn lên thì thấy một viên cảnh sát đang đứng bên.

- Thế người bị giết là ai? - Holmes hỏi.

- Chẳng có gì cho biết người ấy là ai, - Lestrade nói.- Các ông sẽ được nhìn thấy cái xác, nhưng cho đến nay thì chúng tôi chưa làm

gì được.

Đó là một người cao lớn, da rám nắng, khoẻ mạnh, chưa đến ba mươi tuổi. Tuy ăn mặc nghèo khổ, anh ta không có dáng dấp dân lao động. Có một con dao nằm trong vũng máu cạnh xác anh ta. Tôi không rõ đó là con dao mà hung thủ đã dùng để gây án hay là con dao của nạn nhân. Trên quần áo anh ta chẳng thấy có tên tuổi gì, còn trong túi áo cũng chẳng có gì ngoài một quả táo, một sợi dây, một tấm bản đồ Luân Đôn và một bức ảnh. Nó đây này.

Đó là một tấm ảnh chụp nhanh bằng loại máy ảnh cỡ nhỏ. ảnh chụp một người đàn ông linh lợi, nét mặt gãy gọn, có cặp lông mày rậm.

- Thế còn pho tượng thì sao? - Holmes hỏi sau khi xem kỹ bức ảnh.

- Tôi vừa nhận được tin về pho tượng này ngay trước lúc các ông đến. Người ta tìm thấy nó trong vườn, trước một ngôi nhà không có người ở tại đường Campden House Road. Nó đã bị đập vụn ra từng mảnh. Tôi đang định đến đó xem đây. Các ông cùng đi chứ?

- Tất nhiên. Tôi phải đến đấy xem qua một lượt. - Holmes xem xét tấm thảm và cái cửa sổ.

Chỗ tìm thấy những mảnh vỡ của pho tượng cách ngôi nhà chỉ vài trăm mét. Pho tượng của Napoleon bị đập vụn, nằm trên bãi cỏ. Holmes nhặt lên vài mảnh vụn và xem xét kỹ lưỡng. Qua nét mặt chăm chú của anh, tôi tin là rốt cục anh cũng lần ra được manh mối.

- Ông nghĩ sao? - Lestrade hỏi.

Holmes nhún vai.

- Chúng ta còn phải hết hơi với vụ này - anh nói.

- Nhưng dù sao thì ... chúng ta cũng đã có được vài đầu mối để tìm tiếp. Dưới mắt tên tội phạm kỳ quặc kia thì pho tượng bán thân

rẻ tiền này còn đáng giá hơn cả mạng người. Đó là điểm thứ nhất.

Điểm thứ hai cũng thật kỳ lạ. Nếu mục đích duy nhất của hắn là đập vỡ pho tượng, tại sao hắn không đập ngay trong nhà hay ngay sau khi ra khỏi nhà?

- Hắn hoảng hốt khi chạm trán với người khác, đến nỗi giết người đó. Hắn hầu như không ý thức được hắn đang làm gì nữa.

- Ừ, ông nói có lý. Song tôi muốn các ông đặc biệt lưu ý đến vị trí căn nhà này, nơi mà pho tượng đã bị đập nát trong vườn.

Lestrade đưa mắt nhìn quanh.

- Đây là ngôi nhà không có người ở nên hắn biết sẽ không bị ai bắt gặp trong vườn.

- Phải. Nhưng từ đầu phố đến đây còn có một ngôi nhà bỏ không nữa mà, hắn phải đi qua để đến đây. Tại sao hắn không đập pho tượng ở đó? Hắn thừa hiểu rằng đi xa thêm mỗi mét là tăng thêm nguy cơ bị phát hiện cơ mà?

- Tôi xin chịu thôi. - Lestrade nói.

Holmes chỉ lên ngọn đèn đường phía trên đầu chúng tôi.

- Ở đây hắn mới nhìn thấy rõ, còn ở đằng kia thì không. Đó chính là lý do hắn phải đến tận đây.

Viên thanh tra thốt lên:

- Bây giờ tôi mới nhớ lại pho tượng của bác sĩ Barnicot bị đập

vỡ cách chỗ ngọn đèn đỏ nhà ông không bao xa. Chúng phải xử lý thế nào với sự việc này, ông Holmes?

- Ghi nhớ nó. Sau này chúng ta có thể gặp phải một tình tiết buộc ta trở lại với nó đấy. Giờ ông định tiến hành những bước gì nữa, ông Lestrade?

- Theo tôi, thiết thực hơn cả là xác minh xem người bị giết là ai.

Việc này thì không khó. Khi đã biết được anh ta là ai rồi, chúng ta

có thể bắt tay vào điều tra xem đêm qua anh ta làm gì ở đường Pitt,

kẻ nào đã gặp và giết anh ta trên bậc thang trước cửa nhà ông

Horace Harker. Ông thấy như vậy có được không?

- Được lắm. Nhưng tôi thì tôi sẽ tiếp cận vụ này một cách khác.

- Vậy ông sẽ làm thế nào?

- Ồ, ông không nên để tôi ảnh hưởng đến ông một chút nào. Tôi

đề nghị là ông cứ theo cách của ông, còn tôi sẽ theo cách của tôi. Sau đó sẽ đối chiếu những điều đã ghi nhận được với nhau.

- Tốt lắm. - Lestrade nói.

- Này anh Watsson, tôi nghĩ trước mắt chúng ta sẽ là một ngày bận rộn đấy. Tôi sẽ rất vui, ông Lestrade ạ, nếu sáu giờ chiều này ông có thể thu xếp đến thăm chúng tôi ở Baker Street. Còn bức ảnh tìm thấy trong túi áo nạn nhân tôi xin được giữ cho đến lúc đó. Tối nay có lẽ tôi phải nhờ ông giúp một tay nếu những suy luận của tôi cho thấy là tôi đúng. Từ giờ đến lúc đấy xin tạm biệt và chúc ông may mắn.

Tôi và Holmes cùng đi bộ đến High Street và rẽ vào hiệu Harding Brothers, nơi đã bán pho tượng nọ. Một người phụ việc trẻ trong hiệu cho chúng tôi hay là ông Harding mãi đến chiều mới về, còn anh ta thì không thể giúp chúng tôi biết được điều gì. Mặc Holmes đầy vẻ thất vọng và buồn bực.

- Chúng ta đành phải quay lại đây chiều nay thôi. Watson ạ, vì đến lúc đó ông Harding mới có mặt ở đây, cuối cùng anh nói. - Tất nhiên anh đã đoán ra là tôi đang cố lần theo dấu vết mấy pho tượng kia cho đến tận đầu mối, để xem tại sao gã điên nọ lại quan tâm đến chúng như vậy. Bây giờ chúng ta đến phố Kennington gặp ông Morse Hudson, thử xem ông ta có biết điều gì có thể làm sáng tỏ vụ này chăng.

Chúng tôi đi xe ngựa mất một giờ thì đến được cửa hiệu bán tranh của Morse Hudson. Ông là một người thấp bé, mập mạp, mặt đỏ, phong thái có vẻ nóng nảy.

- Vâng, thưa ngài. Hắn đập vỡ ngay tại quầy của tôi, thưa ngài,

- ông nói. chúng tôi đóng thuế để được gì, nếu bạ ai cũng có thể vào nhà phá phách đồ đạc. Vâng, thưa ngài, chính tôi đã bán cho bác sĩ Barnicot hai pho tượng. Tôi mua của ai những pho tượng ấy ư? Tôi không hiểu chuyện đó có can hệ gì đến sự việc. Thôi được, ngài đã muốn biết thì tôi xin nói. Tôi mua tại hãng Gelder và Cty trên đường Church Street, Stepney. Tôi có mấy pho tượng ư? Ba pho - hai cộng một là ba - hai pho tôi bán cho bác sĩ Barnocot, còn một pho nữa bị đập nát ngay giữa ban ngày ban mặt tại quầy hàng của tôi. Tôi có biết người trong ảnh này không ư? Không, tôi không biết.

À có, tôi có biết. Hắn là Beppo, người ý. Hắn làm được một vài việc cho cửa hiệu tôi. Hắn biết chạm khắc đôi chút, và làm vài việc sai vặt trong hiệu. Hắn đi khỏi hiệu tuần trước và từ đó tôi chẳng nghe thấy tăm hơi gì về hắn nữa. Không, tôi không biết hắn ta từ đâu đến. Hắn rời hiệu tôi đi đâu tôi cũng chẳng hay. Tôi chẳng có gì xung khắc với hắn khi hắn làm việc ở đây. Hắn đi khỏi đây hai ngày trước khi pho tượng bị đập vỡ.

- Ồ, những điều Morse Hudson cho chúng tôi biết thật đáng giá, chúng ta không thể mong muốn gì hơn thế, - Holmes nói khi chúng tôi rời cửa hiệu. - Chúng ta đã biết được tay Beppo này dính dáng đến cả hai vụ: cả ở Kennington lẫn ở Kensington, thật đáng công đi mười dặm đường đến đây. Anh Watson, bây giờ chúng ta đi đến hãng Gelder và Cty, khu Stepney, đến tận xuất xứ của mấy pho tượng. Tôi tin là ở đấy chúng ta sẽ biết được một điều gì đó giúp chúng ta điều tra vụ này.

Chúng tôi tìm ra cái xưởng tạc tượng ấy trên một con đường rộng chạy dọc bờ sông. Bên ngoài xưởng là một khoảng sân rộng ngổn ngang những sản phẩm bằng đá đủ loại, bên trong có một căn phòng lớn với năm mươi công nhân đang tạc tượng và đúc tượng theo khuôn. Chủ xưởng, một người Đức cao lớn, tiếp chúng tôi rất lịch sự và trả lời rõ ràng mọi câu hỏi của Holmes. Sổ sách cho thấy: xưởng ông đã sản xuất hàng trăm pho tượng bán thân Napoleon bằng thạch cao; tất cả đều được đúc ra từ một khuôn, dùng pho tượng cẩm thạch của nhà điêu khắc Devine làm mẫu. Ba sản phẩm

trong một lô hàng riêng gồm sáu pho tượng đã đem giao cho ông

Morse Hudsson khoảng một năm trước; số còn lại thì bán cho hiệu Harding Brothers, ở Kensington. Sáu pho tượng trong lô hàng đó chẳng có gì khác với những pho tượng còn lại. Ông không hình dung nổi vì lẽ gì lại có kẻ chỉ muốn đập vỡ những pho tượng ấy.

Trong thâm tâm ông thấy ý định đó quả thật nực cười. Mỗi pho tượng đều được đúc từ hai khuôn, khuôn này đúc nửa mặt bên phải, khuôn kia - nửa bên trái; sau đó ghép hai nửa lại với nhau, thế là được một pho tượng hoàn chỉnh. Công việc này thường do mấy tay thợ người ý đảm nhiệm, ngay tại phòng chúng tôi đang đứng. Làm xong họ đặt những sản phẩm đó lên cái bàn kê ngoài lối đi cho khô, sau đó cất vào kho. Đấy là tất cả những gì ông có thể cho chúng tôi biết.

Nhưng tấm ảnh đã gây cho ông chủ xưởng một ấn tượng mạnh mẽ. Ông đỏ mặt giận dữ.

- Vâng, thật sự tôi biết hắn rất rõ, - ông hét to lên.- Từ trước đến giờ chỉ có một lần duy nhất cảnh sát đến xưởng tôi chính là vì thằng này đây. Chuyện đó xảy ra hơn một năm nay rồi: hắn dùng dao đâm một tay người ý khác ở ngoài phố rồi chạy bổ vào xưởng tôi

để trốn cảnh sát đang đuổi bắt phía sau. Hắn bị tóm cổ ngay tại đây. Tên hắn là Beppo. Tôi không hề biết họ của hắn. Tuy thế hắn

là một tay thợ khá - một trong những tay giỏi nhất đấy.

- Hắn bị kết án gì?

- Người bị hắn đâm không chết, cho nên người ta chỉ xử hắn một năm tù ngồi. Tin tin rằng giờ hắn đã được tự do, nhưng hắn chẳng dám thò mặt về đây. Người em họ của hắn đang làm việc ở chỗ tôi. Hy vọng anh ta có thể mách cho ông biết Beppo hiện ở đâu.

- Không, không, - Holmeskêu lên, - ông đừng nói gì với em họ của hắn cả, tôi xin ông đừng nói gì! Việc này rất hệ trọng. Càng đi sâu vào tôi càng thấy nghiêm trọng. Trong cuốn sổ của ông tôi thấy ghi là những pho tượng đó được bán ngày ba tháng sáu năm ngoái. Ông có thể cho chúng tôi biết ngày Beppo bị bắt được không?

- Tôi có thể tính gần đúng dựa theo bản danh sách tính tiền

công, chủ xưởng đáp lại. -Đúng, - ông lại lên tiếng sau một hồi lật tìm trong mớ giấy tờ, - hắn được trả tiền công lần cuối vào ngày hai mươi tháng năm.

- Cảm ơn ông, Holmes nói. - Tôi nghĩ không nên làm mất thì giờ và lạm dụng lòng kiên nhẫn của ông nữa. Còn bây giờ, anh Watson,chúng ta quay về Kensington xem ông chủ hiệu Harding Brothers kể được những gì cho chúng ta về vụ này.

Ông Harding là một người nhỏ bé, nhanh nhẹn, tỉnh trí và nhanh miệng.

- Vâng, thưa ngài, tôi đã đọc được chuyện này trên các báo buổi chiều. Ông Horace Harker là một trong những khách hàng của chúng tôi. chúng tôi bán cho ông ấy pho tượng nọ cách đây mấy tháng. Ba pho tượng loại này chúng tôi đã đặt mua tại hãng Gelder

và Cty, ở Stepney và đã bán hết. Bán cho ai ư? Để tôi xem sổ sách bán hàng và trả lời ngài ngay thôi. Đúng, trong này có ghi đầy đủ. Một pho bán cho ông Harker, ông thấy đấy, một pho nữa bán cho ông Josiah Brown ở Laburnum Lodge, Laburnam Vale,Chiswick và pho thứ ba bán cho ông Sandeford ở Lower Grove Road, Reading. Không, tôi chưa bao giờ thấy người đàn ông trong bức ảnh ngài đưa

tôi xem. Trong hiệu tôi có nhân viên nào người ý không ư? Thưa ngài, có, có mấy người tôi thuê làm công và quét dọn. Bọn họ có thể liếc nhìn quyển sổ bán hàng này nếu thích. Chẳng có lý do gì đặc biệt để giữ bí mật cả. Chà, vụ này quả là kỳ lạ. Tôi hy vọng ông sẽ cho tôi biết những gì ông phát hiện được.

Holmes ghi chép vài điểm. Tôi thấy anh đắc ý ra mặt. Nhưng anh chẳng giải thích gì, chỉ giục tôi nhanh chân kẻo trễ hẹn với Lestrade. Quả nhiên, khi chúng tôi về đến Baker Street, viên thanh tra đã đợi sẵn ở đấy và đang đi đi lại lại, vẻ sốt ruột.

- Công việc thế nào rồi, ông Holmes? - ông ta lên tiếng hỏi.

- Chúng tôi đã bận rộn suốt ngày và thật là không uổng công chút nào - bạn tôi giải thích -Giờ tôi có thể lần theo dấu vết của từng pho tượng từ lúc mới được đúc trong khuôn ra.

- Các pho tượng à! - Lestrade thốt lên. - Thôi được, thôi được,

ông Holmes, ông có phương pháp của riêng ông, song tôi cho là ngày vừa qua tôi khám phá được nhiều điều hơn ông. Tôi đã xác minh được người bị giết là ai và tìm ra nguyên nhân gây án.

- Tuyệt vời.

- Ngài thanh tra Hill, người chuyên theo dõi kiều dân ý sống

tại khu phố ý Đại Lợi, vừa trông thấy đã nhận ngay ra hắn. Hắn tên là Pietro Venucci, quê ở Napoli, là một trong những tay đâm thuê chém mướn sừng sỏ nhất Luân Đôn. Hắn có liên hệ với bọn Mafia, như ông biết đấy, một tổ chức chính trị bí mật . Giờ ông thấy đấy, vụ này bắt đầu sáng tỏ. Kẻ giết hắn có lẽ cũng người ý và là thành viên Mafia. Tay này chắc đã vi phạm luật lệ như thế nào đó. Pietro rình tìm hắn. Tấm ảnh ta tìm thấy trong túi áo hắn có lẽ là của chính tay này, hắn mang theo để không giết nhầm người khác. Hắn theo dõi địch thủ, khi thấy tên này lẻn vào nhà, hắn đừng ngoài đợi tên này trở ra và trong cuộc ẩu đả với địch thủ hắn đã bị

tử thương. Ông nghĩ thế nào về điều này, ông Holmes?

Holmes vỗ tay tán đồng.

- Tuyệt, ông Lestrade, thật là tuyệt! - anh thốt lên. - Nhưng tôi chưa rõ ông lý giải như thế nào việc mấy pho tượng bị đập nát.

- Lại mấy pho tượng! Ông không gạt bỏ được mấy pho tượng ấy

ra khỏi đầu sao. Rốt cục, đấy chỉ là chuyện vó vẩn. Chính vụ án mạng mới là cái chúng ta thật sự quan tâm, và tôi có thể nói với ông

là tôi đã nắm được mọi đầu mối

- Thế bước tiếp theo ông định làm gì?

- Hết sức đơn giản. Tôi cùng ngài Hill đến khu phố ý Đại Lợi, tìm cho ra tên trong ảnh nọ và bắt hắn vì tội giết người. Ông cùng

đi với chúng tôi chứ?

- Có lẽ không đâu. Tôi có cách đơn giản hơn nhiều. Tôi rất mong đêm nay ông cùng đi với chúng tôi, tôi có thể sẽ giúp ông bắt được hắn.

- Ở khu phố Ý Đại Lợi ư?

- Không. Theo tôi, tìm bắt hắn ở Chiswick là chắc hơn cả.

Ông Lestrade, nếu đêm nay ông đi cùng tôi đến Chiswick thì

tôi hứa ngày mai sẽ đi với ông đến khu phố ý Đại Lợi. Hoãn lại một

tí đâu có hại gì. Anh Watson, trong lúc chờ đợi, anh làm ơn bấm chuông gọi giúp người đưa thư vì tôi muốn gửi gâp một bức thư rất

hệ trọng.

Tối hôm đó Holmes lục tìm các chồng nhật báo cũ chất đầy ắp

cả một phòng trong nếp nhà hai chúng tôi đang ở. Cuối cùng rồi anh cũng ra với chúng tôi, mặt rạng rỡ vẻ đắc thắng, nhưng anh chẳng hé răng nói gì với cả tôi lẫn viên thanh tra về những kết quả vừa khám phá. Tôi đã theo sát anh từng bước chân trong suốt tiến trình điều tra vụ này. Vì vậy, tuy chưa thể biết rõ mục tiêu cuối cùng chúng tôi đang theo đuổi, tôi vẫn hiểu mười mươi rằng Holmes hy vọng sẽ tóm được tên tội phạm đang cố tìm mọi cách đoạt hai pho tượng còn lại, mà một, theo tôi nhớ, hiện đang nằm tại Chiswick. Không còn ngờ vực gì nữa, mục đích chuyến đi của chúng

tôi đêm nay là bắt quả tang hắn ta. Tôi chẳng ngạc nhiên khi Holmes nhắc tôi nên mang theo cả khẩu súng ngắn ưa thích của tôi.

Mười một giờ, một chiếc xe ngựa đã đậu trước cổng nhà. Chúng

tôi lên xe, đến một nơi nằm bên kia cầu Hammer Smith. Sau một quãng đi bộ, chúng tôi đã đến một con đường yên tĩnh với những toà nhà đẹp mắt, xây trên từng khoảng đất riêng, cách biệt nhau. Nhờ ánh đèn đường, tôi đọc được hai chữ Laburnum Lodge trên cổng hậu một tòa nhà. Chủ nhân chắc chắn đã đi nghỉ, vì toàn bộ ngôi nhà đang chìm trong bóng tối, ngoại trừ một khung cửa sổ ngay bên trên cửa chính dẫn vào tiền sảnh, hắt một quầng sáng lẻ

loi xuống một lối đi trong vườn. Một dãy rào gỗ ngăn khu vườn với đường phố, hắt một dải bóng tối dày dặc vào phía trong. Chúng tôi chọn đó làm nơi ẩn nấp.

- Tôi e là anh sẽ phải đợi lâu đây, - Holmes ri tai tôi.

- Nhưng tôi dám đánh cược hai ăn một là chúng ta sẽ được đền

bù xứng đang cho những nỗi vất vả mà chúng ta đã trải qua.

Nhưng hoá ra chúng tôi chẳng phải đợi lâu như Holmes đã nghĩ, và kết cục thật bất ngờ và kỳ lạ. Thình lình, không có một tiếng động nào báo trước, cảnh cổng vườn bật mở, và một bóng đen nhanh nhẹn, khéo léo chạy vụt vào theo lối mòn trong vườn. chúng

tôi thấy cái bóng đó lướt qua cái quầng sáng trên cửa sổ hắt xuống cửa chính, và biến mất vào bóng toà nhà. Bốn bề im ắng khá lâu. chúng tôi nín thở chờ đợi, rồi một tiếng động khẽ vọng tới: cánh cửa

sổ mở ra. Tiếp đó, không còn nghe một tiếng động nào nữa, và tất

cả lại lặng ngắt một hồi lâu. Bóng đen nọ lẻn vào nhà. Bỗng chúng

tôi thấy một ánh đèn loé sáng trong phòng. Cái hắn tìm chắc không

có ở đó, vì chúng tôi lại thấy ánh đèn loé sáng tại một chỗ khác, rồi một chỗ khác nữa.

- Nào, chúng ta hãy tới cửa sổ để ngỏ. Chúng ta sẽ tóm hắn lúc hắn leo ra, - Lestrade khẽ nói.

Nhưng chúng tôi chưa kịp tới nơi dự tính thì gã nọ đã xuất hiện. Khi hắn ra đến quầng sáng, chúng tôi thấy hắn đang cắp trong nách một vật màu trắng. Hắn đưa mắt nhìn quanh. Quay lưng về phía chúng tôi, hắn đặt vật đang cắp dưới nách xuống, và ngay sau đó, bỗng vang lên một tiếng đập mạch, rồi tiếp theo là những tiếng lại xạo. Hắn mải miết với việc đang làm đến mức không nghe thấy tiếng bước chân chúng tôi lướt trên mặt cỏ. Holmes nhảy chồm lên lưng hắn như một con hổ, và chỉ một chớp mắt sau, Lestrade và tôi đã tóm lấy cổ tay hắn. Khi chúng tôi lật ngửa hắn lại, tôi thấy hắn đang nhìn chúng tôi một cách hằn học.

Và tôi nhận ra kẻ bị bắt chẳng phải ai khác, mà chính là người đàn ông trong ảnh.

Nhưng Holmes chẳng hề quan tâm đến kẻ bị bắt. Anh chỉ chăm chú xem pho tượng Napoleon mà gã nọ vừa lấy trộm trong nhà ra. Pho này cũng giống như pho mà chúng tôi thấy sáng nay, và cũng

đã bị đập vụn từng mảnh. Thận trọng, Holmes đưa từng mảnh vỡ

ra chỗ sáng xem xét, nhưng những mảnh thạch cao đó xem ra

chẳng khác gì nhau. Anh vừa xem xong thì ánh đèn trong tiền sảnh

bỗng sáng rực. Cửa mở, và từ trong nhà bước ra một người đàn ông vui vẻ, ăn mặc tề chỉnh, tự giới thiệu mình là chủ nhà.

- Ông chắc hẳn là Mi.Josiah Brown? - Holmes nói.

- Vâng, thưa ngài. Còn ngài chắc hẳn là ngài Holmes? Tôi đã nhận được thư ngài do người đưa thư chuyển tới, và tôi đã làm đúng như lời ngài dặn trong thư. Chúng tôi đã khoá chặt các cửa phòng và đợi mọi diễn biến. Tôi rất mừng là ngài đã tóm được hắn. Tôi hy vọng các ngài sẽ quá bộ vào nhà nghỉ một lát trước lúc ra về.

Nhưng Lestrade sốt ruột, chỉ muốn đưa gấp tên trộm về đồn cho chắc ăn, nên chỉ vài phút sau, ba chúng tôi và tên trộm đã yên

vị trên xe về lại Luân Đôn. Tên trộm không hề hé răng thốt ra một

lời nào, mà chỉ hằn học nhìn chúng tôi từ sau mái tóc rũ xuống trán. Có một lần, khi tay tôi nằm trong tầm với, hắn vụt cúi xuống định ngoạm. Chúng tôi lưu lại đồn cảnh sát khá lâu để chờ kết quả khám xét người hắn, nhưng chảng tìm thêm đựoc gì ngoài một vài đồng xu trong túi và một con dao dài, trên cần còn nguyên vết máu chưa kịp xỉn lại.

- Thôi ổn rồi, - Lestrade nói khi chia tay chúng tôi. - Ngài Hill biết mặt tất cả các kiều dân khu này, nên sẽ cho chúng ta biết họ tên hắn. Ông sẽ thấy giả thuyết của tôi về bọn Mafia là chính xác một trăm phần trăm. Dù sao tôi cũng biết ơn ông đã mách giúp tôi cách tóm cổ hắn. Có điều,tôi vẫn chưa hiểu hết làm thế nào mà ông biết nơi hắn sẽ xuất đầu lộ diện

- Tôi e rằng muốn giải thích phải đợi dịp khác, vì bây giờ đã khuya quá rồi, - Holmes nói. -Hơn nữa, vẫn còn một vài tình tiết tôi chưa khám phá ra, và đây là một trong những vụ đáng để chúng ta thực hiện đến nơi đến chốn. Nếu ngày mai, ông chịu khó ghé lại nhà tôi vào lúc sáu giờ, tôi nghĩ tôi có thể cho ông thấy: cho tới lúc này ông vẫn chưa hiểu hết điểm mấu chốt của vụ này. Đó mới chính

là những điểm khiến vụ này là vụ án độc đáo nhất lịch sử tội phạm.

Tối hôm sau, khi gặp lại nhau, Lestrade đã cho chúng tôi biết hàng loạt thông tin về kẻ bị bắt. Hoá ra tên hắn là Beppo, còn họ

thì không rõ. Có thời, hắn từng là thợ đúc tượng giỏi, làm ăn lương

thiện. Nhưng về sau hắn đã gây nên những vụ phạm pháp. Hắn từng hai lần ngồi tù, một lần vì ăn cắp vặt, lần sau thì như các ông

đã biết, vì tội đâm trọng thương một đồng bào của hắn. Hắn rất thạo tiếng Anh. Nhưng lý do nào khiến hắn đập nát những pho tượng thì chưa rõ: hắn không chịu trả lời bất cứ câu hỏi nào về chuyện này. Cảnh sát đã phát hiện được rằng những pho tượng mà hắn đập nát có thể đều do chính tay hắn làm ra, vì hắn từng làm loại công việc này tại hãng Gelder và Cty. Tất cả những thông tin này, phần nhiều chúng tôi đều biết cả rồi, nhưng Holmes vẫn lịch duyệt lắng nghe; có điều tôi vốn biết rõ anh, nên tôi hiểu rằng ý nghĩ anh đang đổ dồn vào một chuyện khác. Bỗng anh đứng bật dậy, mắt sáng rực khi nghe vang lên tiếng chuông gọi cửa dưới nhà. Một phút sau, có tiếng chân bước lên cầu thang, rồi một người đàn ông đứng tuổi, mặt đỏ gay, bước vào, tay phải xách theo một cái túi. Ông ta đặt cái túi lên bàn, rồi lên tiếng:

- Đây có phải là nhà ngài Holmes không? Bạn tôi mỉm cười cúi chào.

- Nếu tôi không nhầm, ông là Sandeford ở Reading? - anh lên tiếng.

- Vâng, thưa ngài, có lẽ tôi đến hơi muộn, nhưng không có chuyến tàu nào thuận tiện hơn. Trong thư ông có yêu cầu tôi nhượng lại pho tượng bán thân mà tôi đang sở hữu.

- Quả đúng như vậy.

- Tôi có đem theo thư ông đây. Ông viết:" Tôi muốn có một bản sao pho tượng bán thân Napoleon do Devine tạc và tôi sẵn sàng trả mười bảng để mua lại pho tượng ông hiệu sở hữu. Có đúng vậy không ạ?

- Chính thế.

- Tôi rất ngạc nhiên khi đọc thư ông, vì tôi không thể hình dung được nhờ đâu mà ông biết được tôi có pho tượng như thế.

- Ông ngạc nhiên là phải thôi, nhưng chuyện này có thể giải

thích hết sức đơn giản. Ông Harding, chủ hiệu Harding Brothers nói là đã bán phúc bản cuối cùng của pho tượng cho ông, và có cho

tôi biết địa chỉ của ông.

- Thì ra là vậy. Thế thì tôi có mang theo pho tượng như ông đã yêu cầu. Nó đây này!- Ông ta đã mở túi xách và mãi lúc này chúng

tôi mới được thấy trên bàn chúng tôi một pho tượng nguyên vẹn, chứ từ trước đến giờ chúng tôi chỉ toàn thấy những mảnh vụn.

Holmes rút trong túi ra một tờ giấy và đặt lên bàn tờ giấy bạc mười bảng.

Ông Sandeford, ông làm ơn ký vào tờ giấy này trước sự chứng kiến của các vị đây. Trong giấy xác nhận rằng ông chuyển nhượng cho tôi mọi quyền lợi có thể có đối với pho tượng. Cám ơn ông Sandeford. Đây, xin ông nhận lấy tiền và chúc ông một buổi tối tốt lành.

Khi vị khách đã đi khuất, Holmes liền lôi trong ngăn kéo ra một tấm vải trắng tinh và trải lên bàn. Rồi anh đặt pho tượng vừa mua vào chính giữa tấm vải. Xong xuôi, anh giờ cao gậy, giáng một cái thật mạnh vào đỉnh đầu Napoleon. Pho tượng vỡ vụn ra từng mảnh. Holmes háo hức cúi xuống xem xét các mảnh vỡ. Lát sau, anh reo lên đắc thắng và giơ cao một mẩu thạch cao bọc bên ngoài một vật tròn tròn sẫm màu.

- Thưa các vị, anh reo lên - xin được giới thiệu với các vị viên ngọc đen nổi tiếng của dòng họ Borgia.

Lestrade và tôi ngồi lặng người đi một lúc, rồi cả hai cùng vỗ tay hệt như vừa xem xong một vở kịch. Má Holmes vốn tái nhợt giờ vụt ửng hồng. Anh cúi chào chúng tôi như một diễn viên bậc thầy đáp lại lòng ngưỡng mộ của khán giả. Chỉ trong những khoảnh khắc đó Holmes mới tỏ ra là một nhân viên rất người, rất thích được ngưỡng mộ và thán phục, chữ không phải là một cái máy giỏi suy luận.

- Vâng, thưa các ngài, - anh nói- đây chính là viên ngọc lừng danh Thế giới. Tôi đã có cái may mắn được theo dõi hành trình của

viên ngọc quí từ phòng ngủ của Quận công xứ Lolonna trong khách

sạn Darce Hotel, nơi nó bị mất, cho tới khi nó chui vào pho tường cuối cùng trong số sau pho Napoleon do hãng Gelder và Cty tại Stepney đúc ra. Ông Lestrade, chắc ông còn nhớ vụ xì căng đan nổ

ra sau ngày viên ngọc quí này mất tích, và những nỗ lực tìm kiếm

vô vọng của cảnh sát Luân Đôn. Chính tôi cũng được mời đến làm

cố vấn cho họ trong vụ này, nhưng tôi đã không làm sáng tỏ được gì. Người ta nghi cho cô hầu gái của Quận chúa. Cô này người ý, và người ta cũng phát hiện ra rằng cô ta có một người anh ở Luân đôn, nhưng chúng tôi không tìm ra dược bất cứ một mối liên hệ nào giữa hai người. Cô ta tên là Lucretia Venucci, và tôi tin chắc rằng chính

gã Pietro bị giết cách đây hai hôm là anh cô ta. Tôi dò tìm ngày tháng trong đống báo cũ và thấy rằng viên ngọc bị mất đúng hai ngày trước hôm Beppo bị bắt vì tội mưu sát. Hắn bị bắt ngay tại xưởng Gelder và Cty đúng vào thời điểm những pho tượng kia đúc

ra. Beppo đang giữ viên ngọc. Có thể hắn đánh cắp của Pietro, hoặc hắn là tòng phạm của Pietro, hoặc hắn làm trung gian giữa Pietro

và em gái hắn ta. Thực ra khả năng nào là đúng, đối với chúng ta

không hệ trọng. - Cái chính là hắn có viên ngọc và đang giữ viên ngọc trong người lúc bị cảnh sát truy đuổi. Hắn đến cái xưởng làm tượng mà hắn đang làm việc, và hắn biết mình chỉ còn vài phút để giấu cái báu vật vô giá ấy, nếu không cảnh sát sẽ tìm thấy nó khi khám xét người hắn. Lúc sáu pho tượng Napoleon bằng thạch cao đang hong ở lối đi, trong đó có một pho còn mềm. Vốn là một tay thợ giỏi, trong chớp mắt Beppo đã tạo được một cái hốc nhỏ, ấn viên ngọc vào đó, rồi với vài động tác hắn đã có thể trám ngay được cái hốc kia. Quả không còn một nơi cất giấu nào tốt hơn. Không một ai

có thể tìm ra viên ngọc được nữa. Nhưng Beppo bị kết án một năm

tù, và trong thời gian đó sáu pho tượng kia được bán đi khắp Luân đôn. Ra tù, hắn không thể biết báu vật nọ hiện nằm trong pho tượng nào. Bây giờ chỉ còn cách đập vỡ từng pho một mới biết được

vì dù có lắc mạnh viên ngọc cũng không gây được tiếng động nào:

khi thạch cao còn ướt, viên ngọc có thể bị dính chặt ở bên trong, và

sự thực quả đúng như vậy. Nhưng Beppo không nản lòng. Hắn thực

hiện một cuộc tìm kiếm thật tài tình. Qua người em họ làm cho

Gelder, hắn biết được những pho tượng ấy đã được bán cho hãng nào. Hắn cố xin một chân ở hiệu Morse Hudsson và nhờ đó đã lần

ra được dấu tích của ba pho. Tiếc thay trong cả ba pho ấy đều không thấy có viên ngọc. Sau đó, nhờ một nhân viên người ý, hắn

đã dò ra được ba pho còn lại hiện ở đâu. Pho thứ nhất ở nhà ông

Harker. Tại đây Beppo bị Pietro theo dõi. Tên này vốn coi hắn như

kẻ chịu trách nhiệm về vụ mất viên ngọc, Beppo đã hạ sát tên này trong trận ẩu đả sau đó.

- Nếu chúng đồng loã với nhau thì tại sao Pietro lại phải mang theo tấm ảnh?- tôi hỏi.

- Đó là một phương tiện để hỏi dò người khác xem họ có nhận

ra người trong ảnh không. Lý do chỉ có vậy. Sau khi gây án mạng,

tôi đoán chắc Beppo nhất định phải hành động khẩn trương hơn, chứ không thể chần chứ. Hắn sợ cảnh sát khám phá được điều bí mật của hắn, nên hắn phải làm gấp trước khi bị cảnh sát biết. Tất nhiên ở thời điểm đó, tôi chưa thể nói rằng hắn không tìm thấy viên ngọc. Tôi cũng chưa thể kết luận đích xác rằng hắn đang tìm viên ngọc. Nhưng tôi biết chắc rằng hắn đang tìm một vật gì đó, vì hắn phải mang pho tượng qua mấy nhà liền để tìm một chỗ nào đó có ánh đèn. Bấy giờ chỉ còn hai pho, nên dĩ nhiên hắn phải tìm pho ở Luân Đôn trước tiên. Vì thế tôi phải báo trước với chủ nhà để tránh một thảm kịch thứ hai. Và ở đó chúng ta đã thu được kết quả mỹ mãn nhát. Lúc này, dĩ nhiên, tôi đã biết chắc cái mà chúng ta đang theo đuổi chính là viên ngọc Baorgia. Tên kẻ bị giết đã giúp tôi tìm

ra mối liên hệ giữa các sự việc với nhau. Cuối cùng chỉ còn một pho tượng độc nhất - pho ở Reading - và chắc chắn viên ngọc phải nằm ở đó. Tôi đã mua nó từ tay chủ nhân trước sự chứng kiến của các vị,

và viên ngọc giờ này đã ở đây.

Chúng tôi ngồi im lặng một lúc.

- Ấy đấy - Lestrade lên tiếng - tôi đã từng được chứng kiến ông

xử lý nhiều vụ án, ông Holmes ạ, nhưng từ lúc hành nghề tới giờ,

tôi chưa hề được thấy một vụ được xử lý một cách tài tình như vụ

này. Nếu ngày mai ông có nhã ý quá bộ đến Scotland yard thì tôi

tin rằng không một ai, kể từ ông thanh tra già nhất đến anh nhân viên trẻ nhất, không lấy làm sung sướng được bắt tay ông.

- Cám ơn ông! - Holmes nói. - Cám ơn ông! - Và khi anh quay đi

tôi có cảm giác xúc động hơn bất cứ lúc nào mà tôi từng được chứng kiến. Lát sau, anh đã lại trở thành con người có cách suy nghĩ lạnh lành và thực dụng như cũ.

- Watson, cất giúp viên ngọc vào chỗ an toàn - anh nói. Tạm biệt ông Lestrade. Nếu sau này ông có gặp một vấn đề nhỏ nhặt nào, tôi sẽ lấy làm sung sướng được góp với ông một vài ý nhỏ để giúp ông tìm giải pháp.

DẢI BĂNG LỐM ĐỐM

Một sáng sớm tháng tư năm 1883, vừa thức giấc, tôi đã thấy Sherlock Holmes, ăn mặc tề chỉnh đứng bên đầu giường mình. Lệ thường, anh hay dậy muộn; mà theo đồng hồ lúc này chỉ mới 7 giờ

15. Tôi ngước nhìn anh, hơi ngạc nhiên. ánh mắt tôi cũng thoáng vẻ bực dọc, vì chính tôi cũng quen dậy muộn.

Tôi lấy làm tiếc là đã đánh thức anh dậy, Holmes nói

Có chuyện gì thế? Hoả hoạn à?

Không, có một thân chủ đang chờ. Một tiểu thư trẻ đang thảng thốt lo âu và khẩn khoản xin gặp tôi. Cô ấy hiện ngồi đợi dưới phòng khách. Khi những tiểu thư trẻ dám băng qua thành phố vào lúc mới rạng sáng như thế này và dám đánh thức những người chưa quen biết dậy, thì chắc hẳn họ phải gặp chuyện gì đó rất đáng

lo. Vụ này có lẽ rất thú vị, đáng cho anh ghi chép, nên tôi tin chắc, anh sẽ muốn theo dõi ngay từ đầu. Tôi nghĩ nên đánh thức anh, để anh khỏi bỏ lỡ một dịp may.

- Ồ, anh bạn vàng, tôi không đời nào chịu để lỡ một dịp may, vì bất cứ lý do gì.

Tôi hối hả mặc quần áo, và chỉ vài phút sau đã theo chân bạn

tôi xuống phòng khách. Cô tiểu thư mặc bộ quần áo đen, gương mặt khuất sau một tấm mạng nhỏ thó, đang ngồi bên cửa sổ, cô vội đứng ngay dậy khi chúng tôi bước vào.

- Chào tiểu thư, - Holmes niềm nở - tôi là Sherlock Holmes. Còn đây là bạn tôi, bác sĩ Watson. Tiểu thư có thể trò chuyện với anh ấy cởi mở, như với chính tôi. À, rất mừng là bà Hudson đã tinh

ý nhóm giúp lò sưởi. Tiểu thư nên ngồi gần thêm chút nữa cạnh lò

sưởi và tôi xin phép được mời tiểu thư một tách cà phê nóng, vì tôi thấy tiểu thư đang rét run lên.

-Tôi run không phải vì trời lạnh, cô gái khẽ đáp.

- Vậy thì vì lý do gì?

- Vì sợ, thưa ông. Vì kinh hoàng. Vừa nói, cô gái vừa nâng tấm mạng che mặt lên, và chúng tôi thấy cô đang thật sự thảng thốt trong nỗi kinh hoàng. Sắc mặt tái mét ánh mắt lộ rõ vẻ khiếp sợ, như ánh mắt con thú săn đang bị bủa vây. Trông bề ngoài, cô chỉ trạc ba mươi, nhưng mái tóc đã điểm bạc đôi chỗ, còn cử chỉ thì lộ rõ

vẻ uể oải mỏi mệt. Chỉ bằng khoé mắt từng trải của anh, Sherlock

Holmes đã biết về cô đủ mọi điều.

- Cô đừng sợ - anh nói, - chúng tôi sẽ giúp cô sớm giải thoát được mọi ưu phiền. Tôi chẳng chút hồ nghi. Tôi biết rõ cô vừa tới đây bằng chuyến tàu sớm nay.

- Thế ra ông đã biết tôi trước lúc tôi đến đây hay sao?

- Không, nhưng tôi nhìn thấy trên chiếc găng tay bên trái của

cô phần còn lại của tấm vé khứ hồi. Cô đã phải dậy rất sớm, rồi còn phải ngồi co ro rất lâu trên một chiếc xe độc mã suốt cả một chặng đường dài lầy lội trước lúc ra tới ga.

Cô gái bối rối, nhìn anh bạn tôi chằm chằm.

- Chẳng có gì huyền bí đâu, thưa tiểu thư, anh mỉm cười nói - trên ống tay áo vét cô đang mặc lấm tấm bùn, ít nhất là ba chỗ. Những vết bẩn ấy còn mới. Không một loại phương tiện giao thông nào, ngoại trừ xe độc mã, lại có thể làm bắn nhiều bùn đất đến thế lên người hành khách; nhất là khi họ ngồi bên trái xà ích.

- Ông hoàn toàn đúng, dù ông dùng cách nào để phán đoán như vậy, cô gái nói. Tôi rời khỏi nhà lúc gần 6 giờ, đến Leatherhead lúc

6 giờ 20 và đáp ngay chuyến tàu đầu tiên đến ga Waterloo.. Thưa ông, tôi không còn chịu đựng được nữa. Tôi sẽ hoá điên mất nếu tình cảnh này cứ kéo dài. Tôi chỉ có một người để nhờ vả, nhưng con

người khốn khổ đó e chẳng gíup ích được bao nhiêu. Vì vậy, tôi

đành tới cầu cứu ông, thưa ông Sherlock Holmes. Ông có đủ sức giúp không, ít ra là cũng làm sáng tỏ ít nhiều những bí ẩn đáng sợ đang bủa vây tôi bốn bề?

- Xin cô cứ kể hết với chúng tôi tất cả những gì có thể giúp chúng tôi hình dung được tình cảnh đang khiến cô sợ hãi.

Điều khủng khiếp nhất trong tình cảnh của tôi hiện nay là những lo sợ của tôi , những lo sợ đều hết sức mơ hồ, - cô thân chủ đáp. Những ngờ vực của tôi đều bắt nguồn từ những chuyện rất nhỏ nhặt, đến nỗi người khác có thể cho là vớ vẩn. Nhưng tôi nghe đồn chỉ có ông, thưa ông Sherlock Holmes, mới thấu hiểu hết tâm địa hiểm ác của người đời. ông mới có thể khuyên tôi nên xoay xở thế nào trong những hiểm hoạ đang bủa vây quanh tôi.

- Tôi đang lắng nghe cô đây, thưa cô.

- Tôi tên là Helen Stoner. Tôi đang ở với ông bố dượng. Ông ấy

là người cuối cùng còn sống của một dòng họ Saxon lâu đời nhất Anh quốc, dòng họ Roylott xứ Stoke Moran, tại cực tây này, giáp ranh với Surrey.

Sherlock Holmes gật đầu

- Tôi đã được nghe nói khá nhiều đến cái tên đó - anh nói.

- Có một thời, họ từng là dòng họ giàu có nhát Anh quốc. Lãnh địa họ, ở mạn bắc, vắt qua cả biên giới, ăn sâu vào tận Berkshire,

và ở mạn tây - tận Hampshire. Nhưng vào cuối thế kỷ trước, cả bốn

thế hệ liền đã mặc sức phung phí và chẳng buồn làm gì. Trong thập niên 1820, những gì còn sót lại đã bị một gã máu mê cờ bạc nướng hết vào các trò đen đỏ, ngoài trừ một vài mẫu đất và một toà nhà cũ, xây từ hai trăm năm trước. Viên điền chủ cuối cùng của dòng họ đành phải lui về cư ngụ tại ngôi nhà nọ, sống cuộc đời thảm hại của một người quí tộc nghèo. Nhưng cậu con trai độc nhất của ông ta, người hiện là bố dượng tôi, hiểu rằng phải tìm cách thích nghi với tình cảnh mới. Ông ấy cố kiếm được một mảnh bằng bác sĩ, rồi lên đường sang Calcutta. Tại đây, ông ta nhờ có tay nghề và đức kiên

nhẫn, nên chẳng bao lâu sau đã được đông đảo khách hàng tín

nhiệm. Nhưng rồi nhà ông ta bị mất cắp, khiến ông ta tức điên người, đánh một gia nhân người bản xứ đến chết, và chật vật lắm ông ta mới thoát khỏi bản án xứ giảo. Sau vụ đó, ông ta đã phải chịu cảnh tù tội rất lâu, nên khi được thả ông trở về Anh quốc trong tâm trạng thất vọng và bi quan.

Hồi còn làm bác sĩ ở ấn Độ, Roylott đã kết hôn với mẹ tôi, bà Stoner, một quả phụ trẻ, vốn là vợ của Thiếu tướng Stoner, chỉ huy pháp binh tại Bengal. Tôi và Jlia, chị tôi, là hai chị em sinh đôi. Hồi mẹ tôi đi bước nữa, hai chúng tôi mới 20 tuổi. Mẹ tôi có một khoản tiền khá lớn, mỗi năm được hưởng không dưới một ngàn bảng lợi tức. Bà giao hết khoản tiền đó cho bác sĩ Roylott cai quản, vì hai chị em tôi còn phải sống cùng ông bố dượng, và dặn ông ta phải chia đôi cho hai chúng tôi khi nào chúng tôi đi lấy chồng. Mẹ tôi qua đời chỉ

ít lâu sau ngày chúng tôi trở về Anh: bà chết cách đây 8 năm trong một vụ tai nạn hoả xa gần Crewe. Ngay sau ngày đó, bác sĩ Roylott lập tức bỏ ý định ở lại Luân Đôn hành nghề, và đưa hai chị em tôi

về Stoke Moran, sống tại ngôi nhà được thừa kế. Khoản tiền mẹ tôi

để lại thừa đủ chu cấp cho mọi sở thích của chúng tôi, và tưởng chừng chẳng có gì ngăn trở chúng tôi sống hạnh phúc.

Nhưng đúng vào thời kỳ đó, tính khí bố dượng tôi bỗng thay đổi hẳn. Thay vì kết thân và tới viếng thăm những người hàng xóm, mới đầu rất hồ hởi khi được gặp lại một người thuộc dòng dõi Roylott trở về sống tại quê cũ, ông ta cứ ru rú suốt ngày ở nhà. Ông

ta chẳng mấy khi bước ra ngoài, và hễ đi ra đến ngoài thì lần nào cũng gây gổ dữ dội với bất cứ ai chạm trán với ông trên đường đi. Cái tính hay có những cơn giận hung hãn đã thành một tật cố hữu của cánh đàn ông dòng họ Roylott. Và đến đời bố dượng tôi, các tật

đó lại càng tăng thêm, có lẽ vì ông ta sống quá lâu ở miền nhiệt đới. Một loạt những vụ ẩu đả tồi tệ đã xảy ra, trong đó có hai vụ đã phải kết thúc ở đồn cảnh sát. Rốt cục, ông ta trở thành nỗi kinh hoàng của cả làng, và dân ở đấy ai cũng vội vã tránh mặt ông ta, vì ông ta

có một thế lực phi thường và hoàn tòan không thể tự kiềm chế, khi đã nổi cơn thịnh nộ.

Bạn bè độc nhất của ông ta là những người Digan sống lang

thang nay đây mai đó; ông cho họ dựng lều trại trên mảnh đất nhỏ, diện tích chỉ vài hecta của dòng họ để lại. Ông ấy thích lang thang đây đó cùng họ; có lần vắng nhà hàng tuần. Ông ta cũng thích những giống vật ấn Độ, được ngừơi quen gửi tận bên đó về. Hiện ông đang nuôi một con báo bờm, giống Cheetah, và một con khỉ đầu chó, nòi Baboon, suốt ngày đêm thả rông, mặc cho chúng muốn đi đâu thì đi. Dân làng hầu như ai cũng sợ chúng chẳng kém gì chủ chúng.

Qua lời tôi kể, chắc ông dễ dàng hình dung được là cảnh sống của chị Julia đáng thương và tôi chẳng lấy gì làm sung sưóng cho lắm. Không một người giúp việc nào chịu nổi cảnh sống ở nhà chúng tôi, nên từ lâu lắm rồi, hai chị em tôi đã phải tự tay làm lấy mọi việc trong nhà. Chị tôi đã chết hồi chỉ mới ba mươi tuổi, và tóc chị ấy cũng đã điểm bạc như tóc tôi.

- Thế chị ấy đã mất rồi sao?

- Chị ấy qua đời cách nay vừa tròn hai năm. Chính tôi cũng đang định kể với ông về cái chết của chị ấy. Các ông thấy đấy, cảnh sống mà tôi vừa kể khiến chúng tôi không còn thích giao du với bất

cứ ai cùng trang lứa và địa vị. Chị em tôi có một bà dì ruột, sống độc thân, tên là Honoria Westphail, bà ở mạn Harrow, nhưng hoạ hoằn lắm chúng tôi mới được phép đến thăm bà vài ngày. Cách đây hai năm, chị Julia có đến đó đón lễ Noel và đã gặp một Thiếu tá Hải quân, rồi đính hôn cùng anh ta. Dượng tôi được biết chuyện đó sau ngày chị Julia trở về và không tỏ ý phản đối cuộc hôn nhân ấy nhưng rồi hai tuần trước ngày họ định tổ chức hôn lễ, chị Julia đã gặp một việc khủng khiép đã cướp mất của tôi người bạn tâm tình độc nhất trên đời.

Sherlock Holmes nãy giờ ngả người vào lưng ghế, mắt lim dim, đầu tựa trên chiếc gối đặt trên tay vịn của chiếc đi văng. Nghe đến đó, anh bỗng hé mắt nhìn thẳng vào mắt cô gái.

- Xin cô kể lại chuyện ấy thật cặn kẽ - anh nói.

- Việc này đối với tôi rất dễ, vì mọi điều xảy ra vào khoảng thời gian kinh hoàng đó đều đã khắc sâu vào ký ức của tôi. Toà nhà

chính mà dượng tôi được thừa kế, như tôi vừa kể, rất cũ kỹ, chỉ còn

một dãy bên là còn ở được. Sàn của mấy phòng ngủ ở đây toàn là sàn đất nện; mấy phòng khách thì chiếm phần trung tâm toà nhà. Trong ba phòng ngủ kia, thì phòng đầu là bác sĩ Roylott, phòng thứ hai là của chị tôi, còn phòng cuối thì dành cho tôi. Chẳng phòng nào

ăn thông với phòng nào; nhưng cả ba đều có cửa mở ra dãy hành lang chung. Tôi kể như vậy, có được rõ không ạ?

- Rất rõ.

- Cửa sổ ba phòng đều hướng ra phía bãi cỏ. Vào cái đêm kinh hoàng đó, bác sĩ Roylott về phòng rất sớm, nhưng chúng tôi biết ông

ấy chưa ngủ, vì chị tôi phải khó chịu vì cái mùi xì gà ấn Độ rất nặng mà ông ta quen dùng. Vì vậy, chị ấy rời phòng sang bên tôi, ngồi một lúc, nói chuyện gẫu về cái đám cưới sắp tới. Mười một giờ thì chị ấy đứng dậy, rời phòng tôi, nhưng ra đến cửa bỗng dừng lại, ngoái nhìn sau lưng, rồi lên tiếng hỏi tô :

- Helen,khuya khuya, em có bao giờ nghe tiếng ai đó huýt sáo không?

- Chưa bao giờ - tôi đáp.

- Biết đâu em có thể huýt sáo lúc mơ ngủ?

- Không thể có chuyện đó được. Nhưng tại sao chị hỏi thế?

- Vì mấy đêm gần đây, vào khoảng ba giờ sáng, đêm nào chị cũng nghe có tiếng huýt sáo rất khẽ và rõ. Chị vốn tỉnh ngủ, nên tiếng động đó khiến chị thức giấc. Chị không thể nói rõ nó từ phía nào đưa lại. Có thể là từ phòng bên, mà cũng có thể từ ngoài bãi cỏ vọng vào. Hôm qua, chị đã định hỏi em có nghe thấy không.

- Không, em không nghe. Chắc là đám Di-gan đấy.

- Có lẽ đúng vậy thật. Nhưng nếu quả là từ ngoài bãi cỏ vọng vào thì sao em không nghe thấy? Lạ thật!

- Ồ, em ngủ say hơn chị nhiều.

Thôi, toàn chuyện vớ vẩn không đâu - chị ấy mỉm cười, khép cửa phòng tôi, và lát sau tôi nghe thấy tiếng chìa lách cách trong ổ khoá phòng chị.

- Thì ra là vậy, Sherlock Holmes nói. Chị cô và cô bao giờ cũng

khoá cửa trước lúc đi ngủ?

- Vâng.

- Sao vậy?

- Hình như tôi đã kể với ông là dượng tôi có nuôi thả rông một con báo bờm và một con khỉ đầu chó. Hai chị em tôi chỉ cảm thấy an toàn khi đã khoá trái cửa sau lưng.

- Tôi hiểu. Xin cô kể tiếp.

- Đêm đó, tôi không thể nào chợp mắt được. Tôi linh cảm mơ hồ một điều bất hạnh sắp xuống giáng xuống đầu mình. Hai chúng tôi, hẳn ông còn nhớ, là hai chị em sinh đôi, và chắc ông cũng biết, anh em hay chị em song sinh vốn gắn bó với nhau mật thiết như thế nào. Đêm đó quả là một đêm ghê rợ. Gió rít từng hồi, còn mưa thì xối xả trút nước vào cửa sổ. Bất thình lình, trong tiếng gió gào thét bỗng dậy lên một tiếng rú man dại của một người phụ nữ đang hốt hoảng. Tôi nhận ra ngay: đó là tiếng chị tôi. Tôi nhảy vội xuống đất, lao ra hành lang. Lúc đang mở cửa, tôi chợt nghe một tiếng huýt sáo kẽ, đúng như chị tôi kể, rồi chỉ một lát sau, tiếng rơi đánh sầm của một vật nặng bằng kim loại. Khi tôi chạy sang, tôi thấy cửa phòng chị tôi không khoá, cánh cửa đang từ từ xoay trên bản lề. Tôi kinh hãi, trố mắt nhìn, không biết cái gì sắp xảy ra đây. Dưới ánh đèn treo ngoài hành lang, tôi thấy chị Julia hiện ra sau cánh cửa, mặt trắng bệch vì khiếp sợ. Chị chới với vươn hai tay ra phía trước, cầu cứu tôi, toàn thân lảo đảo như thể đang say. Tôi chạy vội tới, ôm choàng lấy chị, nhưng đúng vào lúc đó, chân chị bỗng bủn rủn

và chị ngã khuỵu xuống đất. Chị quằn quại vì một nỗi đau đớn không thể chịu đựng nổi. Mới đầu, tôi tưởng chị không nhận ra mình; nhưng lúc tôi cúi xuống, chị bỗng hét lên bằng một giọng mà

tôi nhớ suốt đời:" Trời ơi, Helen! Cái dải băng ấy! Dải băng lốm đốm!". Chị ấy còn cố nói một điều gì đó nữa, tay chỉ chỉ về phía phòng ông bố dượng, nhưng một cơn co giật nữa lại ập tới, không cho chị thốt nên lời. Tôi vừa đứng bật dậy, vừa lớn tiếng gọi ông bố

dượng, và thấy ông ta chạy vội ra khỏi phòng. Trên người còn mặc

chiếc áo ngủ lụng thụng. Khi ông ta chạy tới thì chị tôi đã bất tỉnh. Ông ta đổ rượu brandy vào miệng chị tôi, cho người đi gọi ông thầy thuốc trong làng nhưng mọi cố gắng cứu chữa chị tôi đều vô hiệu. Chị lả dần, rồi tắt thở, không còn tỉnh lại được nữa. Người chị yêu quí của tôi đã chết một cách khủng khiếp như vậy đó.

- Xin hỏi cô một câu, Sherlock Holmes nói.Cô có tin chắc là đã nghe tiếng huýt sáo và tiếng rơi của một vật nặng bằng kim loại?

Cô có dám thề là mình đã không nghe lầm không?

- Tôi cảm thấy mình không lầm chút nào. Nhưng dẫu sao tôi cũng không dám đoán chắc lắm, vì lúc đó gió đang gào thét bên ngoài và căn nhà cũ cũng phát ra đủ mọi thứ âm thânh giữa lúc mưa to gió lớn.

- Chị cô lúc đó đã ăn mặc tề chỉnh?

- Không! Chỉ mỗi chiếc áo ngủ trên người. Bên tay phải đang cầm một que diêm đã đánh lửa, còn bên tay trái - một bao diêm.

- Điều đó chứng tỏ cô ấy đã quẹt diêm lên để xem thử có chuyện

gì khiến cô ấy sợ hãi. Chi tiết đó rất quan trọng. Vậy ông dự thẩm kết luận thế nào khi đến điều tra?

- Ông ấy xem xét hết sức cẩn thận nội vụ, vì bác sĩ Roylott từ lâu đã là đối tượng khả nghi. Nhưng ông ấy không tài nào tìm thấy một chứng cứ gì xác đáng về nguyên nhân cái chết. Cửa phòng được khoá chặt từ bên trong. Bên ngoài cửa sổ còn có thêm một lần cửa

gỗ được gá trên những thanh sắt to bản để phòng ngừa kẻ gian. Hơn nữa, đêm nào cũng cài then cẩn thận. Tôi cũng đưa ông ấy đi xem tường vách: tất cả đều vẫn còn vững chãi lắm. Sàn nhà cũng được khám xét kỹ, nhưng vẫn chẳng có dấu hiệu khả nghi nào. ống khói lò sưởi tuy rộng, nhưng không thể chui qua. Như vậy, chắc chắn là khi xảy ra cái tai hoạ bi kịch ấy, chị tôi chỉ có một mình trong phòng.

- Thế khả năng bị đầu độc?

- Các bác sĩ cũng đã khám nghiệm tử thi, nhưng chẳng thu được một kết quả nào.

- Vậy, theo cô, lý do gì đã khiến người chị bất hạnh của cô chết

thảm khốc như thế?

- Tôi tin rằng chị ấy chỉ vì quá kinh hoàng và chấn động thần kinh, tuy không thể hình dung nổi điều gì đã khiến chị ấy sợ hãi đến mức đó.

- Hôm đó, đám Di-gan có mặt trong địa phận trang trại không?

- Có, họ hầu như lúc nào cũng ở gần trang trại.

- Này, vậy cô nghĩ gì về dải băng, dải băng lốm đốm, mà chị cô

có nhắc tới?

- Có lúc tôi nghĩ đó chỉ là những lời vô nghĩa trong cơn mê sảng của chị tôi; nhưng có lúc tôi cho rằng có lẽ chị tôi muốn nói tới một loại băng đảng gì đấy, chắc là tới đám người Di -gan, cũng có thể là thứ khăn trùm sặc sỡ mà dân Di gan hay dùng đã khiến chị ấy thốt

ra hai chữ "lốm đốm" kỳ dị đó.

Holmes lắc đầu như có ý không chút nào thấy thoả mãn.

- Còn có một cái gì khác nữa kia! - anh nói - Xin cô kể tiếp đi.

- Hai năm trôi qua kể từ ngày đó, và cuộc sống của tôi càng trở nên lẻ loi, cô độc hơn bao giờ hết. Nhưng tháng trước, một anh bạn thân mà tôi quen biết từ nhiều năm, đã ngỏ lời cầu hôn tôi. Anh ấy tên là armitage, Perryarmitage, thứ nam của ông armitage ở vùng Crame Water, gần Reading. Bố dượng tôi không phản đối, và chúng

tôi định sang xuân thì tổ chức hôn lễ. Cách đây hai ngày, bác sĩ Roylott gọi thợ tới, cho sửa chữa phần trái nhà ở mạn tây. Họ đập phá vách tường căn phòng ngủ của tôi, nên tôi phải dời sang ở tạm

tại căn phòng nơi chị tôi đã qua đời, ngủ trên chính chiếc giừơng chị

ấy từng ngủ. Đêm qua, tôi nằm mà chẳng tài nào chợp mắt được, vì nghĩ tới cái chết bi thảm của chị mình. Thế rồi, các ông có hình dung được không nỗi kinh hoàng của tôi. Tôi bỗng nghe thấy trongcảnh vắng lặng của đêm khuya cái tiếng huýt sáo khẽ mà chính chị tôi từng nghe thấy trước lúc chết. Tôi choàng ngay dậy, châm đèn lên, nhưng chẳng thấy gì trong phòng cả. Tôi quá hoảng

sợ, nên không thể lên giường ngủ tiếp, đành mặc sẵn quần áo, ngồi

chờ. Thấy trời vừa sáng, tôi vội lên đường đến gặp ông ngay, để cầu cứu ông.

- Cô đã xử sự rất khôn ngoan, bạn tôi nói. Nhưng cô đã kể hết chưa?

- Thưa ông, hết rồi.

- Chưa đâu, cô Roylott ạ. Cô đang bao che cho ông bố dượng của

cô đấy.

- Sao kia? Ông muốn ám chỉ điều gì?

Thay vì câu trả lời, Holmes kéo cao ống tay áo của cô thân chủ lên. Năm vết đỏ bầm, dấu của năm ngón tay, nổi rõ trên cổ tay trắng muốt của cô gái.

- Cô bị ông ta đối xử tàn tệ quá! Holmes nói.

Cô gái đỏ bừng mặt, kéo vội ống tay áo xuống để che cái cổ tay

bị bầm.

- Ông ấy là hạng người cục súc, cô nói, sức lực như hộp háp, và chắc không lường hết được sức mạnh của mình.

Cả ba chúng tôi ngồi im lặng hồi lâu. Holmes tì cằm lên hai tay, nhìn chằm chằm ngọn lửa cháy trong lò.

Mãi sau, anh mới lên tiếng:

- Vụ này thật bí ẩn. Có tới hàng trăm tình tiết tôi đang muốn biết rõ trước lúc quyết định phương hướng hành động. Chúng ta đừng để mất thời giờ. Cô có thể giúp chúng tôi về Stoke Moran ngay hôm nay, để chúng tôi xem kỹ lại mấy căn phòng đó, mà dượng cô không hề hay biết, được không?

- Được ạ. Vì ông ấy có nói là hôm nay phải lên Luân Đôn thu xếp một số công việc gì đó hết sức hệ trọng. Chắc ông ta sẽ vắng nhà suốt ngày, nên không ai cản trở các ôngđâu.

- Tuyệt. Thế thì cả hai chúng tôi sẽ cùng đến. Còn cô, cô có phải thu xếp việc riêng gì nữa không?

- Tôi có vài việc đang định làm gấp nhân lên đây, nhưng tôi sẽ

quay về ngay bằng chuyến tàu 12 giờ, nên tôi vẫn có mặt ở nhà để tiếp đón hai ông.

- Vậy cô nên đợi sẵn chúng tôi sau mười hai giờ trưa. Tôi cũng

có vài việc vặt cần thu xếp.Cô có vui lòng ở lại dùng điểm tâm với chúng tôi không?

- Ồ không, tôi phải đi gấp. Hy vọng sẽ gặp lai các ông vào chiều nay -cô gái buông chiếc mạng đen xuống, rồi rời căn phòng.

- Anh nghĩ sao về vụ này, Watson? - Sherlock Holmes vừa hỏi vừa ngã người vào lưng ghế.

- Tôi cảm thấy đây là một vụ án đầy bí hiểm, có thể chứa đựng một tội ác thâm độc.

- Bí hiểm thật, mà cũng thâm độc thật.

- Cô gái cho biết sàn nhà, tường, vách còn rất chắc; không một

ai có thể đột nhập qua cửa ra vào, cửa sổ, và ống khói, thì rõ ràng là người chị chỉ có một mình trong phòng, lúc cái chết bí hiểm kia ập đến.

- Vậy thì tiếng huýt sáo lúc nửa đêm, và những lời kỳ lạ cô ấy thốt ra trước lúc chết phải lý giải thế nào

- Tôi chưa thể nghĩ ra.

- Anh nên ngẫm nghĩ kỹ về tiếng huýt sáo giữa đêm khuya và dải băng của đám Di gan mà lão bác sĩ chứa chấp trong địa phận của lão. Ta cũng có lý do để tin rằng lão ta rất quan tâm tới việc ngăn cản cô con gái của người vợ cũ đi lấy chồng. Hơn nữa, ở đây còn có lời cô chị nhắc tới dải băng và sau cùng, là tình tiết cô Helen Stoner nghe thấy tiếng rơi của một vật nặng bằng kim loại. Âm thanh đó rất có thể là do một thanh sắt gá vào cánh cửa chắn bên ngoài cửa sổ phát ra, khi nó bật mạnh vào vị trí cũ.Tất cả những tình tiết đó, theo tôi, có thể giúp ta lý giải vụ án.

- Nhưng nếu vậy thì đám Di - gan cóliên quan gì?

- Tôi chưa thể hình dung.

- Tôi thấy có quá nhiều điều chống lại cái giả thuyết anh vừa

đưa ra.

- Tôi cũng nghĩ vậy. Chính vì lý do đó nên hôm nay chúng ta phải tới tận nơi, tới Stoke Moran. Tôi muốn biết những bằng chứng phản bác có vững hay không, hay ít ra cũng hiểu rõ được sự thể hơn. ồ, lại sắp có chuyện quỉ quái gì nữa đây?

Cửa phòng bật mở, và một người đàn ông cao lớn vạm vỡ xuất hiện. Ông ta cao đến nỗi mũ gần chạm vào thanh ngang trên cùng của khung cửa, và to ngang tới mức choán gần hết cả bề rộng cửa ra vào. Mặt ông ta to bè, nhăn nheo, sạm nắng và hằn sâu những dấu tích của đủ mọi thứ dục vọng quỉ quái. Ông ta đảo mắt lia lịa nhìn hai chúng tôi, và cặp mắt trũng sâu cùng cái mũi khoằm của ông ta khiến ông ta trông như một con ác điểu già hung dữ.

Trong hai anh, ai là Holmes, hả? - lão hỏi

- Tôi đây, thưa ngài - bạn tôi bình thản đáp.

Ta là bác sĩ Grimesby Roylott ở Stoke Moran.

- Rất hân hạnh - Holmes nói - Mời bác sĩ ngồi.

- Ta chẳng thèm ngồi với anh làm gì. Con gái vợ ta vừa ở đây ra. Tađã lần được dấu vết nó. Nó đã hót gì với các anh, hả?

- Trời lạnh thế này quả là trái mùa - Holmes nói.

- Nó đã hót với anh những gì?- lão rít lên, giọng tức giận.

- Nhưng tôi nghe nói hoa vẫn sẽ được mùa - bạn tôi nói tiếp.

- À, anh định đánh trống lảng chứ gì? - ông khách vừa nói vừa bước lên trước một bước. Anh thì ta chẳng lạ. Ta nghe danh anh lâu rồi. Anh là Holmes, một gã rất hay can thiệp vào công việc người khác.

Holmes tủm tỉm cười đắc ý.

- Trò chuyện với ông thật thú vị- anh nói. Bao giờ ra khỏi đây, ông làm ơn khép cửa hộ, vì phòng này hay có giò lùa.

Ta chỉ ra khỏi đây chừng nào ta nói hết những điều cần nói với

anh. Đừng có liều can thiệp vào công việc của ta. Ta biết con Stonerđã mò tới đây - ta đã lần theo dấu vết của nó! Ta là một người nguy hiểm! Nhìn đây.

Lão bước nhanh về phía lò sưởi, cầm thanh sắt cời than, bẻ cong nó lại bằng đôi tay hộ pháp sạm nắng.

Liệu hồn, chớ có để bị sa vào tay ta - lão gầm lên, vứt thanh cời than vào lò, rồi bỏ di.

- Quả là một con người dễ mến -Holmes vừa nói vừa cười lớn. Giá lão còn ở lại, tôi có thể cho lão thấy tay tôi cũng chẳng yếu hơn tay lão lắm đâu. Nói chưa dứt lời, anh ta cầm thanh sắt cời than lên, rồi lên gân uốn thẳng nó lại như cũ.

- Anh Watsso, bây giờ tôi sẽ bảo dọn điểm tâm; sau đó, tôi đi một lúc, hy vọng sẽ thu thập được một ít tin tức khả dĩ giúp chúng mình trong vụ này.

Khoảng một giờ trưa, Sherlock Holmes trở về. Anh cầm trên tay một tờ giấy màu xanh, chi chít những ghi chép và những hình vẽ, những con số.

- Tôi đã được tận mắt thấy bản di chúc của người vợ quá cố - anh nói - Tổng số lợi tức khoảng bảy trăm năm mươi bảng. Mỗi cô gái có quyền đòi hai trăm năm mươi bảng lợi tức khi nào họ đi lấy chồng. Như vậy, nếu cả hai cô đều lấy chồng, thì lão bác sĩ chỉ còn được hưởng một số tiền chẳng đáng là bao; thậm chí chỉ một cô về nhà chồng thì lão cũng đã bị thua thiệt đáng kể. Công việc của tôi sáng nay vậy là chẳng vô ích, vì nó cho thấy lão ta có đủ lý do rất hệ trọng để tìm mọi cách ngăn cản việc kết hôn của hai cô gái. Và bây giờ, nếu anh đã sẵn sàng rồi thì chúng ta sẽ gọi một chiếc xe để ra

ga Waterloo. Tôi sẽ rất biết ơn, nếu anh vui lòng nhét vào túi khẩu súng ngắn của anh. Súng với bàn chải đánh răng nữa, tôi nghĩ chúng ta chỉ cần hai thứ đó.

Đến Waterloo, chúng tôi đáp ngay tàu lên Leatherhead, rồi thuê một cỗ xe ngựa tại một quán trọ gần ga. Chúng tôi lên xe

ngựa, băng qua khoảng bốn năm dặm trên những con đường làng

ngoạn mục của vùng Surry. Hôm đó thời tiết tuyệt đẹp, ánh nắng chan hoà, bầu trời hơi vẩn mây, không khí sực nức mùi đất ẩm. Tôi cảm thấy có một sự tương phản kỳ lạ giữa những dấu hiệu ngọt ngào hứa hẹn một mùa xuân đẹp với công việc khủng khiếp mà chúng tôi đang theo đuổi. Bạn tôi ngồi đằng trước, đắm mình trong những trầm tư, hai ta khoanh trước ngực, mũ kéo sụp xuống tận mắt, cằm tì sát ngực. Nhưng bỗng anh vỗ vai tôi, chỉ tay về phía nhữngcánh đồng.

- Nhìn kìa! anh nói.

Một khu vườn sum sê cây cối trải dài trên một sườn đồi thoai thoải. Giữa đám cây lá nhô lên cái mái cao của một toà nhà cũ tàn

tạ.

- Stoke Moran thì phải? - anh hỏi.

- Vâng, thưa ngài, đó là dinh cơ của bác sĩ Grimesby Roylott - người xà ích đáp - Ngài sẽ đỡ mất thời giờ hơn, nếu đi theo lối đường tắt băng qua đồng. Chỗ có một tiểu thư đang đi kia kìa.

- Theo tôi đó chắc là cô Stoner -Holmes phỏng đoán vậy.

Chúng tôi xuống xe, trả tiền, và chiếc xe ngựa lại lóc cóc quay

về Leatherhead.

- Chào cô Stoner - Holmes nói.

Thân chủ chúng tôi chạy vội lại đón chúng tôi, vẻ mặt mừng rỡ.

- Tôi rất mong hai ông - cô reo lên, ân cần xiết tay chúng tôi. Bác sĩ Roylott đã lên Luân Đôn và khó có thể quay về trước tối nay.

- Chúng tôi đã có hân hạnh được gặp bác sĩ rồi - Holmes nói, và anh vắn tắt thuật lại những gì đã diễn ra. Cô Stoner tái mặt khi biết chuyện đó.

- Trời ơi! - cô kêu lên. - Vậy là lão đã theo sát gót tôi.

- Chắc thế.

- Lão quỉ quyệt tới mức tôi không thể biết lúc nào mình được an toàn. Lão có nói khi nào lão quay về không?

- Chắc lão phải cẩn trọng, vì có thể lão hiểu rằng mình đã gặp

trên đường đi một người còn tinh khôn hơn chính lão. Đêm nay, cô phải khoá chặt cửa để tránh lão. Nếu lão định làm gì, chúng tôi sẽ gửi cô đến Harrow, ở với bà dì cô. Còn bây giờ, chúng ta phải tận dụng tối đa thời cơ, vì vậy, xin cô đưa ngay chúng tôi đến mấy căn phòng mà chúng tôi phải xem kỹ.

Toà nhà được xây bằng đá xám; phần giữa cao, còn hai chái xây cong. Mấy khung cửa sổ ở một bên chái đã vỡ, nên phải bít lại bằng những thành gỗ. Ngói trên mát sút lở nhiều chỗ. Một cảnh tường đổ nát phơi bày trước mắt chúng tôi. Phần giữa nhà khá hơn ít nhiều ; nhưng hiện đại hơn cả vẫn là khối bên phải. Những tấm rèm trên mấy khung cửa sổ và làn khói bay lên từ mấy cái lò sưởi cho thấy cả gia đình hiện sống tại phần này. Holmes đi đi lại trên bãi cỏ, chăm chú ngắm nhìn phía ngoài mấy khung cửa sổ.

- Tôi đoán cửa sổ này là cửa phòng ngủ trước đây cô sử dụng;

cái chính giữa là phòng của chị cô, còn cái kế cận với toà nhà chính

là phòng của bác sĩ Roylott, đúng không, thưa cô?

- Vâng, đúng rồi. Nhưng tôi hiện phải ngủ tại căn giữa.

- Chỉ tạm thời trong lúc sửa chữa thôi, nếu tôi không lầm. À luôn tiện cũng xin hỏi: hình như chẳng việc gì phải sửa chữa gấp như vậy thì phải. Vì tôi thấy bức tường ở đầu nhà còn chắc lắm mà.

- Đúng vậy. Tôi tin chắc đó chỉ là cái cớ để bắt tôi phải chuyển phòng thôi.

- À! Có thể đúng thế thật. Nay, mặt trong cái chái hẹp này có một dãy hành lang mà cả ba phòng ngủ đều ăn thông ra, phải không? Bên phía đó chắc cũng phải có cửa sổ chứ?

Vâng, nhưng nhỏ lắm. Nhỏ đến nỗi không một ai có thể chui qua được.

- Vậy là từ mặt đó, không một ai có thể lọt vào phòng hai chị em cô, nếu đêm nào các cô cũng khoá chặt cửa. Bây giờ, cô làm ơn vào phòng cô và đóng chặt mấy cánh cửa chắn lại nhé.

Cô Stoner làm theo lời Holmes, và anh cố tìm mọi cách thử mở

cánh cửa chắn, nhưng vô hiệu.

Hừm! - anh nói - Giả thuyết đầu của tôi như vậy là đã bị loại bỏ. Không một ai có thể chiu qua ngả này, nếu cửa chắn đã bị cài chặt. Được rồi, bây giờ thì ta thử vào phía trong, xem có phát hiện được gì mới không.

Một cánh cửa nhỏ bên hông dẫn vào hành lang mà cửa của ba phòng ngủ đều ăn thông ra. chúng tôi vào căn phòng thứ nhì, hiện

là phòng ngủ của cô Stoner và cũng là nơi chị cô đã gặp tai hoạ. Đó

là một căn phòng nhỏ, đủ tiện nghi, trần thấp và có một lò sưởi lớn. Một cái tủ gỗ nâu đựng quần áo, có ngăn kéo, kê ở một góc phòng; còn góc kia là một cái gường trắng hẹp và một cái bàn con đặt bên trái cửa sổ. Hết thảy những thứ vừa kể cùng hai chiếc ghế dựa là toàn bộ đồ đạc trong phòng, nếu không kể tới tấm thảm trải giữa sàn. Holmes đặt vào góc phòng một chiếc ghế, ngồi xuống im lặng nhìn quanh toàn bộ căn phòng, không bỏ sót một chi tiết nào.

Sợi dây kéo chuông này ăn thông vào đâu?- mãi sau, anh mới lên tiếng, tay chỉ vào một sợi dây giật chuông cỡ lớn buông thõng xuống sát đầu giường.

- Nối với phòng người quản gia.

- Trông có vẻ mới hơn mọi thứ vật dụng trong phòng.

- Vâng. Vì mới được lắp cách đây vài năm.

- Chắc chị cô đòi mắc?

- Không tôi chẳng bao giờ thấy chị tôi giật chuông cả. chúng tôi toàn tự tay làm lấy mọi việc, vì nhà không nuôi người hầu.

- Xin lỗi cô mấy phút nhé, tôi muốn xem kỹ thêm sàn căn phòng một chút.

Anh bò tới bò lui, xem xét cẩn thận từng đường rãnh những tấm ván lát sàn. Cuối cùng, anh đến cạnh giừơng ngủ, nhìn chằm hằm một lúc, rồi lại đưa mắt nhìn bức tường từ trên xuống dưới rồi

từ dưới lên trên. Đoạn, anh cầm lấy dây chuông giật mạnh một cái.

- Sao không nghe chuông reo gì cả? Thậm chí nó cũng chẳng

được nối vào sợi dây thép kéo chuông. Lạ thật! Cô nhìn kìa, sợi dây thậm chí chỉ buộc vào một cái móc sắt nằm ngay phía trên cửa thông gió.

- Thật vô lý quá! Vậy mà lâu nay tôi chẳng để ý.

- Rất kỳ lạ! Holmes vừa lẩm bẩm, vừa giật sợi dây. Căn phòng này có một vài điểm rất kỳ quặc. Chẳng hạn, gã thợ xây hẳn phải điên rồi lắm mới trổ cửa thông hơi sang phòng bên cạnh; lẽ ra hắn

có thể trổ ra ngoài; cũng chỉ mất chừng ấy công thôi.

- Cái này cũng mới làm gần đây - cô tiểu thư nói

- Chắc làm cùng lúc với sợi dây kéo chuông - Holmes nhận xét.

- Vâng dạo đó có một số thay đổi nhỏ trong nhà.

- Cô Stoner, cô vui lòng cho chúng tôi sang phòng ông bác sĩ xem qua một chút.

Phòng bác sĩ Roylott rộng hơn phòng hai cô con riêng của bà vợ trước, nhưng đồ đạc bài trí rất đơn sơ. Chỉ có một cái giừơng, một giá sách nhỏ bằng gỗ, một cái ghế bành kê cạnh giường, một giá sách nhỏ bằng gỗ, một cái ghế bành kê cạnh giường, một cái ghế xếp đặt sát tường, một cái bàn tròn và một tủ sắt lớn. Holmes thong thả đi quanh phòng, xem hết sức kỹ lưỡng từng món đồ đá.

- Tủ này đựng gì? Holmes vừa hỏi gõ vào chiếc tủ sắt.

- Giấy tờ làm ăn của bố dượng tôi.

- Ồ, thế ra cô đã có dịp nhìn vào bên trong?

- Chỉ một lần duy nhất, cách đây vài năm. Tôi nhớ là trong tủ đầy ắp giấy tờ.

- Ông ta có nuôi gì trong đó không? Như mèo chẳng hạn.

- Không, ông hỏi gì lạ thế!

- Thề thì cô nhìn đây! - Anh cầm lên một cái đĩa lót tách nhỏ, đựng sữa, đặt trên nóc tủ.

- Không, chúng tôi không nuôi mèo. Nhưng có một con báo bờm

và một con khỉ đầu chó.

- À, vâng. Dĩ nhiên! Báo bờm chẳng qua chỉ là một con mèo lớn xác thôi. Nhưng tôi nghĩ rằng đĩa sữa nhỏ này e khó lòng chu cấp

đủ cho con vật đó. Còn một điểm nữa tôi muốn làm sáng tỏ - Anh

lấy kính lúp ra soi lên mặt chiếc ghế gỗ, xem xét mặt ghế hết sức kỹ lưỡng.

- Cảm ơn cô. Thế là rõ rồi, anh vừa nói vừa đứng dậy, cất chiếc kính lúp vào túi. Chà! Món này lý thú đây!

Vật khiến anh chú ý là chiếc roi nhỏ, treo trên góc giường. Tuy nhiên, chiếc roi ấy bị uốn cong ở đầu mút, rồi thắt lại thành một vòng tròn.

- Watson, anh nghĩ gì về món này?

- Đó chí là một cái roi cũng bình thường thôi. Có điều tôi không hiểu tại sao lại thắt vòng ở đầu mút.

- Chẳng bình thường lắm đâu, anh không thấy sao? Tôi nghĩ tôi xem xét xong rồi đấy, cô Stoner ạ. Điều hết sức hệ trọng là từ bây giờ, cô nhất nhất phải làm đúng những điều tôi khuyên. Vụ này nghiêm trọng lắm, ta không được chần chừ một phút nào nữa. Tính mạng của cô tuỳ thuộc cô đấy.

- Tôi xin phó thác hết cho ông.

- Trước hết, đêm nay cả hai chúng tôi phải ở lại trong phòng cô.Cả tôi lẫn cô Stoner đều kinh ngạc trố mắt nhìn anh.

- Vâng, phải như thế mới được. Để tôi cắt nghĩa. Chắc ở đằng kia là cái quán trọ của vùng này?

- Vâng, đó là quán trọ Crown Inn.

- Rất tốt. Từ đó nhìn sang có thể thấy được cửa sổ căn phòng cô không?

- Thấy được chứ.

- Khi nào bố dượng cô về, cô không được ra khỏi phòng, lấy cớ

là cô bị nhức đầu. Bao giờ nghe thấy lão sửa soạn đi ngủ, thì cô hãy

mở ngay cửa sổ, đặt lên bậu một ngọn đèn để báo hiệu cho chúng tôi

. Xong xuôi, cô mang hết những gì mình cần sang bên phòng cũ của

cô. Tôi tin chắc rằng, tuy đang sửa chữa, cô vẫn có thể nghỉ tạm một đêm bên đó.

- Vâng, chuyện đó chẳng có gì khó.

- Phần còn lại cô cứ để mặc chúng tôi lo liệu.

- Nhưng các ông sẽ làm gì

- Chúng tôi sẽ ngồi bên căn phòng mới của cô để tìm cho ra nguyên nhân của những tiếng động đã quấy rầy cô.

- Ông Holmes, tôi tin rằng ông đã đi đến được một kết luận - cô

Stoner vừa nói vừa đặt tay lên ống tay áo của bạn tôi.

- Có lẽ cô đúng.

- Vậy xin ông cho tôi biết tại sao chị tôi chết.

- Trước lúc cho cô biết, tôi muốn có những bằng chứng hiển nhiên hơn.

- Ít nhất ông cũng có thể cho tôi biết là tôi đoán định như vậy

có đúng không: chị tôi chết vì nỗi hoảng sợ quá đột ngột?

- Ồ không, tôi không cho là vậy. Tôi nghĩ là có một nguyên nhân cụ thể hơn nhiều . Còn bây giờ, chúng ta phải tạm biệt nhau,

vì nếu bác sĩ Roylott quay về mà bắt gặp chúng tôi ở đây, thì

chuyển đi này coi như uổng công. Tạm biệt cô, cô hãy can đảm lên nhé! Nếu cô làm đúng những gì tôi dặn, cô có thể tin rằng chúng tôi

sẽ sớm loại bỏ những hiểm hoạ đang rình rạp cô.

Sherlok Holmes và tôi thuê một phòng ngủ và một phòng khách tại quán trọ Crown Inn. Cả hai đều nằm ở tầng trên cùng, nên chúng tôi có thể nhìn rõ dãy nhà đang được sử dụng trong trang trại Stoke Moran. Vào lúc nhá nhem tối, chúng tôi thấy chiếc

xe ngựa chở bác sĩ Grimesby Roylott chạy ngang qua cửa sổ phòng trọ. Vóc người lão trông càng cao lớn bên cạnh cậu xà ích bé nhỏ. Đến cổng, cậu đánh xe loay hoay một lúc mới mở được hai cánh

cổng sắt nạng, và chúng tôi nghe được cái giọng khàn của bác sĩ

Roylott gầm lên, trong khi lão giận dữ khua hai nắm đấm trước mũi cậu xà ích. Cỗ xe chạy qua cổng và chỉ một lát sau, chúng tôi

đã thấy giữa lùm cây loé lên một ánh đèn mới thắp trong một phòng khách tại nhà lão.

- Watson ạ, quả tình tôi chưa dám chắc đêm nay có nên đưa anh đi cùng hay không - Holmes nói khi chúng tôi đang ngồi bên nhau trong bóng tối - Tình hình chắc sẽ nguy hiểm lắm!

- Tôi có thể giúp ích cho anh chút nào không?

- Có anh đi cùng là rất quí.

- Vậy thì tôi nhất định sẽ đi cùng anh.

- Cám ơn, anh tốt quá.

- Anh có nói đến nguy hiểm. Chắc chắn là anh đã phát hiện được nhiều điều trong những căn phòng đó hơn tôi.

- Không, tôi nghĩ rằng tôi chỉ rút ra được nhiều kết luận hơn anh thôi. Tôi cho rằng anh cũng đã trông thấy những gì tôi trông thấy.

- Tôi chẳng phát hiện được gì đáng chú ý, ngoại trừ sợi dây giật chuông. Tôi không hình dung nổi sợi dây đó được dùng làm gì.

- Anh cũng nhìn thấy cả cái lỗ thông gió chứ?

- Có. Nhưng tôi nghĩ rằng chẳng có gì kỳ lạ là có một lối hở nhỏ giữa hai phòng. Nó nhỏ tới mức một con chuột nhắt cũng khó chui quá.

- Tôi biết trước thế nào chúng ta cũng phát hiện được cái lỗ thông gió đó ngay từ khi chưa đến Stoke Moran.

- Thế thì hơi quá đây, anh Holmes thân mến ạ.

- Ồ, đúng thế. Anh không nhớ là cô Stoner cho biết chị cô ấy có lần ngửi thấy mùi khói xì gà của lão bác sĩ Roylott hay sao? Điều đó cho thấy ngay rằng giữa hai căn phòng tất phải có một lối thông

sang nhau. Có điều cái lối thông đó phải rất nhỏ, nếu không thì

viên dự thẩm đã nhận thấy. Tôi rút ra kết luận: đó chỉ là một cái lỗ thông gió.

- Nhưng cãi lỗ đó thì phỏng có hại gì?

- ồ, ít ra cũng có sự trùngkhớp đáng lưu ý giữa các sự việc: người ta trổ một cái lỗ cửa thông gió ngay phía trên đầu giường, người ta treo một sợi dây giật chuông lên, thế là cô gái ngủ trên cái giường kia chết. Anh không thấy sự trùng khớp đó là kỳ lạ?

- Tôi vẫn chưa thấy những cái đó có gì dính dáng với nhau.

- Thế anh không thấy có gì kỳ lạ nơi chiếc giường ngủ kia sao?

- Không.

- Chân giường được gắn chặt vào sàn nhà. Đã bao giờ anh thấy một kiểu kê giường như thế chưa?

- Có lẽ chưa bao giờ.

- Cô gái không thể di chuyển được cái giường. Nó luôn được đặt

cố định bên dưới lỗ thông gió và sợi dây thừng. Chúng ta có thể gọi

đó chỉ là sợi thừng , vì người ta treo nó lên không phải để giật chuông.

- Anh Holmes- tôi reo lên - Bây giờ như tôi đã hiểu được lờ mờ những gì anh muốn nói. Vậy là chúng ta đã có mặt vừa kịp thời để chặn đứng một tội ác khủng khiếp.

- Phải, cũng khá khủng khiếp . Nhưng chúng ta sẽ còn phải nếm đủ mùi khủng khiếp chừng nào đêm nay còn chưa trôi qua. Cho nên, ta hãy bình tâm thưởng thức những tẩu thuốc này và nghĩ

tới một cái gì đó vui hơn trong vài tiếng đồng hồ,

Khoảng chín giờ tối, ánh đèn giữa các lùm cây vụt tắt, cả trang trại bỗng chìm vào bóng tối. Hai tiếng đồng hồ nữa chậm chạp trôi qua, rồi thình lình một ánh đèn đơn độc đã loé sáng phía trước.

- Đó là ám hiệu của chúng ta -Holmes nói, rồi đứng bật dậy - ánh đèn phát ra từ cánh cửa sổ ở giữa.

Lát sau, chúng tôi đã xuống đường. Trời tối, gió lạnh quạt vào

mặt. ánh đèn vàng ệch đằng trước soi đường cho chúng tôi trong đêm tối. Chúng tôi lách qua giữa những gốc cây, đến chỗ bãi cỏ, rồi băng qua nó. Khi chúng tôi sắp trèo qua cửa sổ, thì từ trong những bụi rậm gần đó bỗng lao tới một quái vật tựa như một đứa bé dị dạng. Nó gieo mình xuống đất, trụ lại trên bốn cẳng chân co quắp,

rồi lao qua bãi cỏ, mất hút vàp bóng đêm.

- Trời ơi! - Tôi rỉ tai Holmes - Anh có trông thấy gì không?

Trong khoảng một phút đồng hồ Holmes cũng hoảng sợ như tôi. Rồi anh cười khẽ và thì thầm vào tai tôi:

- Một cơ ngơi thật khả ái. Con khỉ đầu chó đó.

Tôi đã quên khuấy mất lũ "gia súc" kỳ quặc của lão bác sĩ hiểm độc. Thú thực, tôi cảm thấy nhẹ cả người, khi noi gương Holmes, cởi giày và trèo qua cửa sổ vào phòng. Bạn tôi khẽ đóng cánh cửa chắn lại, đặt ngọn đèn lên bàn, rồi đảo mắt nhìn quanh phòng. Mọi thứ vẫn y nguyên như hồi chiều. Rồi anh rón rén tiến lại gần tôi, rỉ tai tôi, giọng khẽ đến mức khó lòng nghe rõ được từng lời:

- Chỉ một tiếng động nhỏ nhất cũng có thể khiến những dự tính của chúng ta tiêu ma.

Tôi gật đầu để cho Holmes biết là tôi đã nghe thấy.

- Chúng ta phải tắt đèn ngay. Lão có thể phát hiện được ánh sáng qua lỗ cửa thông gió trên kia.

Tôi lại gật.

- Nhớ đừng ngủ gật nhé. Mạng sống của anh đang tuỳ thuộc vào đó. Chuẩn bị khẩu súng để khi cần, ta có thể ra tay. Tôi sẽ ngồi

ở mép giừơng; còn anh, hãy ngồi tạm xuống chiếc ghế kia.

Tôi lấy khẩu súng ngắn ra, đặt lên góc bàn.

Holmes có mang theo một cây gậy dài, mảnh. Anh đặt nó lên mặt giừơng, sát bên tầm tay. Cạnh đó, anh đặt một bao diêm và một cây nến; xong xuôi, anh tắt đèn, và chúng tôi ngồi im trong bóng tối.

Chắc chẳng bao giờ tôi quên được cái đêm mất ngủ khủng

khiếp đó! Tôi không thể nghe được một âm thanh nào, thậm chí cả tiếng thở. Tôi biết bạn tôi đang ngồi cách mình mấy bước, mắt mở trừng trừng và cũng đang trong trại thái thần kinh cẳng thẳng như tôi. Cánh cửa chắn ngăn hết mọi thứ ánh sáng, chúng tôi ngồi trong bóng tôi dày đặc. Bên ngoài chốc chốc lại vọng vào tiếng chim ăn đêm; và có một lần vang lên một tiếng hú dài tựa tiếng mèo kêu: hẳn là con báo bờm đã được thả. Từ xa vẳng lại tiếng chuông nhà thờ điểm giờ: cứ mười lăm phút lại buông một tiếng trầm trầm. Ôi, những khoảng thời gian mười lăm phút đó sao mà dài thế! Đồng hồ điểm mười hai giờ, một giờ, hai giờ, rồi ba giờ.. ., và chúng tôi vẫn

im lặng ngồi đợi xem điều gì sẽ xảy ra.

Bỗng một ánh lửa loé lên từ bên kia lỗ cửa thông gió, rồi vụt biến mất ngay. Sau đó mùi dầu cháy và mùi sắt nung khé tlẹt bay sang. Ai đó ở phòng bên đã châm đèn. Tôi nghe một tiếng di động rất khẽ, rồi tất cả lại chìm vào im lặng, tuy mùi khét mỗi lúc một nồng nặc. Suốt nửa giờ tôi căng tai nghe ngóng. Rồi thình lình tôi nghe một tiếng động khác, rất khẽ, tựa như tiếng luồng hơi nước thoát ra từ một ấm đun nước. Đúng vào lúc tôi nghe thấy âm thanh đó, thì Holmes đứng bật dậy, đánh diêm và giận dữ vụt cây gậy tới tấp vào sợi dây giật chuông.

- Anh có thấy nó không, Watson? - anh rít lên - Anh có thấy nó không?

Nhưng tôi chẳng thấy gì cả. Vào lúc Holmes đánh diêm, tôi nghe thấy có tiếng huýt sáo khẽ, nhưng rõ.Tuy vậy, ánh lửa ở đầu que diêm đột ngột loé sáng đập vào cặp mắt mệt mỏi của tôi, khiến

tôi không thể nói đích xác bạn tôi đang đạp tới tấp vào cái gì. Tuy vậy, tôi có thể thấy rõ mặt anh tái nhợt như một xác chết và đầy kinh hãi. Anh ngừng tay, ngước nhìn chằm chằm vào lỗ cửa thông gió, rồi giữa cảnh im ắng của đêm khuya bỗng vang lên một tiếng

rú kinh hoàng mà tôi chưa từng nghe thấy bao giờ. Tiếng rú mỗi lúc một to hơn, một tiếng rú khàn khàn, chứa đầy đau đớn, sợ hãi và phẫn nộ. Tôi đứng nhìn trừng trừng vào Holmes, còn anh thì nhìn

tôi, cho tới lúc những tiếng vọng cuối cùng của tiếng rú kia chìm

vào cảnh im ắng của đêm khuya như ban nãy.

- Thế nghĩa là thế nào? - tôi thở dốc.

- Thế nghĩa là mọi chuyện đã kết thúc, - Holmes đáp - và xét cho cùng, kết thúc như thế là hay hơn cả. Anh cầm súng lên, chúng

ta sẽ vào phòng bác sĩ Roylott.

Vẻ mặt trang nghiêm, anh châm đèn lên và bước ra hành lang. Tôi đi ngang anh sáng phòng bên. Anh gõ cửa hai lần, nhưng bên trong không có tiếng đáp. Anh vặn quả đấm, rồi đi vào phòng. Tôi vào theo, súng lăm lăm trong tay.

Một cảnh tường kỳ lạ đập vào mắt chúng tôi. Trên bàn đặt một ngọn đèn, hắt ánh sáng chói gắt lên chiếc tủ sát với cánh cửa đang

hé mở. Ngồi trên chiếc ghế gỗ kê cạnh đó là bác sĩ Grimesby Roylott mình choàng chiếc áo chùng màu xám; và vắt ngang trên đùi lão là chiếc roi mà chúng tôi đã để ý tới hồi chiều. Cằm lão ta hếch lên, còn đôi mắt thì nhìn trừng trừng vào một góc trần nhà: một cái nhìn bất động trông rất khủng khiếp. Quanh đầu lão quấn một dải băng màu vàng kỳ dị, điểm những đốm màu nâu sẫm. Khi chúng

tôi bước vào, lão vẫn ngồi im lặng và bất động.

Dải băng! Dải băng lốm đốm! Holmes khẽ thốt lên.

Tôi bước tới một bước. Ngay trong khoảnh khắc đó, dải băng bắt đầu chuyển động. Từ đám tóc của bác sĩ Roylott ngóc lên một cái đầu có cạnh và cái cổ ngẳng của một con rắn gớm ghiếc.

- Đó là giống rắn độc đầm lầy! - Holmes kêu lên - Độc hơn bất

cứ giống nào ở ấn Độ. Lão ta chết mười giây sau khi bị rắn cắn. Anh hãy nhốt ngay con rắc độc kia vào tủ sắt đã, rồi đưa cô Stoner đến một nơi an toàn; xong đi báo cảnh sát địa phương.

Anh vừa nói, vừa rút vội cây roi trên đùi viên bác sĩ. Anh tròng đầu roi vào cổ rắn, thắt lại, rồi nhốt rắn vào tủ, đóng lại.

Đó là sự kiện đích thực về cái chết của bác sĩ Grimesby Roylott

ở Stoke Moran. Trên đường về vào sáng hôm sau, Holmes nói thêm cho tôi rõ những việc còn lại mà tôi chưa biết về vụ này.

- Ban đầu, tôi đã kết luận hoàn toàn sai - anh nói. Điều đó cho

thấy, Watson thân mến, sẽ nguy hiểm biết chừng nào khi lý giải mà chưa có đủ thông tin. Không còn nghi ngờ gì nữa, chính việc cô gái

tội nghiệp nọ đã dùng dải băng đễ diễn tả những gì cô trông thấy nhờ ánh sáng của que diêm và cả sự có mặt của đám Di gan trong trang trại - hai thứ đó đã gợi ra trong đầu tôi một ý nghĩ hoàn toàn sai lầm. Nhưng tôi đã gạt bỏ ngay giả thuyết đó khi hiểu rõ rằng không thể có một hiểm hoạ nào đe doạ cô ấy từ phía cửa sổ và cửa

ra vào. ý nghĩ của tôi nhanh chóng đổ dồn vào cái lỗ thông gió và sợi dây giật chuông thõng xuống đầu giường, như tôi đã có lưu ý với anh.Tôi còn phát hiện thêm được rằng sợi dây nọ chỉ là đồ giả và chiếc giường ngủ bị gắn chặt vào gỗ lát sàn. những chi tiết đó khiến

tôi nghĩ ngay; sợi dây kia chỉ là một thức cầu nối, giúp cho một vật

đi từ lỗ thông gío xuống giường ngủ. Tôi đoán đó phải là một con rắn, vì biết lão bác sĩ có nhận một số giống vật từ ấn Độ gửi sang.Tôi cảm thấy hình như mình đã lần ra đầu mối. Rồi tôi nghĩ

tới tiếng huýt sáo. Dĩ nhiên lão phải gọi con rắn kia về trước khi trời sáng, để khỏi bị nạn nhân phát hiện. Lão đã luyện cho nó chắc

là bằng đĩa sữa mà chúng ta đã thấy, khi nghe tiếng huýt sáo mà lão gọi. Lão chỉ cho nó leo qua lỗ thông gió vào thời điểm thích hợp,

và biết rằng nó sẽ theo sợi dây mà bò xuống đầu giừơng. Con rắn có

thể cắn người ngủ trên giừơng, mà cũng có thể không. Đêm đêm, cô gái có thể thoát chết trong vòng một tuần nhưng sớm muộn gì rồi cũng bị nó cắn.

Tôi đã đi đến những kết luận đó trước khi đặt chân vào phòng lão. Khi quan sát mặt ghế, tôi thấy lão hay đứng lên đó. Lão nhất thiết phải làm vậy, vì không thể nào với tay tới lỗ cửa thông gió sát trên trần nhà. Cái tủ sắt, đĩa sữa và ngọn roi đã đủ để xua tan những ngờ vực còn lảng vảng trong trí tôi. Tiếng động mạnh do một vật bằng kim loại phát ra, mà cô Stoner nghe được, rõ ràng do ông

bố dượng gây ra: lão cần đóng mạnh cánh cửa sắt để nhốt con vật nuôi đáng sợ đó. Sau khi đã đi đến những kết luận đó, tôi liền tiến hành việc chứng minh, nhưng anh đã thấy đó. Khi nghe được những tiếng động rất khẽ mà tôi nghĩ chính anh cũng nghe rõ, tôi lập tức thắp đèn lên và tấn công con vật".

- Kết quả là anh đã đuổi nó bò trở lại lỗ thông gió.

Và cũng chính bằng cách đó, tôi đã xua nó về lại với ông chủ đang ngồi ở phòng bên. Bị đánh tới tấp, con rắn trúng gậy mấy lần,

nó nổi giận và tấn vào kẻ đầu tiên mà nó chạm trán trên đường về.

Và chính vì vậy, không còn ngờ vực gì nữa, tôi gián tiếp chịu trách nhiệm về cái chết của bác sĩ Grimesby Roylott. Nhưng chắc là việc

đó chẳng đè nặng lên lương tâm tôi lắm đâu.

HỘI TÓC HUNG

Một hôm, tôi bước vào phòng khách thì thấy Sherlock Holmes đang say sưa trò chuyện với một người đàn ông vóc người to béo, sắc mặt hồng hào, mái tóc màu hung đỏ rực như lửa. Tôi xin lỗi vì

sự đường đột và đang định quay ra, thì Sherlock Holmes đã kéo tôi vào, rồi đóng cửa lại.

Watson thân mến, anh đến thật đúng lúc - anh nói.

- Tôi sợ anh đang bận.

- Đúng, rất bận là đằng khác.

- Vậy để tôi sang phòng bên đợi anh.

- Không sao đâu. Thưa ông Wilson, bác sĩ Watson đây là một cộng sự và là một trợ thủ của tôi trong nhiều vụ án thành công nhất. Tôi tin chắc trong vụ này ấy cũng sẽ rất hữu ích.

Người đàn ông to béo hơi nhổm dậy, gật đầu chào, liếc cặp mắt nhỏ nhìn tôi, vẻ dò xét.

- Watson thân mến - Sherlock Holmes nói - tôi biết anh từng chia sẻ cùng tôi lòng say mê tất cả những gì bí ẩn, và trái với lẽ thường. Đây, ông Jabezz Wilson có chuyện kỳ lạ nhất mà tôi từng nghe thấy trong mấy tháng nay. Ông Wilson, theo tôi, ông nên vui lòng kể lại từ đầu. Tôi yêu cầu như vạy không phải chỉ vì bác sĩ Watson, bạn tôi, chưa được nghe phần đầu, mà còn vì câu chuyện

kỳ lạ này khiến tôi háo hức múon nghe kỹ lại mọi tình tiết. Thông thường, chỉ cần nghe qua vài tình tiết là tôi đã liên tưởng đến hàng ngàn vụ tương tự mà mình còn nhớ. Nhưng với vụ này, tôi phải buộc lòng thừa nhận rằng nhiều điểm quả là có một không hai.

Ông khách hàng lôi từ túi trong chiếc áo choàng đang mặc ra

một tờ báo ố bẩn, nhàu nát. Cúi người xuống, ông đưa mắt nhìn vào mục quảng cáo đăng trên tờ báo trải trên đùi."Đây rồi", ông vừa nói vừa giơ ngón tay mập tròn, hồng hào, chỉ vào đoạn dưới nằm giữa cột quảng cáo.

- Toàn bộ câu chuyện mở đầu từ chính cái mẩu này đây. Xin ông tự đọc lấy thì hơn.

Tôi đón lấy tờ báo, rồi nhẩm đọc:

"Hội những người tóc hung". Thể theo ý nguyện mà ông ezekiah Hopkins ở Lebanon, Pennsylvania, U.S.S di chúc lại thì giờ đây, Hội cần tuyển một hội viên làm một công việc nhàn nhã với mức lương 4 bảng/tuần, trích từ các khoản tài sản của ông. Mọi người có mái tóc hung đỏ và có thể lực, trí lực tốt, trên 21 tuổi, đều

có thể dự tuyển. Đơn từ xin gửi về cho ông Duncan Ross, vào sáng thứ Hai, lúc 11 giờ, tại văn phòng Hội, số 7 Pope's Court, đường Fleet Street, Luân Đôn".

- Chuyện quái quỉ gì thế này? - tôi kêu lên sau khi đọc đi đọc lại hai lần mẩu quảng cáo kỳ quặc đó .

Sherlock Holmes mỉm cười:

- Chuyện khá kỳ quặc, đúng không? - anh nói. Bây giờ, ông Wilson, xin ông kể về chính ông, gia cảnh ông và ấn tượng mà mẩu quảng cáo này gây nên cho ông.

- À, thì cũng như tôi vừa kể với ông đấy, ông Sherlock Holmes - Jabez Wilson nói. Tôi có một cửa hiệu cầm đồ nhỏ, tại Coburg Square, gần khu City. Công việc làm ăn của tôi chẳng bề thế gì cho lắm, và gần đây lời lãi chỉ tạm đủ sống. Trước tôi có thể thuê hai nhân viên giúp việc, nhưng giờ thì chỉ còn dám thuê có một và cũng khó trả nổi tiền lương cho người ta, trừ phi người ấy vui lòng hưởng phần nửa mức lương thông thường, coi như để có dịp làm quen với công việc ở đây.

- Thế anh chàng sốt sắng ấy tên là gì? - Sherlock Holmes hỏi.

- Tên hắn là Vincent Spaulding. Hắn không còn trẻ nữa. Tuổi tác hắn thật khó đoán. Hắn là một nhân viên nhanh nhẹn, ông

Sherlock Holmes ạ, và tôi thừa biết hắn dễ dàng kiếm được một

công việc khá hơn thế này nhiều, lương bổng cao gấp đôi so với đồng lương mà tôi trả hiện nay. Nhưng rốt cục, hắn vẫn nhận, và nếu hắn thấy bằng lòng, thì việc gì tôi lại gợi ý cho hắn rằng hắn đã chịu thiệt kia chứ?

- Đúng, chẳng ích gì thật. Xem ra ông quả tốt số khi kiếm được một tay phụ việc như hắn. Chắc hắn cũng đang chú ý chính mẩu quảng cáo này.

- Ồ, hắn cũng có nhược điểm đấy - ông Wilson nói. Tôi chưa từng găp một ai mê ảnh như gã này. Hễ cao hứng là bấm máy lia lịa, rồi nhanh như một con thỏ chui tọt xuống hầm rượu in in tráng tráng những pô ảnh vừa chụp xong. Đó là nhược điểm chính của hắn; còn nhìn chung thì hắn rất được việc. Tôi thấy chẳng có gì đáng phàn nàn.

- Tôi đoán: chắc hiện giờ hắn vẫn còn làm cho ông?

- Vâng, thưa ông. Hắn với một cô bé mười bốn tuổi chỉ lo việc bếp núc và dọn dẹp. Ngoài ra nhà tôi chẳng còn ai, vì tôi không vợ không con. Ba chúng tôi sống rất bình lặng, thưa ông, cho tới lúc .. .

Mọi chuyện bắt đầu bị đảo lộn kể từ ngày tôi đọc được mẩu quảng cáo này. Một hôm, chuyện đó xảy ra cách đây hơn tám tuần, Spaulding bước vào cửa hiệu với tờ báo này trên tay, và nói "ước gì

tôi cũng được trời phú cho một mái tóc hung đỏ, ông Wilsong ạ".

- Sao vậy? - Tôi hỏi.

- Sao ư? - hắn nói. Ông cứ đọc mẩu thông báo tuyển người của Hội Tóc Đỏ đây khắc rõ. Ai may mắn chắc sẽ kiếm được một gia tài nhỏ chứ chẳng phải đùa. Tôi chắc họ còn khuyết nhiều hội viên so với số người xin vào hội. Chỉ cần mái tóc tôi đổi màu là tôi sẽ sẵn sàng xin nhập hội ngay, vì đây là một công việc tôi thấy thật nhàn nhã.

- Sao, vậy nghĩa là thế nào? - tôi hỏi hắn. Ông Sherlock

Holmes, ông thấy đó, vì công việc của tôi không bắt tôi phải chạy

ngược chạy xuôi tìm khách hàng, nên có khi suốt mấy tuần lễ, tôi

chẳng bước chân ra khỏi nhà. Vì vậy, tôi chẳng biết gì nhiều về những chuyện diễn ra xung quanh, nên bao giờ tôi cũng háo hức nghe kể những chuyện mới lạ.

tôi.

- Thế đã bao giờ ông nghe nói tới Hội Tóc Đỏ chưa? - hắn hỏi

- Chưa bao giờ.

- Ồ, ông chính là người có thể chiếm được một trong những chỗ khuyết ấy đấy.

Thế họ có thể kiếm được bao nhiêu? - tôi hỏi.

- À, mỗi năm chỉ vài trăm bảng thôi, nhưng được cái là công việc rất nhàn nhã, vả lại không ảnh hưởng gì nhiều tới những chuyện họ đang làm.

Vâng, điều hắn kẻ khiến tôi phải dỏng tai lên nghe. Mấy nămnay, công việc làm ăn của tôi khôngkhấm khá lắm, nên cơ may kiếm thêm được vài tramưbảng quả hết sức hấp dẫn.

- Này, hãy kể hết tôi nghe những gì anh biết về cái Hội nọ, tôi bảo hắn.

- Vâng hắn đáp và chìa cho tôi xem mẩu quảng cáo nọ - như chính ông thấy đó, Hội đang khuyết một chỗ. Họ có đăng đại chỉ rõ ràng; ông có thể đến đó hỏi thêm. Theo tôi được biết, Hội này do Eekiah Hopkins, một triệu phú Mỹ tính nết hết sức khác người, lập

ra. Tóc ông ấy đỏ rực, nên ông ấy rất thiện cảm với hết thảy những

ai có mái tóc cùng màu. Bởi vậy, sau ngày mất, ông ấy đã để lại một

tài khoản kếch xù để tạo công ăn việc làm nhàn nhã cho những ai cùng màu tóc với ông ta. Tôi nghe nhiều người đồn là công xá khá hậu mà công việc lại chẳng vất vả gì lắm.

- Nhưng - tôi nói - số người tóc hung nộp đơn khéo lên đến cả hàng triệu.

- Không nhiều như ông tưởng đâu - hắn đáp. Như ông thấy đó, Hội chỉ nhận những ai người Luân Đôn. Ông triệu phú này vốn

sinh ở Luân đôn, và sống tại đây thời trai trẻ, nên muốn làm những

việc tốt đẹp cho thành phố nơi mình sinh trưởng. Hơn nữa, tôi còn nghe nói, Hội không dành chỗ khuyết đó cho những ai tóc màu hung nhạt, hung sẫm, hoặc bất kỳ sắc hung nào, mà chỉ dành cho người có một mái tóc thật, màu hung đỏ, đỏ rực như lửa. Ông Wilson, nếu muốn nhập đơn, ông nên đến ngay đi. Nhưng xem ra chắc ông chẳng thèm mất công chỉ để kiếm được có vài trăm bảng.

Nhưng chắc quí ông thấy đó, tóc tôi quả thực màu hung đỏ với

đủ mọi sắc thái mà chính mẩu quảng cáo kia đòi hỏi. Tôi tự cảm thấy nếu phải dự tuyển, tôi sẽ có nhiều cơ may hơn bất cứ ai tôi từng gặp từ trước tới giờ. Vincent Spaulding xem ra biết rõ chuyện này nhiều hơn những gì tôi có thể trông đợi ở hắn, nên tôi lập tức ra lệnh cho hắn đóng cửa hiệu, rồi chúng tôi liền lên đường, tìm đến cái địa chỉ đã ghi trong mẩu quảng cáo kia.

Ông Holmes ạ, tôi hy vọng đừng bao giờ sẽ phải chứng kiến thêm một lần nữa cảnh tượng như thế. Từ bốn phương đông, tây, nam, bắc, tất cả những ai có mái tóc hung với đủ mọi sắc độ đều lũ lượt kéo đến City để tranh nhau cái chỗ khuyết đăng trên mẩu quảng cáo kia. Tôi không thể hình dung nổi rằng trên đất nước Anh

lại có đến ngần ấy người háo hức đổ về đây chỉ vì mẩu quảng cáo vớ vẩn kia. Màu tóc họ thôi thì đủ mọi sắc độ, nhưng như Spaulding nói số người có mái tóc thật màu đỏ rực như lửa, quả không nhiều . Khi thấy có ngần ấy người đứng đợi, tôi toan bỏ cuộc. Nhưng Spaulding không chịu nghe. Hắn chen vai thích cánh mãi cho tới lúc lách được qua đám đông, và chúng tôi đặt được chân lên những bậc tam cấp dẫn lên văn phòng.

Trong văn phòng tôi chẳng thấy bày biện gì nhiều , ngoài mấy chiếc ghế gỗ và một cái bàn. Ngồi tại đó là mọt người bé loắt choắt, màu tóc còn đỏ hơn cả tóc tôi. Hắn nói vắn tắt vài câu với từng người dự tuyển, rồi với ai cũng cố tìm một vài khiếm khuyết này nọ

để từ chói. Chiếm được chỗ khuyết đó xem ra chẳng dễ. Nhưng khi đến lượt tôi, anh chàng loắt choắt nọ tỏ ra hài lòng hơn bất cứ ai khác. Hắn đóng chặt cửa lại ngay sau lúc chúng tôi bước vào, để có thể trò chuyện riêng với hai chúng tôi.

- Đây là ông Jabez Wilsong - Spaulding nói - ông ấy đến để dự

tranh chỗ khuyết mà Hội đang tuyển.

- Ông ấy rất xứng đáng - gã nọ đáp. Lâu lắm rồi, tôi chưa từng thấy một mái tóc nào tuyệt như thế này. Hắn lùi lại một bước, nghiêng đầu ngắm nghía mái tóc tôi. Rồi thình lình chồm tới nắm chặt tay tôi, chức mừng tôi trúng tuyển.

- Không còn gì để phân vân nữa - hắn nói. Nhưng để biết chắc, xin ông thứ lỗi, tôi phải thật thận trọng để đề phòng. Nó chưa dứt lời, hắn đã dùng cả hai tay tóm chặt tóc tôi giật lấy giật để cho tới lúc tôi rơm rớm nước mắt. "ông ứa nước mắt kìa - hắn vừa nói vừa buông tay ra. Tôi thấy mọi cái đều ổn. Nhưng chúng tôi phải thận trọng, vì chúng tôi đã hai lần bị lừa, một lần thì tóc giả, một lần thì tóc nhuộm." - Hắn đến bên cửa sổ và lớn tiếng báo cho đám đông rằng đã tìm được ứng viên thích hợp. Tiếng suýt xoa và kêu la vì thất vọng từ dưới đường vọng lên, và mọi người lục tục bỏ đi, tản ra nhiều ngả, cho tới lúc chẳng còn thấy mái tóc hung nào, ngoại trừ mái tóc hung của tôi và của gã lo việc tuyển chọn các ứng viên.

- Tên tọi là Duncan Ross - hắn nói. Bao giờ thì ông có thể bắt tay vào công việc?

- À, có một điều hơi bất lợi là tôi đang bận chuyện làm ăn ở nhà

- tôi đáp.

- Ồ, ông Wilson, ông đừng lo! Vincent Spaulding nói. Tôi có thể thay ông trông coi.

- Tôi phải làm việc vào những giờ nào? - tôi hỏi.

- Từ mười giờ sáng đến hai giờ chiều.

Hiện giờ, ông Holmes ạ, cửa tiệm cầm đồ của tôi chủ yếu chỉ làm việc vào buổi chiều và buổi tối, vì vậy, tôi thấy không có gì bất tiện cho lắm, nếu kiếm thêm được chút đỉnh vào các buổi sáng. Ngoài ra, tôi biết tay giúp việc của tôi là người đáng tin cậy, và hắn

ta có thể thay thế tôi xoay xở mọi việc khi cần.

- Vậy thì rất thuận tiện cho tôi - tôi nói. Còn thù lao?

- Bốn bảng mỗi tuần.

- Thế công việc?

- Nhàn nhã lắm.

- Ông muốn ngụ ý gì khi gọi là nhàn nhã?

- À, ông phải có mặt hàng ngày tại văn phòng, hay ít ra cũng

tại toà nhà này, trong suốt thời gian đó. Nếu bỏ ra ngoài, ông sẽ mất việc. Bản di chúc có ghi rõ điểm này.

- Mỗi ngày chỉ có mặt bốn tiếng thì chuyện không ra khỏi văn phòng chắc chắn tôi sẽ thực hiện được thôi - tôi nói.

- Chúng tôi không bao giờ dung thứ vì bất cứ lý do nào - ông Duncan Ross nói - cả ốm đau lẫn bận công việc, hoặc bất cứ cớ gì khác. Ông hoặc phải ở lại, hoặc sẽ bị mất việc.

- Thế tôi phải làm gì?

- Chép lại bộ Encyclopedia Britannica, Bách khoa toàn thư Anh

Quốc. Đây là tập I. Bắt đầu từ mai trở đi, ông sẵn sàng chưa?

- Dĩ nhiên - tôi đáp.

- Vậy thì tạm biệt ông, ông Jabez Wilson. Một lần nữa xin chúc mừng ông.

Tôi cùng gã giúp việc trở về, chẳng biết nói gì hay làm gì thêm:

tôi rất mừng rỡ vì tìm được một công việc béo bở.

Vâng, chuyện đó khiến tôi khấp khởi mừng thầm suốt ngày, nhưng đến chiều, tôi lại thấy lo. Tôi tự thuyết phục mình rằng toàn

bộ chuyện này đúng là một trò đùa, mặc dù thực chất nó là gì, tôi không sao hình dung nổi. Thật khó tin được rằng trên đời lại có kẻ

để lại một bản di chúc kỳ cục như thế, và chịu bỏ ra một đống tiền như thế chỉ để thuê làm một dịch vụ giản dị là chép toàn bộ Bách khoa toàn thư Anh Quốc. Tuy vậy, sáng hôm sau tôi vẫn quyết định đến xem tận mắt sự thể thế nào, nên tôi lên đường đến Pope's Court.

Tôi sửng sốt và lấy làm thích thú vì mọi chuyện diễn ra hết sức

tốt đẹp, ngoài sức tưởng. Họ kê sẵn cho tôi một cái bàn, và Duncan

Ross ngồi đó xem tôi bắt tay vào việc ra sao. Gã bảo tôi chép từ vần

A, rồi lát sau bỏ đi, để mặt tôi ngồi chép. Nhưng chốc chốc lại tạt

vào xem tôi làm việc ra sao. Đúng hai giờ gã khen tôi đã chép được nhiều, rồi tạm biệt tôi, tiễn tôi ra khỏi cửa, xong khoá cửa văn phòng ngay khi tôi vừa đi khỏi.

Ông Holmes ạ, việc đó cứ tiếp diễn hết ngày này sang ngày khác, và đến thứ bảy gã bước vào, trao cho tôi bốn đồng sovereign vàng để trả cho công việc tôi làm tuần qua. Tuần sau mọi chuyện

lại diễn ra như tuần đầu rồi tuần tiếp theo nữa cũng thế. Sáng nào

tôi cũng có mặt ở đúng lúc mười giờ và ra về lúc hai giờ. Càng về sau, Duncan Ross càng đến thưa dần, chỉ một lần vào buổi sáng, rồi

ít lâu sau, không thấy đến nữa. Tuy vậy, dĩ nhiên, tôi vẫn không

bao giờ dám rời khỏi phòng dù chỉ một phút. Tôi làm thế nào biết chắc được lúc nào thì gã xuất hiện, hơn nữa, công việc lại nhàn nhã, hợp với sở thích tôi, nên tôi không muốn có nguy cơ bị thải hồi.

Tám tuần liền đã trôi qua như vậy và số giấy tôi chép được đã chất đầy phân nửa cái giá sách trong phòng. Nhưng rồi toàn bộ công việc bỗng nhiên kết thúc.

- Kết thúc?

- Vâng, thưa ông. Mà chỉ mới sáng nay thôi. Tôi đến nơi làm việc như thường lệ vào lúc mười giờ, nhưng thấy cửa khoá và chính giữa có đính một mẩu thông báo nhỏ, hình vuông, viết trên bìa cứng. Mẩu thông báo ấy đây, ông có thể tự đọc.

Rồi ông thân chủ chìa ra một mẩu bìa trắng, cỡ bằng một trang

sổ tay, viết chỉ vỏn vẹn mấy chữ:

"Hội những người tóc hung đỏ giải thể ngày 9 tháng 10 năm

1890"

Holmes và tôi ngắm nghía mẩu thông báo và gương mặt rầu rĩ thấp thoáng sau mảnh bìa nọ cho tới lúc khía cạnh khôi hài của vụ này khiến cả hai cùng cười phá lên.

- Tôi chẳng thấy có gì đáng buồn cười trong chuyện này - ông thân chủ của chúng tôi kêu lên, mặt đỏ ửng lên tận mái tóc hung đỏ

rực. Nếu quí ông không thể làm gì khác ngoài việc nhạo báng tôi,

thì tôi đi nhờ người khác ngay đây.

- ồ, không, không - Holmes kêu lên. Tôi thực tình không muốn

bỏ qua vụ này, dù phải chịu mất bất cứ thứ gì. Nhưng, nói ông bỏ qua cho, trong chuyện này quả có điểm gì đó rất hài hước, Thế ông làm gì khi thấy mẩu bìa này đính trên cửa?

- Tôi chưa biết phải làm gì. Tôi tới dò hỏi các văn phòng kế cận của toà nhà, nhưng chảng ai biết gì về cái Hội kia. Rốt cục, tôi đành tìm gặp ông chủ nhà ỏ dưới tần trệt, hỏi xem ông ta có thể nói cho

tôi điều gì đã xảy ra với cái Hội Tóc đỏ kia không. Ông ấy đáp rằng chưa bao giờ nghe nói đến nó. Rồi tôi hỏi ông Duncan Ross là ai. Ông ấy nói: cái tên đó ông mới nghe thấy lần đầu.

- Vâng - tôi nói - đó chính là cái ông thuê căn phòng số 4.

- À, cái gã tóc màu hung đỏ chứ gì?

- Đúng thế.

- Ồ, - ông ta tiếp - tên gã ấy là William Moris kia. hắn chỉ thuê tạm căn phòng tôi ít lâu trong lúc chờ tìm được chỗ mới để đặt văn phòng của hắn. Hắn vừa dọn đi hôm qua.

- Thế có thể tìm hắn ở đâu?

- À, tại văn phòng mới của hắn. Hắn có cho tôi biêt địa chỉ đấy. Vâng, đây rồi, số 17, đường King Edward Street, cạnh giáo đường Saint Paul.

- Tôi đến ngay nơi đó, ông Holmes ạ, tìm được căn nhà theo địa chỉ, nhưng chẳng ai nghe nói tới cái tên William Morris lẫn cái tên Duncan Ross.

- Rồi ông còn làm gì nữa? - Holmes hỏi.

- Tôi quay về Coburg Square, hỏi gã giúp việc nên tính sao, nhưng gã chẳng nghĩ được cách gì khả dĩ giúp tôi cả. Chỉ bảo tôi là nên chịu khó chờ thư từ qua đường bưu điện. Nhưng như thế tôi thấy chưa yên tâm, ông Holmes ạ. Tôi không muốn bị mất việc, mà

chẳng hề làm gì, chỉ khoanh tay ngồi chờ. Tôi nghe nói ông rất tốt

bụng, sẵn lòng giúp những ai khốn khổ đến cầu cứu mình, nên đã tìm đến ông ngay.

- Ông ứng phó như vậy là khôn ngoan, Holmes nói. Vụ của ông rất đáng chú ý, và tôi rất lấy làm sung sướng được mời đứng ra giải quyết. Từ những gì ông vừa kể, tôi nghĩ đây chắc chắn là một vụ nghiêm trọng hơn so với mức mà người ta có thể tưởng khi mới nhìn qua.

- Đúng là nghiêm trọng thật! - ông Jabez Wilson. - Không dưng tôi bị mất bốn bảng mỗi tuần.

- Riêng về phần ông - Holmes nhận xét - tôi thấy ông không có

gì để oán trách cái hiệp hội kỳ quặc kia cả. Trái lại, theo như tôi hiểu, ông kiếm thêm được khoảng ba mươi bảng và thu thêm được

ít nhiều tri thức sâu sắc về tất cả các mục được viết trong vần A. Ông chẳng mất gì cả.

- Ồ, không, thưa ông. Nhưng tôi còn muốn dò ra tung tích bọn chúng xem chúng là ai và chúng chơi trò này với tôi nhằm mục đích

gì, nếu đó quả là một trò đùa. Một trò đùa khá tốn kém với bọn chúng, vì chúng phải trả những ba mươi hai bảng.

- Chúng tôi sẽ cố làm sáng tỏ những điểm ông vừa nhắc. Nhưng trước hết, tôi muốn hỏi ông vài câu, ông Wilson. Anh chàng giúp việc của ông, người đầu tiên lưu ý ông về mẩu quảng cáo kia, làm việc cho ông đã bao lâu rồi?

- Trước đó khoảng một tháng.

- Hắn đến với ông như thế nào?

- Theo lời quảng cáo tôi cho đăng trên báo.

- Chỉ một mình hắn đến hay còn có thêm ai khác?

- Không, có khoảng một tá đến dự tuyển.

- Tại sao ông chọn hắn?

- Vì hắn năng nổ và không đòi hỏi nhiều.

- Thực sự, chỉ đòi phân nửa số lương phải không?

- Vâng.

- Tướng mạo hắn thế nào, cái gã Vincent Spaulding ấy?

- Thấp, mập, rất nhanh nhẹn, không có râu, tuy tuổi khoảng ba mươi. Trên trán có một vết sẹo trắng.

Holmes ngồi bật dậy, vẻ rất kích động.

- Tôi cũng đoán vậy. - anh nói - trên dái tai hắn ông có thấy hai

lỗ đeo hoa tai không?

- Có, thưa ông. Hắn bảo tôi một bà di gan đã xỏ cho hắn khi hắn còn trẻ.

- Thôi được rồi, ông Wilson. Vài ngày nữa, tôi sẽ rất sung sướng, báo cho ông biết kết quả vụ này. Hôm nay là thứ Bảy, tôi hy vọng đến thứ Hai chúng tôi sẽ có kết luận.

Khi ông thân chủ đã ra về, Holmes liền thu người lại trong ghế bành, hai đầu gối khẳng khiu gần chạm mũi. Anh ngồi ở tư thế đó hồi lâu, mắt lim dim, chiếc tẩu bằng đấu nung màu đen nhô ra phía trước, trông tựa cái mỏ của một giống chim kỳ lạ. Tôi đã tưởng anh ngủ thiếp đi thì thình lình anh chồm dậy, dáng điệu như thể một người vừa nảy ra một quyết định, và đặt chiếc tẩu lên mặt lò.

Chiều nay có một buổi hoà nhạc tại St James's Hall. - anh thốt lên. Anh nghĩ sao, Watson? Bệnh nhân của anh có thể vui lòng buông tha anh trong vài giờ được không?

- Hôm nay tôi chẳng có gì phải làm. Công việc của tôi không bao giờ khiến tôi phải miệt mài cả ngày trong phòng khám.

- Vậy thì anh đội mũ vào, rồi ta đi thôi. Trước tiên, tôi phải đến khu City. Rồi sau đó, trên đường về, ta có thể ghé vào một cửa hiệu nào đó ăn chiều. Nào, ta lên đường thôi!

Chúng tôi đáp tàu điện ngầm đến tận Aldersgate, rồi đi bộ một quãng tới Coburg Square, nơi diễn ra câu chuyện kỳ dị mà chúng

tôi vừa được nghe kể ban sáng. Một tấm biển hiệu màu nâu, kẻ hai

chữ "JABEZ WILSON" bằng sơn trắng, treo ở góc nhà cho biết đó là

cơ ngơi hành nghề của ông thân chủ tóc hung đỏ của chúng tôi. Holmes dừng lại ngay trước cửa hiệu, nghiêng đầu ngắm nghía mọi thứ, mắt sáng quắc. Rồi anh thong thả đi đi lại lại trên đường, sau

đó vòng xuống tận góc phố, mắt vẫn chăm chú quan sát từng ngôi nhà. Cuối cùng, anh quay lại trước cửa hiệu. Anh dùng đầu gậy nện mạnh hai ba lần xuống vỉa hè, rồi tiến thẳng tới trước cửa hiệu gõ cửa. Cánh cửa mở toang ngay và trong khung cửa hiện ra một chàng trai mặt mũi sáng sủa lên tiếng mời mọc.

- Cảm ơn - Holmes nói. Tôi chỉ muốn nhờ anh chỉ giúp đường đến Strand.

- Đến ngã tư thứ ba rẽ phải, đến ngã tư thứ tư thì rẽ trái, gã giúp việc của ông Wilson vừa đáp, vừa đóng chặt cửa lại.

- Quả là một gã ranh mãnh, Holmes nhận xét khi chúng tôi quay ra. Theo tôi xét đoán, hắn là tay ranh mãnh đứng hàng thứ tư

ở Luân Đôn này, và có lẽ đứng hàng thứ ba về mặt liều lĩnh. Tôi đã biết ít nhiều về hắn!

Rõ ràng là gã giúp việc của ông Wilson đã đóng một vai trò đáng kể trong vụ làm ăn bí ẩn của Hội Tóc Hung - tôi nói. Tôi tin chắc việc anh hỏi đường chỉ là cái cớ để nhìn mặt hắn.

- Không phải đâu.

- Vậy anh muốn xem gì?

- Ông quần hắn, nơi hai đầu gối.

- Thế anh thấy được những gì?

- Thấy cái mà toi mong đợi nơi hắn ta.

- Vậy tại sao anh gõ gõ đầu gậy xuống vỉa hè?

- Bác sĩ thân mến ơi, đây là lúc để quan sát, chứ không phải để trò chuyện. Ta đã biết được ít nhiều về Coburg Square. Giờ ta phải tìm kiếm những ngõ ngách nằm sau lưng nó.

Con đường mà chúng tôi vừa đặt chân tới sau khi đi vòng qua góc quảng trường Coburg Square là một trong những trục giao

thông huyết mạch nối liền khu City với hai phần thuộc mạn phía

Bắc và Tây của kinh thành. Khó mà hình dung nổi những dãy cửa hiệu và văn phòng hoa lệ mà chúng tôi đang nhìn thấy trước mắt

lại chính là mặt sau của cái quảng cáo ảm đạm mà chúng tôi vừa mới ghé qua.

- Để tôi ngắm một chút nhé - Holmes nói khi dừng lại góc đường và đưa mắt nhìn dọc con đường. Tôi muốn ghi nhớ thứ tự các toà nhà ở đây. Tìm hiểu tường tận Luân dôn là một thú vui của tôi. Đầu tiên là cửa hiệu thuốc lá Mortimer, kế đến là một sạp báo nhỏ,

rồi chi nhánh Coburg của ngân hàng thành phố và các Vùng phụ cận. Chỗ này ăn thẳng sang lô nhà phía bên kia. Anh Watson, thế

là chúng ta đã xong việc. Bây giờ chúng ta được quyền thư giãn đầu

óc trong chốc lát. Một khoanh sandwich, một tách cà phê, rồi sau đó

ta đến dự buổi hoà nhạc, nơi mà chẳng một thân chủ tóc hung nào

có thể quấy rầy chúng ta bằng những vụ rắc rối điên đầu.

Bạn tôi say mê âm nhạc, vì anh vốn là người chơi nhạc và cũng

là một nhạc sĩ có tài. Suốt buổi chiều hôm đó, anh ngồi trong phòng hoà nhạc, tận hưởng một niềm hạnh phúc tột đỉnh và khẽ đánh nhịp bằng mấy ngón tay dài khẳng khiu theo các tiết tấu được nghe.

- Chắc anh đang muốn về ngay, phải không bác sĩ? - Holmes nói khi chúng tôi vừa rời khỏi phòng hoà nhạc.

- Vâng, tôi muốn về.

- Còn tôi, tôi phải làm nốt một số việc, mất khoảng vài tiếng nữa. Vụ Coburg Square quả là một vụ nghiêm trọng.

- Thật vậy sao?

- Đây là một vụ phạm tội qui mô có mưu tính trước. Tôi có đủ lý

do để tin chắc chúng ta còn kịp ngăn chận. Tôi mong anh vui lòng giúp tôi tối nay.

- Vào lúc mấy giờ?

- Từ mười giờ tối là vừa. Watson ạ, vụ này e nguy hiểm, nên xin anh bỏ túi khẩu súng nhà binh của anh. - Holmes vẫy tay tạm biệt,

rồi quay đi và mất hút ngay trong đám đông.

Tôi luôn bị ám ảnh bởi ý nghĩ là mình thật khù khờ mỗi lần

cộng tác với Sherlock Holmes. Tôi cũng nghe rõ những gì anh nghe thấy và cũng nhìn rõ những gì anh nhìn thấy. Nhưng qua lời anh

tôi hiểu rằng anh không chỉ thấy được những gì đã xảy ra, mà còn tiên đoán được những gì sắp tới, trong khi dưới mắt tôi toàn bộ nội

vụ vẫn chỉ là một mớ bòng bong.

Tối hôm đó, vừa đặt chân vào phòng Holmes, tôi thấy anh đang

sôi nổi trò chuyện với hai người, mà một thì tôi nhận ra ngay - đó là Peter Jones, một thám tử của sở cảnh sát. Còn người kia thì cao gầy, nét mặt buồn bã, đầu đội một chiếc mũ bóng loáng.

- Ra, vậy là đủ mặt cả rồi - Holmes vừa nói vừa cài khuy chiếc

áo vét, rồi với tay lên giá lấy chiếc gậy nặng trịch xuống - Anh Watson, tôi nghĩ chắc anh đã biết ông Jones, đằng Scotland yard? Vậy chỉ xin giới thiệu với anh: đây là ông Merryweather, một cộng

sự của chúng ta trong cuộc phiêu lưu tối nay. Với ông, ông Meryweatherr, món tiền đặt cọc cho cuộc chơi tối nay là ba mươi ngàn bảng. Còn với ông, ông Jones, đó sẽ là gã phạm mà từ lâu ông vẫn ước ao tóm cổ.

- Vâng, đó là John Clay, một tên giết người kiêm trộm cắp. Gã còn trẻ, ông Merryweatherr ạ, nhưng là tay rất sừng sỏ trong nghề. Tôi muốn bắt gã hơn bất cứ tên tội phạm nào ở Luân Đôn. Một nhân viên rất đáng chú ý, cái gã John Clay trai trẻ ấy. Đầu óc hắn cũng tinh quái như đôi bàn tay hắn vậy, nên tuy chúng tôi đã phát hiện được dấu tích hắn để lại khắp nơi, chúng tôi vẫn không biết tìm hắn ở đâu. Tôi đã theo dõi hắn nhiều năm rồi, nhưng chưa bao giờ đựơc nhìn thấy hắn tận mắt.

- Hy vọng rằng tối nay tôi sẽ có thể có hân hạnh đựoc giới thiệu hắn với ông. Tôi cũng đã một vai lần được nhìn thấy chiến công của cái gã John Clay này, và tôi hoàn toàn đồng ý với ông rằng hắn quả

là một tay cao thủ trong nghề. Nhưng kìa, đã hơn mười giờ rồi, ta phải lên đường thôi. Nếu hai ông lên chiếc xe đầu, thì Watson và tôi

sẽ theo sau trên chiếc xe thứ hai.

Trên đoạn đường dài, Holmes rất ít nói. Xe chúng tôi lăn bánh

trên những dãy phố dài bất tận cho tới lúc đổ ra đường Farringdon

Street.

- Sắp đến nơi rồi - bạn tôi nói. Tay Merryweather kia là một Giám đốc nhà băng và có liên quan trực tiếp dến vụ này. Tôi nghĩ Jones cũng rất cần cho chúng ta. Ta xuống đây thôi, họ đang chờ chúng ta kia kìa.

Chúng tôi đặt chân xuống chính khúc đường vốn tập nập mà chúng tôi vừa tới hồi sáng. Theo chân Merryweather, ba chúng tôi băng qua một con hẻm hẹp, rồi theo một cánh cửa hông đã mở sẵn

để đón chúng tôi, đi vào nhà. Bên ngoài cánh cửa là một dải hành lang ngắn, dẫn thẳng tới một cái cổng sắt đồ sộ. Cánh cổng cũng đã mở sẵn, và chúng tôi lần bước trên những bậc cầu thang xoắn bằng đá, dẫn xuống một cái cổng đồ sộ nữa. Ông Merryweather dừng lại, châm đèn, xong dẫn chúng tôi xuống một lối đi tối om, sực mùi đất ẩm, rồi ông mở tiếp cánh cửa thứ ba, đưa chúng tôi xuống một căn nhà hầm rất rộng. Xung quanh, chúng tôi thấy chất đống hàng dãy thùng gỗ và hòm lớn.

- Từ phía trên ông rất an toàn - Holmes vừa nhận xét, vừa giơ cao ngọn đèn lồng, đưa mắt nhìn quanh.

- Cả từ phía dưới cũng thế - ông Merrywether vừa nói vừa gõ gõ đầu gậy xuống mặt sàn bằng đá. - Trời ơi, sao nghe như trống rỗng thế này! - ông ngước mắt, kinh ngạc thốt lên.

- Tôi buộc phải yêu cầu ông nói nhỏ hơn một chút, Holmes nghiêm nghị nói. - Nếu không chúng ta sẽ có nguy cơ chẳng gặt hái được gì trong chuyến phiêu lưu này. Xin qúi ông làm ơn ngồi xuống mấy cái thùng kia và đừng can thiệp vào công việc của tôi.

Ông Merryweather liền ngồi ngay xuống một cái thùng gỗ, vẻ mặt rất phật ý. Holmes quì xuống dười sàn và dùng chiếc đèn lồng bắt đầu xem xét cẩn thận từng kẽ đá. Chỉ vài phút sau anh đã mãn nguyện ngay vì tôi thấy anh đã đứng bật dậy.

- Chúng ta phải chờ ít nhất một tiếng nữa - anh nói - Vì bọn chúng khó có thể làm gì trước khi ông chủ hiệu cầm đồ ngủ yên. Bấy giờ, chúng sẽ không bỏ lỡ lấy một phút, vì công việc càng xong

sớm, chúng sẽ càng có nhiều thì giờ để chạy trốn. Anh Watson, chắc

anh đã đoán được hiện nay, chúng ta đang ở dưới tầng hầm Chi nhánh City của một trong những nhà ngân hàng chủ chốt ở Luân Đôn. Ông Merryweather đây là chủ tịch ban Giám đốc. Ông ấy sẽ giải thích cho anh rõ rằng lúc này bọn tội phạm táo tợn nhất của thành Luân Đôn có những lý do để quan tâm nhiều đến căn nhà hầm này.

- Chúng tôi hiện cất giữ tại đây toàn bộ số vàng Pháp mà ngân hàng đã vay được- ông Giám đốc khẽ nói.

- Vàng Pháp của các ông?

- Vâng. Cách đây vài tháng chúng tôi có vay của Ngân hàng pháp Quốc một số vàng trị giá ba mươi ngàn bảng. Ai cũng biết là chúng tôi chưa bao giờ khui số vàng ấy ra, và cho tới bây giờ mấy thùng vàng đó vẫn còn nằm nguyên ở đây, tại căn hầm này. Cái thùng tôi đang ngồi này đựng một số vàng trị giá tới hai ngàn bảng Anh. Nghĩa là nhiều hơn rất nhiều so với mức bình thừơng tại một văn phòng của một chi nhánh nhỏ, và các viên Giám đốc đều đã có những mối nghi ngờ về chuyện này.

- Họ nghi ngờ là rất phải - Holmes nhận xét - và bây giờ đã đến lúc chúng ta phải trù liệu những gì cần làm để hoàn tất cái kế hoạch nhỏ của ta. Tôi hy vọng trong khoảng một giờ nữa, mọi chuyện sẽ kết thúc. Trong thời gian đó, ông Meryweather ạ, chúng

ta phải che tạm ngọn đèn lại.

- Vậy là phải ngồi trong bóng tối?

- Tôi e rằng đành phải thế thôi. Tôi thấy đối thủ của chúng ta

đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng, nên ta không thể liều lĩnh để cho chúng thấy dưới này có ánh sáng.

Và trước nhất, chúng ta phải chọn cho mỗi người một vị trí thuận lợi để ra tay. Bọn này rất táo tợn, nên chúng ta có lợi thế hơn, chúng vẫn có thể gây tổn hại cho chúng ta, nếu ta không cẩn thận. Tôi sẽ đứng nép sau cái thùng này; còn các ông hãy nấp sau mấy cái kia. Khi nào tôi chiếu đèn vào bọn chúng, các ông hãy mau

lẹ bắt lấy chúng. Nếu chúng nổ súng thì Watson, anh hãy bắn hạ

chúng.

- Bọn chúng chỉ còn một lối thoát - Holmes nói khẽ - Đó là lui

về căn nhà trên Coburg Square. Ông Jones, tôi hy vọng chắc ông dã làm đúng những gì tôi yêu cầu?

- Tôi đã cho một viên thanh tra và hai cảnh sát mai phục ở cửa trước hiệu cầm đồ.

- Vậy là chúng ta đã chặn hết tất cả các lối ra và giờ, chỉ còn phải ngồi im đợi chúng nữa thôi.

Thời gian như thể ngừng trôi! Lúc này mới có một giờ mười lăm phút, thế mà tôi có cảm giác như đêm đã sắp tàn và trời đang rạng sáng. Từ chỗ nấp, tôi có thể nhìn bao quát cả sàn hầm. Bỗng mắt tôi nhìn thấy một ánh đèn.

Mới đầu, đó chỉ là một tia sáng nhỏ trên mặt đá. Về sau, tia sáng cứ dài dần cho tới lúc trở thành một vệt vàng, rồi bất thần, không hề gây tiếng động, khe hở trên mặt sàn như mở rộng ra thành một lỗ hổng. Một bàn tay hiện ra, trắng trẻo như tay phụ nữ,

sờ soạng ở phía giữa quầng sáng nhỏ. Rồi một trong những phiến

đá rộng, màu trắng, bị lật sang bên, phát ra một tiếng động ngắn,

và một lỗ hổng trắng hoác hình vuông xuất hiện, khiến một dòng ánh sáng từ một ngòn đèn lồng tuôn vào căn hầm. Qua cái lỗ hổng đó, một gương mặt rất trẻ con từ từ nhô lên, đưa cặp mắt dò xét nhòm quanh. Sau đó gã nọ vươn dần người lên cho tới lúc tỳ được gối vào mép lỗ. Chỉ một khoảnh khắc sau, hắn đã đứng bên mép lỗ,

và đưa bàn tay ra, kéo tên đồng bọn lên theo, một gã cũng thấp như hắn, mặt mũi xanh xao mái tóc hung đỏ rực như lửa.

- Ổn rồi - hắn thì thầm. Mày có mang theo mấy cái bao không? Thế là đại thắng! Nhảy đi, archie, nhảy đi!

Holmes lao ra, tóm chặt cổ áo gã mới đột nhập đó. Gã kia tụt vội xuống cái lỗ hổng nọ, và tôi nghe thấy tiếng vải rách soạt khi Jones túm lấy chiếc áo khoác của hắn. ánh đèn rọi thẳng vào khẩu súng ngắn hắn cầm, nhưng chiếc gậy của Holmes đã giáng mạnh vào cổ tay hắn, khiến khẩu súng rời xuống mặt sàn đá.

- Vô ích thôi, John Clay - Holmes nói. Anh chẳng còn một cơ

may nào nữa đâu.

- Ta biết - gã đáp, giọng ráo hoảnh - Nhưng ta tin bạn ta đã thoát, tuy ta thấy anh đã vớ được chiếc áo choàng của cậu ta.

- Có ba người đợi hắn ngoài cửa đấy - Holmes nói.

- À, ra thế. Xem ra anh đã tính đâu vào đấy rồi nhỉ. Khá khen cho anh.

- Cả cho anh nữa. Holmes đáp - Ý đồ lập Hội Tóc Đỏ của anh quả rất tân kỳ và hữu hiệu.

John Clay nghiêng mình chào một vòng cả ba chúng tôi, rồi lặng lẽ theo sau viên thám tử, đi.

- Watson, anh thấy không? Holmes giảng giải khi chúng tôi ngồi bên cốc whisky tại Baker Street. - Ngay từ đầu, tôi đã thấy rõ ràng mục đích duy nhất của cái Hội nọ là điệu ông chủ hiệu cầm đồ

ra khỏi nhà mình hàng ngày trong nhiều giờ. Cái biện pháp chọn quả có kỳ quặc thật, nhưng quả tình cũng khó tìm được một cách nào tốt hơn. Ngón này rõ ràng là do cái trí tuệ của Clay nghĩ ra nhờ mái tóc đỏ rực của tên đồng bọn gợi ý. Bốn bảng mỗi tuần là một miếng mồi hết sức cám dỗ đối với ông chủ hiệu, nhưng có đáng là bao khi bọn chúng tính chuyện vớ được hàng ngàn? Chúng cho đăng quảng cáo, rồi một gã lừa đảo đã thuê tạm một văn phòng; còn

gã kia khuyến khích ông chủ mình nộp đơn, và cả hai cùng nhau tìm cách làm sao cho ông ta chắc chắn vắng nhà tất cả các buổi sáng trong nhiều tuần lễ. Chỉ cần thoáng nghe câu chuyện là hắn chỉ xin giúp việc với phân nửa số lương, tôi đã hiểu ngay: hắn phải

có một động cơ mạnh mẽ nào đó thôi thúc hắn chịu làm với đồng lương như thế!

- Nhưng bằng cách nào mà anh đoán được động cơ của bọn chúng?

- Công việc làm ăn của ông thân chủ chúng ta chẳng lời lãi bao nhiêu, nên trong nhà ông ta chẳng có món gì đang giá để chúng

phải trù tính việc này, việc kia và chi tiêu tốn kém như vậy cả. Vì

thế, rõ ràng là cái mà chúng đi tìm phải ở chỗ khác kia. Nhưng đó

là cái gì? Tôi nghĩ tới cái thói hay chụp ảnh của gã giúp việc cho ông

ấy và cái thói quen chui xuống căn hầm của gã. Tầng hầm! Chìa hoá của mọi chuyện đây rồi. Tôi liền dò tìm lai lịch gã giúp việc bí

ẩn nọ, và phát hiện ra rằng mình đang đối mặt với một trong

những tên tội phạm nhẫn tâm nhất và táo tợn nhất thành Luân đôn. Hắn đang làm gì đó dưới tầng hầm - một công việc phải mất nhiều giờ mỗi ngày và phải làm mấy tháng mới xong. Việc gì nhỉ? Tôi nghĩ: đó chỉ có thể là việc đào một đường hầm để đột nhập vào một toà nhà.

- Đó là những điều mà tôi đã suy ra được khi dến thăm hiện trường. Tôi đã làm anh ngạc nhiên khi gõ gõ đầu gậy xuống vỉa hè. Tôi muốn biết tầng hầm đó dẫn ra phía trước hay phía sau. Không phải phía trước. Thế là tôi giật chuông gọi cửa, và gã giúp việc nọ

đã ra mở ngay, đúng như tôi hy vọng. Tôi hầu như không nhìn vào mặt hắn, hai đầu gối hắn mới đang nhìn. Chắc anh cũng đã nhìn thấy tận mắt: cả hai ống quần hắn đều sờn nhàu và nhèm nhuốc nơi hai đầu gói. Đó là vết tích của bấy nhiêu giờ đào bới. Bấy giờ chỉ còn một điểm chưa rõ: con đường đó dẫn đến đâu? Tôi vòng ra góc quảng trường thì thấy ngân hàng City và Ngoài thành với cửa hiệu cầm đồ kia đấu lưng vào nhau. Tôi cảm thấy mình đã gửi xong bài toán. Khi anh ra về sau buổi hoà nhạc, tôi ghé đến Scotland yard,

rồi đi gặp ông chủ tịch ban Giám đốc của ngân hàng nọ, và tôi đã gặt hái được kết quả như chính anh đã thấy đấy.

- Nhưng anh làm cách nào mà đoán được rằng đêm nay chúng

sẽ hành động? - tôi hỏi.

- Ấy, khi chúng đóng cửa văn phòng của Hội thì cũng chính là lúc chúng không còn lo nghĩ gì nữa tới chuyện ông Jabez Wilson đi vắng hay ở nhà. Nói cách khác, chúng đã đào xong con đường hầm kia. Nhưng cái chính là chúng phải sử dụng sớm thành quả đó, vì chúng sợ có thể bị phát hiện hoặc ngân hàng sẽ chuyển chỗ vàng kia đi nơi khác. Thứ bảy là dịp thuận tiện cho chúng hơn bất kỳ

ngày nào khác, vì chúng sẽ có tới hai ngày để tẩu thoát. Vì tất cả

những lý do đó, tôi dự kiến chúng sẽ hành động ngay đêm nay.

- Cách suy lụân của anh thật tài tình, - tôi thán phục reo lên.

- Nó chỉ cứu tôi ra khỏi cảnh buồn chán thôi - anh vừa đáp, vừa ngáp dài.

KẺ DỊ DẠNG

Một buổi tối, tôi ngủ gà ngủ gật trên một cuốn tiểu thuyết. Nhà

tôi đã lên trên lầu. Tiếng then cài cánh cửa ra vào báo cho tôi biết

là những người giúp việc đã lui về. Tôi còn chờ thêm chút nữa rồi mới đứng lên khỏi ghế. Đúng vào lúc đó, tiếng chuông vang lên.

Tôi nhìn đồng hồ: 11giờ 45. Muộn thế này thì chỉ có thể là khách, một ca bệnh sẽ làm tôi phải thức thâu đêm. Hơi cáu kỉnh,

tôi ra phòng ngoài dể mở cửa: Sherlock Holmes

- "A Watson!" Anh reo lên. "Tôi đến thăm quá muộn".

- Có gì đâu. Vào đi chứ!

- Anh tỏ vẻ ngạc nhiên... Anh có thể cho tôi ngủ nhờ dem nay không?

- Sẵn sàng. Anh ăn tối?

- Không, xin cảm ơn, tôi đã dùng rồi, ở ga Waterrloo.

Tôi đưa cái túi đựng thuốc cho anh. Anh im lặng hút. Tôi biết

rõ là chỉ có một vụ quan trọng mới có thể đưa anh tới dây vào một giờ muộn như vậy. Vậy là tôi kiên nhẫn chờ anh vào chuyện.

- Ngày mai anh tới Aldershot được không?

- Tôi nhờ một bác sĩ bạn thay tôi chăm sóc các bệnh nhân.

- Tốt lắm! Tôi muốn đáp chuyến tàu mười một giờ mười ở ga

Waterloo.

- Rất thuận tiện cho tôi.

- Vậy thì, nếu anh chưa buồn ngủ, tôi xin tóm tắt những sự việc

và những gì cần làm.

- Trước khi anh tới, tôi đã ngủ gà ngủ gật nhưng bây giờ thì hoàn toàn tỉnh táo.

- Đó là vụ ám sát đại tá Bát-cơ thuộc sư đoàn Royal Mallows ở

Aldershot. Sự việc xảy ra cách đây hai ngày.

"Royal Mallows là một trong những trung đoàn ái Nhĩ Lan nổi tiếng trong quân đội Anh. Tối thứ hai vừa qua, trung đoàn đặt dưới quyền chỉ huy của đại tác Giêm Bát-cơ, một lính già can đảm đã được lên lon nhờ vào lòng dũng cảm. Bát-cơ lấy vợ khi ông còn là trung sĩ. Ông kết hôn với cô Nancy, con gái trung - sĩ. Ông kết hôn với cô Nancy, con gái trung - sĩ trưởng -đội trong cùng đơn vị. Vợ chồng Bát - cơ đã thích nghi mau chóng với địa vị mới của họ. Bà vợ sống ăn ý với các bà vợ sĩ quan cũng như chồng bà đối với các bạn đồng đội. Tôi xin thêm bà là một phụ nữ rất đẹp và cho mãi đến bây giờ, sau ba chục năm lập gia đình, sự xuất hiện của bà còn gây ấn tượng mạnh.

"Thoạt nhìn, cặp vợ chồng này đã được hưởng một hạnh phúc hiền hoà. Tôi đã đến hỏi ông thiếu tá Mã - phi, thì ông này đoán chắc với tôi là ông chẳng bao giờ thấy có sự bất hoà trong gia đình đó. Tôi hỏi ông cặn kẽ hơn. Thiếu tá nói rằng sự gắn bó của ông Bát

- cơ đối với vợ thì lớn mạnh hơn là sự gắn bó của bà Bát - cơ đối với chồng. Nếu phải xa vợ trong một ngày, ông rất buồn phiền; nhưng

bà vợ thì không chứng tỏ một sự mãnh liệt đến thế. Dẫu sao, trong trung đoàn, họ vẫn được coi như là một cặp vợ chồng lý tưởng.

"Dường như là đại tác Bát cơ có một tính khí khác thường. Bình thường, ông là một quân nhân già, vui tính, hăng hái. Nhưng đôi khi ông cũng hung bạo và thù hằn. Tuy vậy, bà vợ không bao giờ chịu đựng những tật xấu đó. Có mọt điều khác là: theo định kỳ, một tâm trạng gì đó như trầm uất lại giáng xuống ông. Viên thiếu

tá mà tôi hỏi chuyện đã ghi nhận điều đó và họ đã lấy làm ngạc nhiên. Nó theo ông thiếu tá thì nụ cười biến mất trên mặt ông Bát -

cơ tựa hồ như có một bàn tay vô hình đã xua đuổi nó. Và các hiện

tượng đó xảy ra trong những buồi họp mặt xã giao cũng như tại bàn

ăn của sĩ quan ở đơn vị. Có khi trong nhiều ngày liên tục, ông như

bị giày vò bởi sự ưu sầu đen tối nhất.

Sư đoàn Royal Mallows hạ trại tại Andershot từ vài năm qua. Các sĩ quan lập gia đình thì ngủ ngoài doanh trại. Ông đại tá đã chọn một biệt thự, cách trại bắc chưa tới bốn trăm mét, nhưng mặt nhà phía tây cách đường cái hai mươi lăm mét. Gia nhân gồm có bác xà ích và hai người hầu gái. Vợ chồng Bát-cơ không con, rất ít khi tiếp khách trong nhà. Tóm lại, có năm người sống trong biệt thự đó.

"Bà Bát - cơ là một tín đồ Thiên Chúa Giáo. Bà rất bận rộn với CLB Thánh Georges và hết lòng với việc lo cấp quần áo cho những người nghèo trong vùng. Tối hôm đó, một buổi họp được khai mạc vào lúc 8 giờ. Bà vội vàng ăn bữa tối để kịp đi họp. Khi rời khỏi nhà,

bà báo cho chồng biết là bà sẽ không vắng mặt lau. Theo lời chúng của người xà ích, bà đón một cô láng giềng còn trẻ Ma-ri, rồi cả hai cùng đi. Buổi họp kéo dài bốn mươi phút. Tới chín giờ mười lăm phút, bà cho ngừng xe để cô gái xuống trước cửa và về nhà cô.

"Ngôi biệt thự của đại tá có một căn phòng được dùng làm phòng khách nhỏ, có cửa hướng ra ngoài đường. Từ bên ngoài, muốn vào phòng đó phải băng qua một bãi cỏ tròn, đường kính ba mươi mét. Nó được ngăn cách với con đường băng một bức tường thấp, phía trên có gắn lưới sắt, bà đại tá đã vào nhà qua ngả đó. Bà thắp đèn và gọi chuông rồi sai cô hầu phòng đem tới một tách trà:

đó là điều trái ngược với những thói quen của bà. Ông đại tá ở lại trong phòng ăn; biết vợ mình đã về nhà, ông đi sáng phòng khách nhỏ để gặp bà. Bác xà ích trông thấy ông đi ngang qua gian tiền sảnh rồi vào trong đó.

Mười phút sau khi được lệnh, cô hầu phòng đem trà lên cho bà chủ, cô ngạc nhiên nghe ông chủ và bà chủ cãi nhau kịch liệt. Cô gõ cửa, không có tiếng trả lời. Cô muốn mở cửa nhưng cánh cửa đã bị khoá từ bên trong. Cô hối hả chạy xuống bếp, báo động với bà bếp. Thế rồi hai người đàn bà cùng bác đánh xe vào trong gian tiền

sảnh, gióng tai lên mà nghe cuộc cãi lộn. Cả ba người đều nhất trí

rằng họ chỉ nghe thấy có hai giọng nói: giọng của ông đại tá và của

bà vợ. Những câu của ông Bát-cơ thì thô bạo, nói với giọng thất thanh, khiến người nghe không hiểu được. Còn những câu nói của

bà Bát cơ thì lại còn ác liệt hơn nữa: Ba người giúp việc rõ ràng:"Anh là một thằng hèn!" Bà không ngớt lặp đi lặp lại câu đó.

Và bà còn nói: Biết làm sao bây giờ? Hãy trả lại cho tôi được tự do! Không bao giờ ta còn có thể thở chung một bầu không khí với mi!

Đồ hèn!" Bất chợt người đàn ông hét lên một tiếng khủng khiếp rồi

tiếp đó là tiếng đổ ngã, tiếng thét xé tai của bà chủ. Bác đánh xe lao mình vào cánh cửa, cố sức bật nó ra. Bên trong những tiếng thét nối tiếp nhau. Người đánh xe không phá được cánh cửa và hai người tớ gái lại quá lo sợ nên chẳng giúp được gì. Một ý kiến chợt loé lên trong trí bác. Bác bỏ ra ngoài, đi vòng ngôi nhà, ngang qua bãi cỏ trên đó có mở ra cánh cửa sổ sát đất. Cửa mở rộng, bác vào trong phòng khách nhỏ. Bà chủ đã ngưng kêu gào. Bà nằm im trên đi- văng; ông đại tá thì hai chân vắt ngang trên cái tay dựa của ghế bành, đầu gục xuống đất; ông chết trong một vũng máu.

"Người đánh xe định mở cửa ra. Nhưng chìa khoá không có trong ổ khoá và cũng không thấy để ở đâu trong căn phòng. Vậy là bác lại nhảy qua cửa sổ sát đất, đi mời một cảnh sát và một y sĩ, rồi trở lại. Bà Bát - cơ được chuyển sáng phòng riêng của bà, vẫn còn hôn mê. Thi hài ông đại tá được đặt nằm dài trên ghế trường kỷ. Và người ta tiến hành cuộc điều tra.

"Vết thương trên người nạn nhân là một vết đứt dài bảy centimét ở phía sau đầu, được gây ra bởi một loại hung khí có mũi nhọn. Trên sàn nhà, gần bên xác chết, người ta tìm thấy một thứ như cây gậy ngắn bằng gỗ rắn, có một cái cán bằng xương: Ông đại

tá có một bộ sưu tập lớn những khí giới mà ông đã đem về từ nhiều Quốc gia khác nhau, tại những nơi mà ông đã tham chiến. Cảnh sát cho rằng cây gậy đó là một trong những vũ khí sưu tập của ông. Nhưng các gia nhân thì nói là trước đó, họ chưa từng trông thấy nó. Cảnh sát không khám phá ra được điều gì khác. Và đây là việc quái

lạ mà chưa ai có thể giải thích được: trên người bà Bác - cơ, trên

người nạn nhân, cũng như ở bấc cứ chỗ nào trong phòng khách nhỏ,

người ta không thể tìm thấy cái chìa khoá. Cần phải gọi một người thợ khoá từ Aldershot tới để mở cánh cửa ra.

Trường tình hình bế tắc như vậy, thiếu tá Mã - phi mời tôi xuống Aldershot để phụ giúp cảnh sát.

"Trước khi quan sát căn phòng, tôi thẩm vấn nhiều gia nhân, nhưng không thâu đạt được gì hơn là những điều mà tôi vừa trình bày với anh. Tuy nhiên, cô hầu phòng có cung cấp cho tôi một chi tiết đáng chú ý: số là khi nghe tiếng cãi cọ, cô ta xuống bếp và đi lên cùng với hai người đầy tớ khác. Nhưng cô nói rằng lúc đầu, khi chỉ

có mình cô, những giọng nói của ông bà chủ bị nghẹt đến mức cô gần như chẳng thể nào hiểu được điều gì và rằng chính là do những ngữ điệu nhiều hơn là những tiếng nói mà cô hiểu ra rằng hai người đang cãi nhau. Tôi dồn dập đặt nhiều câu hỏi. Sau chót cô nhớ rằng

có hai lần cô đã nghe thấy bà chủ thốt lên cái tên "David". Điểm đó

có tầm quan trọng cao để soi sáng cho chúng ta về những nguyên cớ gây ra cãi vã.

"Mội điều gây ra cảm tưởng sâu đậm cho mọi người là: những nét nhăn nhỏ của ông đại tá. Theo lời chúng của họ, vẻ mặt ông có mọt nét biểu lộ sự khiếp sợ và sự kinh hoàng chưa từng thấy. Rõ ràng là ông biết mình sắp chết và rằng sự trông thấy cái chết đã làm cho ông kinh hoàng. Điều đó, phù hợp với lý thuyết của cảnh sát: ông đại tá hẳn đã thấy vợ mình chuẩn bị giết mình. Và cái việc

cú đánh đã được giáng xuống từ đằng sau cũng không mẫu thuẫn với lý thuyết đó, bởi vì ông đại tá rất có thể quay mình để né tránh

cú đánh. Về phía bà Bát cơ, người ta không có một tin tức nào cả. Bà bị một cơn cấp phát sốt thuộc não và tạm thời bị mấy lý trí.

"Cảnh sát đã cho biết là cô Ma-ri ( người đã cùng đi với bà Bát

cơ vào buổi tối hom đó), quả quyết là cô không biết chút gì về nguyên cớ đã gây ra cơn tức giận của bạn mình. Anh Watson, khi tập hợp những dữ kiện đó, tôi đã chú ý đến việc mất cái chìa khoá. Căn phòng đó đã được lục soát hết sức kỹ lưỡng mà chỉ uổng công.

Do đó cái chìa khoá đã bị lấy. Nhưng cả ông đại tác lẫn bà vợ đều

không lấy. Vậy thì một người thứ ba hẳn đã vào trong phòng và cái

người thứ ba đó đã chỉ có thể vào được qua ngả cửa sổ sát đất.

"Ngay tức khắc tôi đã tin rằng một cuộc quan sát kỹ căn phòng khách nhỏ và bãi cỏ có thể phát hiện ra một dấu vết nào đó của nhân vật bí mật kia. Tôi không bỏ sót một dấu vết nào. Và sau chót

tôi đã tìm ra nhiều dấu vết. Đã có một người ở trong căn phòng khách nhỏ. Người đó đã đi qua bãi cỏ từ ngoài đường vào. Tôi phát hiện 5 dấu chân rất rõ: một trên đường, ở nơi mà người đó đã leo lên đường, hai trênbãi cỏ, và hai trên ván sàn gần khuôn cửa sổ mà qua đó người lạ đã vào trong phòng. Chắc chắn là ngườiđó đã chạy băng qua bãi cỏ, bởi vì dấu những ngón chân thì sâu hơn dấu những gót chân. Nhưng không phải người đó đã làm cho tôi ngạc nhiên đến bối rối. Chính là cái đi kèm với người đó.

- Cái đi kèm?

Holmes rút từ túi áo ra mọt tờ giấy lụa lớn và mở ra một cách thận trọng trên đầu gối anh.

- Anh nghĩ sao về cái này?

Tờ giấy phủ đầy những tranh vẽ phỏng sao lại những dấu chân một con vật nhỏ. Có năm ngón chân, có móng dài. Mỗi dấu lớn bằng một cái muỗng dùng để ăn món tráng miệng.

- Đây là một con chó. - Tôi nói.

- Con chó làm sao leo lên được những tấm ri-đô? Tôi đã phát hiện ra những dấu vết này trên một tấm ri-đô.

- Thé thì một con khỉ?

- Không phải.

- Thế thì là cái gì?

- Đây khônglà con chó, không là con mèo, cũng chẳng là con khỉ, cũng chẳng là con vật nào mà ta biết. Tôi đã thử hình dung ra con vật đó theo các kích thước của dấu chân nó. Đây là bốn dấu chân ở một nơi mà con vật đứng bất động. Giữa chân trước và chân

sau cách nhau vào khoảng 50cm. Anh hãy thêm vào đó chiều dài

của cái cổ và của cái đầu thì anh sẽ có một con vật mà chiều dài thân mình chưa tới sau mươi phân, và nó có thể còn ngắn hơn thế nữa, hoặc dài hơn nếu nó có một cái đuôi. Nhưng khi con vật di chuyển, ta có chiều dài của bước chân nó. Dấu bước chân là mười centimét. Vậy là con vật này có cái thân mình dài với những chân rất ngắn. Tóm lại, đó là một thú leo được lên tấm riđô và là con thú

ăn thịt.

- Làm sao mà anh suy diễn ra được điều đó?

- Bởi vì đã leo lên những tấm ri-đô. Ở khuôn cửa sổ có treo một lồng chim hoàng yến. Dường như mục tiêu của nó khi leo lên ri-đô

là để bắt con chim.

- Thế thì con vật đó là gì?

- Đó là một loại chồn hạt dẻ, mõm nhọn, lớn hơn những con chồn mà tôi đã từng thấy.

- Nhưng nó dính dáng gì đến tội ác?

- Điều đó cũng lại tối tăm. Nhưng chúng ta biết là có một người đứng trên đường và rình mò cuộc cãi vã của hai vợ chồng, bởi vì những mành sáo còn chưa buông xuống và ngọn đèn còn được thắp sáng. Chúng ta cũng còn biết là người đó dã chạy băng ngang bãi

cỏ, đã vào trong phòng khách nhỏ, có đem theo một con thú bí mật,

và y đã đánh ông đại tá (nếu không, thì vừa lúc trông thấy y, ông đại tá đã té bật ngửa xuống thanh gác củi và bị tét đầu).

Sau chót y bỏ đi với chiếc chìa khoá cửa.

- những khám phá của anh làm cho nội vụ tối tăm hơn, thay vì làm cho nó được sáng tỏ!

- Anh có lý! Nhưng tôi đã làm cho anh thức quá khuya! Vậy ngày mai, trên đường đi Aldershot, tôi sẽ kể tiếp.

- Cảm ơn! Anh cứ kể tiếp.

- Khi ra khỏi nhà vào hồi bảy giờ rưỡi, bà Bát - cơ không giận hờn gì chồng; người đánh xe đã nghe bà nói chuyên với ông đại tá

theo lối thân tình. Mặt khác, ngay sau khi về nhà, bà đã vào trong

căn phòng và kêu người hầu pha trà; bất cứ người phụ nữ nào bị bồn chồn cũng đều làm như vậy, và ngay sau khi ông địa tác hiện

ra là bùng nổ. Thế mà cô Ma-ri đã không rời khỏi bà trong suốt khoảng thời gian đó, cho nên mặc dù cô ta có chối cãi, nhưng chắc chắn cô có biết một cái gì đó.

"Ý nghĩ đầu tiên của tôi là có sự dan díu giữa cô Ma-ri và ông lính già, và cô này hẳn đã ít nhiều thổ lộ với người vợ. Điều đó giải thích rõ về cơn tức giận khi trở về nhà cũng như những lời chối bỏ của cô gái trong cuộc. Và điều đó cũng không mâu thuẫn lắm với những từ mà 3 người giúp việc nghe được. Nhưng lại có một người tên là David, lại có sự trìu mến của ông đại tá đối với vợ, và sau chót còn có sự lẻn vào của một người đàn ông khác. Thật khó mà chọn ra đường để tiến hành điều tra. Dù sao đi nữa, tôi không thiên

về việc cô Ma-ri có "tình ý" với ông đại tá, nhưng tôi lại vững tin rằng chính cô ấy là người biết rõ sự bí mật vì sao bà Bát - cơ thình lình thay đổi tính khí. Vậy là tôi tìm tới nhà cô Ma-ri, giải thích rằng tôi tin chắc là cô biết rõ những sự việc, và tôi đã báo cho cô biết là bà Bát cơ sẽ bị đặt vào ghế của bị cáo về tội ám sát chồng, nếu nội vụ được làm sáng tỏ.

Ma-ri là một cô gái bé nhỏ, thanh khiết, có cặp mắt e lệ và mái tóc vàng hoe. Sau khi nghe chuyện, cô ngồi suy tư trong một lúc, rồi quay sang phía tôi và với dáng vè của người đã có một quyết định dứt khoát:

- Tôi đã hứa với bạn tôi rằng tôi sẽ không nói ra bất cứ điều gì. Nhưng nay bà ấy lâm trọng bệnh và đang trên bờ của sự tù tội, vậy thì tôi không thể làm thinh. Thưa ông, tối thứ hai đó chúng tôi từ Hội quán trở về. Lúc ấy vào khoảng chín giờ kém mườilăm. Khi băng ngang qua đường Hudsson - một con đường rất lớn và rất yên tĩnh- tôi thấy một người đàn ông tiến lại phía chúng tôi : lưng rất còng và đeo một cái hộp chéo qua vai, đầu cúi thấp và bớc đi với hai đầu gối co gấp lạ. Ông ta ngước mắt lên đúng vào lúc chúng tôi bước vào trong cái vòng ánh sáng của ngọn đèn đường. Ngay tức khắc, ông ta đứng lại và kêu lên bằng một giọng khủng khiếp:" Lạy Chúa

tôi, đây đúng là Nancy!" Bà Bát - cơ bỗng tái mét. Bà hẳn đã sụp

xuống nếu con quái vật đó không đỡ lấy bà. Tôi trực kêu cứ, nhưng

bà lại dịu dàng nói với người đàn ông.

- Ha-ri, em cứ tin rằng anh đã chết từ ba chục năm qua.

- Tôi đã từng bị chết! - người kia trả lời.

Thật là kinh khủng khi nghe cái ngữ điệu trong tiếng nói của ông ta. Ông có một bộ mặt rám nắng, đáng lo ngại, với một ánh chói trong tia mắt. Tóc, râu má đã lấm tấm những sợi xám. Những nếp nhăn, những vết nhăn hằn trên mặt ông.

- "Hãy đi tiếp một quãng, em gái"! Bà Bát - cơ bảo tôi. "Chị muốn nói chuyện với ông đây. Không có gì phải lo sợ cả". Bà nói với

vẻ quả quyết, nhưng bà vẫn còn tái xanh.

Tôi đi trước một qũng để cho hai người tự do nói chuyện trong vài phút. Sau đó bà đi xuống phố. Cặp mắt bà long lanh. Tôi thấy người dàn ông khốn khổ đứng lại bên ngọn đèn đường và vung nắm đấm lên không khí, tựa hồ như ông ta bị điên vì tức giận. Bà không nói một lời nào cho tới khi chúng tôi về đến cửa nhà tôi. Lúc đó bà mới nắm lấy bàn tay tôi, yêu cầu tôi đừng nói gì với bất cứ ai về cuộc gặp gỡ này.

- Đó là một người quen cũ của chị, nay lại hiện ra.

Tôi hứa, bà hôm hôn tôi. Giờ đây vì lợi ích của bà, tất cả chuyện đó phải được biết đến.

"Anh Watson, những lời khai của Ma-ri như là ánh sáng trong đêm. Tất cả những gì trước đây không lợi ích liên lạc với nhau thì nay lại ràng buộc nhau trong một trật tự bình thưòng. Tôi chỉ còn việc tìm gặp cái người dị dạng đó. Nếu anh ta còn ở Aldershot thì việc đó sẽ dễ dàng. Ban ngày tôi dò hỏi và buổi tối hôm đó, tôi đã biết địa chỉ. Đó là Henry Wood ở trọ trong cùng một đường phố và

bà Bát-cơ đã gặp ông ta. Ông ta chỉ mới tới đó có năm ngày. Tôi đến gặp bà chủ nhà trọ và tự xưng là nhân viên mới đến thu những phiếu thuộc cảnh sát và bà ta đã bép xép:" Cái ông Henry Wood là

nhà ảo thuật và nghệ sĩ diễn rong. Ông ta đi diễn quanh các trại

lính và các quán cà phê buổi chiều". Trong cái hộp, có một con vật

đã làm cho bà chủ nhà trọ phải nhiều phen sợ bở vía: đó là con thú mà ông đem ra trình diễn. Bà ấy còn cho biết đôi lúc ông nói một thứ tiếng lạ hoắc và hai đêm vừa qua ông ta cứ rên rỉ và khóc lóc ở trong phòng. Về tiền bạc, ông sòng phẳng, nhưng dẫu sao trong số tiền ứng trước thì ông đã trả cho bà một đồng florin giả. Bà đưa cho

tôi xem; đó là một đồng rupi ấn Độ.

"Giờ đây, thật hoàn toàn sáng tỏ rằng: hai người đàn bà chia tay nhau, người dị dạng đã đi theo họ trong khoảng cách xa, ông ta chứng kiến cảnh cãi cọ giữa hai vợ chồng, ông ta vội vã chạy vào trong phòng khách nhỏ và con thú mà ông ta mang theo đã trốn ra khỏi hộp. Nhưng ông ta là người duy nhất có thể cho chúng ta biết những gì đã xảy ra.

- Và anh có ý định hỏi ông ta?

- Tất nhiên! Nhưng hỏi trước mặt một người chứng.

- người chứng sẽ là tôi.

- Phải, điều đó làm sáng tỏ vấn đề. Nhưng nếu ông ta từ chối, chúng ta buộc lòng đưa nọi vụ cho cảnh sát.

- Liệu ông ta còn ở đó không?

- Một trong những chú nhóc của tôi đã lảng vảng trước nhà trọ

và nếu ông ta bỏ đi thì chú bé sẽ bám sát ông ta như một con đỉa. Ngày mai chúng ta sẽ gặp lại chú bé. Nhưng trong lúc chờ đợi, chính tôi là kẻ gây ra tội ác nếu tôi còn bắt anh thức lâu hơn nữa.

Chúng tôi tới nơi xảy ra tấm thảm trạng vào hồi giữa trưa rồi tới đường Hudsson ngay lập tức.

- Đây là đường Hudson. A! Kìa, chú nhỏ tới báo cáo.

- Ông ta vẫn còn ở đó, thưa ông! - Một cậu bé vừa chạy tới vừa kêu lên với chúng tôi.

- "Tốt"! Holmes nói khi vuốt ve má chú bé". Lại đây, Watson. Chúng ta tới nơi rồi".

Holmes đưa vào tấm thiếp trên đó chỉ vài lời ngỏ ý muốn được

gặp ông Hennry Wood về một việc quan trọng. Ngay sau đó chúng

tôi được mời vào nhà. Mặc dù đang mùa nóng nực, ông ta vẫn thu mình bên ngọn lửa và căn phòng đúng là một cái lò. Henry Wood hoàn toàn dị hình và co rúm trên một cái ghế đáp ứnựa. Nhưng khuôn mặt ông hướng về chúng tôi, thuở trước hẳn là rất điển trai.

Ông nhìn chúng tôi với vẻ nghi hoặc. Không nói mà cũng chẳng đứng lên, ông chỉ cho chúng tôi hai cái ghế dựa.

- "Ông từ bên ấn Độ về, tôi nghĩ thế?" Holmes hỏi với một giọng nhã nhặn. "Tôi tới về cái vụ nho nhỏ mà ông đã biết: cái chết của đại tá Bát - cơ".

- Vụ đó thì can hệ gì tới tôi?

- Tôi cũng mong muốn sự việc như thế. Bởi vì nếu nội vụ không được làm sáng tỏ thì bà Bát -cơ - vốn là một người bạn cũ của ông -

sẽ bị gán cho tội giết người.

Người đó giật nẩy mình, kêu lên:

- Tôi không biết ông là ai, cũng chẳng hiểu vì sao ông lại biết được điều đó.

- Người ta chỉ còn chờ đợi bà tỉnh lại để bắt giam bà.

- Lạy Chúa! Ông là cảnh sát hả?

- Không.

- Thế thì sao ông lại can thiệp vô?

- Tôi can thiệp là để cho công lý được thể hiện.

- Ông có thể tin nơi tôi, bà ấy vô tọi.

- Thế thì chính ông là phạm tội.

- Không. Tôi không gây ra tội ác.

- Vậy, ai giết đại tá Giêm Bát - cơ?

- "Chúa giết ông ta. Nhưng ông hãy nhớ lấy điều này: nếu như

tôi có đập vỡ óc y ra thì cũng rất đáng với cái tội của y. Ông muốn

tôi khai à? Được, tôi chẳng có gì phải hổ thẹn cả. Đây, hiện giờ trên

lưng tôi có một cái bướu lạc đà và những xương sườn xiêu vẹo. Nhưng đã có một thời, hạ sĩ Henr Wood này là người đẹp trai nhất trong trung đoàn bộ binh 117. Thuở đó, chúng tôi ở bên ấn Độ, tại vùng Bhurtee. Bát cơ là trung sĩ trong cùng một đại đội với tôi. Còn người đẹp của trung đoàn... đúng thế! Là Nancy Devoy; thân phụ cô

là trung sĩ trưởng đội. Hai chàng trai cùng yêu cô và chỉ có một được cô yêu thương: Tôi. Tôi đã chiếm được trái tim cô, nhưng cha

cô lại ưa Bát - cơ hơn. Tôi là một người mạo hiểm, một tay phiêu

lưu, còn Bát - cơ là người có học và người ta đã dự đoán trước là anh

sẽ thành sĩ quan. Nhưng Nancy lại tha thiết yêu tôi và tôi tin là tôi

sẽ lấy được nàng. Than ôi, cuộc nổi loạn của tính bản địa Cipayes bùng nổ và khắp xứ ngập chìm trong máu lửa!

"Toàn thể trung đoàn, thêm phân nửa đội pháp binh, một đại đội lính người Sikhs và nhiều người thường dân cùng đàn bà, trẻ con bị bao vây trong miền Bhurtee. Tới tuần thứ hai thì nước bắt đầu khan hiếm. Cần phải liên lạc với đoàn quân của tướng Neill đang ngược lên xứ đó. Đó là cơ may duy nhất. Tôi tự ý tình nguyện lẻn ra khỏi vòng vây và báo cho tướng Neill biết về tình trạng nguy ngập của chúng tôi. Đề nghị của tôi được chấp thuận. Tôi bàn bạc với trung sĩ Bát cơ, là người biết rõ thực địa hơn bất cứ ai. Ông ta

đã vẽ cho tôi một bản đồ để ra khỏi vòng vây. Tới 10 giờ tối tôi lên đường. Có cả ngàn sinh mạng cần được cứu sống, nhưng thạt tâm

tôi chỉ nghĩ đến có một người: Nàng.

"Con đường men theo một dòng nước cạn: tôi hy vọng là đi như thế sẽ thoát được sự canh chừn của bên địch. Nhưng trong lúc đang bò, tôi rơi vào tay sáu tên lính gác đang chờ đợi toi. Trong hai giây,

tôi bị choáng váng vì một cú đánh rồi bị trói. Cú đánh đó làm cho

tôi đau đớn trong lòng người hơn là ở trên đầu, bởi vì tôi nghe quan Cipayes nói với nhau rằng chính Bát cơ đã cho một đầy tớ địa phương đến báo tin cho họ, nhờ vậy họ mới bắt được tôi.

Ngày hôm sau, vùng Bhurtee được quân của tướng Neill giải cứu, nhưng quân nổi loạn đem tôi chúng trong cuộc rút lui. Tôi bị tra tấn. Tôi đào thoát. Tôi bị bắt lại và bị hành hạ thành người tàn

phế. Một phần quân phiến loạn bỏ trốn qua Népal; tôi phải theo

đoàn đó. Chúng tôi còn đi xa hơn, đi tới tận Darjeeling. Ở đó dân sơn cước giết quân phiến loạn và tôi trở thành nô lệ của họ. Tôi lại

bỏ trốn nữa. Nhưng thay vì đi về hướng nam, tôi lại ngược lên hướng bắc, đến xứ người Afghans. Tôi lang thang ở đó trong người năm, rồi trở xuống Punjab là nơi tôi đã sống với dân địa phương, kiếm ăn bằng cách làm trò ảo thuật. Tôi làm sao dám trở về nước Anh. Thà cứ để cho Nancy và các bạn cũ cứ giữ mãi cái hồi ức về một gã Henry Wood đã chết với một cái lưng thẳng, hơn là thấy tôi trong một cái hình thể của một kẻ dị dạng gớm ghiếc như vậy. Họ tin chắc là tôi đã chết. Như thế lại càng hay! Tôi nghe nói Bát - cơ

đã cưới Nancy và đã được thăng cấp trong trung đoàn.

"Nhưng khi về già, người ta tha thiết nhớ cố hương. Trong những năm dài, rồi những năm dài, tôi đã đeo đuổi theo hình ảnh bao đồng cỏ xanh và các hàng rào bên nước Anh. Sau cùng tôi muốn nhìn lại chúng một lần chót trước khi lìa đời".

- "Câu chuyên của ông thật là cảm động", Sherlock Holmes nói". Tôi dã biết có cuộc gặp mặt giữa ông và bà Bát - cơ. Ông đã đi theo bà ấy về nhà, nhìn qua cánh cửa sổ, ông thấy họ cãi nhau, chắc hẳn là người vợ trách móc ông chồng về câu chuyện ngày xưa. Những tình cảm cá nhân của ông lúc đó đã thắng, ông lièn chạy băng qua bãi cỏ và vào trong phòng.

- Đúng. Thưa. Và khi thấy tôi, y té gục đầu xuống thanh gác củi. Nhưng y đã chết trước khi gục xuống: tôi trông thấy cái chết trên mặt y, cũng rõ ràng như tôi đọc sách này. Việc nhìn thấy tôi tựa như viên đạn súng lục bắn thẳng vào trái tim tội lỗi của y.

- Rồi sau đó?

- Nancy ngất đi. Tôi rút trong bàn tay nàng cái chìa khoá, định mở cửa đi tìm người cấp cứu. Nhưng tôi nảy ra cái ý định nên để nàng lại đó, còn mình thì bỏ trốn. Tôi nhét cái chìa khoá vào túi và đánh rơi cây gậy trong lúc đuổi theo Teddy đang lên lên tấm ri-đô. Khi tôi nhốt được nó vào trong cái hộp, tôi chạy đi với tốc độ nhanh nhất.

- Teddy là ai? - Holmes hỏi.

Henry cúi xuống và lôi ra một con vật bé nhỏ xinh đẹp màu đỏ lạt, mảnh mai và mềm mại, một cái mũi dài màu hồng và cặp mắt

đỏ tuyệt đẹp.

- Một con chồn đen.

- Vâng, người ta gọi như thế, hoặc còn gọi nó là cầy ăn rắn. Tôi gọi nó là con bắt rắn. Tôi có nuôi một con rắn hổ đã bẻ hết răng nanh, và mỗi tối Teddy lại bắt rắn để mua vui cho những người trong xứ. Còn có chuyện gì ông muốn biết nữa không, thưa ông?

- Rất có thể là chúng tôi sẽ cần đến ông, nếu bà Bát - cơ bị gặp khó khăn.

- Trong trường hợp đó, xin ông hãy tuyệt đối tin cậy nơi tôi!

- Giờ đây, ông đã vừa ý khi biết rằng trong ba mươi năm qua, lương tâm ông đại tá đã không ngừng cắn rứt về cái hành vi phản bội của mình. A, ông thiếu tá Mã phi đang đi bên kia đường. Xin chào, ông Wood.

Chúng tôi đuổi kịp ông thiếu tá.

- A, Holmes", thiếu tá reo lên, "ông đã biết tin gì chưa".

- Chuyện gì vậy?

- Cuộc điều tra đã kết thúc. Y sĩ chứng nhận rằng nạn nhân chết vì chứng ngập máu. Tóm lại đây chỉ là một vụ thật tầm thường.

"Ồ, rất tầm thường!" Holmes cười và trả lời. "Mình đi thôi, anh

Watson! người a chẳng còn cần đến chúng ta nữa".

Trong lúc đi ra nhà ga, tôi nói với Holmes:

- Có một điều tôi vẫn chưa rõ: người chồng tên là Giêm và người kia là Henry, tại sao bà ấy lại nói đến tên David?

- Đó là một từ ngữ dùng để oán trách.

- Để oán trách?

- Trong kinh Thánh, nhân vật David thỉnh thoảng lại sa đoạ, hắn đã hành động y hệt như trung sĩ Giêm Bát cơ vậy.

NHỮNG NGHIÊP CHỦ Ở REIGATE

Ngày 14 tháng 4 năm 1887 tôi nhận được một bức điện gửi từ Lyon báo tin Holmes bị ngã bệnh, phải nằm liệt giừơng ở khách sạn Dulong. Trong vòng 24 giờ, tôi đã sang nước Pháp, tới tận bên giường anh và thấy bệnh không trầm trọng. Thể trạng anh cứng cáp như sắt thép nhưng cũng không chịu nổi trước một cuộc điều tra kéo dài hai tháng; trong thời gian đó, mỗi ngày anh phải làm việc trên mười lăm tiếng đồng hồ: anh còn xác nhận là có lúc anh không được nghỉ ngơi lấy một tiếng đồng hồ trong năm ngày liên tiếp.

Ba ngày sau đó, chúng tôi quay về nhà ở đường Baker. Nhưng đại tá Ha-tô, người bạn thân mà tôi đã chăm sóc bên xứ Atghanistan,

đã tậu được một ngôi nhà ở gần Reigate, trong hạt Surrey, và ông thường mời tôi và Holmes tới đó để đổi gió. Khi Holmes được biết đại

tá là người độc thân thì anh liền đồng ý. Thế là, một tuần sau ngày trở về Luân Đôn, chúng tôi tới nhà đại tá Ha-tô.

Buổi tối hôm đến nơi, chúng tôi quây quần trong phòng trưng bày vũ khí. Holmes nằm dài trên ghế trường kỷ, trong lúc Ha-tô và

tôi xem bộ sưu tập súng. Đại tá nói:

- Nhân đây, tôi sẽ đem lên lầu một trong những khẩu súng lục này để phòng ngừa trường hợp chúng ta cần báo động.

- Báo động ư? - Tôi kêu lên.

- Phải, mới đây ông già ất- tân đã bị trộm tới viếng đêm thứ hai tuần qua. Thiệt hại thì không đáng kể, nhưng tên trộm vẫn chưa bị bắt.

- Không có hướng điều tra nào sao? - Holmes hỏi, liếc nhìn ông

đại tá.

- Cho tới nay thì không. Nhưng đây là một vụ đáng kể, một vụ trộm vặt ở thôn quê, hoàn toàn không đáng làm cho ông phải bận tâm sau cái vụ quốc tế lớn lao kia.

Holmes khua tay như gạt bỏ lời khen ngợi, nhưng nụ cười của anh lại chứng tỏ là anh lấy thế làm khoái chí.

- Không có chi tiết đặc trưng nào sao?

- Không. Bọn trọm đã lục tung cái thư viện. Tất cả căn phòng

đã bị đảo lộn tùng phéo, các ngăn kéo bị mở tung, giấy tờ bị ném tung toé. Các món bị mất chỉ có: một cuốn sách, hai cây đèn nến bọc quý kim, một phong vũ biểu nhỏ bằng gỗ sồi và một cuốn dây mảnh.

- Một lô hàng kỳ lạ! - Tôi thì thầm.

- Ồ, hiển nhiên là bọn trộm đã vội quơ lấy những gì mà chúng

có thể mang theo.

Trên ghế trường kỷ, Holmes buông ra một tiếng làu bàu:

- Cảnh sát địa phương hẳn rút ra một điều gì đó chứ! Coi nào, thật rõ ràng là...

Nhưng tôi giơ một ngón tay lên:

- Anh tới đây là để nghỉ ngơi, anh chớ có lao mình vào một vấn đề nào, trong lúc hệ thần kinh còn đang rã rời.

Holmes nhún vai, ném về phía ông đại tá một tia nhìn mang dấu cam chịu rồi câu chuyện chuyển sang những đề tài bớt nguy hiểm hơn.

Tuy nhiên chúng tôi đang dùng điểm tâm thì người quản gia của đại tá ùa vào trong phòng.

- Ông đã hay tin gì chưa? thưa ông?... Ở đằng nhà cụ Cung- ninh đó, thưa ông!

Ông đại tá bất động với tách cà phê trong tay, lơ lửng giữa mặt bàn và miệng ông.

- Trộm à?

- Một vụ giết người!

Ông đại tác nghiến răng và rít lên:

- Mẹ kiếp! Ai bị giết? Ông toà hoà giải hay là con ông ta.

- Gã đánh xe ngựa. Một phát trúng tim. Chết mà chẳng nói lấy nửa lời.

- Ai đã giết anh ta?

- Kẻ trộm. Hắn đã biến mất. Hắn vừa bẻ gãy cửa sổ gian bếp phụ thì Uyn-li tới đó. Uyn-li đã mất mạng khi bảo vệ của cải cho chủ mình.

- Lúc đó là mấy giờ?

- Vào khoảng nửa đêm.

- Tốt. Lát nữa, chúng tôi sẽ tới đó. - Ông nói với giọng rất thản nhiên.

Ông chờ cho người quản gia ra khỏi phòng rồi mới nói thêm:

- Chuyện tồi tệ! Ông già Cung-ninh là một nhân vật rất có thế lực ở đây, hơn nữa, ông là một người trung hậu. Ông sẽ đau khổ, bởi

vì người đánh xe là một người đầy tớ rất tốt. Chắc là cũng cùng những tên trộm cướp đã tới viếng nhà ất-tân.

- Và là kẻ đã ăn trộm cái sưu tập quá đặc biệt đó ư? - Holmes hỏi với vẻ ngẫm nghĩ.

- Đúng vậy.

- Hừm!

Thoạt nhìn sự việc ra vẻ kỳ cục. Thông thường một băng trộm cắp hoạt động tại một vùng không hề thực hiện hai lần trong cùng một thành phố, cách nhau có vài ngày. Tối qua, khi ông nói cần đề phòng, tôi đã nghĩ rằng Riegate là giáo khu sau chót ở nước Anh bị bọn trộm để ý tới.

- Nếu vấn đề là do một tên chuyên nghiệp ở địa phương thì

hiển nhiên hai gia đình ất - tân và Cung - ninh là những nhà lớn nhất trong xứ này mà.

- Và là những nhà giàu có nhất chứ?

- Họ giàu từ trước, song từ nhiều năm qua, chủ nhân của cả hai nhà đã dấn vào một cuộc tranh tụng kéo dài và nay họ bị sạt nghiệp, ấy là theo ý tôi. Ông già ất - tân hiện đòi lại phần nửa cơ nghiệp của nhà Cung - ninh. Ở cả hai bên, các luật gia đều đòi thù lao thật đắt...

- "Nếu là một tên vô lại ở trong vùng lân cận, hẳn người ta sẽ tóm cổ hắn dễ dàng". Holmes nói, cố nén một tiếng ngáp. "Anh đừng

có lo sợ, anh Watson! Tôi chẳng can thiệp vào chuyện này đâu.

- Thanh tra Phê-rô đến, thưa ông! - người quản gia loan báo khi mở cửa ra.

Người đại diện của cảnh sát còn rất trẻ, trông có vẻ đàng hoàng, bước vào trong phòng.

- Xin chào, thưa đại tá. Tôi hy vọng làm phiền đại tá? Nhưng chúng tôi được biết là ông Holmes đang có mặt nơi đây...

Ông đại tá chỉ vào bạn tôi. Viên thanh tra nghiêng mình chào.

- Thưa ông Holmes, chúng tôi mong rằng ông sẵn lòng cùng đi

ít bước với tôi.

- "Số mệnh đã chống lại anh rồi, Watson ơi"! Holmes vừa kêu lên vừa cười. "chúng tôi đang bàn luận về vụ án thì ông tới đó, ông thanh tra. Ông có thể cho chúng tôi biết vài chi tiết không?

Khi tôi thấy Holmes ngồi ngả vào thành ghế dựa với một trong những tư thế được anh ưa thích thì tôi thất vọng.

- Chúng tôi không có một dấu vết nào trong vụ ất-tân. Nhưng chắc chắn là cả hai vụ đều do cùng một băng nhóm gây ra. Người phạm tội đã bị nhận diện.

- A!

- Vâng, nhưng hắn chuồn đi như một cơn gió, sau khi dã nổ

súng vào Uyn-li. Cung-ninh đã trông thấy y từ cửa sổ phòng cụ và ông A-léc cũng đã trông thấy từ cánh cửa sau, dành cho người giúp việc. Hồi 23 giờ 45 phút thì có tiếng báo động. Cụ Cung-ninh vừa vào giường, còn A-léc thì đang hút thuốc. Cả hai đều nghe tiếng anh Uyn-li kêu cứu. Ông A-léc chạy vội xuống. Cánh cửa sau mở rộng. Khi tới chân cầu thang, ông thấy bên ngoài có hai người đang đánh nhau. Một trong hai người nổ một phát súng, người kia gục xuống,

kẻ sát nhân nhảy bổ ra vườn và leo vượt hàng rào. Cụ Cung-ninh từ khuôn cửa sổ phòng mình, cũng thấy tên cướp nhảy ra tới đường, và mất dạng. Ông A-léc đứng lại để xem có thể cứu giúp gì được cho người hấp hối, khiến cho kẻ sát nhân có thời giờ trốn thoát. Ngoài chi tiết hắn là người tầm thước và mặc vải sẫm, chúng tôi không còn chỉ - dấu đặc biệt nào khác.

- Anh chàng Uyn-li làm gì tại đó? Anh ta nói được điều gì trước khi chết không?

- Không một lời. Anh ta ở cùng với bà mẹ trong nhà người gác cổng, đó là một người giúp việc tận tuỵ; có lẽ anh đã đi về phía ngôi nhà để xem mọi việc có bình thường không. Khi tên trộm vừa chạy phiá xong cánh cửa sau, thì Uyn-li nhào lên người hắn.

- Uyn-li có nói gì với mẹ trước khi ra khỏi nhà không?

- Bà mẹ rất già lại điếc. Không tài nào moi được từ nơi bà một điều chỉ dẫn nào! Cái chết của con trai đã quật sụp bà. Tuy nhiên,

có một nguyên tố cực kỳ quan trọng. Ông hãy coi đây!

Viên thanh tra rút ra từ cúon sổ tay một mảnh giấy nhỏ bị rách và ông mở rộng ra trên đầu gối.

- Mẩu giấy này được tìm thấy giữa hai ngón tay cái và ngón tay trỏ của nạn nhân. Dường như đây là một góc của một tờ giấy lớn hơn. Con số ghi trên mẩu giấy này là giờ mà Uyn-li bị hạ sát. Kẻ sát nhân đã giật lấy phần còn lại của tờ giấy; nếu không, Uyn-li đã

có thể giành lấy nguyên vẹn tờ giấy rồi:

- " ... Vào lúc mười một giờ bốn mươi lăm phút... sẽ được biết... nhiều ... rất hữu ích...".

Holmes cầm lấy tờ giấy.

- "Cứ cho đây là một cuộc hẹn". Viên thanh tra nói tiếp" Chúng

ta có thể ngờ rằng, gã Uyn li mặc dù có tiếng là lương thiện, đã thông đồng với tên trộm. Gã đã gặp tên trộm ở đó, hoặc đã giúp tên trộm cạy cửa, rồi sau đó hai đứa gây lộn với nhau...

- Miếng giấy này hữu ích biết bao"! Holmes thì thầm sau khi quan sát nó rất kỹ, "chúng ta bị ngập sâu trong nước hơn là tôi tưởng".

Anh vùi đầu trong hai bàn tay giữa lúc viên thanh tra cười thoả mãn trước sự chú tâm của chuyên gia nổi tiếng ở Luân đôn. Holmes nói ngay sau đó:

- Điều nhận xét sau chót của ông thật là tài tình, tờ giấy này mở cho chúng ta...

Lần nữa anh lại gục mặt vào trong lòng hai bàn tay và anh khép kín mình trong vài phút vào tư tưởng của anh. Khi anh ngửng đầu lên, tôi ngạc nhiên thấy cặp mắt anh long lanh như trước những ngày chưa bệnh. Anh nhảy cẫng lên với tất cả năng lực cũ của mình:

- Tôi đang nói gì với ông nhỉ: tôi muốn xem xét những chi tiết của vụ án. Nếu được ông cho phép, thưa đại tá, tôi sẽ đi dạo một vòng cùng với ông thanh tra để kiểm soát lại một vài ý nghĩ bông lông của tôi. Tôi sẽ trở về trong nửa tiếng.

Một tiếng rưỡi đã trôi qua. Viên thanh tra quay lại có một mình nói:

- Ông Holmes đang đi bách bộ ngoài đồng và muốn chúng ta đi tới ngôi nhà.

- Tới nhà cụ Cung - ninh sao?

- Vâng, thưa ông.

- Để làm gì?

Viên thanh tra nhún vai.

- Tôi không biết. Giữa chúng ta với nhau, tôi nghĩ rằng ông

Holmes chưa được hoàn toàn bình phục. Ông cư xử một cách kỳ lạ, sôi động.

- Ông không cần phải lo âu. Anh ấy luôn luôn có phương pháp trong sự điên rồ - Tôi nói.

- Ông Holmes đầy nhiệt tình đòi đi, thưa đại tá. Nếu hai vị sẵn sàng, chúng ta cũng nên đến đó.

Chúng tôi gặp lại Holmes ngoài trời. Anh đi từng bước dài trên đường, cằm gục xuống ngực, hai bàn tay thọc sâu trong túi quần. Anh nói:

- Vụ án có tầm lợi ích đây. Anh Watson, chuyến đi chơi vùng quê này sẽ là một thành công đáng kể. Tôi đã hưởng một buổi sáng thú vị.

- Ông đã đi tới nơi xảy ra vụ án à? - Đại tá hỏi.

- Phải. Ông thanh tra và tôi.

- Đưa tới thành công chứ?

- Quả vậy, chúng tôi đã thấy nhiều điều khác nhau rất lý thú. Thoạt tiên, chúng tôi đã xem thi hài của kẻ bất hạnh: anh ta chết vì một viên đạn súng lục, như các anh đã được cho biết.

- Anh nghi ngờ chuyện đó sau?

- Ồ, luôn luôn nên kiểm tra tất cả. Việc quan sát của chúng tôi

đã không vô ích. Sau đó chúng tôi có trao đổi với cụ Cung - ninh và con trai cụ. A-lec hướng dẫn chúng tôi tới nơi mà kẻ sát nhân đã chuồn qua khi vượt hàng rào, trốn chạy. Rất đáng quan tâm.

- Tất nhiên.

- Chúng tôi đã gặp bà mẹ đau khổ nhưng không thu thập được điều gì. Bà đã quá yếu.

Và kết quả cuộc điều tra cho thấy là...

- ... tội ác này không tầm thường. Thưa ông thanh tra, giờ đây chúng ta đã đồng ý với nhau về mẩu giấy trên đó có viết giờ chết của nạn nhân?

- Mẩu giấy đó chẳng cho chúng ta một điều chỉ dẫn, thưa ông

Holmes.

- Nó cho chúng ta thấy rõ: người viết bức thư đã lôi Uyn-li ra khỏi giừơng trong đêm hôm khuya khoắt. Nhưng phần còn lại của

tờ giấy hiện ở đâu?

- Tôi đã quan sát mặt đất rất kỹ với hy vọng tìm ra mẩu giấy đó. - Viên thanh tra thì thào.

Mảnh giấy đã được giựt ra khỏi bàn tay người chết. Bởi vì tờ giấy đã kết tội y nên y đã nhét vội nó vào túi mà không hề để ý thấy một góc bị thiếu. Nếu thu hồi được phần còn lại của tờ giấy, thì chúng ta sẽ kết thúc vấn đề.

- Đúng. Nhưng phải làm thế nào bây giờ.

- Điều đó đáng tốn công. Còn một điểm này nữa. Lá thư đã được gởi tới cho Uyn-li. Người viết thư đã không tự mình trao cho người nhận; nếu không, hắn dùng lời nói chứ viết thư làm gì. Vậy ai

đã chuyển bức thư? hoặc lá thư đã được gửi tới qua đường bưu điện?

- " Tôi đã cho điều tra về điểm đó", - viên thanh tra trả lời. "Hôm qua Uyn-li có nhận được một lá thư trong chuyến phát thư buổi chiều. Anh ta huỷ cái bao thư".

- "Tuyệt vời!" Holmes kêu lên khi vỗ lên lưng viên thanh tra.

"Ông đã gặp nhân viên đưa thư. Thật thích thú khi được làm việc chung với ông! Tốt! Đây là nhà người gác cổng. Thưa đại tá, xin cho phép tôi được chỉ cho ông thấy nơi xảy ra tội ác.

- Chúng tôi đi ngang qua căn biệt thự nhỏ, nơi người đánh xe

đã ở và leo lên một lối đi vào hai bên có trồng cây sồi, đưa tới một ngôi nhà cổ kính.

Một cảnh sát viên đứng gác ở cửa sau.

- "Xin ông vui lòng mở cửa ra". Holmes nói."Giờ đây, các bạn trông thấy cái cầu thang này: chính từ những bậc thang đó mà cụ Cung - ninh đã trông thấy hai người vật lộn nhau tại nơi chúng ta đang đứng. Ông cụ đứng ở cửa sổ này, cái thứ hai bên tay trái, và

cụ đã trông thấy kẻ sát nhân bỏ chạy ngay bên trái bụi cây. A-léc

cũng trông thấy y nữa. Sau đó, A-léc đã chạy tới quỳ xuống bên người bị thương. Nền đất rất rắn, như các bạn có thể ghi nhận: không có dấu vết nào để hướng dẫn chúng ta.

Trong lúc anh nói, có hai người đi xuống lối vào vườn, sau khi

đã đi vòng quanh nhà. Một người lớn tuổi, có một cái đầu mạnh mẽ, nhưng có nét nhăn sâu, mí mắt nặng trĩu. người kia là một thanh niên lanh lợi.

- "Thế nào, vẫn còn về việc đó à?" Anh ta nói với Holmes.

"những người từ Luân Đôn đến, phải là những người không thể đánh bại. Nhưng quý vị không tiến tới được bao nhiêu".

- Cần phải cho chúng tôi một ít thì giờ. - Holmes trả lời bằng một giọng vui vẻ hồn nhiên.

- Quý vị sẽ cần nhiều thời giờ nữa đây!" A-léc nói dõng dạc.

"Dường như chúng ta không có một chỉ dẫn nhỏ nhoi nào".

- "Mỗi một", viên thanh tra trả lời, "chúng ta sẽ tìm thấy... Lạy chúa tôi! Này ông Holmes, ông làm sao vậy? Ông Holmes!".

Bộ mặt Holmes có một dáng vẻ đáng ghê sợ. Mắt anh đảo lộn tròng, nét mặt bị cơn đau làm cho quặn lại, khi buông ra một tiếng rên rỉ, anh té lăn xuống đất. Hoảng hốt, chúng tôi khiêng anh vào trong bếp, đặt anh vào một ghế bành rộng và anh ngồi đó thở nặng

nề trong vài phút. Cuối cùng, sau khi đã cáo lỗi về sự yếu đuối của mình, anh lại đứng lên, nói:

- Tôi vừa mới qua một cơn bệnh nặng. Tôi vẫn còn dễ bị những cơn cấp phát thần kinh đột ngột đó.

- Ông muốn về nhà bằng cỗ xe độc mã của tôi không? - Cụ Cung

- ninh đề nghị.

- Tôi phải ở đây để xác minh một điểm.

- Điểm gì?

- Thế này: KHông biết Uyn-li đã tới trước hay là chỉ tới sau khi tên trộm đã lọt vào nhà. Quý vị đã nói rằng tuy cánh cửa bị cậy phá, nhưng kẻ trộm chưa lọt vào bên trong.

- "Điều đó là hiển nhiên rồi". Cụ Cung-ninh trả lời một cách

nghiêm trang. "Coi nào, A-léc vẫn còn chưa vào giường chắc chắn là cháu nó đã nghe thấy tiếng động".

- Cậu ấy ngồi ở đâu?

- Trong phòng tắm của tôi, đang hút thuốc và nhìn qua cửa sổ - Ông cụ trả lời.

- Cửa sổ nào? - Holmes nói tiếp

- Cửa sổ cuối cùng bên trái, kế bên cửa sổ phòng cha tôi. - Aléc

đáp.

- Đèn nơi phòng anh và nơi phòng ông cụ vẫn còn thắp sáng cả

chứ?

- Không còn nghi ngờ gì cả.

- "Rõ ràng là có vài điẻm kỳ lạ trong vụ này". Holmes cười nói."Một kẻ trộm vào nhà trong lúc đèn vẫn còn sáng và cả hai người trong gia đình còn thức".

- Y phải cực kỳ bình tĩnh.

- "Nếu vụ án mà không kỳ lạ, thì chúng tôi nhờ ông làm chi"! A-

léc nói:" Kẻ trộm đã không lấy đồ trước khi bị Uyn-li bắt gặp, bằng

cớ là chúng tôi đâu có mất món gì và hiện trường cũng không bị bừa bộn.

- " Cái đó còn tuỳ thuộc vào bản chất của những món đồ".

Holmes trả lời. "Chúng ta đang đối phó với một kẻ trộm thuộc loại đặc biệt và hành động theo cách đặc biệt, chẳng hạn như, cái lô hàng ở nhà cụ ất - tân chỉ là một cuộn dây mành, một cái phong vũ biểu....".

- "Chúng tôi phó thác hoàn toàn nơi ông, thưa ông Holmes - Cụ

Cung ninh nói.

- Mở đầu, tôi muốn cụ treo một giải thưởng. Tôi đã soạn sẵn một mẫu, cụ có ưng ký tên không? Năm chục bảng là đủ.

- "Tôi sẵn lòng thưởng năm trăm". Ông tòa hoà giải nói, sau khi cầm lấy tờ giấy mà Holmes đưa cho cụ." Nhưng giấy này chưa được đúng", cụ nói thêm khi đọc lướt qua nội dung".

- Tôi viết nó khá vội...

- Coi này! Sao ông lại bắt đầu như vậy: "Xét rằng, vào hồi O giờ

3 phút, một mưu toan". Nó là hồi một khắc trước nửa đêm, mười một giờ bốn mươi lăm phút, nếu ông ưa thế.

Sự nhầm lẫn đó khiến tôi buồn. Holmes nổi tiếng là chính xác

về các sự việc. Nhưng con bệnh đã làm anh như đãng trí. Trong một lúc, anh bị bối rối. Viên thanh tra nhướn lông mày lên. A-léc thì phá ra cười. Ông già sửa chỗ viết sai và trả tờ giấy lại cho Holmes,

nói:

hảo.

- Ông cho in càng sớm càng tốt. ý kiến của ông thật là tuyệt

Holmes cẩn thận đặt tờ giấy vào trong bóp, rồi nói:

- Ta cùng đi khắp nhà để tìm xem cái tên trộm kỳ quặc kia đã mang đi món đồ nào.

Trước đó, Holmes quan sát cánh cửa đã bị cạy phá. Một con dao cứng hoặc một cây kéo được cắm sâu vào ổ khoá và ổ khoá đã bị bung ra. Những dấu vết trên gỗ hãy còn thấy rõ. -Như vậy là cụ không cần cho đặt then chặn cửa ? - Holmes hỏi.

- Chúng tôi thấy không cần phải làm như vậy.

- Cụ có nuôi chó không?

- Có, chó được cột ở phía bên kia nhà.

- Các gia nhân đi ngủ vào lúc nào?

- Khoảng mười giờ.

- Thông thường thì Uyn li đi ngủ vào giờ đó, phải không?

- Phải.

- Thật kỳ lạ! Vào đúng đêm đó, anh ta lại thức khuya hơn thường lệ. Giờ đây, thưa cụ, chúng tôi sẽ rất hân hạnh nếu được phép vô thăm nhà cụ.

Một hành lang lát đá, đưa tới một cầu thang bằng cây dẫn thẳng lên lều một của ngôi nhà. Trên bậc thềm dẫn lên một cầu

thang thứ hai đi đến tiền sảnh, người ta trông thấy ở đó nhiều cánh

cửa phòng khách cũng như cửa nhiều phòng, trong số đó có cửa phòng cụ Cung-ninh và phòng A-léc. Holmes bước chậm rãi, quan sát kỹ. Cứ theo vẻ mặt anh, tôi biết anh đang theo một hướng điều tra nóng bỏng.

- "Ông hảo tâm của tôi ơi!". Cụ Cung-ninh kêu lên, vẻ mất kiên nhẫn. Điều này không cần thiết đâu. Phòng của tôi là đây, nơi cuối cùng những bậc thang, và phòng con trai tôi là phòng kế cận. Nếu

kẻ trộm lên đây thì cha con tôi đã nghe tiếng động do hắn gây ra rồi.

- Ông hãy điều tra theo hướng khác thôi. - A-léc nói với nụ cười.

- Tuy nhiên, tôi xin quí vị lượng thứ cho cái ý thích thất thường của tôi. Chẳng hạn như tôi muốn biết tầm nhìn từ những khuôn cửa sổ kéo dài tới tận đâu. Phòng của anh A-léc đây ạ?" Holmes hỏi khi đẩy cánh cửa ra. "Và đây là phòng tắm mà anh đang ngồi hút thuốc thì có tiếng báo động. Cánh cửa sổ mở ra cái gì đây?".

Anh băng ngang phòng, mở một cánh cửa và liếc nhìn sang căn phòng ở sát bên.

- Giờ đây ông đã được thoả mãn? - Cụ Cung-ninh hỏi với vẻ hỏm hỉnh.

- Xin cảm ơn. Tôi đã thấy tất cả những gì muốn biết.

- Nếu thật là cần thiết, chúng ta có thể vào trong phòng tôi.

- Nếu không làm phiền cụ quá dáng...

Ông toà hoà giải nhún vai và ông dẫn chúng tôi vào trong phòng riêng của ông, đồ đạc đủ tiện nghi. Trong lúc chúng tôi đi ngang phòng tới hướng khuôn cửa sổ, Holmes chậm bước lại để sánh ngang tôi đi ở cuối toán. Ở chân giừơng có kê một cái bàn vuông nhỏ, trên có đặt một bình nước và một giỏ cam. Khi đi ngang cái bàn, Holmes cuúi xuống và hất đổ cái bàn. Bình nước vỡ tan và trái cây vang tung toé. - Đồ quỷ, Watson" . Anh kêu lên một cách lạnh lùng. "Thế là anh đã ngược đãi tấm thảm rồi":!

Hoàn toàn bối rối, tôi cúi xuống và bắt đầu tìm lượm trái cây.

Hẳn là vì một duyên cớ nào đó nên Holmes mới muốn để tôi cáng đáng cái trách nhiệm về sự vụng về này. Những người khác cũng lượm trái cam và dựng cái bàn thẳng đứng trở lại.

- "Coi kìa!" Viên thanh tra kêu lên. "Ông ấy đi đâu vậy?". Holmes đã biến mất.

- "Quý ông hãy đợi tôi ở đây". - A-léc nói.

- Cái ông này coi bộ thần kinh không bình thường. Hãy đi với con đi, ba!

Cả hai chạy vội ra khỏi phòng. Còn ba chúng tôi cứ đứng đó, sững sờ nhìn nhau.

- "Mẹ kiếp, tôi bắt đầu tin rằng cậu A-léc có lý." Viên thanh tra thì thầm. Có thể đây là hậu quả về căn bệnh của ông ấy, nhưng dù sao thì cũng..."

Bỗng ông ngưng mặt. Một tiếng kêu, gần như một tiếng hét, vang lên.

- Cứu tôi với! Sát nhân!

Như người điên, tôi phóng ra thềm cầu thang, bởi vì tôi đã nhận ra giọng Holmes. Những tiếng kêu cứu đã biến thành tiếng rên rỉ khàn khàn, không thành tiếng. Chúng thoát ra từ căn phòng mà chúng tôi đã vào thăm trước hết. Tôi lao vào trong, rồi chạy vào phòng tắm. Hai cha con Cung-ninh đang cúi trên cơ thẻ lả đi của Holmes. Người con dùng hai bàn tay siết chặt cổ họng Holmes, ông

bố thì vặn cổ tay anh. Trong chớp mắt chúng tôi đã lôi được hai cha

con ra. Holmes đứng lên, xanh xao, lảo đảo.

nói.

- Hãy bắt giữ những người này, ông thanh tra! - Anh hổn hển

- Về tội gì?

- Tội ám sát người đánh xe của họ. Viên thanh tra ngơ ngác nhìn anh.

- Coi nào, coi nào, ông Holmes, ông đâu muốn nói rằng...

- Không à? Ông hãy nhìn họ mà xem ! - Holmes kêu lên.

Ông già Cung-ninh đờ người ra, tưởng chừng như hoá đá, khuôn mặt nhăn sâu, in hằn một nét tànnhẫn sâu xa. Người con trai đã mất hết thói ba hoa, thói nhạo báng, trong cặp mắt đen của anh ta loé lên tính hung dữ của một con thú hoang, nguy hiểm. Viên thanh tra đi ra cửa và rút cái còi ra. Hai cảnh sát kéo tới nơi ngay đó.

- "Thưa cụ Cung-ninh", viên thanh tra nói. "Tôi hy vọng rằng chuyện này sẽ chấm dứt bằng sự chứng minh về sự vô tội của cụ. Nhưng cụ cũng có thể thấy rằng. A, anh muốn vậy sao? Hãy buông ngay cái đó ra coi"!

Ông vung tay về phía trước và một khẩu súng lục rớt xuống sàn nhà.

- "Giữ lấy tang vật này"! - Holmes nói khi đặt bàn chân lên khẩu súng. " Nó sẽ có ích trong phiên toà. Đây mới là cái chúng ta cần có hơn hết"!

Anh giơ lên cao một mảnh giấy nhỏ đã bị vò nát.

- Phần còn lại của lá thư? - Viên thanh tra reo lên.

- Chính nó.

- Ông tìm ra nó ở đây vậy?

- Ở chỗ mà tôi tin chắc là sẽ tìm ra nó. Tôi sẽ giải thích. Thưa đại tá, ông và Watson có thể trở về nhà. Tôi cũng sẽ về trong một giờ nữa. Ông thanh tra và tôi, còn phải nói chuyện với các phạm nhân.

Sherlock Holmes đã giữ lời. Khoảng một giờ sau, anh bước vào phòng hút thuốc của ông đại tá. Anh đi cùng với một ông lão mà anh giới thiệu là cụ ất-tân. Holmes tươi cười nói:

- Thưa quý vị, ngay từ đầu, tôi thấy chìa khoá của vấn đề là mẩu giấy nằm trong tay nạn nhân.

Nếu chuyện kể của A-léc là thật và nếu kẻ trộm bỏ trốn ngay

tức khắc, thì hắn đã không giựt và làm rách tờ giấy. Nếu không phải như vậy thì thủ phạm chính là A-léc, bởi vì trước khi ông già xuống, nhiều gia nhân khác hẳn đã chạy tới. Đó là một chi tiết đơn giản nhưng ông thanh tra đã bỏ qua, bởi vì ông ấy cho rằng những

vị chức trọng quyền cao trong địa hạt chẳng liên can gì tới vụ án.

Thế là tôi nghiên cứu thật kỹ cái mẩu giấy. Nó đây này. Nó gợi

ra một ý nào không?

- Toàn chữ không đều. - Ông đại tá nói.

- "Ông bạn thân mến ơi", Holmes kêu lên, "nó đã được viết bởi hai người, mỗi người viết một chữ: Nhìn cách gạch ngang khá rõ nét trên chữ "t" trong những từ "phút" thì quý vị sẽ tin chắc rằng toàn chữ do hai người viết. Một cuộc phân tích ngắn cho phép quý vị xác nhận rằng những từ "sẽ được biết" và "nhiều" được viết bởi một bàn tay rắn rỏi, trong lúc từ "hữu ích" lại được viết bởi một bàn tay yếu hơn.

- "Sáng như ban ngày!" Ông đại tá kêu lên. "Tại sao lại quái gởi khi cần đến hai người để viết một lá thư".

- Đây là một vụ bỉ ổi. Một trong hai người có tính rất đa nghi,

đã quyết định mỗi người có một phần bằng nhau về điều gì sẽ xảy

ra. Nhưng trong hai người, kẻ viết những chữ "một" và chữ "rất" là

kẻ xúi giục gây ra vụ này.

- Do đâu ông đi tới cái kết luận đó? - Tôi so sánh đặc tính của hai chữ. Quý vị hãy quan sát thật cẩn thận mẩu giấy này: người có bàn tay rắn rỏi đã viết trước, và chừa lại những khoảng trống để cho người kia điền vào. Nhưng những khoảng trống đó không phải lúc nào cũng đủ chỗ cho kẻ viết sau. Người có bàn tay yếu hơn đã gặp khó khăn, chẳng hạn như khi ông ấy viết chữ "giờ" vào khoảng giữa hai chữ "một" và "bốn". "Một" và "bốn" rõ ràng là những chữ đã được viết từ trước. Vậy người được phép viết trước, là người chủ mưu.

- Tuyệt vời! - Cụ ất- tân kêu lên.

- Hẳn quý vị đã biết rằng thông thường người ta có thể xem xét

nét bút mà đoán ra tuổi của một người, chênh lệch chừng mươi năm. Tôi nói thông thường, bởi vì có những trường hợp do bệnh hoạn hoặc do suy yếu cơ thể thì kết quả sẽ khác đi. Nhưng trong vụ này, khi quan sát chữ rắn rỏi của một người (dấu gạch ngang trên các chữ t rất rõ) và nét chữ ngập ngừng của người kia (những chữ t gần như mất hẳn nét ngang) chúng ta có thể xác định rằng trong hai người này, một người còn trẻ và một người tuổi đã cao, tuy hãy còn tráng kiện.

- Tuyệt vời! - Cụ ất-tân kêu lên lần nữa.

- Tuy nhiên, giữa hai nét chữ này có những điểm giống nhau. Thường thì những sự giống nhau đó xuất phát từ hai chữ "e" Hy Lạp mà cả hai cùng viết giống nhau. Nhưng những nét giống nhau khác kém khẳng định hơn cũng cho thấy cùng điểm đó. Tôi tuyệt đối tin chắc rằng có "một nét chữ gia đình" trong hai nét chữ viết này. Thế là tôi vững tin rằng cha con ông Cung ninh là tác giá của bức thư.

Tôi đi tới nhà đó cùng với ông thanh tra. Tôi thấy rõ vết thương trên xác chết, đã gây ra bởi một phát súng lục bắn cách xa hơn bốn mé.t Trên quần áo nạn nhân không có những vết sạm đen gây ra bởi thuốc súng. Vậy là A-léc đã nói dối khi khai rằng hai người đang đánh lộn thì súng nổ. Mặt khác, hai cha con đều đồng ý về cái nơi mà "hung thủ" đã bỏ chạy ra đường. Ở chỗ đó có một vài hố ngập bùn, nhưng không hề có những dấu chân: nghĩa là chẳng hề có một kẻ xa lạ nào can dự vào vụ án.

Tôi lại còn phải khám phá cái động cơ của tội ác kỳ cục này. Trong mục đích đó, trước hết tôi phải tìm hiểu vụ trộm xảy ra nơi nhà cụ ất-tân. Ông đại tá đã nói rằng một vụ tranh tụng đã làm cho

cụ ất-tân với cha con Cung - ninh kình địch nhau. Ngay lập tức, tôi đoán là họ đã xông vào thư viện nhà cụ với ý định lấy trộm một tài liệu quan trọng khả dĩ giúp họ chiếm phần thắng ở phiên toà.

- "Tuyệt vời!" Cụ ất-tân lại kêu lên y như hai lần trước. "ý định của họ thật rõ. Tôi có đủ giấy tờ để được hưởng phần nửa cơ nghiệp của nhà đó. Nếu họ cướp những giấy tờ ấy, thì chúng tôi nguy mất".

- Chúng ta tới đích rồi vậy!" Holmes cười nói. "Đó là một mưu

toan khá liều lĩnh do A-léc đề xướng. Lục soát khắp nơi mà không tìm ra được cái gì, họ đã làm như những tên trộm tầm thường để đánh lạc hướng cảnh sát. Chính vì thế mà họ đã quơ lấy bất cứ cái

gì họ thấy. Tất cả điều đó đã khá sáng tỏ, nhưng tôi còn muốn thâu hồi lại phần còn thiếu của lá thư. Tôi tin chắc rằng A-léc đã nhét vào trong túi áo ngủ. Vả chăng, anh ta còn có thể để nó vào đâu? tất

cả vấn đề là tìm hiểu xem nó có còn ở đó không? Vì thế tất cả chúng

ta đều đi vào trong nhà.

Cha con nhà Cung - ninh đã gặp chúng tôi ở bên ngoài, gần bên cánh cửa nhà bếp. Cần phải tuyệt đối không làm cho họ nhớ lại sự hiện hữu của tờ giấy đó; nếu không, họ sẽ huỷ nó đi ngay tức khắc. Viên thanh tra sắp ám chỉ đến tờ giấy khi giải thích với họ về tầm quan trọng của nó. Lúc đó"tình cờ" tôi bị mệt và đề tài của câu chuyện được thay đổi.

- Trời đất thánh thần ơi! - Ông đại tá cười vang.

- Đóng trò khéo tuyệt vời! - Tôi kêu lên khi nhìn Holmes với lòng khâm phục.

- Có những trò hề hữu ích", Holmes trả lời. "Khi đứng lên, tôi

đã có sẵn một mưu mẹo: làm cho ông già Cung - ninh viết ra 2 chữ

"giờ" và "phút" để có thể so sánh nó với 2 chữ giờ và phút viết trên mẩu giấy.

- Ồ, tôi ngu xuẩn làm sao! - Tôi kêu lên.

- Lúc đó tôi có nhìn thấy rõ lòng trẵc ẩn của anh đối với tôi!" Holmes cười nói. "Tôi lấy làm tiếc đã gây cho anh một nỗi buồn nho nhỏ. Khi lên lầu, tôi vào trong phòng, tháy cái áo ngủ treo ở đằng sau cánh cửa, tôi xô ngã một cái bàn để chuyển hướng sự chú ý của

họ trong chốc lát và vội vã đi khám xét các túi áo. Tôi vừa mới tìm

ra được tờ giấy thì hai cha con nhào lên tôi. Tôi thật sự tin rằng họ chủ tâm giết tôi, nếu các bạn không tới kịp; người con thì siết cổ, còn người ha vặn tay tôi để tôi phải buông tờ giấy ra.

Sau đó, tôi đã nói chuyện tới ông Cung - ninh để làm sáng tỏ cái động cơ gây ra tội ác. Ông cụ tỏ ra biết điều, trong lúc A-léc vẫn

cứ hung hăng như loài quỷ dữ. Cụ Cung - ninh thú nhận rằng Uyn-

li đã bí mật theo dõi hai cha con ông trong cái đêm họ đã ăn trộm nơi nhà cụ ất-tân. Uyn-li đe doạ và đòi tiền họ. Nhưng A-léc không thuộc hạng người dễ khuất phục. Thế là Uyn-li đã già bẫy và bị giết. Nếu cha con nhà Cung - ninh thu hồi được nguyên vẹn lá thư) trong đó họ hẹn giờ gặp nhau), và nếu họ không sơ sớt một vài chi tiết nhỏ, thì chẳng bao giờ họ bị nghi ngờ gì cả.

- Thế còn cái lá thư trứ danh đó đâu? - Tôi hỏi.

Sherlock Holmes đặt nó trước mặt chúng tôi khi ráp hai mảnh giấy lại. Chúng tôi đọc được: Nếu anh tới vào lúc mười một giờ bốn mưới lăm phúc ở cửa sau, anh sẽ biết được một điều làm anh ngạc nhiên nhiều và nó sẽ rất hữu ích cho anh cũng như cho cả An-ni. Nhưng chớ có tiết lộ với bất cứ người nào".

- Anh Watson, có điều là chúng ta chưa biết các mối liên hệ giữa Aléc- Uyn-li và An- ni như thế nào; nhưng rõ ràng kỳ nghỉ ngắn ngày của chúng ta ở nông thôn rất là thành công. Ngày mai,

tôi sẽ trở về nhà, hoàn toàn khoẻ khoắn...

NGƯỜI KHÁCH TRỌ

ĐƯỢC HƯỞNG BỔNG LỘC

Trời đang tiết tháng Mười, một ngày nặng nề, mưa nhiều. Mành cửa được buông xuống nửa vời. Holmes nằm cuộn mình trên ghế tràng kỷ để đọc đi đọc lại lá thư mà anh vừa nhận được. Về phần tôi, thời gian ở bên ấn Độ đã tập cho tôi chịu đựng được nóng hơn là chịu lạnh. Nhưng tờ báo lại chẳng có gì đáng đọc. Mọi người

đã bỏ đi khỏi thủ đô và tôi thèm muốn đi nghỉ mát ở bờ biển, nhưng không đủ tiền.

Holmes quá mải mê, không tiện nói chuyện, tôi bèn liệng tờ báo, ngồi thoải mái trong ghế bành và chìm vào trong một giác mơ. Bất thình lình giọng nói của anh chen vào trong tư tưởng tôi:

Buổi tối đem đến một chút mát mẻ. Ta đi dạo thành phố nhé.

Tôi tán thành ngay. Trong ba tiếng đồng hồ, chúng tôi đi lang thang, chăm chú vào cái kính vạn hoa ngàn đời thay đổi không ngừng của cuộc sống trong đại lộ và khu bờ sông. Cuộc nói chuyện của Holmes luôn luôn gây thích thú.

Chúng tôi trở về đường Baker lúc 10 giờ. Một xe ngựa bốn bánh đậu trước cửa nhà chúng tôi.

- "Hừm! Một y sĩ... tôi nhận thấy thế" Holmes nói. Ông này hành nghề chưa bao lâu, nhưng rất bận rộn. Ông tới hỏi ý kiến chúng ta".

Ánh sáng lung linh đằng sau khuôn cửa sổ chứng tỏ người khách đang chờ đợi chúng tôi. Tôi theo Holmes vào nhà.

Một người xanh xao có bộ mặt dài và để râu má vàng hoe đứng lên khi chúng tôi bước vào. Ông ta chưa quá bước mươi hoặc ba

mươi bốn tuổi, đang nhìn nhớn nhác. Đó là thái độ của một người

rụt rè và dễ kích động: bàn tay trắng mà ông tì lên lò sưởi khi đứng dậy khỏi ghế hẳn thích hợp với một nghệ sĩ hơn là một y sĩ. Ông ta

ăn mặc đàng hoàng với quần áo màu sẫm. Một cái áo rơ-đanh-gốt đen, quần màu sẫm, thắt cà vạt trang nhã.

- "Xin chào bác sĩ!" Holmes vui vẻ nói. Tôi vui mừng được thấy bác sĩ không phải chờ chúng tôi quá lâu".

- Vậy là ông đã nói chuyện với người đánh xe của tôi?

- Không. Ngọn đèn nến trên bàn đã nói. Xin mời ông ngồi xuống và xin cho biết tôi có thể giúp ông điều gì.

- Tôi là bác sĩ Pét-xi ở số 403 đường Brood.

- Có phải ông là tác giả của một cuốn sách chuyên khảo về các thương tổn thần kinh không? - Tôi hỏi.

Niềm vui sướng làm cho cặp má xanh xao của ông ta trở thành

có mầu sắc.

- "Tôi ít khi được nghe nhắc tới cuốn sách đó" ông trả lời. "Nhà xuất bản nói nó bán rất ế. Ông cũng là bác sĩ?"

- Bác sĩ quân y đang nghỉ phép.

- Tôi muốn chuyên về bệnh thần kinh, nhưng chúng ta buộc phải "có gì lấy nấy". Nhưng đó là chuyện ngoài đề. Thưa ông Holmes, muột chuỗi sự việc xảy ra nơi nhà tôi đã khiến tôi tới đây

để xin ông một lời khuyên.

Holmes ngồi xuống và mồi tẩu thuốc.

-Hoan nghênh ông đã đến. Câu chuyện như thế nào?

- Tôi theo học đại học Luân Đôn và các giáo sư đã coi tôi như một đối tượng có nhiều hứa hẹn. Sau khi tốt nghiệp, tôi tiếp tục chuyên tâm vào việc nghiên cứu chứng giản huyết: sau chót, tôi được tặng giải thưởng và một huân chương cho cuốn sách chuyên khảo về những thương tổn thần kinh mà bạn ông vừa nhắc tới hồi nãy.

"Nhưng chướng ngại chính ngăn chặn con đường lập nghiệp

của tôi là sự thiếu vốn. Muốn khởi nghiệp, tôi bắt buộc phải định cư

tại một trong mười hai con đường trong khu sang trọng Cavendish:

tiền thuê nhà rất cao và một số đồ đạc đắt giá, lại còn phải nuôi kẻ

ăn người ở, phải nuôi một con ngựa và một cỗ xe coi được. Điều đó vượt quá khả năng của tôi. Tôi hy vọng sẽ ăn uống dè sẻ trong mười năm, mới có thể gắn được tấm bảng hiệu lên trước cửa nhà mình. Nhưng một buổi sáng, có một người khách tên là Ba - lết đến tìm tôi. Tôi vừa mới mời ông ta ngồi xuống là ông ta liền nói một hơi:

- Ông có phải là cái ông Pet-xi, người vừa được trao giải thưởng không?.......

Tôi nghiêng mình.

- "Hãy thẳng thắn trả lời tôi", người khách nói tiếp. "Rồi ông sẽ không phải hối tiếc. Tài năng của ông sẽ còn đưa ông tiến xa hơn nữa. Ông có khéo xử xự không?"

Tôi không thể mỉm cười trước câu hỏi.

- Tạm được.

- Và không có các thói hư tật xấu đấy chứ? Không có những tính ham .... uống rượu chẳng hạn?

- Nhưng mà, thưa ông ! - Tôi kêu lên.

- Rất tốt! Hoàn toàn tốt! Nhưng tôi buộc phải đặt ra những câu hỏi đó. Ông có tài, có đức, tại sao không lo lập nghiệp.

Tôi nhún vai.

- "Coi nào, coi nào", người khách nói. "Trong đầu ông có nhiều thứ hơn là ở trong bốp. Ông nghĩ sao nếu tôi bố trí cho ông mở phòng mạch ở đường Brook?"

Tôi nhìn người khách với vẻ ngạc nhiên.

- "Ồ, nếu như tôi làm việc đó, thì chính là vì lợi ích của tôi, chứ chẳng phải để làm vừa lòng ông đâu. người khách kêu lên." Tôi sẽ hết sức thành thật với ông. Tôi có vài ngàn bảng và tôi muốn đầu

tư. Phải, tôi muốn đầu tư vào đầu óc ông".

- Như thế nào?

- Cách đầu tư này ăn chắc.

- Nhưng tôi phải làm gì.

- Tôi mướn nhà. Tôi sắm đồ đạc. Tôi trả lương cho kẻ hầu hạ. Nghĩa là tất cả mọi khoản chi tiêu. Ông chỉ ngồi trong cái ghế bành nơi phòng khám bệnh. Ông chia cho tôi ba phần tư tiền thu được, ông hưởng một phần tư còn lại.

Tôi nhận lời, tới ngụ tại đường Brook và bắt đầu hành nghề, làm theo những điều kiện mà ông ta đưa ra. Ông ta tới ở trong nhà

tôi như một người khách trọ được hưởng bổng lộc. Tôi nhận thấy ông ta bị yếu tim và tình trạng sức khoẻ của ông ta cần được chăm sóc thường xuyên. Ông ta sửa đổi hai căn phòng trên lầu thành phòng khách và phòng ngủ để dùng riêng. Đó là một con người kỳ quặc: ông trốn tránh xã hội và ít khi đi ra phố. Tối nào cũng vậy, cứ đúng giờ là ông ta lại vào phòng mạch tôi, xem sổ khám bệnh, rồi chia tiền cho tôi và cất kỹ số còn lại vào cái két sắt đặt trong phòng.

Việc đầu tư của ông ta có kết quả. Một vài thành công trong những ca bệnh khó đã mau chóng đưa tôi lên hàng đầu. Trong hai năm, tôi đã làm cho ông ta trở thành người giàu có.

"Cách đây vài tuần, ông ta tới gặp tôi trong một trạng thái cực

kỳ bồn chồn. Ông nói với tôi về một vụ trộm vừa mới xảy ra trong khu West End. Ông cho tôi hay là trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ nữa, then cửa an toàn sẽ được đặt vào các cửa sổ và cửa ra vào nhà tôi. Sự căng thẳng thần kinh của ông kéo dài khoảng chừng một tuần. Luôn luôn ông đứng rình bên cửa sổ và không ra khỏi nhà để đi dạo chơi như ông vẫn làm đều đặn trước bữa ăn tối. Nhìn thái độ ông, tôi suy luận rằng ông đang có một mối sợ hãi kinh khủng đối với một ai đó hoặc một cái gì đó. Tôi nêu ra với ông vài câu hỏi, nhưng ông tỏ vẻ hờ hững tới mức tôi không muốn tìm hiểu thêm nữa. Thời gian trôi qua, mối lo sợ của ông dường như tan biến dần. Ông đã nối lại những thói quen ngày trước.

" Cách đây hai ngày, tôi nhận được một lá thư không đề ngày tháng và khong ghi địa chỉ người gửi. nội dung như sau: "Một

thành viên thuộc giới quý tộc Nga sẽ rất sung sướng được Bác sĩ

nhận chăm sóc. Từ nhiều năm qua, người này bị chứng giảm huyết. Khi được biết bác sĩ rất giỏi về môn này, bệnh nhân muốn đến khám bệnh vào hciều mai, lúc 6 giờ 45 phút.

"Lá thư đó làm tôi thích thú bởi vì sự khó khăn chính trong việc nghiên cứu về bệnh giản huyết là căn bệnh này ít có bệnh nhân

để thực tập. Vậy là tôi có mặt ở phòng mạch vào giờ hẹn. Thân chủ

tôi là một người đứng tuổi, gày gò, ung dung. Bề ngoài khá tầm thường: chẳng có chút nào giống với cái ý nghĩ mà chúng ta thường

có về một nhà quý phái Nga. Nhưng tôi lại ngạc nhiên nhiều hơn về người cùng đi. Đó là một thanh niên cao lớn, đẹp lạ lùng, với bộ mặt rầu rĩ và dữ tợn, mọt thân hình mạnh khoẻ. Khi hai người vào phòng, người trẻ tuổi đang giang vòng tay đỡ lấy ông già rồi đặt ngồi xuống với một sự âu yếm và dịu dàng.

- "Tôi xin được thứ lỗi, thưa bác sĩ", anh ta nói với tôi bằng tiếng Anh với một giọng nói yếu ớt "Tôi phải cùng đi với cha tôi, vì cha tôi rất yếu".

Sự hiếu thảo đó làm tôi cảm động.

- Phải chẳng ông muốn ở lại bên ông cụ trong lúc tôi chẩn bệnh.

- Ồ, không! Không đời nào", anh ta kêu lên, tay phác ra một cử chỉ hoảng sợ. "Tôi sẽ rất đau buồn khi phải thấy ba tôi trong những cơn cấp phát kinh hoàng đó. Hệ thần kinh của tôi rất nhạy cảm. Tôi xin ngồi ở phòng đợi".

"Người thanh niên bỏ ra ngoài. Tôi nói chuyện với người bệnh

và ghi chú. Ông già không thôngminh, những câu trả lời của ông thường tối nghĩa, tôi cho là ông không đủ từ ngữ tiếng Anh. Tuy nhiên, bất thình lình, trong lúc tôi đang lúi cúi ghi chép, thì ông ngưng không trả lời. Tôi ngửng đầu lên, thấy ông ta ngồi thẳng trong ghế bành mà ngó nhìn tôi, mặt ông tái mét, cứng đơ: con bệnh

lại tái phát. Tôi đếm số mạch đập và đo nhiệt độ của người bệnh, cơ bắp đã cứng. Tôi khôn phát hiện ra điều bất thường đặc biệt nào. Trạng thái của ông phù hợp với điều mà những cuộc quan sát trước

đó đã cho tôi biết. Bệnh này trị bằng cách cho xông chất nitrat

amyl. Tôi tự nhủ rằng mình đang gặp một cơ hội tuyệt vời để chứng

tỏ sự hữu hiệu. Vì chai thuốc đặt ở tầng dưới trong phòng thí nghiệm, tôi để thân chủ ngồi đó, chạy đi lấy. Phải mất năm phút mới tìm ra nó: khi trở lại phòng mạch thì người bệnh đã bỏ đi.

"Tôi chạy ra ngoài. Người con trai cũng đã bỏ đi. Cánh cửa ra vào được khép lại, nhưng không đóng kín. Người đầy tớ, kẻ đưa khách vào, mới vào làm và lại hơi đần độ. Y cứ ở bên dưới và chỉ lên lầu để chỉ đường cho người bệnh hoặc khi tôi gọi chuông. Y chẳng nghe thấy gì và chúng tôi lúng túng trong sự bí mật hoàn toàn. sau

đó một lát, ông Ba - lết trở về sau khi đi dạo. Tôi không nói với ông một lời nào về sự việc xảy ra.

"Tôi đinh ninh mình sẽ chẳng bao giờ gặp lại người Nga nọ cùng cậu con trai! Thế mà chiều nay họ lại tới phòng mạch tôi.

Tôi phải xin lỗi ông nhiều vì đã bỏ đi bất thình lình ngày hôm qua, thưa bác sĩ! - Thân chủ của tôi nói.

- Quả thật việc đó làm tôi hơi ngạc nhiên...

- Khi ra khỏi cơn cấp phát, đầu óc rối rắm, tôi không còn nhớ gì

về điều đã xảy ra trước đó. Tôi thấy mình tỉnh lại trong một căn phòng lạ, thế là tôi bỏ đi và tôi đã đi ngoài phố như đi trong sương

mù.

- "Còn, tôi", người con trai nói thêm, "khi thấy ba tôi đi ra

ngoài, tôi tưởng là cuộc khám bệnh đã xong. Tôi chỉ biết sự thật khi đã về tới nhà".

- "Vậy thì", tôi cười, "chẳng có gì là phiền hà cả. Bây giờ, ông có thể lui ra ngoài phòng khách, tôi tiếp tục chẩn đoán cho thân phụ ông".

Trong vòng nửa tiếng đồng hồ, tôi khám xong, kê toa. Sau đó ông ra về, vịn tay vào người con trai.

"Một lát sau, Ba-lết về nhà và leo lên phòng. Liền ngay sau đó,

tôi nghe tiếng chân ông lao xuống cầu thang và ùa vào trong phòng mạch tôi như một viên đại bác.

- Ai đã vào phòng tôi? - Ông ta hét lên.

- Không ai cả.

- Ông nói dối! Hãy lên mà xem!

"Tôi bỏ qua lời lẽ lỗ mãng của ông ta. Khi lên tới nơi, ông chỉ cho tôi thấy nhiều vết chân trên tấm thảm màu nhạt.

lên.

- Đây đâu có phải là các dấu chân của tôi - Ông ta kêu toáng

"Quả thật đó là những dấu chân mới có. Nó lớn hơn dấu chân

của ông ta. Buổi chiều đó trời mưa nhiều, khách đến nhà tôi đều là bệnh nhân. Vậy là, trong lúc tôi đang khám bệnh cho người cha, thì anh thanh niên đã rời phòng đợi và đã leo lên phòng của ông Ba-lết. Không có nơi nào bị đụng tới hoặc bị lấy đi, nhưng rõ ràng căn phòng đã bị xâm nhập.

"Balết bị kích động cực kỳ mạnh mẽ. Ông ngồi sụp xuống ghế bành và khóc. Phải rất lâu tôi mới làm ông tỉnh lại đôi phần. Ông

ta khuyên tôi đến đây để gặp ông, thưa ông Holmes. Nếu ông vui lòng đi cùng với tôi, có thể ông sẽ trấn an được ông ấy".

Holmes, đã nghe câu chuyện kể dài dòng ấy với một sự chú tâm mãnh liệt. Khi người khách chấm dứt, Holmes không nói một lời, đưa cái mũ cho tôi rồi anh đi theo thân chủ.

Mười lăm phút sau, chúng tôi dừng lại trước ngôi nhà của bác

sĩ. Một người đầy tớ mở cửa và chúng tôi leo ngay lên cái cầu thang rộng có trải thảm.

Ngọn đèn trên thềm cầu thang đột ngột bị gió thổi tắt. Từ trong bóng tối, một giọng nhỏ, run rẩy vọng tới chúng tôi.

- Ông Ba-lết, ông quá đáng rồi đấy. - Bác sĩ Pét-xi kêu lên.

- Ồ, thế ra là ông đấy à, bác sĩ?" Giọng nói thốt ra có kèm theo một tiếng thở dài nhẹ nhõm." Nhưng còn những người kia, ông có bảo đảm cho họ không?".

Ba-lết quan sát tỉ mỉ chúng tôi.

- "Tốt. Được rồi. Sau cùng ông ta nói, "Các ông có thể lên. Tôi

xin lỗi nếu sự đề phòng đã làm quý ông khó chịu".

Ông ta đốt ga lên và chúng tôi thấy trước mặt mình là một người kỳ lạ. Ông ta rất mập, nước da bệnh hoạn. Mỗi tay cầm một khẩu súng lục; ông nhét súng vào túi khi chúng tôi tiến lên.

- Xin chào ông Holmes. Tôi thật rất mang ơn ông đã cất công đến đây. Bác sĩ đã cho ông biết về vụ xâm nhập tồi tệ vào nhà tôi?

- Có, hai người đó là ai vậy, tại sao họ lại định hại ông?

- Thế thì, đó là ... Thật là khó nói. Tôi chẳng biết trả lời ông ra làm sao, thưa ông Holmes.

- Nói cách khác, ông không biết họ là ai?

- Xin mời vào. Xin vui lòng đi ngang qua đây.

Ông dẫn chúng tôi vào trong phòng ông. Đó là một căn phòng đẹp, đồ đạc bày biện một cách thích đáng.

- "Quý ông thấy cái này chứ?". Ông nói khi chỉ vào một cái hộp đen lớn để ở dưới chân giường." Tôi chưa bao giờ giàu có. Trọn đời,

tôi chỉ đầu tư vào mỗimột việc như bác sĩ Pét-xi sẽ nói cho quý ông

rõ. Tôi chẳng bao giờ tin một chủ ngân hàng nào cả, thưa ông Holmes. Chút ít vốn mọn mà tôi có được để cất giấu trong cái rương này, vậy là ông hiểu điều tôi cảm nhận khi có những kẻ vô danh lẻn vào nhà tôi.

Holmes nhìn kỹ Ba-lết với con mắt dò hỏi và lắc đầu.

- Tôi không thể giúp gì cho ông nếu ông tìm cách nói dối tôi. - Anh nói.

- Tôi đã nói tất cả rồi.

Holmes xoay gót với một cử chỉ chán ghét:

- Xin chút anh một đêm an lành, bác sĩ Pét-xi.

- Ông bỏ đi mà chẳng nói với tôi điều gì ư? - Ba-lết kêu lên với một giọng kiệt quệ.

- Thưa ông, tôi chỉ có một lời khuyên: đó là hãy nói sự thật.

Một phút sau, chúng tôi đã ra tới ngoài phố và chúng tôi lại trên đường về nhà.

- Anh Watson, tôi rất tiếc đã làm anh phải ra khỏi nhà vì một cuộc dạo chơi của những người điên. Thực ra, đây là một chuyện lý thú đấy. Holmes nói.

- Tôi chẳng hiểu gì hết!

- Có hai người ... Có thể hơn hai người ... oán thù gã này, cái chàng trai nọ đã hai lần lẻn vào phòng của Ba-lết trong lúc người đồng loã kiềm giữ bác sĩ trong phòng mạch.

- Thế còn bệnh giản huyết?

- Một chứng-bệnh-giả và đó là một chứng rất dễ bắt chước. Tôi

đã từng bắt chước chứng đó. Tôi, người đang nói với anh đây này.

- Thế rồi sao?

- Bọn chúng mà đến khám bệnh muộn như thế là vì lúc đó trong phòng đợi không còn khách. Tuy nhiên, giờ đó lại trùng hợp với một thói gàn của Ba-lết. Vậy là bọn chúng biết rõ thói quen hàng ngày của ông ta. Nếu chúng chỉ muốn "xoáy" một món nhỏ thôi thì hẳn chúng đã để lại dấu vết của chuyến ăn hàng. Vả chăng,

tôi có khả năng đọc được trong mắt một người để biết là người đó lo

sợ cho mạng sống của mình. Ông ấy có hai kẻ ham trả thù đến thế mà lại khong biết họ là ai ư? Không. Ông ta phải biết họ. Nhưng ông ta đã nói dối. Có thể là ngày mai chúng ta sẽ gặp lại ông ta trong một trạng thái cởi mở hơn!

Liệu có giả thiết nào khác không? Liệu có thể nào câu chuyên người Nga bị bệnh với con trai ông ta chỉ là sản phẩm tưởng tượng của bác sĩ Pét-xi không?

Dưới ánh sáng một ngọn đèn đường thắp bằng khí đốt, tôi thấy

Holmes cười với vẻ thích thú.

- Chàng trai đã để lại những vết chân rất rõ ràng: giày cả anh

ta có mũi vuông chứ không nhọn như giày của Ba-lết và giày đó lớn

hơn giày của ông bác sĩ tới 5 cm. Vậy dấu chân trên các tấm thảm

là không hề bị lầm lẫn. Nhưng tốt hơn chúng ta nên đi ngủ, bởi vì sáng sớm mai sẽ có tin mới.

Sáng hôm sau, vào hồi bảy giờ rưỡi, trong ánh sáng lời mờ đầu tiên của buổi sớm mai, tôi đã thấy Holmes mặc áo ngủ đứng ngay đầu giường tôi. Anh nói:

- Watson! Một cỗ xe đang đợi chúng ta.

- Để làm gì?

- Về vụ ở đường Brook.

- Anh nhận được tin mới?

- Nghiêm trọng, nhưng chưa rõ ràng.

Anh tới kéo tấm mành sáo lên, đoạn quay lại bên tôi

- Anh hãy xem cái này. Đây là một miếng giấy nhỏ bứt ra từ mọt cuốn sổ tay, với những từ đơn giản này:'vì lòng kính Chúa, xin hãy tới ngay tức khắc. P". viết nguệch ngoạc bằng bút chì. Ông bạn bác sĩ đã không có đủ thì giờ! Đi thôi, đây là một lời kêu gọi khẩn cấp.

Mười lăm phút sau, chúng tôi trở lại nhà bác sĩ Pét-xi. Ông chạy ra đón chúng tôi. Vẻ mặt kinh hoàng.

- Ồ, một vụ như thế này! - ôngkêu lên khi giờ hai bàn tay ôm lấy trán.

- Chuyện gì vậy?

- Ba-lết đã tự tử. Holmes huýt sáo.

- Phải, ông ấy đã treo cổ trong đêm. - Bác sĩ Pét-xi nói. Ông bác sĩ dẫn chúng tôi vào căn phòng đợi.

- "Tôi không còn biết làm gì hơn", ông nói với chúng tôi . "Cảnh sát đang ở trên lầu. Tôi bị kiệt quệ đến lúc chết được".

- Ông phát hiện chuyện đó vào lúc nào?

- Mỗi buổi sáng người hầu đem lên phòng ông ấy một tách trà. Vào khoảng bảy giờ, cô vào trong phòng, thấy ông ấy đang tòn teng ngay giữa phòng.

Holmes ngồi yên lặng một hồi lâu, đắm chìm trong suy tư, lo lắng.

- Nếu được ông cho phép, tôi sẽ lên trên đó để coi sự việc.

chúng tôi vào trong phòng, quang cảnh thật chẳng lấy gì làm đẹp! Treo lơ lửng và đu đưa trên cái móc, người chết chẳng còn chút

gì là dáng người. Cổ ông ta giãn ra như một con gà giò bị nhổ lông, làm tăng thêm sự phì nộn trong phần còn lại của cơ thể. Trên người ông ta chỉ có một cái áo ngủ dài. Cạnh xác ông có một viên thanh tra đang đứng viết trên một cuốn sổ tay.

- "A, ông Holmes!" Ông thanh tra nói khi thấy bạn tôi. "Tôi vui mừng được gặp ông".

- Chào anh, Lê-nơ". Holmes đáp. "Tôi không quấy rầy đấy chứ? Anh có biết những tình huống trước khi vụ này xảy ra không?"

- Có

- Quan điểm của anh như thế nào?

- Theo tôi. Ba-lết đã tự tử trong một cơn sợ hãi. Ông ta đã ngủ say trên giường, ông nhìn đây này: dấu vết của thân thể lún khá sâu. Ông ta đã treo cổ vào lúc năm giờ sáng. Dường như đây là một hành động hoàn toàn cố ý.

- Cứ xét theo sự cứng đờ của các cơ thì cái chết đã xảy ra lúc ba giờ. - Tôi nói.

- Không có gì đặc biệt ở trong phòng sao? - Holmes hỏi.

- Trên cái bàn nhỏ ở chậu rửa, có một cái vặn đanh ốc và vài con đanh ốc. Ông ta hẳn cũng đã hút nhiều trong đem. Đây là bốn mẩu xì gà mà tôi vừa lấy trong lò sưởi ra.

- Hừm! Anh đã coi cái hộp đựng xì gã của ông ấy chưa? Holmes

hỏi.

- Không. Không thấy nó đâu cả.

- Thế thì ống đựng xì - gà đâu?

- Nó ở trong túi áo vét của ông ta.

Holmes mở ống ra và ngửi hơi của điếu xì gà duy nhất.

- Điếu này là xì gà Havane đây! Những điếu kia là xì - gà do người Hà Lan nhận từ những thuộc địa của họ bên Đông ấn.

Anh cầm lấy bốn mẩu thuốc và quan sát chúng qua kính lúp.

- Hai điếu này được hút qua mọt cái đót, hai điếu kia thì được hút trực tiếp bằng miệng. Hai điếu được cắt đầu bằng một con dao nhíp rất bén, hai điếu kia thì được cắn đầu bằng một hàm răng rất tốt. Đây không phải là một vụ tự sát. Đây là một vụ ám sát được dự mưu từ lâu và được thực hiện một cách khéo léo.

- Không thể được! - Viên thanh tra kêu lên.

- Tại sao lại không thể được?

- Tại sao lại ám sát một người bằng cách treo cổ?

- Đó điều chúng ta cần phải chứng minh.

- Người ta lọt vào nhà bằng cách nào?

- Qua lối cửa ra vào.

- Buổi sáng, những then chặn đã được cài.

- Chúng đã được cài lại sau khi họ đã bỏ đi..

- Làm thế nào ôngbiết được?

- Tôi đã thấy những dấu vết của họ. Xint hứ lỗi cho tôi trong chốc lát: tôi sắp cung cấp cho ong những thông tin chính xác hơn.

Anh đi ra phía cửa, xoay xoay ổ khoá và quan sát nó. Đoạn anh rút cái chìa khoá cắm ở phía trong ra và chăm chú nhìn nó. Sau đó anh quan sát liên tục tấm thảm, những cái ghế, lò sưởi, xác chết và cuộn dây thừng. Anh tỏ ra hài lòng, yêu cầu viên thanh tra và tôi,

cởi dây đưa người bất hạnh xuống, đặt lên một tấm vải trải giừng.

- Sợi dây này ở đâu ra? - Holmes hỏi.

- "Nó đã được cắt ra trong cuộn dây này", bác sĩ Pét-xi trả lời khi kéo từ dưới gầm giường ra một cuộn dây thừng. "Ông ta lo sợ hoả hạn một cách không lành mạnh và ông luôn giữ cuộn dây này gần mình, ngõ hầu gặp trường hợp cầu thang nhà đã bị cháy thì ông có thể trốn thoát qua ngả cửa sổ".

- "Đây là điều giúp cho bọn chúng bớt vất vả" Holmes thì thào trong lúc suy nghĩ thật lung." Phải, sự việc rất đơn giản. Tới buổi chiều tôi sẽ giải thích tận tường nội vụ với các ông. Tôi xin mang

theo tấm ảnh của Ba-lết đang đặt trên mặt lò sưởi đây".

lên.

- Nhưng ông chưa cho chúng tôi biết gì hết. - Bác sĩ Pét-xi kêu

- Bọn chúng có ba người: chàng thanh niên, ông già và một

người thứ ba mà tôi chưa tìm ra. Hai người đầu, chính là những người dã giả trang thành những nhà quý tộc Nga. Chúng được một

kẻ đồng loã đưa vào nhà. Nếu ông muốn có một lời khuyên, thưa ông thanh tra, thì ông hãy bắt giữ người đầy tớ trẻ tuổi, mới vào gíup việc.

- "Không thấy thằng quỷ đó đâu cả". Bác sĩ trả lời. "Cô hầu phòng và bà bếp đã kiếm nó cả buổi sáng nay".

Holmes nhún vai...

- Y không giữ một vai trò quan trọng lắm trong tấn thảm kịch àny. Thây kệ! Ba người đã leo lên cầu thang, nhón trên đầu ngón chân, người giã dẫn đầu, người rai trẻ đi sau và một người vô danh

đi cuối đoàn...

- Holmes ơi! - Tôi reo lên.

- Ồ, một chút nghi ngờ nhro nhặt cũng bị cấm đoán dây, chỉ việc nhìn các dấu chân chồng lên nhau cũng thấy rõ. Vậy là bọn họ leo lên tới phòng ông Ba-lết. Cửa đã khoá. Dùng cọng dây kẽm, chúng đã mở ra. Chẳng cần dùng kính lúp, ta cũng nhận thấy, qua những vết xước, trên cái khe răng ổ khoá này là nơi sức ép đã được

nhấn xuống. Khi đã vào phòng, đầu tiên chúng nhét giẻ vào miệng

Ba-lết. Có thể là ông đang ngủ. Có thể là ông bị đờ người vì khiếp

sợ. Có điều là ông đã không kêu lên được tiếng nào. Mặt khác, những bức tường này lại rất dày, có thể ông đã kêu cứu, nhưng chẳng ai nghe.

"Sau khi đã kiềm chế ông xong. Chúng bình tĩnh ngồi thảo luận. Rất có thể là dưới hình thức một phiên toà. Cuộc thảo luận ắt hẳn đã kéo dài trong một thời gian, bởi vì những điếu xì gà đã được hút trong khoảng thời gian đó. người lớn tuổi hơn ngồi trên cái ghế dựa đan lát này. người trẻ hơn, chô xkia: anh ta đã vẩy tàn thuốc vào cái tủ com-mốt. Về phần người thứ ba, y đi đi lai lại. Có lẽ Ba-

lết vẫn ngồi ở trên giường, nhưng về điểm này tôi không chắc lắm.

Để kết thúc, chúng tóm lấy và treo cổ ông lên. Vụ này đã đựơc suy tính kỹ vì chúng đã mang theo một thứ như cái ròng rọc có thể được dùng làm giá treo cổ. Cái vặn con ốc cùng những con óc này dự liệu dùng gắn cái giá đó. Nhưng khi chúng trông thấy cái móc của bộ đen treo, chúng mừng lắm. Khi công việc đã làm xong, chúng bỏ đi

và thanh chặn cửa được một đứa gài trở lại sau lưng chúng.

"Tất cả chúng tôi đã lắng nghe với mọt sự chú tâm say sửa bản tóm tắt những việc xảy ra trong đem. những suy diễn của Holmes khởi đi từ những tiền đề quá tinh tế và quá chi tiết khiến cho ngay

cả khi anh đã chỉ cho chúng tôi thấy, chúng tôi vẫn còn gặp khó khăn khi theo cái dòng suy luận của anh. Viên thanh tra gấp gáp

bỏ ra ngoài để thúc đẩy sự truy lùng người đầy tớ trẻ. Holmes và tôi trở về phố Baker để ăn điểm tâm.

Xong bữa, anh nói:

- Tôi sẽ trở về đây vào lúc ba giờ. Viên thanh tra và ông bác sĩ

sẽ có mặt nơi đây vào giờ đó. Tôi hy vọng có thể trình bày rành mạch với họ về vấn đề dã hoàn toàn đựơc làm sáng tỏ.

Các vị khách của chúng tôi có mặt vào giờ đã hẹn, thế nhưng anh bạn tôi lại chỉ trở về vào lúc ba giờ bốn mươi lăm. Nhìn anh, tôi biết ngay là mọi việc đều mỹ mãn.

- Có gì mới lạ không ông thanh tra?

- Chúng tôi đã bắt được người đầy tớ.

- Tuyệt vời! Còn tôi, tôi đã bắt được ba người kia.

- Tôi chỉ bắt được danh tánh của chúng mà thôi. Cái người được gọi là Ba-lết, là kẻ rất quen biết với cảnh sát, còn những người tấn công y cũng vậy. Đó là Biddle, Hayward và Moffat.

- Cái băng đã đánh cướp tại ngân hàng Worthingdon đó hả? - Viên thanh tra kêu lên.

- Đúng thế.

- Như vậy, Ba-lết chính là Sutton.

- Đúng thế.

- Vậy thì tất cả đều đã rõ ràng! - Viên thanh tra kết luận.

- Pét-xi và tôi, chúng tôi nhìn lẫn nhau: chúng tôi cahửng hay biết gì về chuyện đó hết.

- Trong vụ nỏi cộm về ngân hàng Worthingdon có năm người tham dự: bốn tên vừa kể và người thứ năm, tên là Cartwright. Người bảo vệ tên là Tobin thì bị hạ sát; bọn trộm bỏ trốn với bảy ngàn bảng. Chuyện xảy ra vào năm 1875. Tất cả năm tên đều bị bắt giữ, nhưng chứng cớ lại thiếu. Tên Sutton đã bán đứng bạn bè, Cartwight bị xử giảo, còn ba người kia bị phạt tù mười lăm năm. Vài năm trước khi mãn hạn tù, chúng bắt đầu tìm kiếm tên phản bội. Khi vừa đượ cphóng thích, chúng tìm cách trả thù: hai lần chúng tìm cách đến gần sát hắn, nhưng hai lần đều bị thất bại. Đến lần thứ ba này mới thành công. Ông có thấy cần hỏi thêm tôi một

lời giải thích nào khác nữa không, bác sĩ Pét-xi.

- "Ông đã làm sáng tỏ nội vụ một cách đáng khâm phục". Ông bác sĩ trả lời. "Chẳng còn chút nghi ngờ gì, cái ngày mà Ba-lết bị rối loạn quá mức là ngày hắn vừa đọc báo, thấy tin mấy người bạn cũ vừa được phóng thích.

- Đúng vậy. Chuyện vụ trộm là điều bịa đặt.

- Tại sao hắn không muốn thổ lộ với ông?

- Bởi vì, hắn biết rõ về tính hay trả thù của những người bạn

cũ. Hắn cố che giấu căn cước đích thực của hắn càng lâu càng tốt.

Đó là những sự kiện liên quan tới người khách trọ đựơc hưởng bổng lộc và ông bác sĩ ở đường Brook. Cảnh sát chẳng tóm được tên nào.

Người ta tin tưởng rằng bọn chúng đã đáp tàu Norah Creina,

và con tàu này đã chìm cách đây vài năm ở ngoài khơi Portugal. Thiếu chứng cớ, gã đầy tớ được tha, và sự "Bí mật ở đường Brook" hoàn toàn ở lại trong trí nhớ của những người đọc báo

NGƯỜI THÔNG NGÔN HY LẠP

Chưa bao giờ tôi thấy Holmes nhắc tới gia đình và quãng đời thơ ấu của anh. Tôi thì tôi coi anh như một người kỳ dị cá biệt. Lòng ghét cay ghét đắng đàn bà, sự ghê sợ có thêm những người bạn mới, sự khăng khăng không nhắc đến những người bạn thân là đặc tính của anh. Tôi đã tin rằng anh là trẻ mồ côi và là kẻ "vô gia đình", nhưng ngày nọ tôi ngạc nhiên khi nghe anh nói về người anh của anh.

Một buổi chiều hè, sau lúc uống trà, câu chuyện có vẻ rời rạc.

Từ những CLB chơi banh, chúng tôi chuyển tới tranh luận về sự lai giống cùng những khả năng di truyền. Cái khả năng quan sát và suy diễn mà anh có được là do anh được giáo dục có hệ thống.

Tổ tiên tôi là những người điền chủ nhỏ ở nông thôn, những người đã sống một cuộc sống phù hợp với giai cấp xã hội của họ. Tuy nhiên tôi lại chọn một lối sống hoàn toàn khác hẳn, có thể là do

bà nội tôi là em gái Vernet, một hoạ sĩ người Pháp. Nghệ thuật trong dòng huyết thống có thể nảy nở thành những phong cách rất khác nhau.

- Nhưng làm thế nào mà anh biết được những đức tính đó là di truyền?

- Bởi vì anh Mycroft của tôi thừa hưởng những đức tính đó ở một mức độ cao hơn tôi nhiều.

- Nếu ở đây có một người nào đó có nhiều thiên tư hơn anh, thì

tại sao người ta chưa biết đến anh ấy. Phải chăng anh khiêm tốn mà nói như vậy?

Holmes cười với tất cả chân tâm.

- Anh bạn thân mến! Đó là sự thật.

- Thế sao anh ấy lại không nổi danh.

- Anh ấy rất nổi tiếng tại CLB.

- CLB nào?

- CLB Diogène.

Tôi hoàn toàn không biết gì về hội quán đó. Holmes rút đồng hồ trong túi ra:

- CLB Diogène là hội quán kỳ lạ nhất ở Luân Đôn, và Mycroft luôn luôn đến đó trong khoảng từ 4 giờ 45 phút đến 7 giờ 40. Bây giờ là 6 giờ, ta đến đó chơi.

Năm phút sau, chúng tôi đã ra ngoài đường. Holmes nói:

- Anh ngạc nhiên khi thấy Mycroft có khả năng suy diễn giỏi hơn tôi nhưng không trở thành thám tử chứ gì? Tôi xin trả lời thắc mắc đó: Mycroft không thể làm thám tử được,..

- Nhưng anh đã nói là...

- ... anh ấy quan sát và suy diễn giỏi hơn tôi. Nếu nghệ thuật của nhà thám tử chỉ gồm có mỗi một việc ngồi nhà mà suy luận thì anh tôi sẽ là một cảnh sát giỏi nhất trên đời.

Nhưng tiếc thay, anh ấy lại thiếu tham vọng và nghị lực. Anh chẳng buồn bỏ công kiểm tra những điều đã khám phá được. Tôi đã thẩm vấn anh một vài vụ và anh đã giúp tôi thành công.

- Như vậy, đó không phải là nghề của anh ấy hay sao?

- Không, đó chỉ là một thú tiêu khiển của anh ấy mà thôi. Nhờ

có năng khiếu khác thường về những con số, anh được người ta mời vào việc kiểm tra tài khoản trong các bộ. Anh làm việc đều đặn như một cái đồng hồ: sáng đi tới CLB, chiều trở về nhà... Suốt năm, anh không làm bất cứ một việc nào khác và chẳng cần xuất hiện ở bất

cứ nơi nào, ngoại trừ CLB Diogène, nằm ngay trước nhà của anh.

- CLB đó rất xa lạ với tôi.

- Đương nhiên. Ở Luân Đôn có nhiều người không thích giao du với ai cả. CLB Diogène được lập ra để giành riêng cho những người ấy. Không một thành viên nào của CLB Diogène chịu quan tâm tới bất kỳ một bạn đồng sự nào. Ngoại trừ trong phòng khách dành cho người lạ, còn thì không một ai được nói chuyện, dù với bất cứ lý do nào; vi phạm tới lần thứ ba, kẻ ba hoa đó có thể bị trục xuất. Anh

tôi là một trong những người sáng lập ra CLB đó.

Vừa đi vừa nói, lát sau chúng tôi đã tới Pall Mall. Holmes dặn

tôi giữ yên lặng, rồi đi trước, dẫn tôi vào trong tiền sảnh. Qua một tấm vách bằng kính, tôi thấy một phòng rộng mênh mông và bày biện đồ đạc sang trọng, bên trong có nhiều người, mỗi người ngồi ở một góc, đọc nhật báo, hoặc tạp chí. Holmes đưa tôi tới một phòng khách nhỏ hơn, để tôi ở đó một phút, rồi trở lại cùng với một người;

có thể đó là anh của Holmes.

Mycroft lớn hơn và mạnh khoẻ hơn Holmes nhiều, cặp mắt xám lợt, tia nhìn sắc sảo, sâu thẳm, tràn ngập một sự linh hoạt.

- "Tôi sun sướng được gặp ông, thưa ông", Mycroft nói với tôi trong lúc chìa ra một bàn tay rộng." Tôi nghe thiên hạ nhắc tới Sherlock ở khắp nơi kể từ khi ông viết về chú ấy trên báo". Quay sang phía Holmes, anh nói tiếp" à, tuần qua, anh có ý mong gặp chú về cái vụ Manor House. Chú bị khó khăn, phải thế không?"

- Không. Em đã giải quyết xong vụ đó rồi. _ Holmes cười, trả

lời.

- Đúng là Adams.

- Phải, chính hắn.

- Anh đã tin chắc ngay từ đầu mà.

Hai anh em ngồi bên nhau trong chỗ khuôn cửa sổ nhô ra.

Mycroft nói tiếp:

- Đây là một nơi lý tưởng cho kẻ nào muốn tìm hiểu nhân loại. Hãy nhìn những cái mẫu tuyệt đẹp kia mà coi! Hãy nhìn hai gã đang đi về hướng chúng ta.

- Người ghi điểm bida và người kia?

- Phải. Chú nghĩ sao về người kia?

Hai người kia dừng lại ngay trước khuôn cửa sổ, một trong hai người có vài vết phấn viết bảng trên túi áo gi-lê. Người kia rất nhỏ con, tóc nâu, đội cái nón hất về đằng sau và dưới cánh tay có cắp nhiều gói đồ.

- Một cựu quân nhân.

- Và mới vừa được giải ngũ - Mycroft nhận xét.

- Anh ta đã phục vụ bên ấn Độ.

- Như một hạ sĩ quan.

- Trong pháo binh.

- Và goá vợ.

- Nhưng có một đứa con, chú nó. Nhiều đứa con.

- Coi nào. Điều đó hơi quá đáng chăng. - Tôi cười, nói xen vào.

- Một người có cái tư thế đó, cái dáng và quyền thế đó và cái da

bị mặt trời nung đó, thì anh ta phải là "một quân nhân" có "cấp bậc hạ sĩ quan" và đã 'từ ấn Độ trở về". - Holmes nói một hơi.

- Ông ta vừa mới được giải ngũ bởi vì hiện giờ ông ta vẫn còn

"mang giày nhà binh". -Mycroft giải thích.

- Ông ta không có một lối đi của kỵ binh, ấy thế mà ông ta lại đội mũ lệch sang một bên, bởi vì một bên vầng trán có màu sậm hơn bên kia; thân hình ông ta không phải là của một công binh. Vậy thì ông là "lính pháo binh" - Holmes nói tiếp.

- Ông ta đang có tang lớn: chúng ta có thể suy diễn ra là ông ta mất một ai đó rất gần gũi. Việc phải đi mua sắm chứng tỏ là "vợ ông đã chết". Ông ta đi mua nhiều món linh tinh cho các con. Có một cái lúc lắc cho con nít chơi, vậy là một trong những đứa con ông

ta còn rất nhỏ. Vợ ông ta hẳn đã từ trần từ khi sinh con. Việc ông ta kẹp dưới cánh tay một cuốn truyện tranh cho thấy là "ông ta còn có một đứa con khác".

Tôi bắt đầu tin rằng Mycroft quả thật có nhiều thiên tư sắc bén

hơn Holmes. Holmes liếc mắt nhìn tôi và mỉm cười. Mycroft nói:

- Này chú, người ta vừa đưa tới anh một vấn đề rất hợp với chú. Anh không có can đảm nghiên cứu nó tận tường, nhưng nếu chú muốn nghe.

- Em rất vui sướng!

Mycroft viết vài dòng chữ trên một tờ giấy, goi chuông, rồi đưa

lá thư cho một người hầu.

- Tôi mời ông Mê-lát lại đây. Ông ấy ở tầng lầu bên trên lầu tôi,

tôi chỉ biết sơ thôi. Đó là một nhà ngữ học người Hy Lạp, làm thông ngôn trong các toà án và làm hướng dẫn cho những tay nhà giàu Đông Phương.

Một lát sau, một người thấp và béo lùn đến, ông ta có nước da màu ôliu và mái tóc đen. Ông nồng nhiệt siết tay Holmes.

- "Cảnh sát chẳng bao giờ tin những lời khai của tôi", ông nói bằng một giọng giễu cợt."Họ cho rằng tôi phịa ra câu chuyện đó".

- Tôi vểnh tai lên mà nghe ông đây! Holmes nói.

- "Chuyện xảy ra vào ngày hôm kia. Tôi biết rất nhiều thứ tiếng. Nhưng vì tôi là người Hy Lạp nên được yêu cầu dịch tiếng Hy Lạp nhiều hơn cả. Tôi thường bị gọi vào những lúc "ngoài giờ" vì du khách tới muộn. Buổi tối ngày thứ hai, ông Ha-rôn tới giật chuông nhà tôi và yêu cầu tôi đi theo ông trong một cỗ xe ngựa thuê đang đợi trước cửa.

- "Một người Hy Lạp đã tới gặp tôi để bàn công việc làm ăn", ông ta bảo tôi, " người ấy chỉ nói được tiếng mẹ đẻ. Ông ta ngụ trong vùng Kensington".

" Trong chiếc xe ngựa sang trọng, ông Ha-rôn ngồi trước mặt tôi. Xe đi ngang qua bùng binh Charing và đại lộ Shaftessbury, khi

tới đường oxford, tôi đánh liều đưa ra ý kiến nên cho xe đi theo con đường ngắn nhất để tới Kensington, nhưng tôi ngưng bặt trước thái

độ bất thường của người khách.

"Ông ta rút ra khỏi túi một cây dùi cui rất lớn và khua nó

nhiều lần, tựa hồ như ông ta muốn thử sức nặng của nó. Rồi ông ta đặt nó xuống bên cạnh. Sau đó ông ta kéo kính ở hai bên xe lên: các kính đó được dán giấy kín đến mức tôi chẳng còn trông thấy gì còn

ở bên ngoài.

- "Rất tiếc phải che mắt ông bạn lại, thưa ông Mê-lát!" ông ta nói." Chúng tôi không muốn cho ông biết nơi ông sẽ tới, để ông khỏi

bị rắc rối về sau".

"Tôi hoàn toàn choáng váng. Ha-rôn còn trẻ, cường tráng với những bờ vai rộng. Ngay cả khi anh ta không có vũ khí đi nữa, tôi cũng không thể nào địch nổi anh ta.

- Đây là một cách cư xử rất khác thường. - Tôi ấp úng nói.

- "Tôi đã suồng sã đối với ông". Anh ta trả lời tôi. "Nhưng tôi sẽ đền bù cho ông. Tuy nhiên, tôi phải báo trước, nếu ông tìm cách báo động hoặc làm bất cứ điều gì chống lại tôi thì ông sẽ hối hận đấy"!

"Anh ta nói bằng một giọng trầm tĩnh, nhưng rất ư đe doạ. Tôi lặng thinh, không ngừng tự hỏi vì sao hắn bắt cóc tôi. Nhưng rõ ràng mọi sự kháng cự đều vô ích.

"Xe chạy gần hai tiếng đồng hồ và tôi không hề biết hướng xe

đi. Thỉnh thoảng tiếng ầm ầm của bánh xe lăn cho tôi biết xe chạy trên mặt đường lát: nhiều lúc xe chạy êm ru, gợi ra mặt đường trải nhựa. ánh sáng không lọt được qua cửa kính bị dán giấy và một tấm ri-đô màu xanh đã được kéo phủ tấm kính ở đằng trước. Chúng

tôi rời Pall Mall vào hồi 7 giờ kém 15 và dừng lại vào lúc 9 giờ kém

10. Chàng trai hạ kính xe và tôi nhận ra một vòm cổng trên có một ngọn đèn lồng thắp sáng. Khi tôi xuống xe thì cổng đã mở ra.

"Trong nhà có một có một cây đèn mà ngọn lửa quá nhỏ đến mức tôi chỉ vừa đủ phân biệt được một gian tiền sảnh thật lớn, có trang hoàng nhiều hoạ phẩm. Tôi cũng quan sát thấy người ra mở cửa là một người đàn ông trạc năm mươi tuổi, nhỏ bé gầy gò, đôi vai còng, mắt kiếng. Ông ta hỏi.

- Có phải ông Mê-lát đấy không, Ha-rôn?

- Phải.

- Xin ông đừng giận chúng tôi, chúng tôi rất cần đến ông. Nếu ông xử sự đàng hoàng thì ông sẽ không có gì phải hối tiếc cả.

"Ông ta nói một cách đứt khúc, với nhiều tiếng cười nhỏ cắt ngang mỗi câu nói. Tôi thú nhận là tôi sợ ông ta hơn là sợ người thanh niên.

- Ông muốn gì nơi tôi?

- Chúng tôi nhờ ông phiên dịch. Dịch chính xác và không được thêm bớt tí gì cả.

"Ông ta lại phát ra tiếng cười nho nhỏ, rồi mở một cánh cửa ra

và đưa tôi vào một căn phòng thật rộng rãi, tấm thảm rất dày, ghế bành bọc nhung, một cái lò sưởi cao màu trắng. Dưới ngọn đèn có một cái ghế dựa: người lớn tuổi mời tôi ngồi xuống đó. Người trẻ tuổi đã ra khỏi phòng, nhưng rồi anh ta quay lại qua một ngả cửa khác, dẫn theo một nhân vật mặc một loại áo ngủ rộng và bước đi chậm chạp. Khi người đó tới trong vùng ánh sáng, tôi thấy ông ta cực kỳ tái mét, gương mặt hốc hác, đôi mắt lồi ra, mặt ông ta quấn chằng chịt nhiều lớp vải mỏng có phết hồ dán: ngay cả cái miệng cũng bị che kín bằng một dải rộng làm cho miệng ông bị nghẽn kín hoàn toàn. - "Cậu có cái bảng nhỏ đó không, Ha-rôn?' người lớn tuổi kêu lên trong lúc người bị quấn vải buông rơi mình xuống một cái ghế dựa. "Đã cởi trói cho ông ấy chưa? Tốt. Đưa cho ông ấy cây viết chì. Chúng tôi sẽ đặt ra những câu hỏi, thưa ông Mê-lát, và ông ấy

sẽ viết ra các câu trả lời. Trước hết, xin ông hỏi xem ông ấy có sẵn sàng ký giấy không".

- Đôi mắt người lạ phóng ra những tia lửa. Không bao giờ ông

ta chịu viết trên bảng đen.

- Không ký với bất cứ điều kiện nào hay sao? - Tôi dịch, sau khi bọn kia nêu ra câu hỏi.

- Tôi chỉ ký khi mà cô ấy làm lễ cưới trước mặt tôi, do một linh mục Hy Lạp mà tôi quen biết đứng chủ lễ.

Người nọ thốt ra nụ cười hiểm độc:

- Thế thì, anh biết cái gì chờ đợi anh chứ?

- Tôi chẳng sợ cái gì cả.

"Đó là một mẩu những câu hỏi và câu trả lời trong cuộc nói chuyện kỳ lạ, phân nửa hỏi, phân nửa viết. Một cách đều đặn, tôi phải hỏi xem ông ta có chịu nhượng bộ và ký tên vào bản cam kết không. Cũng không kém đều đặn, tôi luôn luôn nhận được câu trả

lời phẫn nộ. Nhưng ngay sau đó một ý nghĩ chợt đến với tôi. Tôi tự

ý thêm những câu ngắn (do chính mình nghĩ ra) vào sau những câu hỏi: thoạt đầu thật vô hại, ngõ hầu để thử xem hai tay bạo ngược đó

có biết chút ít tiếng Hy Lạp không. Khi thấy chúng không có phản ứng nào, tôi chơi bạo hơn. Cuộc đối thoại của chúng tôi lúc đó giống như thế này:

- Anh sẽ chẳng được lợi ích nếu cứ ngoan cố mãi. Ông là ai?

- Tôi cóc cần. Tôi là một người lạ ở Luân Đôn.

- Ông thí mạng đó. Ông đã ở đây từ bao lâu?

- Thây kệ. Ba tuần.

- Những của cải đó sẽ không bao giờ còn thuộc về ông nữa. Ông

bị đau ra sao?

- Của cải sẽ không rơi vào tay bọn vô lại. Bọn chúng bỏ đói tôi.

- Ông sẽ được tự do, nếu như ông chịu ký. Nhà này là nhà nào?

- Tôi sẽ không bao giờ ký. Tôi không biết.

gì?

- Ông chẳng gíup ích được chút nào cho cô ấy đâu. Ông tên là

- Cô ấy cứ việc đến đây nói cho tôi biết! Kratides.

- Ông sẽ gặp cô ấy nếu ông chịu ký. Ông từ đâu tới.

- Thế thì tôi sẽ chẳng bao giờ gặp lại cô ấy. Từ Athènes

Thưa ông Holmes, chỉ cần thêm năm phút nữa là tôi có thể làm sáng tỏ câu chuyện, nhưng ngay lúc đó, cánh cửa lại mở ra và một

người đàn bà bước vào. Cô ta cao, mảnh mai, tóc nâu và mặc một

cái áo trắng rộng thùng thình. - "Ha-rôn", cô ta kêu lên với một âm tiết tồi. "Em không thể ở nơi đó được nữa. Em cảm thấy quá cô đơn.

ồ, anh Paul đây mà!'

"Cô ấy nói câu sau chót bằng tiếng Hy Lạp. Cùng lúc, nạn nhân trong một nỗ lực mạnh mẽ, đã bứt lớp vải mỏng có phết hồ dán trên đôi môi ra và hét lên:

- Sophie! Em!

"Ông lao vào trong vòng tay người phụ nữ. Hai người chỉ ôm nhau trong một thoáng, bởi vì người trẻ tuổi đã nắm lấy người đàn bà, đẩy ra khỏi phòng, trong lúc người già kia túm lấy người tù nhân và dẫn ra ngã cửa kia. Còn lại mình tôi. Tôi đứng lên, suy nghĩ xem tôi có thể nào tìm ra nơi đây là đâu. Nhưng thật may là

tôi đã không động đậy. Vừa ngước mắt lên, tôi thấy người đứng tuổi đang quan sát tôi.

- Thế là đủ rồi, ông Mê-lát! Chúng tôi đánh giá cao những phẩm chất của ông.

Tôi nghiêng mình.

- "Đây là năm đồng". Ông ta nói, khi tiến lại bên tôi. "Một món thù lao trọng hậu. Nhưng ông hãy nhớ đấy!" Ông ta nói thêm, tay

vỗ nhẹ lên vai tôi và buông ra tiếng cười nho nhỏ." Nếu ông nói ra

chuyện này với bất cứ ai... với bất cứ ai, ông nghe rõ chưa? Thì lúc

đó Chúa cũng không cứu nổi ông. Xe đang chờ ông".

Tôi gần như bị ném ra căn phòng ngoài, rồi vào trong cỗ xe. Một lần nữa tôi lại thấy cây cối và thửa ruộng. Gã Ha-rôn ngồi trước mặt tôi. Sau một chuyến đi bất tận, chúng tôi dừng lại:

- Ông hãy xuống đây, thưa ông Mê-lát. Tôi rất tiếc phải bỏ ông xuống cách nhà ông quá xa, nhưng tôi không được quyền chọn lựa.

"Anh ta mở cánh cửa xe và tôi có vừa đủ thì giờ để nhảy xuống, bởi vì người đánh xe đã quất roi vào con ngựa và cỗ xe phóng đi thật nhanh. Tôi nhìn chung quanh, thấy mình đang ở trong một

đồng cỏ, rải rác có những bụi kim tước. Đằng xa có một dãy nhà, rải

rác đó đây những ánh sáng hắt ra ngoài khuôn cửa sổ trên những tầng lầu. Nhìn về phía bên kia, tôi thấy những tín hiệu đèn đỏ của đường sắt.

"Cỗ xe đã vượt ngoài tầm mắt. Tôi đang phân vân không biết mình đang ở đâu thì chợt thấy một người tiến tới. Đó là một phu khuân vác ở nhà ga.

- Xin ông vui lòng cho tôi biết đây là đâu?

- Hạt Wandsworth.

- Làm sao đáp tàu đi Luân Đôn.

- Cách đây hai cây số. Nếu đi nhanh thì còn kịp chuyến chót.

" Thưa ông Holmes, chuyến phiêu lưu của tôi kết thúc như vậy

đó".

Chúng tôi ngồi yên lặng hồi lâu. Sau cùng Holmes liếc sang

Mycroft.

- Anh có thấy một hướng điều tra nào không? Mycroft lấy tớ báo Daily News trên mặt bàn:

- "Một phần thưởng được tặng cho người nào biết chỗ ở của công dân Hy Lạp tên là Paul Kraides, từ Athènes tới; và là người không biết nói tiếng Anh. Một phần thưởng khác sẽ được đổi lấy bất

cứ tin tức nào liên quan đến một phụ nữ Hy Lạp tên là Sophia. Trả

lời về X2473. Tất cả các nhật báo đều đăng lời nhắn tin này. Cho tới nay chưa có hồi âm".

- Thế còn đại diện của nước Hy Lạp?

- Tôi đã tới hỏi thăm. Người ta chẳng biết gì hết.

- Một bức điện gửi cho cảnh sát ở Athènes, thế nào?

- Sherlock có tất cả nghị lực của gia đình" Mycroft nói với tôi.

"Vậy thì, hãy nhận lấy trách nhiệm và hãy báo cho anh biết tin, nếu chú thành công".

- Em sẽ báo tin cho anh biết cũng như sẽ báo cho ông Mê-lát rõ. Trong khi chờ đợi, thưa ông Mê-lát, ông hãy đề phòng cẩn thận.

Trên đường, Holmes dừng lại bưu cục và đánh đi nhiều bức

điện tín.

- Anh Watson, chúng ta đã không lãng phí buổi tối nay. Vấn đề này có vài dữ kiện không kém tầm thường.

- Anh giải quyết được chứ?

- Khi đã biết được phân nửa mà không khám phá ra nốt phần còn lại, thì còn bất hạnh nào hơn!

- Cô gái Hy Lạp đó đã bị chàng trai người Anh tên là Ha-rôn bắt cóc - Tôi nói.

- Bắt cóc từ đâu?

- Từ Athènes. Sherlock lắc đầu nói:

- Người thanh niên đó không nói được một tiếng Hy Lạp, còn cô gái nói được tiếng Anh. Vậy là cô ta đã sống trong một thời gian ở nước Anh, nhưng còn hắn thì không sang Hy Lạp.

- Được. Thế thì chúng ta giả thiết rằng cô ấy lưu lại nước Anh và gã lưu manh dụ dỗ được cô ta. - Tôi nói.

- Rất có lý.

- Anh ruột cô ta tới nước Anh để can thiệp, nhưng ông rơi vào tay bọn chúng. Chúng giam giữ ông, dùng vũ lực buộc ông phải ký vào một văn kiện chuyển tài sản của cô gái cho chúng, bởi vì ông ta

là người quản lý tài sản đó. Ông từ chối. Để có thể đạt tới sự thoả hiệp, chúng cần có một người thông ngôn và chúng đã chọn ông Mê- lát, sau khi đã dùng một người khác từ trước đó. Cô gái không biết

là anh cô đã tới đây và cô chỉ biết được sự kiện này nhờ sự tình cờ.

- "Hoan hô, Watson". Holmes kêu lên. Anh đã gần đoán ra." Chúng ta nắm tất cả mọi quân bài, chỉ còn lo ngại chúng dùng bạo lực".

- Làm sao tìm ra sào huyệt chúng".

- Nếu cô gái tên là Sophie Kratides, chúng ta sẽ dễ dàng tìm ra

cô. Bởi vì gã Ha-rôn đã làm quen với cô ít ra đã được vài tuần. Nếu

họ ở cùng một nơi thì tin nhắn của Mycroft được hồi âm.

Chúng tôi về tới nhà Holmes lên cầu thang trước và cửa mở, anh rất ngạc nhiên khi thấy Mycroft đang ngồi trong ghế bành và bình thản hút thuốc.

- Vào đi, Sherlock. Hãy vào đi, ông Watson". Mycroft nói, khi thấy chúng tôi. "chú không ngờ là tôi chịu dấn thân vào vụ này, phải thế không Holmes? Vụ này làm tôi thích thú".

- Anh đến đây bằng gì?

- Xe ngựa.

- Có tin gì mới chăng?

- Anh đã nhận được hồi âm.

- A!

- Phải, thư trả lời tới anh vài phút, sau khi các chú ra về.

- Thư nói gì?

- Mycroft rút ra một tờ giấy.

- Nó đây này. Tôi xin đọc nhé. "Thưa ông, để trả lời cho tin nhắn của ông về ngày hôm nay, tôi cho ông biết rằng tôi hiểu rất rõ

về người phụ nữ ấy. Nếu ông đến gặp tôi, tôi sẽ cho ông biết vài chi tiết liên quan tới câu chuyện đau buồn của cô ấy. Hiện nay cô đang

ở tại biệt thự Les Myrtes tại Beckenham. người bạn tận tâm của ông J.Davenport". Ông ấy viết từ Brixton. Này Holmes, em có nghĩ rằng chúng ta nên đi tới không?

- Mạng sống của anh cô ta quan trọng hơn câu chuyện đau buồn của cô ta. Chúng ta cần tới ngay Scoland yard để tìm thanh tra Grếch-son và cùng nhau đi tới Bekenham. Một cái chết đang được tính từng giờ!

- Chúng ta tới rủ ông Mê-lát đi cùng. Biết đâu chúng ta chẳng cần tới một người thông ngôn. - Tôi gợi ý.

xe".

- Ý kiến tuyệt vời - Holmes nói. - Hãy sai người đi tới một cỗ

Holmes mở ngăn kéo và nhét khẩu súng lục vào túi.

- Phải, - anh nói để trả lời cho tia nhìn của tôi. - Chúng ta phải đối phó với một băng nhóm đáng sợ".

Màn đêm buông xuống khi chúng tôi tới Pall Mall. chúng tôi gọi chuông căn hộ của ông Mê-lát.

hỏi.

- Bà vui lòng cho tôi biết ông Mê-lát có ở nhà không? - Mycroft

- Tôi không biết ông đi đâu, - người đàn bà mở cửa cho chúng

tôi trả lời. - Tôi chỉ biết là ông ấy đã ra đi cùng với một ông trong một cỗ xe.

- Ông kia có xưng tên không?

- Không, thưa ông.

- Có phải người đó là một thanh niên tóc nâu, vạm vỡ?

- Đó là một người nhỏ con, mang mắt kiếng, gày gò nhưng rất ngộ nghĩnh: ông ta cứ cười luôn trong khi nói.

- "Đi thôi!" Holmes kêu lên với chúng tôi. "Chuyện nghiêm trọng lắm rồi"!

Trong lúc chúng tôi cho xe chạy tới trụ sở của Scotland yard, anh nói với chúng tôi:

- Bọn cướp đã bắt cóc Mê-lát, rất có thể là chúng còn cần tới ông. Nhưng sau khi dùng ông xong rồi, chúng sẽ trừng phạt ông.

Tới Scoland yard, phải mất một giờ, chúng tôi mới tiếp xúc được với thanh tra Grếch sơn, rồi sau đó vội vã tới ngay biệt thự Les Myrtes: ngôi nhà lớn tối tăm, nằm trên một thửa đất cách xa đường. Sau khi cho xe ngựa về, chúng tôi đi trên lối vào nhà.

- Các cửa sổ đều không có ánh đèn vào cái tổ đã trống trơn. - Holmes nói.

- Tại sao anh lại nói vậy?

- Cách đây gần một tiếng đồng hồ, một cỗ xe chở đầy hành lý đã

đi ngang qua đây: nó từ trong nhà chạy ra.

Viên thanh tra cất tiếng cười vang:

- Ngọn đèn ở hàng rào đã chỉ cho tôi thấy những vết bánh xe, nhưng còn hành lý thì...

- Ông hãy quan sát những vết của cùng những bánh xe đó, trong chiều ngược lại: những vết đi ra cánh đồng thì hằn rõ hơn trong nền đất. Vậy là xe phải chịu đựng một trọng tải nặng hơn rất nhiều.

- "Thế là ông đã đi xa hơn tôi", viên thanh tra nhún vai mà trả lời. "Cánh cửa này chẳng dễ gì mở được. Nhưng trước hết, chúng ta hãy thử gọi cửa xem sao?

Ông dùng búa gõ rất dữ dội, giật mạnh dây chuông, nhưng không có kết quả. Holmes lỉnh đi. Vài phút sau, anh trở lại, nói:

- Một cửa sổ đã mở.

- "Thật may mà anh lại đứng về phía cảnh sát ..." viên thanh tra quan sát và khâm phục cái cách mà Holmes nạy then móc cửa

sổ ra. Chúng ta có thể vào nhà mà không cần được mời".

Chúng tôi lần lượt vào trong một gian phòng lớn, hiển nhiên là nơi ông Mê-lát đã được đưa vào. Viên thanh tra thắp đèn. Trên bàn

có hai cái ly, một chai rượu cô nhắc đã cạn và vài món ăn dư. - Cái

gì vậy nhỉ? - Đột nhiên Holmes hỏi.

Chúng tôi giỏng tai lên nghe ngóng, đứng bất động. Từ một nơi nào đó trên lầu vọng xuống một tiếng rên rỉ nhỏ, nghẹn. Holmes vội leo lên, viên thanh tra và tôi bám theo bén gót, anh Mycroft cũng đuổi theo chúng tôi.

Lên tới thềm cầu thang lầu hai, chúng tôi thấy có ba cánh cửa: tiếng kêu xé ruột phát ra từ phía sau cánh cửa giữa. Cánh cửa bị đóng, nhưng chìa khoá lại cắm ở bên ngoài. Holmes mở cửa, lao vào, nhưng rồi anh quay ra ngay sau đó và giơ tay chặn lấy cuống họng.

- "Khói quá!" Anh kêu lên. "Chúng ta chờ một chút".

Liếc vào bên trong, chúng tôi thấy ở giữa phòng có một ngọn lửa xanh, bốc lên từ một cái giá ba chân đồng. Ngọn lửa vẽ trên sàn nhà một vòng tròn nhỏ, nhợt nhạt; chúng tôi nhận ra hai bóng người co quắp dựa vào tường. Holmes leo lên bậc thang trên cao để hít thở không khí ít khói, đoạn trở vào phòng, mở một cửa sổ ra và

liệng cái giá ba chân nóng rực xuống dưới vườn.

- Trong một phút nữa, chúng ta có thể vào được", anh hổn hển nói khi trở ra ngoài. "Làm sao có ngọn nến nhỉ" Không khí như vầy không thể đánh diêm quẹt được. Mycroft, anh hãy cầm lấy cây đèn lồng đứng ngay cửa, rọi sáng để chúng tôi khiêng họ ra ngoài. Nào! Chúng ta xông vào!"

Chúng tôi nín thở, túm lấy những kẻ bất bạnh, lôi họ ra ngoài cầu thang. Cả hai đều bất tỉnh. Một trong hai người là viên thông ngôn Hy Lạp. Ông bị trói ở chân và ở tay, một con mắt sưng vù. Người kia cũng bị trói tương tự, cao và gầy trơ xương, mặt ông ta trông kỳ quái với những dải vải mỏng có phết hồ dán. Khi chúng tôi đặt ông ta xuống đất thì ông ta ngừng rên rỉ: ông đã chết, Mê-lát thì còn sống.

Câu chuyện của Mê-lát rất đơn giản: người khách đến kêu cửa, khi nhìn thấy cây dùi cui, ông đã khiếp sợ, đành để cho bị bắt cóc một lần thứ hai, bị đem về Beckenham và phải làm thông ngôn cho một cuộc đối thoại còn bi thảm hơn cuộc nói chuyện lần đầu: Sau chót, thấy rõ là không thể nào lay chuyển được còn mồi, chúng đưa ông về chỗ giam cũ. Sau khi nói với ông Mê-lat rằng chúng đã đọc được tin nhắn trên các báo; chúng nện một cú dùi cui, và ông bị ngất đi... cho tới lúc chúng tôi đến cứu ông.

Chúng tôi khám phá ra được vụ này nhờ người viết thư ở Lower Birixton. Người này cho biết rằng thiếu phụ bất hạnh thuộc một gia đình Hy Lạp giàu có và cô sang nước Anh ở chơi nơi nhà bạn bè. Cô gặp Ha-rôn, gã này thuyết phục cô bỏ trốn theo y. Các bạn cô ngao ngán báo tin cho anh cô ở Athènes rồi sau đó họ không còn bậm tâm gì nữa. Nhưng khi vừa tới nước Anh, anh của cô rơi vào tay Ha-rôn và Uyn-xông. Hai tên lưu manh đó giam giữ ông và

ra sức ép buộc ông ký tên vào một văn kiện chịu từ bỏ tài sản của

hai anh em ông. Chúng đã giam giữ ông và nguỵ trang ông bằng

những dải vải mỏng có phết hồ dán, ngỡ tưởng cô em gái không nhận ra người anh, trong trường hợp cô nhìn thấy ông. Tuy nhiên, cái trực giác của người đàn bà giúp cô nhận ra anh mình. Thế là đến phiên cô bị cầm giữ trong nhà người đánh xe ngựa và cô vợ y. Khi hai tên bất lương biết rằng bí mật của chúng bị phát giác và người bị chúng giam khăng khăng không chịu ký tên, thì chúng bỏ trốn cùng với cô gái. Nhưng trước khi bỏ đi, chúng ra tay trả thù

con người đã cả gan thách thức chúng.

Vài tháng sau, một bản tin kỳ lạ đánh đi từ Budapest được đăng trên các báo. Tin cho hay hai người anh du hành cùng một thiếu phụ đã có một kết cuộc bi thảm . Cả hai người đàn ông đều bị đâm chết. Cảnh sát Hung-ga-ri cho rằng hai người đó đã gây lộn với nhau và đã giết nhau... Holmes thì cho rằng những nối thống khổ của hai anh em người Hy Lạp đã được trả thù.

THUNG LŨNG KHỦNG KHIẾP

Phần thứ nhất

TẤN BI KỊCH Ở LÂU ĐÀI BIRLSTONE

Chương I TIN BÁO

Holmes không đụng một tý nào đến bữa điểm tâm, cứ ngồi chống tay xuống bàn, ngắm nghía mãi một tờ giấy vừa lôi ở một bì thư ra. Anh đưa bì thư ra ánh sáng, chăm chú xem xét cả trong lẫn ngoài: - Tuồng chữ của thằng Por. Mặc dầu tôi chưa nhìn thấy tuồng chữ nó đến hai lần, nhưng chắc chắn đây là của nó. Nhưng thằng này mà phải gửi thư cho tôi thì nhất định là có chuyện quan trọng. - Por là ai vậy? - Tôi tò mò hỏi. - Por chỉ là một cái tên giả, một loại ký hiệu để nhận ra nhau thôi. Đằng sau cái tên ấy là một thằng tinh như ma. Đã có lần nó viết thư nói thẳng thừng rằng Por đâu có phải tên thật của nó, và nó thách tôi tìm xem nó là ai. Sở dĩ

tôi chú ý nhiều đến nó, không phải vì bản thân nó mà chính vì nó có liên quan đến một "đại nhân" mà tôi đang theo dõi. Thằng này cũng giống như kiểu con chó rừng đi trước con sư tử, một thằng người tý hon hợp tác với một tên khổng lồ vậy. Mà cái tên khổng lồ đó, chẳng những rất ghê gớm, mà còn khủng khiếp nữa kìa. Watson, đã có lần nào tôi nói với anh về giáo sư Mori chưa? - Tên tội phạm khoa học trứ danh ấy chứ gì? - Chết, anh mà gọi hắn như vậy, thì anh sẽ phải

ra toà. Mà chính cái chỗ đó mới là tuyệt đấy. Hắn, một thằng chủ mưu của tất cả những gì bẩn thỉu nhất đã xảy ra từ trước đến nay. Một bộ óc chỉ huy tất cả các tầng lớp cặn bã nhất của xã hội. Thế nhưng, không hề có một mối nghi ngờ, thậm chí không có cả một lời phê bình nhỏ nào có thể đụng đến lông chân hắn. Hắn đã che giấu

những thủ đoạn của hắn khéo đến mức hắn có thể lôi anh ra toà chỉ

vì mấy câu nói vừa rồi, và toà sẽ tịch thu hết số tiền lương hưu trí của anh để đền bù danh dự cho hắn. Nhưng rồi thế nào chúng ta cũng phải đấu với hắn thôi. Tôi bốc lên: - Mong rằng lúc ấy, tôi sẽ có mặt bên cạnh anh. Nhưng mà anh dang nói về tên Por kia mà. - à, Por chính là một mắt xích trong sợi dây xích, gần mốc trung tâm đó. Cho đến bây giờ, Por là mắt xích yếu nhất của sợi xích. - Thì sức bền của một sợi dây xích tuỳ thộc vào mắt yếu nhất của nó. Chính

vì thế mà thằng Por là rất quan trọng đối với tôi, thằng này đôi lúc cũng có ý trở lại con đường lương thiện, lại thêm, lâu lâu, tôi có gửi cho anh ta mười bảng Anh, thành ra đã có hai, ba lần, nó có báo cho

tôi một vài tin tức có giá trị, các loại tin tức có thể giúp tôi biết trước và ngăn ngừa tội ác, nhưng không trừng phạt được kẻ định gây ra. Chắc chắn là nếu có chìa khoá giải được mật mã, thì lá thư này cũng là loại tin tức ấy đấy. Holmes trải tấm giấy lêm bàn, tôi đứng dậy, đi lại đằng sau, nhìn qua trên vai anh và đọc được những giòng chữ này: 534 C2 I3 I27 3I I7 2I 4I Du-gia I09 203 37 Birlstone

26 Birlstone 9 I27 I7I - Anh nghĩ gì thế, Holmes? - Tất nhiên đây là một cách để hắn báo tin cho tôi đấy. - Nhưng viết mật mã mà không cho chìa khoá giải thì có lợi ích gì? - Trong trường hợp cụ thể này, thì bức mật mã này đúng là không làm gì được. - Tại sao lại nói rằng "trong trường hợp cụ thể này" - Bởi vì có nhiều bức mật mã ta

có thể đọc dễ dàng cũng như đọc tin rao vặt trong báo vậy. Nhưng lần này... tôi đứng trước một cái gì có khác đây. Rõ ràng nó có liên

hệ đến các chữ trong một trang của một cuốn sách nào đó. - Thế tại sao có hai chữ Du-gia và Brilstone - Tại vì trong trang sách đó không có hai chữ này. - Thế thì tại sao nó lại không nói rõ tên cuốn sách? - Có ai cho cả mật mã lẫn chìa khó giải vào trong cùng một bì thư? Vì nếu thư bị đưa nhầm người thì tiêu ngay. Cho nên chắc không lâu đâu, sẽ có một bức thư thứ hai nữa. Những dự đoán của Holmes đều đúng cả. Chỉ vài phút sau, người giúp việc mang đến cho chúng tôi bức thư chờ đợi. Holmes vừa xé bì thư vừa nhận xét: - "Cũng cùng một thứ chữ, nhưng lần này thì lại ký tên nữa". Holmes vừa trải tờ giấy ra vừa nói một cách đắc thắng. "Này Watson ơi, chúng ta tiến lên được rồi", nhưng vừa đọc được vài dòng, trán Holmes bỗng nhăn lại. - Thế là bao hy vọng tan vỡ như bọt xà

phòng, chỉ mong thằng Por không bị gãy cổ. Holmes đọc to bức thư

cho tôi nghe: "Ông Holmes thân mến. trong vụ này tôi sẽ không mạo hiểm thêm nữa. Nó nguy hiểm quá. Thình lình lão đến, vào lúc

tôi đã viết xong phong bì này với ý định báo cho ông biết cách giải

mã, tôi đã giấu được cái bì thư đi. Nhưng tôi đọc trong mắt lão, thấy lão nghi ngờ tôi. tôi xin ông hãy đốt bức mật mã đi, vì bây giờ nó chẳng còn có ích gì cho ông nữa" F. Por. Holmes ngồi xuống, vò nát bức thư trong tay mắt nhìn sững vào ngọn lửa trong lò sưởi. "Có lẽ hắn tự biết là hắn đã phản bội chủ hắn, nên hắn tưởng tượng ra lời buộc tội trong mắt của lão kia". - Lão kia là lão giáo sư Mori? - Tôi hỏi. - Khi một tên trong cái băng này nói đến "lão ta" thì mọi người đều hiểu là ai rồi. Đối với bọn chúng, chỉ có một "lão ta" mà thôi. - Nhưng lão có thể làm gì được? - Khi người ta là một trong những bội óc lớn nhất của Châu Âu và được những quyền lực đen tối nhất sùng bái, thì người ta đã nắm trong tay những khả năng vô hạn. Por đang hoảng sợ. Anh đem so sánh chữ trong bức thư với chữ trên phong bì mà xem. Chữ ở cái phong bì thì viết rắn rỏi, còn trong bức thư thì run quá. - Thế hắn viết thư làm gì? Hắn chỉ việc bỏ rơi tất

cả là xong. - Hắn sợ rằng nếu đột nhiên hắn lại câm bặt đi thì rồi mình sẽ đi điều tra xem tại sao, và điều đó có thể gây phiền phức cho hắn. - Anh nói có lý, lẽ dĩ nhiên là... Tôi cầm bức mật mã lên quan sát thật cẩn thận: - ... Bực thật, một điều bí mật rất quan trọng đã được viết trên mảnh giấy này, mà lại không làm sao đọc được. Holmes đẩy mâm thức ăn ra, rồi đốt cái tẩu thuốc. - Anh thử xem lại. Liệu có một vài cho tiết nào đó mà cái bộ óc quỉ quái của anh đã để lọt lưới chăng? - Tôi đề nghị. - Nào, ta hãy xét bài toán này về phương diện lý trí thuần tuý xem sao. Thằng Por nó chỉ cho

ta là phải chiếu vào một cuốn sách nào đó. Đấy. Điểm bắt đầu là từ đấy. - Cũng mơ hồ quá đi thôi. - Thì chúng ta làm cho rõ hơn? Chúng ta có những chỉ dẫn gì về cuốn sách này? - Chẳng có gì cả. -

ồ, ồ, bản mật mã bắt đầu từ con số 534 phải không? Ta đặt giả thiết đây là con số của trang sách. Như thế thì cuốn sách này khá dầy đấy. Thử xem có còn những chỉ dẫn nào nữa về cuốn sách này không? Mã hiệu thứ nhì là chữ C2. Anh nghĩ gì về chữ C2 này. - Chương 2, chắc thế. - Tôi ngờ là không phải, vì đã ghi số trang thì

số chương không cần thiết nữa. Vả lại nếu trang 534 mà lại mới chỉ

ở chương 2, thì bề dày của cuốn sách là không thể tưởng tượng

được. - Không phải chương 2, mà là cột - tôi kêu lên. - Hoan hô, sáng nay óc anh sáng chói như một ánh chớp vậy. Ta đã hình dung

ra một cuốn sách dày, in hai cột, mỗi cột khá dài. Vì trong bản mật

mã của ta có một chữ mang đến con số 203. Nếu đây không phải là một cuốn sách thường dùng, thì nó đã gửi cho mình cuốn đó. theo trong thư thì trước khi bị "lão kia" bắt gặp, nó có ý định gửi cho ta cái khoá giải mã ở ngay trên bì thư này. Điều này có nghĩa đây là một cuốn sách mà mình có thể dễ dàng có được ngay. Một cuốn sách mà nó có, và nó nghĩ rằng mình cũng có, nghĩa là một cuốn sách rất phổ biến. - Có lý lắm. - Vậy cái diện điều tra sẽ được giới hạn vào một cuốn sách dầy, in hai cột, và thông dụng Tôi kêu lên một cách đắc thắng: - Cuốn Kinh Thánh. - Tốt, tốt. Nhưng mà không tốt lắm. Kinh Thánh thì có biết bao nhiêu là bản in khác nhau, làm sao mà Por biết được là bản của nó với bản của mình có cùng một số trang như nhau. Không. Đây phải là một cuốn sách in đồng loạt, và Por phả biết chắc chắn rằng số trang 534 là có trong cuốn sách của mình kia. - Như thế là có thể thu nhỏ diện tích tìm kiếm lại nữa. - Đúng thế. Cuộc tìm kiếm của chúng ta hướng về những cuốn sách

in hàng loạt mà nhà nào cũng có. - Cuốn "Chỉ dẫn giờ tàu hoả". - Ngôn ngữ trong cuốn này quá khô khán., không dễ gì dùng những chữ ở trong đó để tạo nên một bức thơ. Chúng ta loại bỏ cuốn "Chỉ dẫn giờ tàu hoả". Cũng loại bỏ cuốn tự điển vì những lý do đó. Thế thì còn gì nữa nào? - Một cuốn Lịch niên giám. - Xuất sắc. Nào ta thử xét cuốn Lịch niên giám xem, nó rất thông dụng, nó có đủ số trang đòi hỏi, nó in trên hai cột, ở quãng đầu thì ngôn ngữ của nó có hạn chế thật, nhưng phần cuối nó cũng hùng biện lắm đấy... Holmes giật lấy cuốn sách để trên bàn. - Đây , trang 534 cột 2, mình thấy một bài văn tràng giang đại hải nói về nền thương mại

và những tài nguyên của xứ ấn độ thuộc Anh, Watson, anh ghi các chữ này lại đi. Số 13 là chữ "Ma". Hứ, cái bắt đầu này có vẻ bất lợi rồi, chữ số 127 là "Chính phủ". cũng còn có ý nghĩa một chút, nhưng chẳng có liên can gì đến chúng ta và giáo sư Mori cả. Bây giờ cứ thử nữa xem, Chính phủ làm gì? Than ôi, chữ sau là "lông heo" thôi thế

là hết. Chúng ta đã thua cuộc... Holmes nói với một giọng hài hước nhưng cay đắng. Nản lòng, tôi cũng ra ngồi cạnh lò sưởi. Sự im lặng

kéo dài, bỗng nhiên bị phá vỡ bởi một tiếng kêu của Holmes. Anh

chạy vội đến chiếc tủ đứng và moi ra một cuốn sách dày cộm khác, bìa màu vàng. - Tại vì chúng ta muốn đi trước thời đại. Hôm nay là ngày mùng 7 tháng giêng, cho nên chúng ta mới đi tra cứu một cuốn lịch niên giám năm mới. Nhưng chắc chắn là Por đã dùng một cuốn lịch năm ngoái, và có lẽ nó đã nói rõ cho chúng ta biết điều này nếu như nó viết được lá thơ chỉ dẫn. Nào, thử xem cái trang

534 có cái gì nào? Số 13 là chữ "một". A, có vẻ hứa hẹn rồi. Số 127 là "nguy hiểm". Mắt Holmes long lanh lên. Những ngón tay thon nhọn của anh cứng đờ ra trong lúc anh lẩm bẩm đếm chữ. - à. Một nguy hiểm. . . Ghi lại đi Watson, ghi "một nguy hiểm... cấp bách... đe doạ một người tên là... Ở đây chúng ta có chữ "Du-gia" một người tỉnh nhỏ giàu có ở tại Birlstone. Xác thực. Nguy hiểm. Khẩn cấp...". Đó watson. Nếu anh bạn tạp hoá ở đầu phố mà có bán một vòng hoa thì

tôi sẽ cho đi mua về để tự tặng thưởng cho mình. Tôi đọc lại bức thư

kỳ lạ mà tôi đã ghi nguệch ngoạc trên giấy khi Holmes đang giải mã, và thở dài: - Vì sao lại tìm một cách phức tạp đến thế này để viết vài câu. - Trái lại, thằng Por đã hành động xuất sắc đấy. Nếu định tìm chữ trong một cột thôi thì sẽ khó mà tìm cho đủ chữ để nói hết ý nghĩ. Ở đây trái lại, nội dung thư là hoàn toàn rõ ràng. Người

ta đang âm mưu chống lại một người nào đó tên là Du-gia, chắc chắn là một tay địa chủ giầu có ở tỉnh. Por biết đích xác là sự nguy hiểm rất cấp bách. (Nó không tìm thấy chữ "đích xác" trong cột in chữ nên phải dùng chữ "xác thực"). - Chúng ta vừa làm được một công trình kiệt tác về phân tích. Holmes vui như một nghệ sĩ chân chính trước một tác phẩm thành công nhất của mình, và anh đang còn giữ một nụ cười trên môi, khi Bili mở cửa để cho viên thanh tra mật thám Dona bước vào. Chuyện này xảy ra vào những năm 1800. Vào thời ấy, Dona là một trinh thám trẻ, năng nổ, cũng đã có đôi chút thành tích trong một vài vụ án... Cả cái vóc người to lớn, cũng chứng tỏ sức mạnh phi thường của anh ta. Trán rộng, đôi mắt sáng nằm sâu trong hai hốc mắt, lông mày rậm rì. Đó là một chàng trai

ít nói, tính tình nghiêm nghị, đứng đắn. Holmes đã có dịp giúp anh

ta thành công một đôi lần và không chịu nhận bất cứ một ơn huệ nào. Điều này giải thích được tại sao người thanh tra xứ Ecosse này kính trọng và yêu mến anh bạn đồng nghiệp tài tử của mình.

Holmes đon đả chào hỏi: - Ông là một loài chim dậy sớm, xin chúc

ông nhiều may mắn trong khi đi săn sâu bọ sáng nay, nhưng tôi sợ rằng ông đến vào giờ này không khéo lại có một chuyện chẳng lành xảy ra. Dona trả lời với một nụ cười tâm lý: - Ông Holmes, nếu ông thay chữ "tôi sợ rằng" bằng chữ "tôi mong rằng" thì có lẽ ông gần sự thật hơn. Không, tôi không hút thuốc đâu, cám ơn. Tôi phải lên đường ngay bây giờ, vì những giờ đầu tiên của một vụ án là những giờ có ích lợi nhất, nhưng... Viên thanh tra bỗng ngưng bặt, ông ta vừa thấy tờ giấy trên đó tôi đã ghi lại lời giải mã, ông ta há hốc mồm nhìn tờ giấy. - Du-gia, Birlstone, thế này là thế nào, ông lấy những cái tên này ở đâu ra vậy? - Đây là một bức mật mã mà bác sĩ watson và tôi vừa giải ra. Nhưng sao những cái tên này làm ông phải bối rối? - Một ông tên là Du-gia ở lâu đài Birlstone vừa bị ám sát sáng hôm nay. - Dona nói.

Chương 2

ÔNG SHERLOCK HOLMES DIỄN THUYẾT

Nói rằng một cái tin kỳ lạ như vậy làm anh ta phải bối rối hay xúc động thì là nói ngoa. Mặc dù là người không có tính độc ác, nhưng vì sống mãi trong những cái "giật gân' thành ra cũng chai người đi rồi. Và nếu những xúc cảm của anh có bị cùn nhụt đi thì trái lại sự thông minh của anh lại tăng thêm. Holmes nói lớn: - Phi thường. Thật phi thường. - Hình như ông không ngạc nhiên gì thì phải? - Tại sao tôi lại phải ngạc nhiê? Tôi nhận được một bức thư nặc danh báo cho biết là có một sự nguy hiểm đang đe doạ một người nào đó. Rồi một giờ sau, tôi hay tin rằng sự nguy hiểm đó đã thành sự thật và người kia đã chết. Vậy thì tôi có chú ý, chớ không

hề ngạc nhiên. Holmes kể lại cho viên thanh tra nghe chuyện chúng

tôi vừa giải mã bức thư. Dona ngồi xuống hai tay đỡ lấy cằm, và hai con mắt chỉ còn như hai cái khe màu vàng. Ông ta nói: - Tôi định sáng nay sẽ đi xuống lâu đài. Tôi rẽ vào đây để hỏi xem ông có cùng

đi không? Nhưng bây giờ làm việc ở Luân Đôn có lẽ có kết quả hơn.

- Tôi không nghĩ thế. - Holmes nói. - Ông hãy xem, chỉ ngày mai hay ngày kia thôi, là báo chí sẽ làm rùm beng lên về câu chuyện bí mật ở lâu đài đó. Nhưng bí mật ở đâu kia chứ, vì ngay tại Luân Đôn, đã có người báo tin trước khi án mạng xảy ra. Vậy chúng ta hãy tóm cổ cái vị tiên tri ấy, thì mọi việc còn lại sẽ tuồn tuột theo ra

cả thôi. - Chắc chắn là thế. Nhưng làm cách nào mà ông tóm cổ được cái tên Por này? Dona lật ngược lá thư mà Holmes vừa đưa cho anh ta. - Thùng thư ở trạm bưu điện Camberwell. Điều này cũng không giúp được gì? Theo ông thì cái tên này là tên giả? Có phải ông nói rằng ông có gửi tiền cho hắn ta phải không? - Hai lần. - Bằng cách nào? - Gửi qua bưu điện - Ông không bao giờ đi xem mặt người lĩnh số tiền đó. - Không. Viên thanh tra tỏ ra hơi ngạc nhiên

và khó chịu. - Tại sao lại không? - Bởi vì bao giờ tôi cũng giữ đúng

lời hứa, Khi hắn viết thư cho tôi lần đầu tiên, tôi đã hứa với hắn là

sẽ không tìm cách theo dõi hắn. - Ông có nghĩ rằng có một người nào khác đằng sau hắn không? - Tôi không nghĩ, mà tôi biết chắc kia. - Cái vị gíao sư mà ông đã nói với tôi? - Đúng đấy. Dona mỉm cười và nháy mắt với tôi - Ông Holmes ạ. Chính tôi đã đích thân điều tra về ông ta: mọi cái đều cho thấy rằng đây là một con người rất đáng kính, một nhà bác học đầy tài năng. - Tôi thật sung sướng thấy ông nêu lên những tài năng của ông ta. - Thật vậy, người ta chỉ còn biết cúi đầu kính chào ông ta mà thôi. Tôi có lần ngồi nói chuyện với ông ta về nguyệt thực, nhật thực, mà thật quái quỷ: tôi cũng không hiểu bằng cách nào câu chuyện lại quay sang đến vấn

đề đó. Nhưng thực tình chỉ với một cái đèn và một quả điạ cầu, ông

ta đã cắt nghĩa tất cả cho tôi hiểu trong có một phút đồng hồ. Ông

ta có cho tôi mượn một cuốn sách, nhưng nó quá cao đối với tôi. Ông

ta có một bộ mặt nhẵn nhụi, mái tóc hoa râm, và cách ăn nói hơi trịnh trọng đủ để làm một ông bộ trưởng. Holmes phát ra một tiếng cười, xoa hai bàn tay vào nhau: - Thật là tuyệt, có phải cuộc đàm đạo mê ly và xúc động ấy là ở ngay trong buồng làm việc của giáo

sư phải không? - Đúng thế. - Một căn phòng rất đẹp - Rất đẹp, đúng thế. - Ông ngồi trước bàn làm việc của ông ta - Vâng - Mặt trời

chiếu vào mắt ông, còn mắt của giáo sư thì ở trong bóng tối. - Lúc

đó à vào buổi tối, cái đèn quay về phía tôi - Tất nhiên là như thế. Ông có nhận thấy ở trên đầu chỗ giáo sư có treo một bức tranh không? - Vâng, bức tranh. Một người phụ nữ trẻ tuổi, hai tay ôm đầu và liếc nhìn xuống người xem tranh. - Bức tranh của hoạ sĩ Greuse đấy Viên thanh tra chăm chú nghe, Holmes ngả người vào lưng ghế, chụm đầu các ngón tay vào nhau , nói tiếp: - Greuse là một hoạ sĩ người Pháp. Các nhà phê bình hiện đại đánh giá cao hoạ

sĩ này. Hai mắt của viên thanh tra dãn ra: - Có lẽ tốt hơn hết là chúng ta hãy... Holmes cắt ngang ngay: - Tất cả những điều tôi nói với ông đều có một mối liên quan với cái bí mật của lâu đài Birlstone đấy. Thực ra, chúng ta đang đứng ở trung tâm của lối bí này. Dona miễn cưỡng mỉm cười và nhìn tôi: - Ông suy nghĩ có hơi nhanh quá. Ông nhảy mất một hay hai bước. Thành ra tôi không theo kịp ông nữa. Làm sao lại có thể có một mối liên hện giữa nhà họa sĩ của thế kỉ trước với vụ án này được. - Sự kiện một bức tranh của Greuse đem ra bán giá bốn nghìn bảng không đủ làm chuyển bánh cả một đoàn tàu dài những suy nghĩ trong chất xám của ông sao? Không biết có phải là chuyển bánh không? Nhưng thấy viên thanh tra gãi đầu ghê quá, Holmes lại tiếp tục: - Lương giáo sư Mori là 700 bảng Anh một năm. Vậy thì làm sao mà ông ta có thể mua được bức tranh? Đoàn tàu của viên thanh tra bây giờ đang chạy hết tốc lực: - Thật hấp dẫn. Tôi rất thích nghe ông nói chuyện. Holmes mỉm cười. Anh ta rất khoái những sự tán thưởng ngây thơ như vậy. - Thế ở lâu đài đã xảy ra chuyện gì? Holmes hỏi. - Chúng

ta có thì giờ ông ạ. Có một xe ngựa đợi tôi ở dưới đường kia. Về chuyện bức tranh.... Ông Holmes ạ, có lần ông đã khẳng định với tôi

là ông chưa hề gặp mặt giáo sư bao giờ. - Đúng. Tôi chưa hề gặp mặt ông ta. - Thế thì làm sao ông biết được căn buồng của ông ta. - Tôi đã đến nhà ông ta ba lần: Hai lần tôi đã kiếm cớ ngồi chờ ông

ta, và tôi đã đi khỏi trước khi ông ta về; Còn một lần... chính lần đó

tôi đã tự cho phép tôi đọc qua những giấy tờ của ông ta và kết luận thật là bất ngờ. - Ông có tìm thấy một cái gì phạm pháp không? - Tuyệt đối không có. Chính điều đó làm tôi bối rối. Nhưng mà ông đã

thấy tầm quan trọng của chi tiết bức tranh rồi chứ, chi tiết ấy nói

lên rằng ông giáo sư rất giàu. Nhưng ông ta làm gì mà lại giàu thế? Ông ta không lấy vợ. Em ông ta là một người xếp ga quèn ở miền Tây. - Vậy thì sao? - Suy luận ra cũng đơn giản thôi. - ông cho rằng ông giáo sư có những nguồn thu nhập lớn, và những nguồn này là bất hợp pháp phải không? - Đúng là như thế. Cái ý nghĩ này, tất nhiên không phải là chỉ có dựa trên bức hoạ của Greuse thôi, Tôi có

cả tá những sợi tơ mong manh dẫn tôi đến trung tâm của màng nhện, là nơi con vật đó đứng im rình mồi. Sở dĩ tôi nêu lên chuyện bức hoạ, cũng chỉ vì nó nằm trong giới hạn tầm mắt của ông mà thôi. - Những điều ông vừa nói là hết sức đáng chú ý. Nhưng nếu có thể, chúng ta thử đào sâu thêm một tý xem sao. Có phải ông ta đã làm giàu bằng mánh mung, lừa đảo làm bạc giả.... - Ông đã có bao giờ đọc một cái gì nói về Jona chưa? - Có phải là tên của một nhân vật tiểu thuyết không không? Trong đó các ngài thám tử đều làm được những việc rất kỳ diệu. - Jona không phải là thám tử cũng không là một nhân vật tiểu thuyết. Đó là một tên tội phạm bậc thầy

đã sống vào khoảng năm 1750. Ông Dona, ông nên đọc lại tất cả những tài liệu ghi chép lại các vụ án. Tất cả mọi việc đều chỉ lặp lại mà thôi, kể cả lão giáo sư Mori nữa. Jona là sức mạnh của những tên tội phạm của Luân Đôn. Hắn đã bán bộ óc cho bọn này lấy 15% hoa hồng trong mỗi vụ. Tất cả những chuyện đã làm trước đây, sẽ còn được làm lại nữa. Tôi sẽ kể cho ông nghe một vài việc về Mori mà có lẽ sẽ làm ông vui thích. - Tôi xin dỏng cả hai tai lên. - Tôi đã tìm hiểu được ai là khâu đầu tiên của sợi xích. Một sợi dây xích mà đầu này là một tên tôi phạm thượng thặng, còn đầu kia là cả trăm tên ăn cắp, móc túi, những tên đi tống tiền, những tên bợm cờ bạc.

Ở giữa hai đầu sợi xích đó, là tất cả các loại tội ác. Tham mưu trưởng của bọn chúng là tên đại tá Mô-ran. Theo ông thì lão giáo sư trả lương cho hắn ta bao nhiêu tiền? - Tôi muốn biết điều đó lắm. - Sáu nghìn bảng Anh một năm. Tôi cũng Tôi cũng tình cờ mà biết được chi tiết này thôi. Ngài đại tá Mo-ran lương còn cao hơn cả thủ trưởng, những cái cái séc bình thường để trả tiền sinh hoạt trong nhà thôi. Nó được trả vào tài khoản của sáu ngân hàng khác nhau.

Chi tiết này có làm cho ông phải suy nghĩ không? - Tất nhiên cũng

đáng chú ý thật. Nhưng từ đó ông suy luận ra những gì? - Những gì

à, là hắn không muốn ai bép xép gì về của cải của hắn, hắn có khoảng 20 tài khoản ở ngân hàng, và phần lớn tài sản của hắn thì

ký gửi ở Pháp hoặc Đức. Dona ngồi lặng đi, chìm đắm trong một suy nghĩ sâu lắng, nhưng rồi cái óc thực tế xứ Ecosse lại kéo anh ta đứng lên. - Hiện giờ, thì lão ta có thể cứ tiếp tục . Ông đã kéo chúng

tôi đi quá xa với những câu chuyện cổ tích của ông rồi. Tôi chỉ còn ghi nhận được cái điều cốt yếu là có một sự liên hệ nào đó giữa giáo

sư với tội ác. Vậy xin hỏi ông, liệu chúng ta có thể đi xa hơn thế không? - Ông đã nói với chúng tôi rằng vụ án mạng này hiện giờ chưa giải thích được. Nếu chúng ta giả thiết, rằng nguồn gốc của nó

là như chúng ta đã nói, thì có thể phải xét đến hai động cơ khác nhau. Trước hết, Mori cai quản cái thế giới của lão bằng một cây roi sắt. Bộ luật hình của hắn chỉ gồm có một hình phạt: Xử tử. Như vậy

có thể Du-gia đã phản bội sếp của hắn. Hình phạt đã được thi hành,

và cái chết này sẽ thổi một luồng gió sợ hãi vào những tên còn sống trong băng của lão. - Đó là một gợi ý, thưa ông Holmes - Giả thiết thứ hai, là vụ án mạng đã được Mori dựng lên như một vụ thông thường mà thôi. Ở đó có mất gì không, ông Dona? - Tôi không nghe nói có mất gì cả. - Nếu có mất đồ thì điều này chống lại giả thiết thứ nhất và sẽ phù hợp hơn với giả thiết thứ hai. Mori có thể đã bị đẩy đến chỗ phải gây ra vụ án mạng này để chia phần, hoặc là hắn đã được bọn nào đó thuê tiền để tổ chức vụ án. Cả hai khả năng này đều có thể cả. Nhưng dù sao, thì cũng phải đến đó mới tìm được lời giải. Dona bật đứng dậy, reo lên: - Vậy thì phải đi tới lâu đài Birlstone thôi. Holmes vừa thay áo vừa nói: - Trong khi đi đường, xin ông Dona kể lại cho chúng tôi nghe tất cả. Chữ "tấtcả" này thật

ra là quá ít ỏi. Nhưng cũng đủ để cho Holmes phải chăm chú nghe. Những chi tiết lặt vặt đã làm cho anh cứ xoa mãi hai tay vào nhau, mặt hồng hào hẳn lên. Chúng tôi vừa mới sống mấy tuần lễ quá tẻ nhạt, và hôm nay mới lại đứng trước một bí mật xứng đáng với những tài năng của Holmes. Viên thanh tra cũng nói rõ rằng đây chỉ là những chi tiết anh ta lấy từ một bản báo cáo vội vã mới gửi

theo chuyến tàu sớm nhất. Người trinh sát của cơ quan Công an địa

phương đó là bạn của ông ta. Vì vậy ông ta được tin rất sớm, khác hẳn với mọi lần. Dona đọc to cho chúng tôi nghe bức thư của Maso "Dona thân mến, những tài liệu chính thức cần cho các bộ phận công tác của ông đã được gửi trong một bao bì riêng. Thư này là gửi riêng cho một mình ông. Hãy điện ngay cho tôi biết ông đi chuyến tàu nào xuống đây để tôi ra đón. Đây là một bài toán sẽ làm cho ông phải đau đầu. Xin ông hãy xuống ngay. Nếu ông có thể mời được cả ông Holmes thì hay quá. Thực tình, tôi thấy phức tạp quá". Holmes nhận xét: - Gớm, ông bạn của ông có vẻ sắc mắc nhỉ? - Vâng đúng thế, thưa ông. Maso xưa nay vẫn là con người tích cực lắm. - Được. Thế ông có tin gì khác nữa không, ông Dona. - Không, khi nào đến nơi, Maso sẽ cho biết. - Thế thì tại sao ông lại biết Du-gia bị ám sát.

- Trong bản báo cáo chính thức có nêu tên Du-gia và ghi rõ là đã bị giết bởi một viên đạn súng săn bắn vào giữa đầu. Cũng có ghi cả giờ báo động là trước lúc nửa đêm hôm qua một chút. Báo cáo nói thêm

là đây chắc chắn là một vụ án mạng rồi., nhưng chưa bắt giữ ai, và

vụ án này có một vài khía cạnh kỳ lạ làm cho người ta phải bối rối. - Vâng, ông Dona, nếu ông cho phép thì chúng ta tạm ngưng ở đây. Hiện giờ thì tôi mới chỉ thấy có hai điều là: có một bộ óc lớn ở Luân Đôn và một cái xác chết ở Sussex . Vấn đề là phải tìm được sợi dây xích nối hai cái này lại với nhau.

Chương 3

TẤN BI KỊCH Ở BIRLSTONE

Làng Brirlstone là một nơi thưa thớt những căn nhà nhỏ bé nửa gỗ, nửa gạch ở bìa phía bắc quận Sussex. Trong hàng thế kỷ trước, ngôi làng vẫn giữ nguyên phong cách cổ xưa, nhưng vào khoảng vài năm gần đây, đã có nhiều địa chủ giàu có đến dựng những biệt thự ở chung quanh. Trong các cánh rừng bọc theo bờ của

khu rừng lớn Weald chạy dài mãi đến tận chân những ngọn đồi đá

vôi ở bờ biển. Lâu đài nằm cách làng khoảng 800 thước, trong một khu vườn cũ nổi tiếng về những cây giẻ gai cực lớn. Một phần của toà lâu đài này đã được dựng lên từ thời Đệ nhất thập tự chiến. Năm 1534, một trận hoả tai đã thiêu trụi tất cả. Một số gạch đá ám khói còn sót lại, đến thời các vị vua Jacques, đã được dùng để xây nên một toà lâu đài khác trên nền của toà lâu đài cũ. Toà lâu đài mới này với những đầu hồi chi chít và những khuôn cửa sổ có lắp những mảnh kích hình quả trám, gợi lại hình ảnh của nền kiến trúc vào thế kỷ thứ 17. Về hai đường hào trước đây thì nay chỉ còn

lại đường bên trong. Đường hào ngoài đã được tát khô, và bây giờ trở thành một mảnh vườn trồng rau. Đường hào còn lại bao quanh

cả toà lâu đài dài, rộng đến 12 thước nhưng sâu không quá một thước. Nước trong hào là từ một dòng sông nhỏ chảy vào, nên không hôi thối. Những cửa sổ của tầng dưới cũng chỉ cao hơn mặt nước khoảng 30 phân. Lối đi duy nhất để vào lâu đài là một cây cầu rút,

đã hư hỏng từ lâu. Nhưng người chủ lâu đài hiện nay cho sửa chữa

lại để buổi sáng thì hạ xuống, đến chiều tối lại rút lên: sự phục hồi

lại truyền thống của thời phong kiến đã biến toà nhà ban đêm thành một hòn đảo. Khi gia đình Du-gia đến làm chủ toà lâu đài này thì nó đang sắp đổ nát. Gia đình chỉ gồm hai người: Du-gia và

vợ ông ta. Du-gia khoảng 50 tuổi, có một cái quai hàm thật khoẻ, nét mặt rắn rỏi, một bộ râu hoa râm, một đôi mắt xám rất sắc, vóc người lực lưỡng, dáng điệu cứng cỏi. Những gia đình lân cận có học thức hơn, đã tiếp đãi ông với một sự tò mò và có phần dè dặt, nhưng ông thì lại rất được lòng người dân ở trong làng. Ông tham gia đóng góp rất rộng rãi vào tất cả mọi hoạt động ở địa phương, phụ trách các buổi hoà nhạc, và vốn có một giọng nam trầm, bao giờ ông cũng sẵn sàng giúp vui bằng một bài hát thật hay. Hình như ông có khá nhiều tiền, và người ta đồn rằng ông đã làm giàu trong các mỏ vàng

ở xứ Cali Điều đó thì không biết có đúng không, nhưng chỉ cần nghe ông nói chuyện cũng biết ông đã sống cả một phần đời ở bên Mỹ, người ta lại càng kính trọng ông hơn vì ông hoàn toàn coi thường sự nguy hiểm. Mặc dù cưỡi ngựa rất tồi, nhưng mỗi khi có những cuộc

thi ngựa là thế nào ông cũng tham dự, và cái tính bướng bỉnh đó đã

đem lại cho ông mấy lần ngã ngựa đến kinh hồn. Khi bên nhà thờ bị cháy, lính cứu hoả địa phương đã bó tay, ông một mình xông vào cứu những đồ đạc ra. Cứ như thế, trong vòng năm năm trời, Du-gia trở thành một nhân vật nổi tiếng ở Birlstone. Vợ ông ta cũng được bạn bè kính nể, ở đây, bà ít đi lại chơi bời. Nhưng số ít bạn bè này

là đã quá đủ cho một bà chủ nhà vốn có tính dè dặt, và hình như chỉ

để hết thời gian chú ý, săn sóc chồng. Người ta biết rằng bà phu nhân người Anh này thuộc tầng lớp xã hội thượng lưu, và đã làm bạn với ông ở Luân Đôn khi ông này goá vợ. Bà rất đẹp, vóc người cao lớn, thanh mảnh, tóc màu nâu, trẻ hơn chồng đến 20 tuổi, bà thường tỏ ra rất kín đáo về quá khứ của chồng mình. Hình như bà

ta không hiểu biết gì nhiều lắm về ông ta. Một vài người còn thấy

bà vợ có vẻ bồn chồn, lo lắng mỗi khi ông chồng về trễ. Trong một vùng nông thôn thanh bình như thế này, người ta rất thích thú bàn tán về những câu chuyện mách lẻo, và khi vụ án xảy ra thì dư luận càng xôn xao và cho rằng đúng là những điều nhận xét ấy có một ý nghĩa rất đặc biệt. Trong lâu đài còn có một nhân vật nữa, tuy không sống ở đó một cách thường xuyên. Đó là ông Bar. Cái dáng cao lênh khênh rất quen thuộc trong làng, vì ông ta hay đến lâu đài, và được người ở đó quí mến lắm. Người ta nói rằng ông là người nhân chứng duy nhất biết về quá khứ của ông Du-gia. Bar chắc chắn là một người Anh rồi, nhưng qua những câu chuyện của ông

ta, thì có thể hiểu được rằng, ông ta quen biết Du-gia trước đây là ở bên Mỹ và lúc đó hai người sống với nhau thân thiết lắm. Hình như ông ta cũng giàu có lớn thì phải và hiện vẫn chưa lập gia đình. Ông

ta trẻ hơn ông Du-gia, chỉ trạc độ 45 tuổi là hết mức, người cao lớn, lưng thằng, thân hình nở nang, mặt mũi nhẵn nhụi, không để râu. Ông ta có hai hàng lông mày đen nhánh và nhất là đôi mắt đen áp đảo người khác. Ông ta không đi săn, không cưỡi ngựa, suốt ngày

cứ ngậm cái tẩu thuốc đi dạo chung quanh làng. Nếu không thì lại dong xe đi vào các vùng nông thôn với ông chủ nhà, và khi nào ông này vắng, thì với bà chủ nhà. Người đầu bếp Am trong lâu đài nói "Đó là một vị thượng lưu vô tư hào phóng". Nhưng cũng bổ xung

thêm "Nhưng thực tình, tôi không bao giờ lại dại dột muốn cãi lại

ông ta. Ông ta rất nhiệt tình với ông Du-gia, và cũng không kém phần nhiệt tình với vợ ông Du-gia." Còn đối với những người khác cùng ở trong lâu đài, thì tôi chỉ cần kể đến anh đầu bếp Am, nhanh nhẹn, đứng đắn đáng kính; bà A-len tươi tắn phốp pháp, một tay giúp việc đắc lực cho bà chủ nhà. Còn sáu người gia nhân khác thì không dính dáng gì đến những sự kiện xảy ra trong đêm đó. Đồn cảnh sát địa phương được báo tin vào 12 giờ kém 15 phút đêm. Lúc

đó là buổi trực của thượng sĩ Will thộc cảnh sát quận Sussex. Ông

Bar, đã đến đập cửa và kéo chuông ầm ầm, báo tin rằng ông Du-gia

đã bị ám sát. Báo xong, ông lại vội vã trở về lâu đài. Sau khi đã báo lên thượng cấp, thượng sĩ Will đến ngày hiện trường. Khi đến nơi, Will thấy chiếc cầu đã được hạ xuống, các cửa sổ đều sáng đèn; và toàn thể lâu đài ở trong một tình trạng rối loạn. Các gia nhân, mặt mũi xám ngoét, đứng sát vào nhau ở phòng ngoài, còn anh đầu bếp,

cứ vặn hai bàn tay vào nhau trên bực cửa, chỉ một mình ông là có

vẻ tự chủ và kìm được nỗi xúc động. Ông mở cửa ở phòng ngoài, và mời thượng sĩ đi theo ông. Cùng lúc đó bác sĩ Wu ở trong làng, cũng đến. Cả ba người bước vào căn phòng đã xảy ra tấn thảm kịch. Anh đầu bếp theo vào, đóng cửa lại. Nạn nhân nằm ngửa. chân tay duỗi thẳng ở giữa buồng, trên người chỉ có một cái áo choàng màu hồng, phủ ra ngoài bộ quần áo ngủ, chân đi giày vải. Vị bác sĩ cầm cây đèn đặt lên bàn và quỳ xuống bên cạnh xác chết; thoáng nhìn qua ông lắc đầu: Du-gia đã chết. Một thứ vũ khí kì lạ được đặt tréo ngực ông ta: Đó là một khẩu súng ngắn mà nóng đã được cưa ngắn đi, chỉ cách cò súng khoảng 30 phân. Trông rõ ràng là ông ta đã bị bắn rất gần, và bị trúng đạn vào ngay giữa mặt. Cả hai cò súng đã được nối liền với nhau bằng một sợi dây thép, để lúc bắn thì cả hai nòng đều bắn một lượt làm cho sức công phá càng ghê gớm. Viên cảnh sát nói thất thanh: - Không ai được sờ mó vào một tý gì ở đây, trước khi cấp trên của tôi đến. Ông Bar nói dứt khoát: - Chưa có ai đụng vào đây

cả, tất cả mọi vật đều vẫn y nguyên như lúc đầu. - Vào lúc mấy giờ? Viên thượng sĩ đã rút cuốn sổ tay ra. - Vào lúc 11 giờ rưỡi. Lúc đó

tôi vẫn ngồi trước lò sưởi ở trong phòng tôi, thì nghe thấy tiếng nổ.

Nổ không to lắm. Hình như có cái gì bịt kín lại vậy. Tôi vội đâm bổ

xuống dưới nhà. Tôi nghĩ rằng từ trên đó xuống đến đây không quá

30 giây đồng hồ. - Lúc đó cửa có mở không? - Cửa mở, ông Du-gia thì nằm đúng như thế này. Ngọn nến trong buồng vẫn cháy sáng ở trên bàn làm việc. Sau đó một chút thì chính tối đã thắp cây đèn lên. - Ông có trông thấy ai không? - Không. Tôi nghe thấy tiếng bà Du-gia ở trên lầu chạy xuống sau tôi, và tôi đã ngăn bà lại để cho bà khỏi trông thấy cảnh thương tâm này. Bà hầu phòng A-len cũng chạy đến và đã dìu bà chủ đi lên. Rồi anh đầu bếp Am đến, và tôi với ông ta cùng đi vào trong phòng. - Tôi tưởng rằng cây cầu rút đêm nào cũng kéo lên kia mà. - Đúng thế. Nhưng chính tôi đã hạ nó xuống để đi báo cho ông. - Nhưng vậy thì tên sát nhân làm sao trốn

ra được. Phải đặt vấn đề khác đi thôi: Có thể là ông Du-gia tự tử chăng? - Chúng tôi cũng đã có nghĩ đến điều đó. Nhưng ông xem đây này.... Ông Bar kéo tấm rèm để lộ một khuôn cửa sổ cao mở toang. - Và mời ông xem cái này nữa. Ông Bar đưa cái đèn lại gần thành cửa sổ, nơi đó có một vết máu giống hệt như hình đế của một chiếc giầy. - Rõ ràng là có người đã trèo qua đây. - Có phải ông muốn nói rằng có người đã chạy trốn bằng cách vượt qua con hào này, phải không? Nhưng mà nếu chưa đầy nửa phút sau vụ án, ông

đã có mặt ở đây, thì người ấy lúc đó còn phải đang lội nước. - Chắc chắn là như vậy. Ôi tiếc quá, không hiểu sao lúc đó tôi không nhẩy

bổ ngay qua cửa sổ. Bị cái rèm cửa này che khuất, thành ra tôi không nghĩ ra nữa. Vị bác sĩ cũng lẩm bẩm nói khẽ: - Tôi chưa bao giờ trông thấy một vết thương nát bấy ra như vậy. Viên thượng sĩ vẫn cứ ngắm maĩ khuôn cửa sổ mở rộng. - Nhưng mà này, câu chuyện có người lội nước qua khe hào nghe thú vị thật, nhưng hắn làm cách nào để vào được lâu đài, vì chiếc cầu rút đã bị kéo lên rồi mà. - à vâng. Đó, tất cả vấn đề là ở chỗ đó. - Ông Bar nói. - Thế mấy giờ thì người ta kéo cầu lên? - Lúc đó là gần 6 giờ chiều. - Ông Am trả lời. - Tôi nghe nói là ở đây vẫn thường rút câu lên vào lúc mặt trời lặn. Như thế vào mùa này thì gần 4 giờ rưỡi hơn là gần 6 giờ chứ. - Viện thượng sĩ lại nhấn mạnh - Hôm nay bà chủ tiếp khách. Tôi không thể đụng đến cây cầu khi các vị khách chưa ra về. Chính

tay tôi đã rút cây cầu lên. - Anh Am giải thích - Nếu như có những

người từ bên ngoài vào lâu đài thì họ phải đi qua cầu trước sau giờ,

rồi trốn ở trong này, vì ông chủ mãi sau 11 giờ đêm mới bước vào căn buồng này - Đúng như thế. Đêm nào, trước khi đi ngủ, ông Du- gia cũng đi một vòng quanh lâu đài để xem đã tắt hết đèn chưa? Chính trong khi đi vòng như vậy, ông đã vào căn buồng này. Tên sát nhân đã đợi ông ta ở đây, và bắn thẳng vào ông ta. Rồi hắn trốn bằng cách leo qua cửa sổ, bỏ lại cây súng. - Bar giải thích. Viên thượng sĩ cúi xuống nhặt một mẩu bìa cứng ở bên cạnh xác chết trên có ghi ba chữ T.L.V và một con số 341, chữ viết rất thô kệch. Ông ta giờ mẩu bìa lên hỏi: - Cái gì thế này? Ông Bar nhìn mẩu bìa một cách tò mò: - Tôi cũng không để ý thấy nó. Có lẽ tên hung thủ lúc chạy trốn đã bỏ rơi lại. - T.L.V . 341. Tôi chẳng hiểu gì cả. Viên thượng sĩ cứ xoay đi xoay lại mãi mẩu bìa. - T.V.L? Có lẽ là những chữ đầu tiên của một người nào đây chăng. Bác sĩ Wu, bác sĩ có cái

gì đó. Ông bác sĩ đã nhặt được một chiếc búa khá to trước lò sưởi. Ông Bar chỉ vào một hộp dính dầu bằng đồng trên mặt lò sưởi, giải thích: - Ngày hôm qua, ông Du-gia có thay đổi chỗ treo mấy bức tranh. Tôi thấy ông ta đứng trên chiếc ghế này để treo bức tranh lớn bên trên. Việc đó cắt nghĩa tại sao lại có chiếc búa trên đây. Viên thượng sĩ gãi đầu ra vẻ khó nghĩ: - Có lẽ chúng ta nên để lại chiếc búa ở nơi tìm thấy nó thì hơn. Phải những cái đầu giỏi nhất ở Scotland Yard mới hiểu thấu đáo được mọi việc. Rồi ông ta cầm lấy chiếc đèn từ từ đi quanh căn phòng. - Có người đã trốn ở đây, chắc chắn là như thế..... Ông thượng sĩ hạ cây đèn thấp xuống: ở một góc, thấy những vết giầy có dính bùn rất rõ. - Việc phát hiện này là phù hợp với gỉa thiết của ông, ông Bar ạ. Có thể là tên hung thủ đã vào lâu đài sau 4 giờ chiều khi những tấm rèm cửa sổ đã được buông xuống; và trước sáu giờ, khi cây cầu được rút lên. Nó lẩn ngay vào đây, trốn đằng sau bức rèm này. Rất có thể ý định của nó là vào ăn trộm, nhưng chẳng may ông Du-gia lại bắt gặp nó, thế là nó giết ông ta và chạy trốn. - Tôi cũng nghĩ gần giống như vậy. Nhưng ông

có thấy rằng chúng ta đã mất bao nhiêu thời giờ quí báu rồi không? Tại sao chúng ta không kéo cả mọi người ra đi lùng sục khám xét

khắp xung quanh, trước khi hung thủ có thể trốn thoát được. - Bar

đề nghị. Viên thượng sĩ cắn môi suy nghĩ một lát: - Không có chuyến tàu nào chạy trước sáu giờ sáng. Vậy nó không thế trốn thoát đi bằng đường tàu hoả. Nếu nó đi đường bộ thì với cái quần ướt sũng, thế nào nó cũng bị người ta để ý. Nhưng dù sao tôi cũng không thể rời khỏi đây được trước khi có người đến thay tôi. Vị bác

sĩ lại cầm lấy cây đèn để khám lại tử thi một lần nữa. Ông bỗng hỏi:

- Cái vết này là cái gì đây. Nó có liên quan gì đến vụ án này không? Cánh tay áo bên phải của người chết đã được kéo lên khuỷu tay, ở giữa cánh tay thấy nổi lên trên da hình màu nâu của một tam giác nằm trong một vòng tròn. Bác sĩ Wu nói: - "Đây không phải là một vết xâm. Tôi coi bộ như ngưòi này đã bị đánh dấu bằng một cái khuôn nung đỏ, giống như người ta đánh dấu đàn gia súc vậy." Bác

sĩ nói thêm: "Thế này là thế nào?" - Tôi không hiểu được. Có điều là

từ mười năm nay, tôi đã nhiều lần nhìn thấy cái dấu này trên tay ông Du-gia. - ông Bar nói. - Tôi cũng thấy nhiều lần khi ông chủ xắn tay áo lên. - Anh đầu bếp nói - Nếu như vậy thì nó không có dính dáng gì đến vụ án mạng này rồi. Nhưng dù sao thì nó cũng thật kỳ lạ. Trong vụ này không có cái gì là bình thường cả. Tôi cũng không hiểu bây giờ còn xảy ra những gì nữa đây - Viên thượng sĩ kết luận Anh đầu bếp vừa thốt kêu lên kinh ngạc và chỉ vào bàn tay duỗi thẳng của người chết, nói lắp bắp: - Nó tháo mất chiếc nhẫn cưới của ông rồi. - Cái gì? - Ông chủ tôi đeo chiếc nhẫn bằng vàng ở bên trong một chiếc nhẫn khác có gắn một hạt ngọc, chiếc nhẫn có hạt ngọc còn đây nhưng chiếc nhẫn cưới thì biến mất. - Anh ấy nói đúng đấy. - Bar lên tiếng - Ông vừa khai là chiếc nhẫn cưới đeo ở trong chiếc nhẫn có gắn ngọc., - Viên thượng sĩ hỏi lại. - Thưa vâng.

- Thế thì hung thủ đã tháo chiếc nhẫn có ngọc ra, rồi sau đó nó mới đoạt lấy chiếc nhẫn cưới, rồi lại đeo lại chiếc nhẫn có hạt ngọc vào tay người chết. - Như vậy đó. Viên thượng sĩ lắc đầu lia lịa: - Chúng

ta hãy báo cáo tất cả về Luân Đôn. Ông Maso là một tay cừ khôi. Chưa bao giờ có một vụ án nào làm ông phải lúng túng cả. Còn về phần tôi, tôi xin thú nhận là vụ này vượt quá sức hiểu biết của tôi.

Chương 4

TỐI MÒ

Ông Maso trông có vẻ bình tĩnh và thoải mái. Ông mặc một bộ quần áo vải tuýt rộng thùng thình, chân đi ghệt. Trông ông giống như một ông chủ trại cỡ nhỏ, một người gác rừng đã về hưu, hơn là giống một người đại diện cơ quan cảnh sát hình sự cấp tỉnh. Ông không ngừng nhắc đi nhắc lại: - Đây là một vụ án làm đau đầu đây, thưa ông Dona. Tôi mong rằng chúng ta sẽ làm tốt được nhiều việc, trước khi bọn ký giả rúc mũi vào cuộc điều tra làm hỏng hết các dấu vết. Có nhiều chi tiết có lẽ sẽ làm ông vui lòng., thưa ông Holmes.

Cả đối với ông cũng thế, thưa ông bác sĩ Watson. Buồng của các ông

đã được đăng ký trước ở khách sạn "Huy hiệu của Tây Thành". Thôi

để bác khuân vác trông coi hành lý và xin mời các ông vui lòng đi theo tôi. Chỉ sau 10 phút là chúng tôi đã có phòng ở và 10 phút sau nữa, chúng tôi đã ngồi cả trong phòng khách của khách sạn. Ông Dona giở sổ tay ra ghi. Còn Holmes thì có dáng điệu của một nhà thực vật học vừa ngạc nhiên vừa ngắm nghiá một bông hoa. Sau khi nghe xong câu chuyện, anh ta reo lên: - Tuyệt. Thật là tuyệt. Chưa

có một vụ nào kỳ lạ như vụ này. Ông Maso hớn hở: - Vâng, tôi đã trình bày với các ông tất cả những gì mà thượng sỹ Will báo cáo với tôi. Thượng sĩ đã nắm được hết mọi sự kiện. Tôi đã có kiểm tra lại, suy nghĩ, và có bổ sung thêm chút ít. - Thế ông có biết thêm điều gì mới nữa không? - Holmes hỏi. - Trước hết, tôi xem xét chiếc búa, không tìm thấy một dấu vết gì của bạo lực cả. Ông thanh tra Dona lưu ý: - Trong nhiều vụ án mạng, nạn nhân bị đập bằng búa, mà trên chiếc búa có thấy dấu vết gì đâu. - Đúng như vậy. Sau đó tôi xem xét đến khẩu súng. Súng được lắp đạn ghém, hai cò súng được buộc với nhau, chỉ cần bóp cò thì cả hai viên đạn ở hai nòng để nổ một lúc. Nòng súng bị cưa ngắn đi, như vậy có thể dễ dàng mang nó theo dưới một áo khoác. Toàn bộ tên của nhà sản xuất thì không thấy có, nhưng trên những đường góc giữa hai nòng súng thấy còn

lại chữ "PEN", các chữ khác thì bị cưa đi mất rồi. Holmes hỏi luôn" -

Một chữ P hoa có vẽ hoa lá bên trên, và một chữ E, một chữ N nhỏ

hơn có phải không ạ? - Đúng đấy ạ. - Hãng sản xuất súng Mỹ tên là "Pennsyl-vania Small arm Company" Ông Maso nhìn Holmes với cặp mắt của một ông thầy thuốc nông thôn nhìn một đại chuyên gia trong ngành y tế. - Không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là một khẩu súng Mỹ rồi. Tôi có đọc đâu đấy rằng súng săn cưa nòng, chính là một loại vũ khí thường dùng trong một số vùng nào đó ở bên Mỹ. Như vậy có rất nhiều khả năng là cái tên đã lọt vào trong lâu đài và

đã giết ông chỉ nhà là ngươì Mỹ. Ông Dona gật gù: - Ông đi mau quá đấy, tôi chưa có chứng cớ gì để tin rằng có một kẻ lạ mặt đã lọt vào trong này. - Cửa sổ mở toang, vết máu trên thành cửa, mẩu bìa cứng, vết giày ở góc nhà, khẩu súng... - Mấy thứ đó chẳng có cái gì mà không bố trí trước được? Ông Du-gia vốn là một người Mỹ, ông Bar cũng thế, vậy thì đâu nhất thiết phải đưa một người Mỹ khác

từ ngoài lọt vào để giải thích những chi tiết Mỹ đó. - Am, người đầu bếp... - Anh ta có đáng tin cậy không? - Anh ta đã ở với gia đình Du- gia từ 5 năm nay. Anh ta chưa hề trông thấy khẩu súng này trong nhà. - Khẩu súng này không phải là thứ đem trưng bày cho mọi người thấy. Chính vì thế người ta mới đem cưa nòng của nó đi. Nó

có thể đem cất giấu vào bất cứ một cái hộp nào. Làm sao anh Am lại

có thể đoán chắc được rằng trong nhà không có một khẩu súng loại này. - Nhưng dù sao thì tôi cũng chưa trông thấy nó bao giờ. Dona vẫn lắc đầu không chịu: - Tôi vẫn chưa tin là có một người lạ mặt vào đây. Tôi xin các ông hãy thử suy nghĩ xem hậu quả sẽ như thế nào khi giả thiết rằng khẩu súng này là do một người từ bên ngoài mang vào và người này đã hành động như các ông vừa nói. Holmes lấy cái giọng rất "chánh án" chỉ Dona, nói: - Ông Dona, toà nghe lời khai của ông. - Hung thủ không phải là một tên ăn trộm tầm thường. Chuyện chiếc nhẫn và mẩu bìa cứng đã chứng tỏ rằng đây

là một vụ giết người có âm mưu, vì một lý do cá nhân nào đó mà ta chưa rõ. - "Vậy hung thủ đã lẩn vào trong nhà với ý định gây ra một

vụ án". Maso nói. "Hắn biết sẽ gặp khó khăn khi muốn thoát ra vì lâu đài được bao bọc bởi một đường hào đầy nước. Vậy thì hắn sẽ chọn thứ vũ khí gì? Chắc các vị sẽ trả lời tôi: Một vũ khí thầm lặng.

Dùng vũ khí đó, thì sau khi gây ra án mạng, hắn có thể hy vọng

chui nhanh qua cửa sổ, lội qua con hào rồi bình tĩnh chạy trốn. Như vậy, thì tôi có thể chấp nhận được, Còn nói hắn chọn một khẩu súng, trong khi hắn biết tiếng nổ sẽ làm cho mọi người trong nhà đổ

xô đến và hắn sẽ bị phát hiện trưóc khi lội qua con hào.Liệu luận cứ này có lý không, thưa ông Holmes". Anh bạn tôi suy nghĩ một lát rồi đáp: - Tất nhiên là ông đã trình bày sự việc một cách không thể cãi được. Nhưng mà phải có chứng minh. Tôi xin phép được hỏi ông Maso, không biết ông có xem xét ngay bờ bên kia của đường hào để tìm dấu vết của một người từ dưới nưóc lội lên không? - ở đó không

có một dấu vết nào. Bờ bên kia xây bằng đá, thành ra cũng khó thấy. - Không có một cái vết, không có một dấu in nào, không có gì

cả hay sao? - Tuyệt đối không. - A, thế nếu bây giờ tất cả chúng ta cùng đi ngay ra đấy xem lại. - Tôi cũng định đề nghị như vậy. Nhưng có lẽ tốt hơn cả, tôi thông báo hết mọi chuyện để ông nắm trước khi ra đấy. Maso nhìn Holmes, không tin tưởng gì lắm. Ông thanh tra Dona nói: - Tôi đã có làm việc với ông Holmes và ông đã chịu vào cuộc với chúng ta rồi. Holmes cười tủm tỉm: - Tôi vào cuộc nhưng với quan niệm riêng của tôi về cách chơi. Tôi có chú ý đến một vụ nào cũng cốt là để giúp đỡ công lý và công việc của cảnh sát mà thôi. Nếu tôi có đứng ngoài cơ quan cảnh sát thì cũng chỉ vì cơ quan này gạt tôi ra ngoài. Nói rõ như thế rồi, tôi đòi hỏi quyền được làm việc theo những phương pháp riêng và khi nào thấy có thể được, tôi sẽ xin thông báo với ông những kết quả toàn bộ làm một lần, chứ không phải từng phần một. Ông Maso nói: - Chúng tôi rất hân hạnh về sự có mặt của ông, bác sĩ Watson, chúng tôi hy vọng rằng sau này chúng tôi sẽ được ông dành cho một chỗ trong những tác phẩm của ông. Chúng tôi đi xuôi xuống một con đường làng giữa hai hàng cây dương đã hớt ngọn. Ở phía dưới hai cây cột bằng đá phủ rêu còn dấu vết của con sư tử đá ngày xưa. Sau một khúc quẹo gấp cuối cùng, chúng tôi trông thấy toà nhà cổ thấp xây bằng gạch cũ. Toà lâu đài đã qua ba thế kỷ, chứng kiến biết bao sự ra đời, bao lần đi xa trở về tổ ấm, bao nhiêu cuộc khiêu vũ, bao nhiêu cuộc hẹn hò. Nay những bức tường cổ kính này lại phải chứng kiến một tấn

thảm kịch thương tâm. Maso chỉ cho chúng tôi: - Đó, cửa sổ đó. Cái

cửa ở ngay bên phải sát cây cầu rút. Nó được mở toang ra đúng như trong đêm hôm qua. - Nó hẹp quá, làm sao một người chui qua được. - Tên hung thủ chắc không mập lắm. Ông và tôi, chúng ta đều chui qua được một cách dễ dàng. Holmes đi tới con hào, xem xét bãi

cỏ cùng bờ đá. Maso nhắc lại: - Tôi đã xem kĩ lắm rồi, không có bất

cứ một dấu vết gì chứng tỏ có một người từ dưới nước đi lên. - ở đây

cứ luôn đục bùn thế này? - Thường thì nước có màu này. Giòng nước sông đưa phù sa vào. - Nó sâu bao nhiêu. - ở gần bờ thì khoảng 60 phân, còn giữa thì một thước. - Như vậy chúng ta có thể loại bỏ giả thiết là hắn bị chết đuối khi lội qua hào. - Trẻ con cũng không chết đuối. Chúng tôi bước qua chiếc cầu rút và một nhân vật xương xẩu

ra mở cửa cho chúng tôi: Đó là Am. Anh chàng vẫn còn run rẩy. Thượng sĩ ngồi cạnh trong căn phòng xảy ra án mạng. Ông bác sĩ Wu đã về. Ông Maso hỏi: - Có gì mới không, thượng sĩ Will? - Thưa ông, không có gì. - Thế thì anh có thể về nhà. Khi nào cần anh, sẽ báo sau. Anh bảo anh đầu bếp hãy đi báo cho ông Bar, bà Du-gia và

bà hầu phòng rằng chúng tôi cần gặp họ. Bây giờ, tôi xin trình bày quan điểm riêng của tôi, sau đó các ông sẽ nói lên quan điểm của các ông... Cái ông cảnh sat ở tỉnh nhỏ này coi bộ mới đàng hoàng làm sao. Ông ta nắm rất vững mọi sự kiện và có một bộ óc sáng suốt, lạnh lùng, nhất định ông ta sẽ tiến rất xa về nghề nghiệp. Holmes nghe ông ta nói một cách chăm chú. - ... Đây là một vụ tự sát? Hay là một vụ ám sát? Nếu đây là một vụ tự sát thì chúng ta phải tin rằng người nay bắt đầu tháo chiếc nhẫn cưới của mình ra, đem giấu đi./ Rồi người đó đi xuống đây, đặt đôi giày có dính bùn vào đằng sau bức rèm cửa để làm cho người ta tưởng là có ai đứng đợi ở đó, sau đó mở toang cửa sổ ra, bôi máu lên thành... Ông Dona cắt ngang: - Chúng ta có thể gạt bỏ giả thiết này. - Vậy thì đã xảy

ra một án mạng. Chúng ta phải tìm xem hung thủ là người trong nhà hay từ ngoài vào. - Chúng tôi xin nghe lập luận của ông. - Trong cả hai trường hợp đó, chúng ta đều vấp phải những khó khăn

to lớn. NHưng không thể có một giả thiết thứ ba. Chỉ một trong hai giả thiết đó thôi. Trước hết chúng ta hãy giả thiết: hung thủ là

người ở ngay trong lâu đài này. Chúng đã hạ ông Du-gia trong một

thời điểm mà tất cả mọi sự đều yên tĩnh, nhưng chưa ai ngủ cả. Mặt khác, chúng đã gây án mạng bằng một vũ khí lạ nhất và ầm ĩ nhất, để sau đó mọi người đều biết. Một vũ khí mà trước đó, chưa ai nhìn thấy ở trong nhà. Như vậy thật cũng khó tin quá. - Vâng khó tin thật. - Tất cả mọi lời khai đều khớp với sự kiện này. Sau khi báo động, chỉ chưa đầy một phút, thì mọi người đã có mặt ở hiện trường. Như vậy thì liệu các ông có tin được rằng trong một khoảng thời gian rất ngắn mà hung thủ đã làm rất nhiều việc: in các dấu chân trong góc nhà, mở cửa sổ, làm vấy máu lên thành cửa, rút chiếc nhẫn cưới ra rồi lại gắn vào .... Holmes tán thành: - Ông đặt vấn đề một cách rất rõ ràng.Tôi ngả theo quan điểm của ông. - Như vậy, chúng ta bắt buộc phải trở lại giả thiết do một người ở ngoài gây ra. Tên sát nhân đã lọt vào nhà trong khoảng thời gian từ 4 giờ rưỡi đến 6 giờ chiều. Hôm đó có tiếp khách, cửa mở rộng, nên không

có gì ngăn được nó. Cũng có thể nó chỉ là một tên ăn trộm tầm thường thôi. Cũng có thể nó là một người có hận thù riêng gì với ông Du-gia. Nó đã chui vào căn phòng này và đã trốn ở đằng sau bức rèm cửa. Nó đứng ở đó đến quá 11 giờ đêm. Vào giờ này ông Du-gia bước vào phòng. Cuộc đối thoại với tên sát nhân rất ngắn ngủi, vì bà Du-gia khai rằng chồng bà mới đi xuống chừng vài phút thôi là bà đã nghe thấy tiếng súng . - Cây nến cũng phù hợp với điều đó. - Holmes nói. - Đồng ý. Cây nến còn mới, chỉ cháy khoảng 1 phân rưỡi, chắc ông ta đã đặt nó lên bản trước khi bị tấn công; nếu không, nó đã rơi xuống đất khi ông ta ngã. Điều này cũng chứng tỏ

là ông ta không bị tấn công ngay khi vừa bước vào phòng. - Tất cả đều rõ ràng. - Bây giờ chúng ta có thể hình dung lại diễn biến của

vụ án.: Ông Du-gia bước vào phòng, đặt cây nến lên bàn. Một người

từ sau bức rèm hiện ra. Hắn có mang cây súng. Hắn đòi chiếc nhẫn cưới. Ông Du-gia đưa nhẫn cho hắn. Thế là hắn bắn ông Du-gia vì ông này đã vớ được cái búa để trên thảm. Hắn bỏ rơi khẩu súng xuống, và cả mẩu bìa cứng có mang chữ "TLV 341". Rồi hắn chạy trốn qua cửa sổ và lội qua hào giữa lúc ông Bar phát hiện ra vụ án mạng. Ông nghĩ thế nào ông Holmes? - Rất hay, nhưng chưa thuyết

phục được người nghe. Ông Dona kêu lên: - Ông bạn thân mến, tôi

sẽ chứng minh cho ông thấy là nó sẽ hành động theo một cách khác. Tại sao nó dám dùng một khẩu súng sau khi nó biết rằng muốn thoát ra thì phải dùng một vũ khí thầm lặng. Nào, ông Holmes bây giờ xin ông cho biết ý kiến. Holmes hết liếc mắt từ phải qua trái rồi

từ trái sang phải. Anh đứng dậy, đến quỳ bên xác chết. - Tôi muốn

có thêm một vài sự kiện bổ xung, trước khi đi vào một giả thiết, thưa ông Dona. Những vết thương này thật là khủng khiếp. Chúng

ta có thể cho anh đầu bếp vào đây một lát được không, các ông...

Anh Am, tôi chắc rằng anh đã được nhìn thấy nhiều lần cái hình rất kì lạ này, một tam giác trong một đường tròn, áp bằng sắt nung

đỏ lên cẳng tay của ông Du-gia phải không? - Vâng, thưa ông, nhiều

lần ạ. - Anh có bao giờ nghe thấy một lời nói nào có thể giải thích được ý nghĩa của cái dấu ấy không? - Thưa ông, không. - Chắc lúc mới áp vào phải đau đớn lắm đấ., Rõ ràng là một vết bỏng. Này anh Am, bây giờ tôi trông thấy một miếng băng dính ở dưới cằm ông Du-gia. Anh có nhận thấy không? - Thưa ông có ạ. Sáng hôm qua, ông ấy đã bị đứt khi cạo mặt. - Ông ấy có hay bị đứt như vậy khi cạo mặt không? - Thưa ông, hầu như không. - Rất hay. Tất nhiên đây chỉ là một sự ngẫu nhiên thôi. Nếu không, nó chứng tỏ ông ta đang lo lắng về một mối nguy hiểm nào đó. Anh Am, ngày hôm qua anh có nhận thấy có một cái gì đó khác thường trong sinh hoạt của ông chủ không? - Ông chủ tôi có hơi bồn chồn và cáu gắt. - à, thế thì. Hình như chúng ta đã tiến thêm được vài bước. Ông Dona, ông

có muốn đích thân hỏi thêm gì nữa không? - Không, xin nhường cho những người cao minh hơn. - Vậy thì chúng ta quay sang mẩu bìa "TVL 341". Đây là một loại bìa "TLV 341". Đây là một loại bìa tồi, ở trong nhà có thứ bìa nào giống thế này không? - Thưa ông, không ạ. Holmes đi lại bên bàn giấy, lấy mỗi lọ mực, đổ vài giọt lên giấy thấm. - Những chữ này không phải viết ở đây rồi. Viết bằng mực đen, còn mực ở đây màu đỏ gạch, vả lại viết bằng một ngoì bút to nét, còn những ngòi bút ở đây đều nhỏ nét cả. - Không, những chữ này đã được viết ở nơi khác rồi. Anh Am, anh có cho rằng những chữ này có ý nghĩa gì không? - Thưa ông, tôi không biết. - Ông nghĩ

thế nào, ông Dona? - Nó làm tôi nghĩ đến một hội kín. Cái dấu ở

trên cánh tay kia cũng thế. - Tôi cũng nghĩ như vậy. - Ông Maso lên tiếng. - Chúng ta chọn giả thiết đó. Một thành viên của một hội kín

lọt vào trong lâu đài, chờ ông Du-gia và bắn vỡ sọ ông ta, rồi trốn ra bằng đường hào, sau khi đã vứt lại bên cạnh nạn nhân một mẩu bìa cứng có ghi những chữ mà khi báo chí đăng lên sẽ báo tin cho các thành viên khác của hội biết rằng việc trả thù đã hoàn thành. Tất

cả mọi cái đều khớp. - Nhưng tại sao lại dùng súng, mà không dùng bất cứ vũ khí nào khác? - Đúng thế. - Và tại sao chiếc nhẫn cưới lại biến mất? - Đồng ý. - Tại sao người ta lại chưa bắt được người nào? Bây giờ là 14 giờ rồi, tôi chắc rằng từ rạng đông đến giờ tất cả cảnh sát đang truy lùng một người lạ mặc quần áo ướt và lấm bùn. - Vâng, ông không nhầm, ông Holmes ạ. - Nếu hắn không có một nơi

ẩn nấp ở gần đây, và nếu hắn không thay được quần áo, thì cảnh sát không để lọt lưới. ấy vậy mà cho đến giờ này, hắn đã lọt lưới thật.... Holmes đi lại phía cửa sổ, và rút chiếc kính lúp ra, xem xét vết máu trên thành cửa. - Đúng là vết in của một bàn chân. To hơn bình thường. Phải nói là giống như một bàn chân phẳng. Một điều

kì lạ khác nữa: Cái vết chân dính bùn ở góc nhà kia lại có vẻ bình thường hơn vết này. Nói cho ngay ra, thì tất cả đều mờ nhạt không

rõ ràng. Còn cái gì ở dưới gầm chiếc bàn con thế kia? - Những qủa

tạ của ông Du-gia. - Am đáp. - Chỉ thấy có một quả thôi, Còn quả kia đâu? - Thưa ông, tôi không biết. Có thể là chỉ có một quả thôi, Đã hàng tháng nay tôi không nhìn xuống đó. Holmes nói một cách trầm ngâm: - Một quả tạ .... Một tiếng gõ cửa đã ngắt lời anh. Một người đàn ông cao lớn, mặt cạo râu nhẵn nhụi, da rám nắng, trông thông minh, lanh lẹ bước vào. Đó là Bar. Đôi mắt quen ra lệnh của ông ta đảo nhìn chúng tôi một lượt. - Tôi xin lỗi đã làm gián đoạn cuộc họp, nhưng tôi muốn báo các ông một tin cuối cùng, - Đã bắt được rồi ư? - Chưa. Nhưng người ta đã tìm thấy chiếc xe đạp, hung thủ đã bỏ nó lại. Chỉ cách cửa ngoài không đầy một trăm thước thôi, Mấy gia nhân cùng những người hiếu kì đang ngắm nghiá một chiếc xe đạp mà người ta vừa lôi ở trong một bụi cây ra. Cái túi sau yên xe đựng một chiếc cờ lê và một lọ dầu nhớt, nhưng không có

một chỉ dẫn nào về người chủ của nó. ông thanh tra thở dài, nói: -

Công việc sẽ đơn giản biết bao nếu xe này có mang biển số. Nhưng chúng ta sẽ biết được ngay chủ nó mang xe từ đâu đến. Nhưng mà,

tại sao hắn lại vứt bỏ chiếc xe đạp? Làm thế, hắn không đi xa được. Ông Holmes này, hình như chúng ta chưa có được một tia sáng nào.

- Chính tôi cũng đang tự hỏi như vậy. - Holmes đáp.

Chương 5

NHỮNG NHÂN VẬT CỦA TẤM THẢM KỊCH

Khi chúng tôi bước ra khỏi phòng, ông Maso còn hỏi lại: - Các ông đã xem kỹ căn phòng này chưa? - Hiện nay thì đủ rồi. - ông thanh tra đáp. Holmes cũng gật đầu đồng ý. - Bây giờ thì chắc các ông muốn nghe lời khai của một vài người ở trong lâu đài này. Anh Am, chúng tôi sẽ làm việc ở trong phòng ăn. Trước hết, anh hãy cho chúng tôi nghe tất cả những gì mà anh biết. Câu chuyện của anh đầu bếp kể lại đã thuyết phục được người nghe. Anh ta đã được nhận vào làm 5 năm trước đây, khi ông Du-gia vừa đến ở Birlstone. Ông Du-gia là một người có của và đàng hoàng, đã từng làm giầu trước đây ở bên Mỹ, ông tỏ ra là một ông chủ tốt và hào phóng, ông Du-gia ra lệnh mỗi buổi chiều phải kéo cây cầu lên là để nối tiếp lại một phong tục cũ của toà lâu đài cổ này. Ông rất ít khi đi Luân Đôn, và cũng ít khi rời khỏi làng. Nhưng một ngày, trước hôm xảy

ra án mạng, ông đi lên Tunbridge Wells để mua sắm một ít đồ vật. Ngày hôm sau, chính Am nhận xét thấy ông Du-gia có vẻ hơi nóng nảy, cáu gắt và điều này thật là khác thường. Lúc xảy ra án mạng, Am đang ở trong bếp, đang cất dọn các đồ chén bát. Chính lúc đó anh nghe tiếng kéo chuông thật mạnh, nhưng không nghe thấy tiếng súng nổ vì từ bếp lên đến căn phòng ấy còn phải qua một dãy hành lang dài và mấy lớp cửa đóng. Tiếng chuông quá mạnh cũng làm cho bà hầu phòng phải chạy ra, và hai người cùng chạy lên nhà

trên. Khi đến chân cầu thang, thì bà Du-gia ở trên lầu đang đi

xuống. Không, bà ta không có dáng vội vàng. Và Am có cảm giác là

bà ta không bối rối. Khi bà Du-gia xuống đến bậc cầu thang cuối cùng, thì ông Bar từ trong phòng chạy ra, ngăn bà lại và xin bà trở lên. Ông ấy kêu lên: - Chị hãy trở lên phòng ngay đi. ảnh đã chết rồi. Chị lên đi. Ông Bar phải nói mãi bà Du-gia mới chịu lên phòng.

Bà không khóc. Bà không làm ồn ào. Bà hầu phòng A-len đã dìu bà lên và ở trong phòng với bà. Am và ông Bar lúc đó mới đi vào trong căn phòng. Bấy giờ ngọn nến khôngcháy, mà cây đèn lại cháy. Cả hai người nhìn qua cửa sổ, nhưng đêm tối đen như mực, và không nghe thấy gì cả. Họ đổ xô ra buồng ngoài và Am đã hạ cây cầu rút xuống để ông Bar đi báo cảnh sát. Lời khai của bà hầu phòng A-len cũng khớp với lời khai của Am. Buồng riêng của bà hầu phòng ở gần phía nhà trên hơn là chỗ bếp của Am. Bà đang đi ngủ, thì nghe tiếng chuông kéo thật mạnh. Bà có hơi nặng tai. Không biết có phải

vì thế mà bà không nghe thấy tiếng súng chăng? Khi ông Am chạy lên nhà trên, thì bà cũng chạy theo ông ta. Bà có trong thấy ông Bar mặt bối rối từ trong phòng đi ra.Ông ta chạy đến trước mặt bà Du-gia lúc đó ở trên cầu thang đi xuống. Ông ta năn nỉ mời bà Du- gia đi lên, và bà ta có trả lời lại điều gì đó mà bà A-len nghe không

rõ. Ông Bar ra lệnh cho bà: - Bà đưa bà chủ lên lầu đi. Và ở luôn đó với bà chủ. Bà đưa bà chủ lên lầu về phòng và cố khuyên bà chủ bình tĩnh lại. Bà Du-gia, chân tay run bắn, nhưng cũng không muốn đi xuống nữa. Bà mặc chiếc áo khoác, ngồi vào bên lò sưởi, hai tay ôm lấy đầu. Bà A-len đã ở lại đó cả đêm với bà. Còn các gia nhân khác, thì họ đều đi ngủ cả, và chỉ được báo động trước lúc cảnh sát đến một chút thôi. Đến lượt ông Bar. Về những sự kiện xảy ra đêm hôm qua, ông cũng khai y như đã khai với thượng sĩ Will. Riêng ông, ông tin rằng tên sát nhân đã trốn qua cửa sổ. Theo ông thì vết máu ở trên thành cửa sổ không cho phép người ta nhgi ngờ điều đó. Nhưng ông ta không hiểu vì sao hung thủ lại có thể biến đi được, hoặc tại sao nó lại không chịu trốn bằng xe đạp, nếu chiếc xe ấy là của nó. Về vụ án mạng này, ông có thể có một quan điểm rất rõ ràng. Ông Du-gia là người ái Nhĩ Lan di cư sang Mỹ từ

thời còn thanh niên, đã làm ăn phát đạt và Bar đã quen biết ông ta

ở Cali. Hai người chung vốn khai thác một cái mỏ, kết quả hết sức

tốt đẹp. Đột nhiên Du-gia bán lại phần của ông ta và trở về Anh. Lúc đó Bar vừa goá vợ. ít lâu sau, Bar chuyển hết tài sản ra thành tiền mặt rồi về Luân Đôn, vì thế hai người lại nối lại tình bạn cũ. Du-gia làm cho Bar có cảm giác rằng có một mối nguy hiểm nào đó đang treo trên đầu mình, và Bar vẫn nghĩ rằng việc Du-gia đột ngột

rời bỏ Cali là có liên quan đến mối nguy hiểm đó. Bar tưởng tượng một hội kín nào đó, có mối thù không đội trời chung với Du-gia. Chính một vài câu nói của Du-gia đã làm nẩy nở ý nghĩ này trong đầu Bar, chứ bản thân Bar thì chưa bao giờ hỏi gì về cái hội kín này. Bar đoán rằng những chữ viết trên mẩu bìa cứng là có liên quan đến hội kín. Ông thanh tra Dona hỏi: - Ông đã sống với ông Du-gia trong bao lâu ở Cali? - Khoảng 5 năm. - Lúc đó Du-gia sống độc thân? - Goá vợ. - Bà vợ thứ nhất của Du-gia là người nước nào?

- Thuỵ Điển. Tôi có thấy ảnh của bà ta. Đó là một phụ nữ rất đẹp, chết trước khi chúng tôi quen nhau một năm. - Liệu ông có thể xác định được quá khứ của bà ta ở một vùng nào cụ thẻ bên Mỹ không?

- Du-gia có nói với tôi là ở Chicago. Ông ta biết rất rõ thành phố này

và đã làm việc ở đó, Ông ta cũng có nói với tôi về những vùng mỏ khai thác than và sắt. - Ông Du-gia có làm chính trị không? Cái hội kín này có mục đích chính trị không? - Không. Ông ấy không bao giờ để ý đến chính trị. - Ông có nghĩ rằng đây là một cái hội phạm pháp không? - Tuyệt đối không. Tôi chưa thấy một người nào lại thẳng thắn và dứt khoát như ông Du-gia. - Ông có thể cho chúng tôi biết những chi tiết gì đặc biệt về cuộc đời của Du-gia ở Cali được không? - Lúc đó ông ta sống ru rú trong khu mỏ và chỉ đi đến những nơi đông người khi nào đặc biệt lắm mà thôi. Khi ông ta đột ngột bỏ về Châu Âu, thì một tuần lễ sau có sáu người đến tìm ông

ta. - Loại người như thế nào? - Những người trông có vẻ bất trị lắm. Họ kéo nhau đên khu mỏ và muốn biết Du-gia đang ở đâu. Tôi nói

là ông ta đã trở về Châu Âu và tôi không biết địa chỉ. - Họ là người Mỹ? Người Cali? - Cali thì tôi không biết. Nhưng người Mỹ thì chắc chắn rồi, không phải là dân thợ mỏ. - Cách đây có đến sáu năm

không? - Gần bẩy năm . - Thế mà hai ông đã sống với nhau 5 năm ở

Cali. Vậy thì cái vụ hội kín này phải cách đây ít nhất đến 11 năm. - Đúng thế. - Một mối thù dai dẳng. - Tôi nghĩ rằng mối thù này lúc nào cũng lởn vởn trong đầu ông ta. - Khi một người cảm thấy mình

bị đe doạ, thì người đó phải nhờ cảnh sát bảo vệ chứ? - Có thể đây là một mối nguy hiểm mà các cơ quan cảnh sát không làm gì được cũng nên, Nhưng có một điều này các ông cần phải biết: ông Du-gia không khi nào đi ra ngoài lại không mang vũ khí. Nhưng hôm qua ông ấy lại mặc chiếc áo khoác ở nhà, và để súng ở trong buồng. Có

lẽ vì thấy chiếc cầu rút đã kéo lên, nên ông ta cho thế là an toàn chăng? Ông Dona hỏi thêm: - Ông Du-gia đã rời Cali đã sáu năm rồi. Đến năm sau thì ông cũng bỏ đi nốt phải không? - Vâng, đúng thế. - Ông ta lấy vợ khác từ năm năm nay. Vậy thì ông trở về Anh vào lúc ông ta cưới vợ chứ? - Một tháng trước ngày cưới. Tôi là người làm chứng của ông ta. - Thế ông có quen biết bà Du-gia trước khi cưới không? - Không. Tôi đã rời khỏi nước Anh từ mười năm rồi.

- Nhưng từ đó đến nay ông đã gặp bà ta nhiều lần rồi chứ? Bar nhìn ông thanh tra một cách hết sức nghiêm trang: - Tôi đã gặp ông ta nhiều lần, từ ngày cưới đến giờ. Còn nếu tôi có gặp bà ta đi nữa thì bới vì không thể ở trong nhà một người mà lại không biết đến vợ người đó. Nếu ông tưởng tượng rằng có một mối liên quan nào đó....

- Tôi chẳng tưởng tượng gì cả. Tôi có nhiệm vụ phải tìm tất cả những gì có thể liên quan đến vụ án. Nhưng tôi không muốn làm mất lòng ai. Bar đáp lại một cách khô khốc: - Có những cái tìm kiếm làm mất lòng người khác đấy, ông thanh tra à. - Chúng tôi chỉ muốn có các sự kiện. Nếu những sự việc này được trình bày ra đây một cách sáng tỏ, thì điều này chỉ có lợi cho ông, cho mọi người. Ông Du-gia có hoàn toàn tán thành tình bạn của ông đối với với vợ ông

ta không? Bar tái mặt, hai bàn tay nắm chặt vào nhau, nói to tiếng:

- Ông không có quyền hỏi tôi những câu như vậy. Việc này có liên quan gì đến vụ án mà ông đang điều tra? - Tôi có phải nhắc lại câu hỏi này không, thưa ông? - Ông cứ nhắc lại, còn tôi, tôi không trả lời

. - Ông có thể không trả lời, nhưng ông phải biết chính cái việc từ chối đã là một câu trả lời rồi. Bởi vì ông sẽ chịu trả lời nếu ông

không có điều gì dấu diếm. Bar ngồi im lặng một lát, nét mặt căng

thẳng. Rồi ông ta trở lại thư thái hơn, nhìn chúng tôi mỉm cười: - Thôi được, tôi thấy thật ra các ông cũng chỉ làm nhiệm vụ của mình thôi. Tôi muốn nói với các ông rằng Du-gia có một tính xấu là hay ghen. Ông ta rất quí mến tôi, Và ông ta cũng quí vợ ông ta lắm. Mỗi lần tôi đến đây, ông ta đều rất vui lòng. Lâu tôi không đến chơi là ông liền cho người đi gọi. Tuy vậy, khi ông thấy vợ ông và tôi ngồi nói chuyện với nhau thì ông ta nổi nóng đến mức nói tôi chẳng ra gì nữa. Đã nhiều lần tôi thề rằng sẽ không đặt chân đến đây nữa. Nhưng khi tôi hờn dỗi thì ông ấy lại viết cho tôi những bức thư rất

dễ thương làm tôi không thể giận lâu hơn được nữa. Và sau đây là

lời nói cương quyết của tôi: Không có một người phụ nữ nào lại yêu chồng và chung thuỷ như bà Du-gia. Ông thanh tra Dona hỏi: - Ông

có biết chiếc nhẫn cưới của nạn nhân đã bị rút ra khỏi ngón tay của người ấy không? - Hình như thế. - Tại sao ông lại nói là "hình như thế". Ông biết rõ đây là một việc có thật kia mà. Bar có vẻ lúng túng: - Khi tôi nói "hình như thế" là tôi muốn nói rằng cũng có thể chính nạn nhân đã tự mình rút chiếc nhẫn đó ra. - Việc chiếc nhẫn cưới biến mất, đã gợi ý cho mọi người thấy rằng có một mối liên quan nào đó giữa đám cưới của ông Du-gia và vụ án này. Có phải không ông? Bar nhún vai trả lời: - Tôi sẽ không đi tìm xem nó gợi ý cái gì, nhưng nếu ông muốn ám chỉ rằng việc đó làm tổn thương đến danh dự bà Du-gia thì..... Hai mắt ông ta long lanh sáng quắc, và ông ta phải dùng tất cả nghị lực để kìm hãm xúc cảm. - .... Thì ông

đã đi lầm đường rồi đấy, Có thế thôi. Ông thanh tra Dona lạnh nhạt nói: - Tạm thời bây gì tôi không có gì hỏi thêm ông nữa... Holmes vội bác ngay: - Xin ông một chi tiết nhỏ, thưa ông Bar. Khi ông bước vào trong phòng, thì chỉ có một ngọn nến thắp để trên bàn, có phải hông? - Vâng. - Chính nhờ ánh sáng của ngọn nến đó mà ông đã trông thấy là có một việc khủng khiếp vừa xảy ra,phải không? - Đúng thế. - Ông đã tức khắc kéo chuông ngay để báo động. - Vâng. -

Và mọi người đã đổ ngay đến đấy chỉ sau một khoảng thời gian rất ngắn, Có phải không? - Chỉ sau không đầy một phút. - ấy thế mà khi mọi người vào đây lại thấy ngọn nến được tắt đi và ngọn đèn đã

được thắp lên, như vậy có lạ lùng không ông? Một lần nữa, Bar lại

tỏ ra hơi lúng túng. Ông ta im lặng một lát rồi mới trả lời: - Thưa ông tôi không thấy có gì lạ lùng. Ngọn nến chiếu ánh sáng lu mờ quá. ý nghĩ đầu tiên của tôi là phải có một ánh sáng tốt hơn. Cái đèn lúc đó để trên bàn, tôi đã thắp nó lên. - Và ông đã tắt ngọn nến

đi. - Vâng. Holmes không hỏi thêm, và Bar - sau một cái nhìn thách thức về phía mỗi người chúng tôi, đã rời căn phòng đi ra. Dona viết một mảnh giấy nhỏ báo cho bà Du-gia biết là ông sẽ lên gặp bà, nhưng bà đã trả lời là bà sẽ xuống. Đó là một phụ nữ khoảng 30 tuổi, cao lớn, rất đẹp, dáng điệu chín chắn, và hết sức tự chủ, khác hẳn với hình ảnh một người bi thảm và rã rời mà tôi hình dung ra trong đầu. Bà lần lượt nhìn chúng tôi, với một biểu hiện dò hỏi. Rồi đôi mắt dò hỏi đó, nhường chỗ cho một câu hỏi đột ngột: - Các ông

đã tìm ra gì chưa? Trong giọng nói của bà chứa đựng sự sợ sệt nhiều hơn là niềm hy vọng. - Thưa bà, chúng tôi đã làm những việc cần làm. Xin bà cứ yên tâm. - Dona trả lời - Xin các ông đừng ngại tốn kém tiền bạc. - bà Du-gia nói, giọng thều thào. - Không biết bà

có đem lại cho chúng tôi một chút ít ánh sáng nào không? - Thưa,

tôi sẵn sàng làm tất cả những gì mà các ông cần. - Ông Bar cho biết rằng bà không bước chân vào căn phòng xảy ra án mạng. - Vâng. Ông ta đã bắt tôi phải đi lên và trở về phòng riêng. - Bà nghe tiếng súng nổ, và bà đã tức khắc xuống ngay? - Tôi mặc áo khoác ngoài và

tôi chạy xuống. - Từ lúc bà nghe tiếng nổ đến lúc ông Bar ngăn bà lại, mất khoảng bao nhiêu. - Có lẽ độ hai phút. Trong những lúc như vậy thật khó tính được thời gian. - Bà có thể dự tính được khoảng thời gian từ lúc chồng bà đi xuống nhà đến lúc bà nghe tiếng súng nổ không? - Thưa ông, chồng tôi đi từ buồng tắm ra nên

tôi không nghe thấy tiếng anh ấy đi xuống. - Bà đã quen ông ấy ở Anh có phải không? - Thưa vâng, đã 5 năm rồi. - Bà có bao giờ nghe thấy ông ấy nói về một chuyện gfi xảy ra ở bên Mỹ và dự cảm về một mối nguy hiểm nào không? Bà Du-gia suy nghĩ lung lắm trước khi trả lời. Mãi một lúc sau bà mới nói: - Thưa có. Tôi vẫn có linh tính là có một sự nguy hiểm đe doạ chồng tôi. Anh không chịu bàn luận gì với tôi về việc này cả, vì anh ấy chủ tâm tránh cho tôi mọi

sự sợ hãi. - Vậy làm sao bà lại biết được? Nét mặt bà Du- gia hồng

tươi hẳn lên trong một nụ cười: - Tôi biết được bí mật này là nhờ vào nhiều dấu hiệu: vì anh ấy không chịu nói gì với tôi về một vài quãng đời của anh khi còn ở bên Mỹ. Vì tôi thấy anh ấy có những biện pháp tự vệ riêng. Vì đôi lúc anh ấy không kiềm chế được và nói

lỡ vài lời. Vì thấy cái cách anh ấy nhìn những người lạ mặt bất chợt đến đây. Tôi hoàn toàn chắc chắn là anh ấy có những kẻ thù ghê gớm, mà anh ấy cho là đang dò tìm tung tích của anh, và anh luôn luôn cảnh giác đề phòng. - Ông ấy đã lỡ mồm nói ra điều gì làm bà phải chú ý. - Holmes hỏi. - "Thung lũng khủng khiếp". Có một lần anh ấy dùng hình tượng này để nói với tôi. Khi tôi thấy anh ấy nghiêm nghị hơn bình thường, tôi có hỏi: "Có bao giờ chúng ta ra khỏi được cái "Thung lũng khủng khiếp" ấy không? " Và anh ấy đã trả lời rằng: "Có lẽ chúng ta không bao giờ ra khỏi được". - Tất nhiên là bà có hỏi ông nhà xem ông muốn nói gì bằng hình tượng "Thung lũng khủng khiếp". - Vâng, tôi có hỏi.Nhưng anh ấy sa sầm mặt lại và lắc đầu nói: "Cầu trời cho cái bóng ấy không bao giờ phủ

cả lên em nữa". Đó là cái thung lũng thực sự chứ không phải là một hình tượng. Anh ấy đã sống ở đó và một sự khủng khiếp đã xảy ra

có liên quan đến anh. - Thế ông ấy có nêu lên một người nào không?

- Cách đây ba năm, anh ấy bị sốt cao. Trong cơn mê, anh ấy luôn luôn nhắc đến một tên người. Cái tên ấy là Ganh-ty trưởng toán. Lúc anh ấy bình phục, tôi có hỏi trưởng toán Ganh-ty là ai. Anh ấy cười trả lời: "Nhờ trời, nó chưa bao giờ làm trưởng cái toán của anh". Nhưng chắc có một mối liên hệ nào đó giữa người trưởng toán

đó và thung lũng khủng khiếp. Ông thanh tra Dona nói: - Bà đã gặp ông Du-gia trong nhà trọ một gia đình ở Luân Đôn và hai ông bà đã hứa hôn với nhau cũng ở đó. Trong việc lập gia đình, có một yếu tố nào bí mật hay cần phải giữ kín không? Hay là một yếu tố lãng mạn? - Lãng mạn à? Vâng, thưa có. Bao giờ thfi cũng có yếu tố lãng mạn. Không có cái gì là bí mật cả. - Ông ấy có tình địch không? - Thưa không. Lúc đó tôi hoàn toàn tự do. - Việc mất chiếc nhẫn cưới,

có gợi cho bà một ý nghĩ gì không? Nếu kẻ thù cũ đã đến đây và ám hại ông, thì có lý nào chúng lại tháo chiếc nhẫn. TRong một thoáng,

tôi chợt thấy một cái gì đó như là một nụ cười rất kín đáo trên đôi

môi bà Du-gia. Bà ta bình tĩnh trả lời: - Tôi tuyệt đối không hiểu gì

cả. Thật là kỳ lạ. Ông Thanh tra nói: - Thưa bà, chúng tôi không giữ bà lâu hơn nữa và rất tiếc đã quấy rầy bà. Tất nhiên còn một số điều nữa phải xem xét thêm, nhưng chúng tôi sẽ xin kêu gọi sự giúp

đỡ của bà khi nào cần thiết. Bà ta đứng lên, và tôi lại bất chợt một lần nữa thấy đôi mắt sắc sảo nhìn chúng tôi một cách dò hỏi. Rồi bước ra khỏi phòng ăn. Khi hai cánh cửa phòng đã khép lại, ông thanh tra Dona khe khẽ nói một cách trầm ngâm: "Một người đàn

bà đẹp. Một người đàn bà rất đẹp. Cái tay Bar này là một người được phụ nữ ưa thích. Cậu ta công nhận rằng Du-gia có tính hay ghen. Biết đâu rằng cái ghen này không phải là vô căn cứ. Rồi lại còn chuyện cái nhẫn cưới nữa. Chúng ta không thể coi thường chi tiết ấy được. Một người mà đã rút cái nhẫn cưới ra khỏi bàn tay của một xác chết. Ông nghĩ thế nào, ông Holmes". Holmes ngồi yên lặng, hai tay ôm đầu. Anh đứng dậy ra giật chuông, và khi người đầu bếp vào, anh hỏi: - Anh Am, ông Bar hiện giờ ở đâu? - Thưa ông, để tôi đi xem. Một lát sau, anh ta trở lại báo cáo ông Bar hiện đang ở ngoài vườn. - Anh Am, anh cố nhớ lại xem, đêm hôm qua khi anh vào gặp ông Bar thì ông ta đi gì ở chân? - Ông ta đi giày vải. Tôi đã mang giày da đến cho ông ta thay để đi báo cảnh sát. - Thế đôi giày vải ấy bây giờ ở đâu rồi? - Dưới gầm ghế ở phòng ngoài. - Rất tốt, việc phân biệt giữa những vết chân của ông Bar và của một người ở ngoài là rất quan trọng chứ? Anh có đồng ý không. - Thưa ông, vâng, tôi nhận thấy các vết chân của ông Bar đều đầy dấu máu. Nhưng cả những vết chân của tôi cũng thế. - Đó là điều bình thường, nếu căn cứ vào tình trạng căn buồng lúc đó. Chúng tôi lại

sẽ gọi chuông khi nào cần đến anh. Vài phút sau chúng tôi đã trở

lại căn buồng có án mạng. Holmes đã nhặt mang theo đôi giày vải

để ở buồng ngoài, đôi giày đỏ lòm máu. Holmes cầm đôi giày ra đứng trước cửa sổ chăm chú xem xét, vừa xem vừa nói khẽ một mình. - Kỳ cục. Thực là kỳ cục. Anh ta nhẹ nhàng cúi xuống và đặt chiếc giày cải lên vết máu trên khung thành cửa sổ: KHớp đúng như in. Anh ta mỉm cười, nhìn mọi người. Ông thanh tra bối rối đến

cực độ, hét lên như người điên: - Chính tay Bar này đã in dấu gìay

trên thành cửa sổ. Nó rộng hơn một dấu chân bình thường. Tôi nhớ rằng ông đã có nói đây là một bàn chân phẳng. Bây giờ mới hiểu tại sao. Nhưng này ông Holmes, thế hắn định chơi cái trò gì đây? Holmes cũng nhắc lại một cách trầm ngâm: - Vâng, vâng. Trò gì nào? Maso tủm tỉm cười: xoa mãi hai bàn tay vào nhau với một niềm vui thích hoàn toàn có tính cách nghề nghiệp: - Tôi đã báo trước cho các ngài biết mà. Gay go hóc búa lắm chứ có phải chơi đâu.

Chương 6

MỘT TIA SÁNG CHỢT LÓE

Trong khi ba nhà thám tử đi thẩm tra lại một số chi tiết, tôi đi dạo một vòng khu vườn ở bên hông lâu đài. Được bao quanh bởi những hàng cây thuỳ dương uy nghi, khu vườn có một bãi cỏ rất đẹp, ở giữa là một chiếc đồng hồ mặt trời cổ kính. Sự yên tĩnh ở đây làm cho thần kinh tôi như giãn hẳn ra. Đi về phía xa nhất của toà lâu đài, những lùm cây mọc sát vào nhau làm thành một thứ hàng rào rất kín. Đằng sau hàng rào, có một chiếc ghế kê khuất hẳn, người đi từ phía lâu đài lại không thể nhìn thấy được. Đi gần đến đó, tôi chợt nghe tiếng nói của đàn ông, và một tiếng nói nhỏ của phụ nữ. Một lát sau khi đã đi vòng qua hàng rào, tôi trông thấy bà Du-gia đang ngồi với ông Bar. Vẻ mặt của bà ta làm tôi phải kinh ngạc. Lúc nãy, bà tỏ ra nghiêm nghị và dè dặt bao nhiêu thì bây giờ, bà ta yêu đời bấy nhiêu; khuôn mặt vẫn còn rung lên trong sự thích thú vì câu nói vừa rồi của ông Bar. Ông ngồi nghiêng người ra phía trước, hai tay đan vào nhau, một nụ cười tươi làm rạng rỡ hẳn

bộ mặt rắn rỏi. Khi trông thấy tôi, họ lấy lại nét mặt trang nghiêm, thì thầm với nhau câu gì đó, rồi Bar đứng dậy và tiến về phía tôi: - Thưa ông, có phải tôi đang được hân hạnh nói chuyện với bác sĩ

Watson không? Tôi chào lại một cách lạnh nhạt. - Chúng tôi nghĩ

rằng có lẽ đúng là ông, người mà ai ai cũng biết là bạn thân của ông Holmes. Bà Du-gia mong muốn được thưa với ông một đôi điều. Tôi cau mày và đi theo ông ta. Hình ảnh của người chết lại hiện ra trong đầu tôi. Chỉ vài giờ sau tấn thảm kịch thì vợ và bạn của kẻ xấu số đã cười đùa vui vẻ với nhau. Tôi chào bà Du-gia một cách dè dặt. - Tôi sợ rằng ông sẽ coi tôi là một người đàn bà không tốt. - Đó không phải là việc của tôi. - Tôi nhún vai, nói. - Có thể một ngày nào đấy, ông sẽ hiểu được rằng... - Cũng không cần thiết là bác sĩ Watson phải hiểu. Đúng như ông ta nói, đây không phải là việc của ông. - Ông Bar nói. - Đúng thế. Vì vậy tôi xin phép được tiếp tục đi dạo. - "Xin hãy khoan, bác sĩ Watson!". Bà Du-gia kêu lên. "Ông hiểu biết ông Holmes và những mối quan hệ của ông ta với cơ quan cảnh sát hơn ai hết. Nếu có một sự việc nào đó đem nói riêng với ông ta, thì ông ta có luôn luôn đem báo cáo lại với các thám tử của chính quyền không?" - Xin hỏi ông Holmes làm việc riêng cho ông

ta, hay ông ta làm việc cho cảnh sát? - Bar cũng nhấn mạnh thêm. - Tôi cũng không biết mình có đủ thẩm quyền để bàn về vấn đề này không. - Tôi van ông. Nếu ông mách cho chúng tôi điều này, thì ông

sẽ giúp đỡ cho chúng tôi nhiều lắm. Trong giọng nói của bà chứa đựng một cái gì nghe thành thật quá, đến nỗi lúc đó tôi quên hết cái chuyện vô tâm của bà, và chỉ nghĩ cách làm sao cho bà vui lòng: - Ông Holmes là một nhà điều tra độc lập. Ông ấy tự làm chủ lấy mình và hoạt động theo sự suy nghĩ riêng của ông. Mặt khác, ông

ấy cũng phải tỏ ra trung thực đối với những thám tử của nhà nước cùng làm việc trong một vụ án, và ông ấy sẽ không giấu diếm họ bất

cứ một điều gì có thể giúp họ đưa các tội phạm ra trước công lý.

Như vậy bà và ông nên hỏi thẳng ông Holmes. Nói thế rồi, tôi nhấc mũ lên chào và bỏ đi, để mặc họ ngồi đằng sau lùm cây. Khi tôi đi khỏi hàng rào và quay lại thì thấy họ vẫn đang bàn cãi và trông theo tôi. Khi tôi kể lại cho Holmes nghe câu chuyện vừa rồi, Holmes trả lời: "Tôi không mong ước được nghe những lời tâm sự của họ". Sau đó Holmes làm việc với hai đồng nghiệp suốt buổi chiều ở lâu đài và mãi 5 giờ mới về. Anh còn nhắc lại lần nữa: - Này Watson,

không có tâm sự gì cả đấy nhé. Những tâm sự này sẽ trở nên rất

cộm nếu sau này có sự bắt bớ về tội đồng loã. - Sắp tiến đến bước đó

rồi à? - Khi nào tôi tiêu diệt xong cái quả trứng thứ tư này, tôi sẽ nói cho anh biết tình hình hiện nay. Tôi không nói rằng chúng ta đã giải được bài toán. Còn xa đấy. Nhưng khi nào chúng ta tìm thấy quả tạ còn thiếu kia thì..... - Quả tạ à? - Tất cả vụ án này quay chung quanh cái quả tạ vắng mặt kia. Một quả tạ duy nhất. Anh hãy tưởng tượng có một nhà lực sĩ nào chỉ tập với một quả tạ thôi, trẹo cột sống. Anh ta nhai nhồm nhoàm cái bánh ngọt, hai mắt long lanh tinh nghịch: trông anh ăn ngon như thế cũng đủ hiểu là công việc tiến hành tốt rồi ; ăn xong, anh đến ngồi bên góc chiếc lò sưởi của quán trọ, bắt đầu nói: - Nói dối. Nói dối to bằng cái đình. Tất cả câu chuyện của Bar là nói dối. Nhưng câu chuỵên của Bar lại được

bà Du-gia công nhận. Vậy thì bà Du-gia cũng nói dối. Bởi vậy, giờ đây chúng ta đang đứng trước bài toán này: Tại sao họ lại nói dối,

và cái sự thật họ đã cố gắng che giấu là gì? Theo họ kể lại thì tên sát nhân chỉ có một khoảng thời gian chưa đầy một phút để tháo chiếc nhẫn thứ nhất ra, lấy chiếc nhẫn cưới, rồi đeo chiếc nhẫn thứ nhất vào tay nạn nhân. Chắc chắn là không bao giờ nó làm như vậy đâu. Sau đó nó lại còn nhớ để một mẩu bìa cứng bên cạnh xác chết nữa, không thể làm kịp. Cậu có nói rằng: chiếc nhẫn cưới đã được rút ra khỏi tay Du-gia trước khi ông ta chết. Sự kiện cây nến cháy ít như vậy chứng tỏ cuộc đối thoại chắc phải là ngắn ngủi. Lại nữa một người can đảm, liều lĩnh như Du-gia liệu có tháo ngay chiếc nhẫn cưới của mình đưa cho tên sát nhân khi tên này mới đòi lấy không? Không, tên sát nhân đã ở lại một mình với xác chết một thời gian nữa sau khi cây nến được thắp lên. Nhưng phát đạn là nguyên nhân đã gây ra cái chết. Vậy thì phát đạn này được bắn sớm hơn là người ta khai báo với chúng ta, vết máu ở trên thành cửa sổ, chính

là do Bar đã cố tình tạo nên ở đó để đánh lừa cảnh sát. Hôm ấy, gia nhân trong lâu đài còn đi lại đến mười giờ rưỡi đêm, vậy thì vụ án không thể xảy ra trước giờ đó được. Đến 11 giờ kém 15 thì họ đi ngủ, chỉ trừ có Am lúc đó đang ở trong bếp. Chiều nay, sau khi anh

đi về rồi, tôi có tiến hành một vài thử nghiệm: Khi tôi đóng kín các

cửa lại, Dona gây ra nhiều tiếng động trong căn phòng có án mạng ;

ở dưới bếp không ai nghe thấy cả. Nhưng đứng ở căn phòng riêng của bà hầu phòng thì lại khác: ở trong buồng của bà này, tôi vẫn nghe thoang thoảng tiếng người nói thật to ở nhà trên. Tiếng nổ của một phát súng chắc không lớn lắm, nhưng trong cái im lặng của ban đêm, thì ở căn buồng của bà A-len cũng có thể nghe thấy được.

Bà ấy có nói là hơi nặng tai nhưng mặc dầu vậy bà ấy lại khai là có nghe thấy tiếng một cánh cửa đập nửa giờ trước khi có báo động. Nửa giờ trước khi báo động, nghĩa là vào lúc 11 giờ kém 15, chắc chắn là cái tiếng mà bà ta cho là tiếng đập cửa ấy, chính là tiếng súng và thời điểm 11 giờ kém 15 ấy chính là giờ xảy ra vụ án. Giả

sử ông Bar và bà Du-gia không giết người thì họ đã làm gì trong khoảng thời gian từ 11 giờ kém 15 (Là lúc họ nghe thấy tiếng súng

và chạy từ trên lầu xuống) tới 11 giờ 15 (lúc họ giật chuông để báo động với gia nhân). Tại sao họ lại không báo động ngay? Khi trả lời được câu này, thì đã tiến được một bước lớn. - Tôi lại tin chắc là có một sự đồng loã giữa hai con người này. Một người đàn bà phải tàn nhẫn đến thế nào thì mới có thể cười cợt như vậy khi chồng mới chết có vài tiếng đồng hồ. - Đúng thế. Ta ít thấy có người phụ nữ yêu chồng mà lại chỉ mới nghe một lời khuyên đơn giản như thế đã không vào nhìn xác của chồng. Đó, chỗ này đạo diễn có phần "yếu" quá, vì bất luận một nhà điều tra nào dù ngu đến đâu cũng phải chú ý đến việc ở đây thiếu hẳn những lời than khóc của phụ nữ. - Vậy thì Bar và bà Du-gia là những thủ phạm của vụ án này phải không? Holmes rút cái tẩu thuốc ở mồm ra, dứ dứ vào tôi thở dài: - Nếu anh muốn nói rằng bà Du-gia và Bar biết sự thật về vụ án mạng nhưng họ cố che giấu thì tôi đồng ý. Nhưng còn câu kết luận của anh, thì tôi thấy chưa đủ chứng minh. Phải chăng họ đã yêu nhau và đã quyết định phải ra tay? Không. Những người trong làng

đã nói là tuyệt đối không có thế. Tất cả mọi cái đều chứng minh rằng gia đình Du-gia rất thuận hoà êm ấm. Tôi nhanh chóng nhớ

lại nét mặt tươi cười mà tôi đã bắt gặp trong khu vườn, nên cãi lại: -

Về vấn đề này thì anh đã sai rồi. - ừ thì ít nhất họ cũng cho ta cái cảm giác là họ thuận hoà với nhau. Như thế phải giả thiết rằng cái

đôi thủ phạm kia gian giảo, đến mức vừa giết chồng, vừa đánh lừa

được mọi người. Và trên đầu người bị giết đang treo lơ lửng một mối nguy hiểm nào đó ... - ồ ... Giả thiết về mối nguy hiểm này chỉ do một mình họ gợi ra mà thôi. Holmes có vẻ suy nghĩ: - Theo anh thì chẳng có mối nguy hiểm nào đe doạ Du-gia, chẳng có thung lũng khủng khiếp. Họ bịa ra những chuyện đó để giải thích vụ án mạng. Rồi họ lại nghĩ ra việc bố trí một cái xe đạp giấu trong bụi cây để chứng tỏ có sự hiện diện của một kẻ lạ mặt. Cả vết máu trên thành cửa sổ cũng nằm trong ý nghĩ đó. Rồi lại cả mẩu bìa cứng, đáng lẽ

ra có thể chuẩn bị ngay ở trong lâu đài. Tất cả những cái ấy đều khớp với giả thiết của anh. Nhưng ác cái lại có những góc cạnh khác

cứ lòi ra. Tại sao có súng cưa nòng? Tại sao lại là súng Mỹ? Tại sao

họ tin chắc là không ai nghe thấy tiếng súng? Anh có thể giải thích được cho tôi nghe không, Watson? - Xin chịu. - Nếu một người đàn

bà cùng nhân tình âm mưu giết chồng, thì liệu họ có dại dột đến

mức tháo chiếc nhẫn cưới ở tay người chết ra để "lạy ông tôi ở bụi này" không? Điều này liệu có thế xảy ra được không? - Không? - Lại còn thế này nữa: Nếu chính họ là những ngưòi giấu chiếc xe đạp trong bụi cây, thì tất họ cũng đủ tinh khôn để nghĩ rằng bất cứ một viên thám tử nào cũng hiểu đây là một động tác giả, vì chiếc xe đạp chính là cái mà một người chạy trốn cần đến trước nhất để thoát. - Chịu thôi. - Vậy chúng ta hãy giả thiết tay Du-gia này có một bí mật đáng xấu hổ trong đời. Bí mật này đưa đến chỗ hắn bị ám sát bởi một người đi báo thù. Người này, vì một động cơ nào đó đã tháo chiếc nhẫn cưới của hắn. Ta cũng có thể giả thiết rằng mối thù này

có từ thời Du-gia lấy người vợ trước kia, thì mới giải thích được việc tháo nhẫn cưới. Trước khi hung thủ trốn thoát, thì Bar và bà Du- gia ập vào phòng. Tên sát nhân nói với họ rằng nếu họ bị bắt, thì bí mật ghê gớm của Du-gia sẽ bị đưa ra ánh sáng. Hai người buộc lòng phải để cho nó chạy trốn. Có lẽ họ đã hạ chiếc cầu xuống để cho nó chạy đi rồi lại kéo cầu lên. Tên sát nhân biết rằng đi bộ tốt hơn là dùng chiếc xe đạp, nên đã để lại chiếc xe đạp ở chỗ mà người ta khó phát hiện ra trước khi nó đã đi xa. Đến đây thì chúng ta vẫn còn ở trong phạm vi những điều có thể được, đúng không? Tôi trả lời một

cách không tin tưởng lắm: - Tất nhiên là có thể được. - Tiếp tục nhé,

sau khi đã để cho tên sát nhân trốn thoát, hai người kia biết mình

đã lâm nguy, bởi vì làm sao chứng minh được rằng họ không giết Du-gia hay không phải là đồng loã của tên sát nhân. Thế rồi họ chọn một quyết định: Bar lấy chiếc giày vải, thấm máu in vết lên thành cửa sổ để gợi ý là tên sát nhân đã trốn ra theo con đường đó. Chắc chắn họ đã để chậm nửa giờ sau khi sự việc xảy ra, rồi mới báo động. - Làm cách nào để chứng minh được những điều đó. - Một mình tôi ở lại đây một đêm thì sẽ có kết quả. - ở một mình suốt một đêm trong căn phòng xảy ra án mạng? - Tôi đã thu xếp với bạn Am rồi. Tôi sẽ tới ngồi ở đó, và không khí trong phòng có lẽ sẽ gợi cho

tôi nhiều ý nghĩ hay. À, mà này, anh có mang theo cái ô to gộc của anh đi đấy chứ. - Có, kia kài. - Thế thì xin cho tôi mượn. - Được thôi. Nhưng ... nó có phải là một vũ khí đâu. - Không có gì nguy hiểm đâu. Bây giờ tôi chỉ còn chờ các vị đồng nghiệp chúng ta ở Tunbridge Wells về, họ lên đấy để xác minh chủ nhân của chiếc xe đạp đó. Trời tối mịt mới thấy ông thanh tra Dona và Maso trở về. Họ vui mừng ra mặt, vì họ đã tiến lên một bước khá dài. - Chúng tôi

đã xác minh được chiếc xe đạp và đã có được hình dạng của người chủ nó. -Dona nói. - Tôi xin hết lòng ca ngợi nhị vị - Holmes nói. - Cậu Am khai là bữa trước hôm xảy ra án mạng, ông Du-gia từ Tunbridge Wells về, có tỏ ra cáu kỉnh khác thường. Vậy chắc là khi

ở đó, ông được biết có một mối nguy hiểm đang đe doạ mình. Như thế nếu có ai đến đây bằng xe đạp, thì người đó xuất phát từ Tunbridge Wells. Bọn tôi mang cái xe đạp đến đó cho các khách sạn xem. Chủ khách sạn "Con ó Thương mại" nhận ra ngay là chiếc xe của một người Mỹ tên là Har đến thuê buồng ở đó đã hai ngày rồi. Tất cả hành lý chỉ có chiếc xe đạp với một cái va ly nhỏ. Anh ta khai trong sổ đăng ký là từ Luân Đôn đến, nhưng không nói rõ địa chỉ. Holmes kêu lên vui sướng: - Hô, hô. Hai ông đã làm được một công việc hết sức tốt, trong khi tôi và ông bạn Watson cứ ngồi đây mà xây dựng hết thuyết nọ đến thuyết kia. Đấy, óc thực tiễn có lợi là như thế đó, ông Dona ạ. Ông thanh tra nở mày nở mặt, vui vẻ nói: - Vâng, ông nói đúng đó. Tôi nói với Holmes: - Nhưng sự phát hiện

này cũng khớp với giả thiết của cậu kia mà. - Khớp mà không khớp.

Ông Dona, ông có tìm thấy cái gì để xác minh được người ấy không?

- Không có bất cứ một thứ giấy tờ, thư từ, giấu vết gì trên quần áo. Trên bàn của hắn, có một tấm bản đồ của vùng này. Sáng hôm qua, sau khi ăn điểm tâm xong, hắn ở khách sạn ra, lên xe đạp đi, thế là biến luôn. Không ai thấy hắn nữa. Maso ngắt ngang: - Đó. Chính chỗ này làm cho tôi thắc mắc đây ông Holmesss ạ. Nếu tên này muốn làm cho người ta không chú ý đến hắn, thì hắn nên trở lại khách sạn và ở đấy như một người du lịch bình thường. Hắn thừa biết người chủ khách sạn phải báo cáo với cảnh sát về sự mất tích của hắn, và tất nhiên là người ta sẽ ráp sự mất tích của hắn với vụ

án mạng. - Tất nhiên rồi, nhưng cho đến bây giờ nó vẫn chưa bị bắt. Mà các ông có nắm được hình dạng của nó không? Dona mở cuốn sổ tay ra: - Tôi đã ghi được những gì người ta nói với chúng tôi đây. Hắn cao khoảng 1 thước 80, cỡ 50 tuổi, tóc hơi hoa râm, râu cũng hoa râm, mũi két; về cái bộ mặt của hắn, mọi người đều mô tả là dữ dằn và đáng ngại. - Trời đất. Trừ cái điểm cuối cùng ra, thì phải nói

là giống hệt một bức chân dung của chính Du-gia. Tay này cũng khoảng hơn 50 tuổi, tóc cũng muối tiêu, râu cũng hoa râm, và cũng cao cỡ đó. Các ông có chi tiết nào khác nữa không? - Hắn mặc bộ quần áo mầu xám rộng thùng thình, một cái áo khoác màu vàng, ngắn và đội một cái mũ mềm. - Còn về khẩu súng? - Một khẩu súng dài có 65 phân có thể xếp được hoàn toàn trong chiếc va ly, và giấu dưới áo khoác. - Thế bây giờ các ông định ráp những tin tức mới này vào khung cảnh của vụ án như thế nào? Mac Dona trả lời: - Hiện nay, chúng ta chỉ mới biết có một người Mỹ, tên là Har, ngày hôm kia đến Tunbridge Wells với một chiếc xe đạp và một cái valy. Trong valy có một khẩu súng săn cưa nòng. Sáng hôm qua, hắn đi

xe đạp tới làng Birslstone và đã giấu khẩu súng dưới áo khoác. Theo chỗ chúng ta biết, thì không ai trông thấy hắn đến đây. Nhưng hắn cũng không cần đi qua làng vẫn có thể đến được trước cổng sắt của lâu đài. Con đường hắn đi cũng có nhiều người cỡi xe đạp như hắn. Tôi đoán rằng, hắn đã giấu ngay chiếc xe đạp trong những bụi cây trúc đào. Bản thân hắn cũng nấp ở đó để rình ông

Du-gia ở lâu đài. Ở trong nhà thì khẩu súng săn đúng là bất lợi,

nhưng ở ngoài trời thì nó có hai ưu điểm rõ ràng: trước hết nó giết người được một cách chắc chắn, sau nữa sẽ không có ai để ý đến tiếng nổ, trong một vùng nông thôn có nhiều người đi săn. - Rất rõ ràng. - Holmes nói. - Nhưng ông Du-gia lại không ra khỏi lâu đài. Vậy thì tên sát nhân có thể làm gì được bây giờ? Hắn bỏ chiếc xe đạp ở đó và chờ sẩm tối mới lần mò vào gần lâu đài. Hắn thấy cây cầu rút vẫn còn hạ xuống mà xung quanh thì vắng vẻ cả. Hắn liều

đi vào, và chắc là có chuẩn bị trước một lý do gì đó để xin lỗi nếu có gặp người ở trong nhà. Hắn không gặp ai cả. Hắn lẻn vào cái phòng gần nhất và trốn sau bức rèm cửa. Ở đó, hắn trông thấy cây cầu được rút lên, và hắn hiểu rằng sẽ phải lội qua hào để trốn ra. Hắn đợi đến 11 giờ 15. Đến giờ này, ông Du-gia bước vào buồng. Hắn giết ông ta và chạy trốn. Hắn biết rằng chiếc xe đạp của hắn có thể

bị những người trong khách sạn nhận ra được, vì thế hắn đã bỏ nó lại, và dùng một phương tiện giao thông khác để trở về Luân Đôn. - Rất rõ ràng. Nhưng tôi lại tin là án mạng đã xảy ra nửa giờ sớm hơn là người ta đã nói với chúng ta. Rằng bà Du-gia và ông Bar đã cùng nhau che giấu một cái gì đó, đã giúp đỡ cho tên sát nhân trốn thoát, đã tạo ra những dấu vết để làm cho người ta tưởng là nó đã trốn qua đường cửa sổ, và có nhiều khả năng là họ đã hạ cây cầu rút xuống cho nó trốn. Hai nhà thám tử của nhà nước gật gù. ông thanh tra Dona nói: - Nếu cách nhìn của ông mà đúng, thì chúng ta chỉ chuyển từ một bí mật này sang một bí mật khác thôi. Maso bổ sung: - Nhưng về một số mặt nào đó thì lại vấp phải một bí mật gay

go hơn nữa. Bà Du-gia chưa hề sang Mỹ. Vậy thì bà có thể liên hệ như thế nào với một tên sát nhân người Mỹ? - Tôi công nhận là có rất nhiều khó khăn. Tôi dự tính tối nay sẽ tiến hành cuộc điều tra theo cách riêng của tôi. - Chúng tôi có thể giúp ông được không, ông Holmes? - Không. Chỉ cần bóng tối và chiếc ô của bác sĩ Watson thôi, ông Am sẽ giúp tôi một vài điều. Khi Holmess trở về phòng trọ, thì đêm đã khuya lắm rồi. Lúc Holmes mở cửa vào phòng, tôi hỏi nhỏ: - Thế nào Holmes, có thấy gì không? Holmes cầm một ngọn nến, cúi xuống thì thầm vào tai tôi: - Anh có sợ khi phải ngủ chung

phòng với một thằng điên không? - Không. - ồ, thế thì hạnh phúc

cho anh đó. Thế rồi không nói thêm một lời nào nữa, anh ta chui vào chăn...

Chương 7

GIẢI ĐÁP

Sáng hôm sau, chúng tôi đi gặp ông thanh tra Dona và thám tử Maso. Họ đang họp trong cơ quan cảnh sát địa phương. Đằng trước mặt họ, trên bàn có cả xấp những thư và điện tín đã được xếp thứ

tự cẩn thận. Holmes vui vẻ hỏi: - Vẫn trên đường đi tìm nhà cua rơ

xe đạp chứ? Tin tức cuối cùng như thế nào? Dona buồn rầu chỉ tập thư tín, nói: - Người ta đã bắt hai chục người mặc áo khoác màu vàng ở khắp nơi. Holmes kêu lên với giọng chân thành: - Sáng nay,

tôi đến đây để khuyên các bạn một lời. Lời khuyên này có thể tóm tắt trong ba chữ: "Bỏ vụ án". Dona và Maso vô cùng kinh ngạc. Mãi

rồi ông thanh tra mới kêu lên được: - Ông thấy vụ án này tuyệt vọng đến thế kia à? - Theo cách điều tra của các ông, thì sẽ không đi đến đích. Nhưng chúng ta không được phép tuyệt vọng trong khi đi tìm chân lý. - Thế cái tên đi xe đạp ấy thì sao? Nó có phải là một vật tưởng tượng ra đâu. Nhất định nó phải ở một nơi nào chứ? - Vâng,

nó phải ở một nới nào đó, và chúng ta sẽ tìm thấy nó, trong một đường bán kính hẹp hơn nhiều. Ông thanh tra phản đối một cách bực tức rõ ràng: - Ông giấu chúng tôi một cái gì đó. Ông Holmes? - Ông Dona. Tôi chỉ giấu ông - trong một thời gian ngắn thôi - những

gì tôi chưa thể cho ông biết được. Tôi muốn thẩm tra lại mộy số chi tiết. Việc thẩm tra xong, lúc đó tôi sẽ trở về Luân Đôn sau khi đã thông báo với các ông tất cả kết quả tôi đã thu lượm đưọc. - Chiều hôm qua ông đồng ý trên những nét lớn với những kết quả của chúng tôi. Nhưng hôm nay thì hình như có chuyện gì xảy ra đã làm ông thay đổi hoàn toàn. - Vâng. Tối hôm qua tôi đã đến ở lâu đài

trong mấy tiếng đồng hồ. - Thế thì sao? - Tôi có đọc một tài liệu

ngắn về toà lâu đài này. Tôi mua nó mấy xu ở quán bán thuốc lá trong làng. Holmes rút ở túi áo ngoài ra một tờ giấy nhỏ, có vẽ một bức hình thô sơ của toà lâu đài cũ. -... Những loại tài liệu như thế này mang đến nhiều hứng thú cho cuộc điều tra. Tôi xin phép đọc ông nghe một đoạn sau này: Được dựng lên trong năm thứ năm của triều đại vua Jacques Đệ Nhị trên vị trí của một lâu đài cũ cổ xưa hơn, lâu đài Birlstone là một trong những hình ảnh rất đẹp còn nguyên vẹn của loại phủ thất có hầm vào thời các vua Jacques... - Ông định chế nhạo chúng tôi, ông Holmes? - Đây là lần đầu tiên tôi thấy ông nổi cáu đấy. Thôi tôi không đọc nữa. Nhưng nếu tài liệu này có nói đến việc một ông đại tá của Quốc Hội đã chiếm lấy toà lâu đài này vào năm 1644; việc nhà vua Charles có trốn tránh ở đây vài ngày trong thời kỳ nội chiến; và nhà vua Georges Đệ Nhị cũng

đã có ở đây... thì chắc ông sẽ đồng ý với tôi là những việc này có thể gợi cho chúng ta nhiều ý nghĩ liên hệ lắm. Nhà thám tử sốt sắng trả

lời ngay: - Tôi đồng ý với ông về điều đó, ông sắp đến đích, nhưng ông quá kín đáo. - Tối hôm qua, tôi có tới lâu đài. Tôi không gặp ông Bar, cũng không gặp bà Du-gia, nhưng tôi được biết rằng bà chủ lâu đài đã dùng bữa tối một cách rất ngon miệng. Tôi chỉ cần gặp anh Am thôi, và anh ta đồng ý cho tôi ở lại một mình trong căn buồng xảy ra án mạng, và Am cam đoan sẽ giữ kín về việc này. - Thế nào?

ở lại bên cạnh cái ... - Không! Mọi vật đã được dọn dẹp cả rồi. Vì vậy

tôi đã sống một vài giờ rất có ích ở đó. - Có ích thế nào thưa ông? - Tôi đi tìm quả tạ còn thiếu. Và tôi sắp thấy nó. - ở đâu vậy? - Xin để

tôi tiếp tục tìm kiếm. Ông thanh tra càu nhàu: - Ông muốn thế nào, chúng tôi cũng phải theo thế thôi. Nhưng bắt phải bỏ vụ án này đi, thì ... mà , tại sao lại phải bỏ? - Bởi mục đích cuộc điều tra của ông là... - Chúng tôi điều tra về vụ ám sát ông Du-gia. - Vâng. Nhưng các ông đừng mất công đi tìm cái tên đi xe đạp. Chuyện đó không đi đến đâu cả. - Chúng tôi phải làm gì? - Tôi xin nói cặn kẽ, nếu các ông muốn. - Tôi sẽ làm theo lời khuyên của ông. - Thế còn ông, ông Maso? Nhà thám tử địa phương có phần hơi ngơ ngác, phương pháp làm việc của Holmes hoàn toàn mới lạ đối với ông ta. - Vâng, ông

thanh tra đã đồng ý , thì tôi cũng đồng ý. - Hoan hô. Vậy hai ông

hãy tổ chức một cuộc đi dạo chơi cho thật thoải mái. Người ta có nói với tôi rằng đứng từ trên cao nhìn xuống sẽ thấy phong cảnh của cánh rừng Weald tuyệt đẹp. Dona nổi cáu, đứng phắt lên: - Ông Holmes, ông đã đi quá giới hạn của sự bông đùa rồi đó. Holmes vỗ nhè nhẹ vào vai ông ta: - Thôi được! Thế thì xin tuỳ các ông, nhưng nhất định phải đến tìm tôi ở đây, trước buổi tối nay. - Thật là quá lắm. - Bây giờ, trước khi tôi đi, tôi nhờ ông viết mấy chữ cho ông Bar. - Viết gì kia? - Xin mời ông viết "Thưa ông, chúng tôi nghĩ rằng, chúng tôi có nhiệm vụ phải tát cạn con đường hào để hy vọng

có thể tìm thấy... Ông thanh tra phản đối ngay: - Tôi đã đích thân tìm xem có cách gì tát cạn đường hào hay không, nhưng thấy không thể được. - Xin ông cứ viết. - Thôi được. Ông đọc tiếp đi. - ... một yếu

tố mới có liên quan đến cuộc điều tra. Chúng tôi đã sắp sẵn cả. Sáng sớm mai, công nhân sẽ bắt tay vào việc đổi hướng dòng nước...

- Tôi nhắc lại với ông rằng không thể được mà. - ... Chúng tôi thấy nên báo để ông biết trước". Vào khoảng độ 4 giờ chiều, ông cho người đưa thư tận tay ông Bar. Đó cũng là giờ chúng ta sẽ gặp lại nhau ở đây. Trong khi chờ đợi, ai muốn giải trí thế nào thì xin tuỳ thích, vì cuộc điều tra đang dẫm chân tại chỗ. Buổi tối, chúng tôi gặp lại nhau như đã quy định. Vẻ mặt Holmes rất nghiêm trang. Tôi thì tò mò, còn hai vị thám tử thì nghi ngờ ra mặt. Holmes bắt đầu một cách trịnh trọng: - Thưa các ông, bây giờ chúng ta phải tới được chỗ đứng quan sát trước khi trời tối hẳn. Chúng ta nên đi ngay bây giờ. Chúng tôi đi dọc theo bờ ngoài khu vườn của lâu đài

và đến trước một lỗ hổng trong hàng rào. Chúng tôi chui qua lỗ đó. Holmes dẫn chúng tôi đến đằng sau một bụi cây nhìn chếch sang phía cổng chính và cây cầu, lúc đó còn chưa rút lên. Holmes ngồi xổm sau bụi cây. Chúng tôi cũng làm theo anh ta. Dona hỏi bằng một giọng bực tức: - Làm gì bây giờ đây? - Hãy kiên nhẫn và đừng gây ra tiếng động. - Ông nên thành thật với chúng tôi hơn. Holmes bật cười: - Ông Dona, tôi xin ông kiên nhẫn một chút, rồi tất cả sẽ sáng tỏ thôi. Đêm xuống dìm cả toà lâu đài vào bóng tối. Một màn sương lạnh từ đường hào bay lên làm chúng tôi rét thấu xương.

Trên khung cửa chính chỉ có một ngọn nến được thắp, và trong căn

buồng có án mạng cũng có một ngọn đèn khác đang cháy, còn tất cả chung quanh tối đen như mực. Đột nhiên ông thanh tra lại cất tiếng hỏi: - Phải chờ bao lâu nữa, và chờ cái gì? - Tôi không biết phải chờ bao lâu. Nếu những tên tội phạm hoạt động đúng giờ giấc như những chuyến tàu chạy, thì đỡ cho chúng ta biết bao. Còn việc chúng ta chờ... À mà kìa, việc chúng ta chờ kia kìa. Trong khi Holmes nói, thì ánh sáng trong căn buồng đã bị che khuất đi bởi một người đi đi lại lại trước nó. Sau đó cửa sổ mở toang và bóng một người đàn ông nhô ra quan sát bóng tối. Hắn nhìn ngược nhìn xuôi trong mấy phút. Rồi cúi xuống và trong đêm khuya yên tĩnh, chúng

tôi nghe thấy tiếng nước vỗ nhè nhẹ. Tôi có cảm giác là người đó đang dìm một vật gì cầm trong tay xuống đường hào. Sau cùng anh

ta kéo một vật gì lên: Một vật gì đó to, tròn, khi được đem qua cửa

sổ, nó che khuất cả ánh sáng ngọn đèn. Holmes kêu lên: - Nào, bây giờ. Ta vào đi. Chúng tôi chồm lên, líu ríu chạy theo Holmes. Holmes đã chạy tới chiếc cầu rút và giật chuông ầm ĩ. Ở phía bên kia cửa các chốt được tháo ra. Am hiện ra trong khung cửa, vẻ mặt ngơ ngác, Holmes chẳng nói chẳng rằng, gạt anh ta sang bên, rồi cùng ba chúng tôi xông vào căn buồng. Ngọn đèn dầu hoả để trên bàn là nguồn ánh sáng mà chúng tôi trông thấy từ bên ngoài. Lúc này, nó đang ở trong tay của Bar, và ông ta đang hướng về phía chúng tôi. Nó chiếu lên một khuôn mặt cả quyết, cương nghị, một cặp mắt đe doạ thách thức. - Thế này là thế nào? Các ông tìm gì? Holmes nhìn chung quanh, rồi nhảy sổ tới một cái gói ướt sũng có buộc dây để ở trên bàn. - Chúng tôi tìm cái này đây. Cái gói có một quả tạ mà ông vừa kéo ở dưới đáy hào lên. Bar kinh ngạc: - Vì sao ông lại biết có quả tạ trong ấy? - Bởi vì chính tôi đã để quả tạ ấy vào đó. - Ông đã để quả tạ vào đó? Holmes chữa lại: - Ông còn nhớ chứ, ông thanh tra, việc thiếu một quả tạ ngay từ đầu đã đập vào trí tôi. Khi nước thì gần kề ngay bên, mà lại thấy thiếu một vật nặng, thì

có lẽ một vật gì đó đã được nhận chìm xuống nước. Với sự giúp đỡ của anh Am, tôi đã vào được căn phòng này, và với chiếc ô của bác

sĩ Watson, tôi đã vớt vật này lên và xem xét nó. Nhưng điều cơ bản

là phải chứng minh được ai đã dìm cái gói đó. Bức thơ của ông Dona

báo trước ngày mai sẽ tát hào. Tin này bắt buộc người đã giấu cái gói đó phải chờ đêm tối, lôi nó lên. Vậy ông Bar, đã đến lúc ông phải giải thích. Holmes đặt cái gói còn ướt sũng lên bàn và tháo dây ra. Đầu tiên anh lôi ra một quả tạ, kế đó là một đôi giày da mũi vuông.

- Giày kiểu Mỹ, như các ông thấy đấy. - Holmes nói. Sau đó anh ta

để lên bàn một con dao dài còn nằm trong bao. Rồi anh ta giở ra một mớ quần áo, gồm một bộ quần áo lót, một đôi tất, một bộ quần

áo bằng vải tuýt xám, và một cái áo khoác màu vàng. - Quần áo thì

thường thôi. Chỉ có cái áo khoác là đáng chú ý. - Holmes nói. Anh nhẹ nhàng trải nó ra trước ánh sáng, những ngón tay dài lần theo các đường khâu. - Xem đây, túi trong của nó kéo dài mãi trong lần

lót để có thể giấu được một khẩu súng cưa nòng. Tên hiệu của người thợ may dính trên cổ áo dây: "Neale, thợ may, Vermissa, USA". Tôi

đã ở cả chiều hôm nay trong căn phòng đọc sách của ông hiệu

trưởng trường, và đã học thêm được một điều mới nữa: "Vermissa"

là tên của một thành phố nhỏ ở trong thung lũng nổi tiếng về các mỏ sắt và mỏ than tại Mỹ. Nếu tôi không quên, thì thưa ông Bar, chính ông đã có nói đến mối liên quan giữa những khu mỏ và người

vợ trước của ông Du-gia. Cho nên tôi suy luận từ đó ra rằng mấy chữ TLV trên miếng bìa cứng tìm thấy bên cạnh người chết có nghĩa là Thung lũng Vermissa và chính cái thung lũng này đã cử một người mang cái chết đến tận đây. Tất cả những điều ấy đã đủ

rõ ràng. Và bây giờ, đến lượt ông, thưa ông Bar. Trong lúc nghe Holmes trình bày, gương mặt Bar lần lượt hiện lên nét căm giận, kinh ngạc, buồn rầu, lúng túng. Cuối cùng ông ta lẩn trốn trong một thái độ mỉa mai và cười gằn: - Ông biết nhiều đến thế, thì xin ông cứ nói thêm cho chúng tôi nghe. - Tôi có thể nói thêm được nữa, nhưng sẽ lịch sự hơn, nếu ông nói tiếp hộ cho tôi. - ồ, ông tưởng thế

à? Nếu ở đây có một bí mật gì, thì cái đó không phải là bí mật của tôi, và tôi không thể nói ra cái bí mật của người khác. Ông thanh tra bình tĩnh: - Nếu ông nghĩ như vậy, thì bắt buộc chúng tôi phải canh giữ ông cho đến khi chúng tôi nhận được trát bắt ông. Bar trả

lời bằng giọng đầy thách thức: - Ông cứ làm. Sự đối chất hình như

đã kết thúc. Bộ mặt rắn như đá hoa cương của Bar cho thấy rằng

không có một sự đe doạ nào có thể bắt được ông ta nói. Nhưng bà Du-gia đã bước vào phòng. - Anh Bar, anh đã giúp chúng tôi quá nhiều rồi. Sherlock Holmes tán thành với một giọng nói rất nghiêm trang: - Tôi rất thông cảm với bà, và tôi xin khuyên bàn nên tự giác báo cáo tất cả với cảnh sát, chính tôi cũng có lỗi vì đã không đáp ứng lời thỉnh cầu của bà, khi bà nói với bác sĩ Watson đây. Lúc đó

tôi tin rằng bà là người có dính líu trực tiếp đến án mạng. Bây giờ

tôi biết là không phải thế. Bà Du-gia thốt lên một tiếng kêu kinh ngạc khi nghe những lời nói cuối cùng của Holmes. Hai nhà thám

tử và cả tôi nữa có lẽ cũng đã kêu lên như thế, khi chúng tôi trông thấy một người như là trong bức tường hiện ra, đang bước dần ra khỏi bóng tối, tiến về phía ánh đèn. Bà Du-gia nhào vào, ôm lấy cổ người đó. Bar cũng nắm chặt một cách trìu mến bàn tay của người đó. Bà Du-gia nhắc đi nhắc lại: - Anh yêu quí, có lẽ thế này tốt hơn anh ạ. Holmes gật đầu tán thành: - Vâng, đúng đấy, thưa ông Du- gia. Ông Du-gia chớp chớp đôi mắt màu xám, một bộ râu cứng đã hoa râm; một cái cằm vuông nhô ra và một cái miệng nhậy cảm. Ông ta lần lượt nhìn chúng tôi, rồi bỗng tiến về phía tôi và đưa cho

tôi một tập giấy làm tôi hết sức ngạc nhiên. Ông ta nói bằng một giọng hết sức dễ chịu: - Tôi biết ông, bác sĩ Watson, chưa bao giờ ông có một câu chuyện giống như câu chuyện này. Tôi đã tự giam mình trong hai ngày, và đã lợi dụng những giờ có ánh sáng, trong cái lỗ chuột ấy, để viết lại toàn bộ sự việc. Đó là câu chuyện về "Thung lũng khủng khiếp". Holmes xen vào: - Ông Du-gia, đó là câu chuyện về quá khứ. Bây giờ chúng tôi muốn biết câu chuyện của hiện tại kia. - Ông sẽ được nghe ngay bây giờ. Tôi có thể vừa hút thuốc, vừa nói được không? Xin cảm ơn ông Holmes. Ông ta đứng dựa lưng vào lò sưởi, kéo những hơi thuốc dài. - Tôi có được nghe nói nhiều về ông, ông Holmes. Tôi không nghĩ rằng có ngày tôi lại được làm quen với ông. Nhưng khi ông đã đọc xong tất cả những cái này .... Ông ta chỉ vào tập giấy vừa đưa cho tôi. - ... thì chắc chắn ông sẽ nói rằng tôi có đem lại cho ông một điều gì mới lạ. Ông thanh tra Dona vẫn không rời mắt nhìn Du-gia, mãi rồi mới nói lên được: -

Chuyện này thật vượt quá sức hiểu biết của tôi, hai ngày nay chúng

tôi điều tra về cái chết của ông, thì bây giờ ông như một bóng ma từ dưới mồ chui lên vậy. Holmes trách móc, chỉ về phía ông thanh tra:

- Trong cái tài liệu mà tôi đã đưa cho ông, có mô tả cái cách vua Charles đã ẩn náu trong lâu đài này. Một chỗ ẩn dùng trong thế kỷ thứ 17 rất có thể còn dùng được trong ngày nay. Ông thanh tra nổi giận thật sự, hỏi lại: - Thế ông đã đóng kịch với chúng tôi từ bao lâu rồi, ông Holmes? - Chỉ mới từ tối hôm qua thôi. Vì phải đợi đến tối hôm nay mới có thể chứng minh được điều này, nên tôi có mời quí ông nghỉ xả hơi một ngày. Khi đã thấy gói quần áo trong đường hào, tôi biết rằng xác chết kia không phải là xác của ông Du-gia mà

là của người đi xe đạp. Vì vậy tôi phải đi tìm nơi ông Du-gia ẩn nấp, ông đã ẩn nấp dưới sự yểm trợ của vợ và bạn ông ta. - Ông lý luận rất đúng. Tôi hài lòng vì đã gạt bỏ được những con chó vẫn đi tìm dấu chân tôi. Ông thanh tra, tôi sẽ nói hết: Có một vài người có nhiều lý do để căm thù tôi và sẵn sàng giết tôi. Chừng nào mà chúng còn sống, thì tôi không hề có an ninh. Chúng đã theo tôi từ Chicago đến California, rồi còn bắt buộc tôi, phải rời khỏi Châu Mỹ. Khi tôi cưới vợ và về sống ở đây, tôi đã tưởng những năm cuối của đời tôi là vô sự. Tôi chưa bao giờ nói rõ cho nhà tôi hiểu mọi chuyện

vì nếu biết, nhà tôi cũng sẽ luôn sống trong lo sợ... Du-gia nắm chặt lấy tay vợ. - ... Thưa các ông, một ngày trước hôm xảy ra sự việc, tôi

có đi Tunbridge Wells, và có gặp một người ở ngoài phố. Chỉ thoáng nhìn hắn thôi, tôi cũng biết hắn là kẻ thù tệ hại nhất của tôi. Tôi trở về đây và tiến hành những biện pháp tự vệ. Tôi đã cảnh giác không bước chân ra đến ngoài vườn. Khi cây cầu đã được kéo lên,

tôi mới yên tâm hơn, nhưng, tôi không ngờ rằng nó đã lẻn vào trong lâu đài và chờ tôi ở đây. khi đi kiểm tra, vừa đặt chân vào căn buồng này thì tôi cảm thấy ngay có sự nguy hiểm. Tôi thấy một đôi giầy thò ra dưới bức rèm cửa sổ, và một giây đồng hồ sau, tôi thấy

cả con người đang nấp ở đó. Lúc đó tôi chỉ có một cây nến cầm ở tay, nhưng cây đèn ở buồng ngoài cũng chiếu sáng khá tốt. Tôi để cây nến xuống bàn, và nhảy đến chộp lấy cây búa trên lò sưởi. Cùng lúc

đó hắn cũng nhảy bổ vào tôi. Tôi trông thấy ánh lên một lưỡi dao

nhọn, và tôi đã đập nó bằng một nhát búa quay ngang. Con dao rơi

xuống sàn. Nó đã lanh lẹ vòng qua chiếc bàn và lôi ra một khẩu súng giấu dưới chiếc áo khoác. Tôi nghe thấy nó lên đạn, nhưng tôi

đã nắm được khẩu súng. Tôi nắm được nòng súng. Tôi với nó vật lộn trong khoảng một hai phút gì đó. Nó không rời khẩu súng, nhưng nó đã để báng súng chúc xuống dưới. Không biết là tôi đã bóp cò, hay chính nó đụng phải cò. Chỉ biết rằng nó đã lãnh cả hai viên đạn vào mặt. Tôi đang đứng bám vào thành bàn thì anh Bar chạy vào. Tôi cũng nghe thấy tiếng chân nhà tôi chạy đến nữa. Tôi ngăn nhà tôi lại. Tôi hứa với nhà tôi là sẽ lên với bà ấy ngay. Tôi nói đôi câu với anh Bar, và chỉ thoáng nhìn qua là anh đã hiểu hết tất

cả mọi chuyện. Chúng tôi chờ gia nhân trong lâu đài chạy đến. Nhưng chẳng thấy ai đến cả. Lúc đó chúng tôi mới hiểu rằng không

ai nghe thấy tiếng súng nổ, và chỉ có chúng tôi biết việc gì mới xảy

ra thôi. Chính vào lúc này tôi chợt có ý kiến. Tôi vén cánh tay áo nó lên, và chúng tôi thấy ngay cái dấu hiệu của hội kín in trên đó, Đây các ông xem .... Du-gia cũng vén tay áo ngoài và tay áo sơ mi lên, chỉ cho chúng tôi thấy một cái hình tam giác màu nâu nằm trong một đường tròn, giống như cái hình chúng tôi đã thấy trên tay xác chết. - Khi tôi nhìn thấy cái dấu hiệu đó, tôi bắt đầu xếp đặt kế hoạch. Nó cũng cỡ người như tôi, cũng tóc hoa râm và dáng dấp cũng gần giống tôi. Còn về bộ mặt thì chẳng còn ai phân biệt ra được nữa. Tôi trở lên phòng để lấy bộ quần áo, và mười lăm phút sau thì Bar và tôi đã mặc vào cho nó cái áo khoác ngoài của tôi, rồi đặt nó nằm như các ông đã thấy đấy. Chúng tôi bọc hết quần áo của

nó vào trong một cái gói, rồi buộc thêm vào đó quả tạ, là vật nặng duy nhất mà tôi tìm thấy lúc bấy giờ, sau đó đem ném cả gói qua cửa sổ. Mẩu bìa cứng mà nó định để cạnh xác tôi, thì nay tôi đem để cạnh xác nó. Tôi đeo mấy cái nhẫn của tôi vào ngón tay nó, nhưng đến cái nhẫn cưới thì... Du-gia chìa ra một bàn tay to lớn. - ... Từ ngày cưới nhà tôi đến giờ, tôi chưa hề tháo nó ra, và bây giờ có lẽ phải có một cái giũa thì mới lấy nó ra được. Tôi phải bóc cả miếng băng dính dưới cằm của tôi và dán vào cùng một chỗ trên cái phần còn lại của đầu kẻ thù. Ông Holmes, mặc dù ông là người tinh

khôn, nhưng ông cũng đã có lúc sơ ý: vì nếu ông dở miếng băng

dính ấy lên, thì ông sẽ thấy ở dưới không có một dấu đứt nào cả. Tôi định ẩn náu trong ít lâu; rồi đi đến một nơi nào đó, nhà tôi sẽ đến sau, thì may ra tôi còn có thể sống yên ổn được trong những ngày cuối cùng của đời mình. Bay giờ tôi có một điều muốn hỏi các ông: "Đối với luật pháp nước Anh, thì tội của tôi sẽ như thế nào?" Tất cả mọi người đều yên lặng. Mãi sau, Holmes mới lên tiếng: - Luật pháp nước Anh, nói chung, là một luật pháp đúng đắn. Luật pháp này sẽ công bằng đối với ông. Nhưng tôi muốn biết tại sao người đó

lại biết ông ở đây, và hắn làm cách nào mà lọt được vào căn buồng này. - Tôi hoàn toàn không biết. Holmes tái nhợt, rất nghiêm trọng, nói như thì thầm. - Như thế thì câu chuyện này chưa kết thúc đâu. Ông sẽ còn phải đương đầu với những mối nguy hiểm còn ghê gớm hơn cả những kẻ thù của ông ở bên Mỹ nữa kìa. Xin ông hãy theo

lời khuyên của tôi: Hãy hết sức cảnh giác.

Và bây giờ, xin mời các bạn độc giả hãy theo tôi rời lâu đài

Birlstone, lùi về quá khứ hai mươi năm, vượt qua một vài ngàn cây

số về phía Tây, để nghe một câu chuyện lạ lùng và khủng khiếp. Và sau đó chúng ta sẽ trở lại gian buồng ở đường Baker, là nơi sẽ viết chương cuối của câu chuyện này.

Phần thứ hai

NHỮNG NGƯỜI TIÊN PHONG

Chương 1

CON NGƯỜI ẤY

Ngày 4 tháng 2 năm 1875 tuyết phủ đầy các đường đèo của ngọn núi Gilmerton. Chiếc xe quét tuyết đã dọn sạch được con đường hoả xa nối liền các trung tâm mỏ than và sắt. Một con tàu đang ì ạch leo lên con đường đèo chạy từ tỉnh Stagville lên thị trấn Vermissa. Từ đó, đường tàu lại đổ xuống đến giao điểm của Barton

và vùng nông nghiệp Merton. Hàng dãy dài những toa xe goòng chất đầy than hoặc quặng sắt đã lôi kéo đến đây cả một số lớn những người nhiều ý chí. Mà vùng này hiểm ác thật. Những ngọn núi trọc, trắng xoá tuyết, nhô lên từ những cánh rừng tối tăm, rậm rạp đã tạo ra một thung lũng dài ngoằn ngoèo và lộng gió. Chính trong thung lũng này, con tàu đang bò dần lên, vừa đi vừa thở phì phò. Mấy ngọn đèn dầu hỏa mới vừa được thắp lên, trên toa hành khách thứ nhất có khoảng độ 20 hay 30 người. Phần đông họ là những thợ thuyền đi làm việc ở dưới thung lũng về. ít nhất cũng có đến mười, mười hai người mặt mũi nhem nhuốc, có đeo những cây đèn an toàn. Họ hút thuốc và nói chuyện rì rào, thỉnh thoảng liếc nhìn về phía hai người cảnh sát mặc sắc phục đang đứng ở đầu toa.

Có cả một số nữ công nhân và vài ba người buôn bán ở địa phương.Nhưng ở một góc toa tàu, có một người trẻ tuổi ngồi một mình. Anh ta gần ba mươi tuổi, nước da tươi tắn, vóc người trung bình. Đôi mắt mầu xám mở to vừa khôn ngoan, vừa tinh nghịch

lóng lánh sau cặp kính. Rõ ràng đây là một con người cởi mở và

giản dị, nụ cười sẵn sàng nở trên môi. Mới thoạt nhìn thì như vậy. Nhưng quan sát kĩ thêm nữa, sẽ thấy một cái quai hàm rắn chắc và chung quanh đôi môi, những vết nhăn nghiêm nghị, chứng tỏ cái anh chàng trẻ tuổi xứ ái Nhĩ Lan này cũng không phải là một tay vừa. Sau khi ba lần thử bắt chuyện với người thợ mỏ gần nhất, và chỉ nhận được vài tiếng trả lời càu nhàu, anh chàng đành ngồi yên, buồn bã nhìn qua cửa kính, ngắm một phong cảnh chẳng có gì thích thú. Đêm xuống dần, những tia lửa đỏ của các lò đúc lập loè trên các sườn núi, soi sáng những đống than và xi quặng cùng những giếng mỏ. Rải rác đó đây, dọc theo đường tàu, những xóm nhà gỗ nhỏ đã bắt đầu lên đèn. Tàu dừng lại ở nhiều nơi, ở mỗi nơi lại có những toán thợ thuyền bước xuống. Người hành khách trẻ tuổi ngắm nhìn xứ sở u buồn này một cách vừa chăm chú vừa ghê sợ. Thỉnh thoảng anh ta lại lôi từ trong túi ra một phong thư dày cộm, đọc một vài đoạn rồi lại nghí ngoáy vài chữ lên đó. Có một lần, anh

ta lôi từ đằng sau chiếc thắt lưng ra một khẩu súng lục. Khi anh ta nghiêng nó về phía ánh sáng đèn, thì thấy rõ là khẩu súng đã lên đạn. Anh ta lại vội nhét nó vào trong túi áo. Một người thợ nói: - Này anh bạn, anh có vẻ chuẩn bị dữ quá đấy! Người trẻ tuổi mỉm cười, hơi lúng túng: - Đúng. Ở chỗ tôi sống trước đây, đôi lúc cũng cần đến nó. - Thế anh ở đâu đến? - ở Chicago. - Anh chưa đến đây bao giờ? - Chưa. - Rồi sẽ thấy, ở đây anh cũng cần nó. - Thật không?

- Anh chưa nghe gì ở đây à? - Chưa. - Thế mà tôi cứ tưởng là chuyện

đã lan ra khắp xứ sở rồi chứ. Nhưng không lâu đâu, rồi anh sẽ biết hết. Thế tại sao anh lại đến cái thung lũng này? - Tôi tìm việc làm. - Anh có vào nghiệp đoàn không? - Có chứ. - Thế thì anh sẽ được toại nguyện. Anh có bạn bè không? - Chưa, nhưng sẽ có. - Nhờ đâu? - Tôi

là hội viên của "Hội những Người Tự Do". Trong mỗi tỉnh đều có một chi hội. Người thợ sửng sốt, liếc nhìn những người cùng ngồi trong toa với cặp mắt ngờ vực. Nhưng những người thợ mỏ vẫn rì rào nói chuyện,. Hai người cảnh sát thì ngủ gà, ngủ gật. Người thợ liền đứng dậy đi lại gần người trẻ tuổi, ngồi xuống bên cạnh anh ta, chìa tay ra và nói: - Vậy hãy bắt tay tôi đi. Họ trao đổi nhau một cái bắt tay theo một kiểu riêng nào đó. - Được rồi. Anh nói sự thật. Nhưng tôi muốn chắc chắn hơn kia... Người thợ giơ tay phải lên

ngang tầm mắt phải, Anh trẻ tuổi vội giơ ngay tay trái lên ngang

tầm mắt trái. Người thợ nói: - Những đêm đen tối rất khó chịu. Anh kia trả lời: - Phải, nhất là cho những người lạ mà phải đi lại. - Thôi

đủ rồi, Tôi là Can-lân, chi nhánh 341, thung lũng Vermissa, sung

sướng được gặp anh trong vùng này. - Cảm ơn. Tôi là Móc-đô, chi nhánh 29, Chicago. Toán trưởng: J.H.Scott. Tôi may mắn gặp được một môn huynh như anh. - Không ở đâu mà Hội lại phồn thịnh như

ở Thung lũng này. Có điều tôi không hiểu được là tại sao một hội viên năng nổ như anh mà lại không tìm được việc làm ở Chicago. - ở đó, tôi có thể tìm được bất cứ việc nào mà tôi muốn. - Móc-đô trả lời.

- Thế thì tại sao anh lại bỏ đi? Móc-đô mỉm cười trỏ người cảnh sát:

- Hai ông cố nội này mà biết được lý do thì hẳn là vui lắm. - Chuyện

lôi thôi à? - Can-lân thì thào. - Nặng. - Tù được không? - Chưa đủ. - Không phải án mạng chứ? Móc-đô trả lời như một người vừa chợt nhận thấy rằng mình đã nói hơi quá: - Mình có những lý do để ra

đi. Anh nghe đến thế là đủ rồi nhé. - Tôi không hỏi nữa. Tôi không muốn làm mất lòng anh mà. Các bạn ở đây sẽ không đánh giá xấu anh đâu. Thế bây giờ anh định đi đâu? - Đến Vermissa. - Còn ba ga nữa thì đến. Thế anh định ở đâu? Móc-đô rút ra một chiếc bì thơ, đưa đến gần ngọn đèn: - Địa chỉ đây: Cụ Sáp. Đường Sheridan. Đây

là một nhà nấu cơm trọ. Có người ở Chicago mách cho tôi. - Tôi không biết nhà trọ này. Vermissa không nằm trong khu của tôi. Tôi

ở Hobson'sPatch ga sau là đến. Nhưng mà này, nếu anh có chuyện

gì lôi thôi ở Vermissa, thì cứ đi thẳng đến nhà hội quán và vào tìm ông chủ Ganh-ty. Ông ta là toán trưởng của chi nhánh Vermissa. Thôi tạm biệt, sẽ gặp lại nhau ở chi hội. Móc-đô ngồi lại một mình với những ý nghĩ quay cuồng trong đầu. Đêm đã xuống hẳn. Trong khung cảnh tranh tối tranh sáng đó, những dáng người đen sẫm cúi xuống co, kéo, quay đi quay lại với những động tác của người máy, theo nhịp điệu những tiếng gầm gừ của sắt thép. Một tiếng nói bỗng cất lên: - Địa ngục có lẽ cũng giống thế này thôi. Móc-đô quay lại: Một người cảnh sát đã đến ngồi bên cạnh anh và đang ngắm nhìn cái cảnh tượng khủng khiếp đó, Người cảnh sát kia gật đầu đáp lại.

- Đúng. Nếu ở địa ngục mà có những con quỷ sứ dữ tợn hơn một số

kẻ ở đây thì tôi sẽ rất ngạc nhiên. Anh mới về vùng này phải không? - Phải. - Móc-đô trả lời. - Tôi khuyên anh hãy cẩn thận

trong việc chọn bạn. Không nên kết bạn với Can-lân hay cái băng

của hắn. - Đó là chuyện riêng của tôi, các anh can dự vào làm gì? Móc-đô nhe hai hàm răng ra cười. Hai người cảnh sát ngạc nhiên khi thấy thiện chí của mình bị đáp lại một cách thô bạo.. Một người nói: - Đấy là một lời báo động chỉ có lợi cho anh thôi. Móc-đô vẫn cứ

tái đi vì tức giận, hét lên: - Tôi không biết vùng này thật, nhưng tôi biết rằng mỗi lần mở miệng là các anh cứ khuyên với răn. - Thôi được, chúng tôi sẽ được biết anh rõ hơn, anh có vẻ "chịu chơi" lắm. Người cảnh sát kia bồi thêm: - Đúng, rồi chúng ta sẽ gặp lại nhau, không lâu đâu. - Tên là Móc-đô. Hai người cảnh sát nhún vai và quay ra nói chuyện với nhau. Mấy phút sau, tàu từ từ vào một cái

ga tối tăm, và nhiều người bước xuống, vì Vermissa là thị trấn lớn nhất trên tất cả tuyến đường. Móc-đô cầm cái bọc lên. Khi anh sắp

đi vào trong bóng tối của sân ga, thì một người thợ mỏ đến nắm lấy tay anh: - Đưa cái bọc đây tôi mang cho, và tôi sẽ chỉ đường cho anh. Khi hai người đi đến sân ga, ngang qua đám thợ mỏ, hàng loạt tiếng chào nổi lên. Thế là trước khi đặt chân xuống Vermissa, Móc-

đô đã trở thành một nhân vật nổi tiếng ở đó rồi. Đứng dưới thung lũng nhìn mấy đống lửa ngất trời cùng những đám khói dày đặc còn thấy một cái gì là hùng vĩ, ở đấy con người nhờ sức hai bàn tay và

bộ óc đã đẽo gọt những ngọn núi bằng máy và dựng lên những công trình. Trái lại, về đến thị trấn, chỉ thấy toàn một sự nhớp nhúa và xấu xí. Đường phố chính đã bị xe cộ đi lại biến thành một thứ tuyết pha bùn nhão như hồ. Những cây dèn chỉ dùng để làm lộ ra những dãy nhà bằng gỗ, mặt tiền có một hàng lan can, tất cả đều nhếch nhác bẩn thỉu. Vào đến trung tâm thì một vài cửa hàng có thắp đèn sáng hơn, nhưng cả một đám nhà chỉ là những hàng cà phê và sòng bạc, để cho thợ mỏ đến vung phí tiền lương. Người đưa đường chỉ vào một cái quán rượu to, nói; - Đấy nhà hội quán đấy, Ganh-ty là ông chủ. - Ông ta như thế nào? - Anh chưa bao giờ nghe nói đến ông ta? - Tôi mới đến. - Thế mà tôi cứ tưởng là khắp xứ này phải biết đến ông ta. Ông ta được đăng báo hoài mà. - Tại sao báo lại đăng tên ông ta? - ờ thì vì... Người thợ mỏ hạ giọng xuống nói nhỏ: -... Vì

áp phe mà. - áp phe gì? - áp phe của những "Người Tiên Phong". - ừ,

ở Chicago tôi cũng có đọc một cái gì đấy về những "Người Tiên

Phong". Chúng nó là một bọn sát nhân, phải không? Người thợ mỏ

hoảng hốt, nói lạc cả tiếng: - Anh muốn sống thì im ngay đi. Này

anh, ở đâu mà ăn nói kiểu đó, thì không được đâu, đi mò tôm đó. - Không, tôi chỉ biết được đôi chút thôi. Anh ta liếc chung quanh, nhìn những bóng đen và đêm tối như là sợ hãi một sự nguy hiểm nào đó. - Nếu giết người có nghĩa là ám sát. Thì ở đây những vụ ám sát đem bán "xôn" cũng không hết. Nhưng anh đừng có dại dột mà đem cái tên của Ganh-ty đi kèm với các vụ ám sát. Bởi vì ông ta không tha thứ cho bất cứ ai xì xào về ông ta. Đây căn nhà mà anh tìm ở lùi vào đằng sau đường phố một chút đó. Móc-đô bắt tay người bạn mới: - Xin cám ơn anh. Anh ta đi lên con đường dẫn vào nhà, và

gõ cửa. Hai cánh cửa mở ngay ra: trước mặt anh là một phụ nữ còn trẻ, đẹp kì lạ. Cô ta có dáng người xứ thuỵ Điển, bộ tóc vàng óng lộng lẫy tương phản với đôi mắt đen nhánh. Cô ngạc nhiên nhìn người thanh niên lạ mặt, và sự lúng túng làm sắc mặt đỏ hồng lên, một đoá hoa tươi thắm nở trên một đống than xỉ. Anh mê mẩn ngắm cô gái, không nói được nên lời và cuối cùng cô ta phải lên tiếng: - Tôi tưởng là ba tôi về. Ông đến tìm ba tôi? Ba tôi lên phố, cũng sắp về. Móc-đô vẫn cứ ngắm say sưa: - Thưa cô. Tôi không vội lắm, tôi đến đây để xin ở trọ. - Vậy xin mời ông vào. Tôi là Ettie, con gái ông Sáp. Má tôi đã mất, và chính tôi trông nom cái nhà trọ này. Ông có thể ngồi cạnh lò sưởi để chờ ba tôi về. À, mà kìa, ba tôi về tới rồi. Một người đàn ông nặng nề bước vào nhà. Móc-đô giải thích ngắn gọn lý do anh đến đây. Ông già Sáp nhanh chóng đồng ý: 12

đô la mỗi tuần , trả tiền trước cả tiền ăn, tiền phòng.

Chương 2

NGƯỜI TRƯỞNG TOÁN

Móc-đô là một người muốn ai cũng phải để ý đến mình. Chỉ sau một tuần lễ, anh ta đã trở thành nhân vật quan trọng nhất trong nhà trọ. Buổi tối, khi những người tá túc tại đây ngồi với nhau, thì anh chàng này luôn luôn có những chuyện khôi hài làm cho họ phải phá lên cười. Sức hấp dẫn riêng của anh làm toả sự vui vẻ ra xung

quanh. Đối với những người đại diện cho pháp luật, anh tỏ thái độ

khinh thường, làm cho những người trong nhà trọ hoặc là thích thú hoặc là lo ngại. Ngay từ khi mới đến trọ, anh đã công khai bộc lộ sự chiêm ngưỡng đối với cô thiếu nữ trong nhà rằng từ phút đầu tiên,

cô gái đã chiếm hoàn toàn trái tim anh. Trong ngày thứ hai. anh nói thẳng rằng anh yêu cô ta, và từ đó, anh không ngừng nhắc đi nhắc lại cái điệp khúc ấy. - Cô có người khác rồi à? Cô hãy bảo cái người ấy lo công việc riêng của anh ta đi. Còn tôi, tôi sẽ không để lỡ mất dịp may duy nhất của đời tôi. Ettie, hiện giờ cô có thể nói tiếng Không. Nhưng một ngày nào đó, rồi cô sẽ trả lời là : Có. Tôi còn trẻ,

tôi đợi được. Đó là một gã si tình nguy hiểm, với tác phong trắng trợn ái Nhĩ Lan, và những cử chỉ dịu dàng âu yếm đến mê người. Thêm nữa, anh ta được bao bọc trong một vòng hào quang của những chuyện phiêu lưu và bí mật, vòng hào quang dễ làm cho một phụ nữ phải chú ý, và từ đó dẫn đến tình yêu có xa gì. Anh ta kể về những thung lũng thanh bình, về hòn đảo xa vời đẹp như trong những chuyện thần tiên, về những ngọn núi hiền lành, những cánh đồng xanh muốt. Người ta có cảm giác là nhiều chuyện kỳ lạ đã xảy đến cho anh ta trong cái thành phố Chicago quá kỳ lạ, quá bí mật. Anh ta gợi lại với một vẻ trầm ngâm buồn rầu, một cuộc ra đi đột ngột, một cuộc chạy trốn vào nơi tận cùng của cái thung lũng âm u này. Ettie lắng nghe từng lời, đôi mắt nhung đen ánh lên một niềm thương xót và thông cảm. Móc-đô làm kế toán. Anh bận suốt ngày,

và cũng chưa có thì giờ đến trình diện ở chi nhánh của "Hội những người Tự Do". Can-lân đến nhà trọ cụ Sáp vào một buổi tối. Can-lân

là một mẫu người nhỏ bé, láu táu, mặt lưỡi cày. Anh ta có vẻ vui lòng khi gặp lại Móc-đô. Sau vài ngụm, anh ta đi vào lý do của việc đến thăm. - Này, Móc-đô, sao anh chưa trình diện ông toán trưởng.

- Tôi bận. - Làm gì thì làm, nhưng phải tới gặp Ganh-ty ngay đi. Lẽ

ra sau ngày anh đến, anh phải trình diện ỏ trụ sở Hội rồi, anh không được làm ăn bê bối với ông ta. Móc-đô có vẻ ngạc nhiên. - Tôi

là một hội viên đã hơn hai năm rồi. Sao lại phải đi trình diện gấp thế? - ở Chicago thì không gấp như thế đâu. - ở đây cũng là một Hội

ấy chứ? - Cùng một Hội à? - Can-lân nhìn Móc-đô trừng trừng, mắt

anh ta loé lên một tia sáng đe dọa. - Thế không phải là cùng một

Hội sao? - Móc-đô hỏi lại. - Một tháng nữa, chúng ta sẽ trở lại chuyện cùng hay không cùng này. Tôi nghe nói là bữa nọ trên tàu anh có đối đáp gì đó với mấy tay cảnh sát. - Sao anh biết? - ồ tin tức bay đi mà. Ở đây tin tức bay đi nhiều lắm, tốt cũng có, xấu cũng có.

ồ! Anh sẽ là người lý tưởng của Ganh-ty đó. - Sao vậy? Ông ta cũng ghét cảnh sát ư? Can-lân bật cười, đứng dậy: - Hãy đi gặp ông ta ngay đi. Nếu không, thì không phải ông ta ghét cảnh sát, mà là ghét anh đó. Cũng đêm hôm đó, ông già Thuỵ Điển mời anh chàng trẻ tuổi vào phòng ông. - Tôi có cảm giác là anh đang ve vãn con gái tôi. - Tôi yêu cô ấy. - Thế thì anh tốn công vô ích. Có người đã đến trước anh rồi. - Cô ấy đã nói với cháu như thế. - Con bé có nói với anh là ai không? - Cháu có hỏi nhưng cô ấy không nói. - Có lẽ nó không muốn làm anh phải sợ hãi đấy. - Làm cháu sợ hãi à? Móc-đô

đã bắt đầu nóng mặt. - Đúng đó,anh bạn. Nó là thằng Ted đó. - Cái thằng Ted ấy là một thứ ma quái dữ dằn hay sao? - Nó là một trong những thằng chủ của bọn "Người Tiên Phong" đấy. - "Người Tiên Phong" à? Tại sao mọi người ở đây lại phải sợ chúng đến thế? Ông chủ trọ hạ thấp ngay giọng xuống. - "Người Tiên Phong" là hội viên của "Hội những Người Tự Do". Người trẻ tuổi giật mình. - Cháu cũng là hội viên của Hội ấy đây. - Anh à? Nếu tôi biết thế, thì tôi không cho anh vào nhà. Dù anh có trả tôi đến 100đô la một tuần đi nữa. - Hội lập ra cốt để giúp đỡ lẫn nhau, và gây tình bạn tốt. Bác hãy đọc điều lệ của nó mà xem. - ở nơi khác thì như thế đó. Nhưng ở đây thì không. - ở đây nó thế nào? - Một bọn sát nhân. Thế thôi. Móc-đô đáp lại bằng một nụ cười không tin: - Bác chứng minh được điều đó không? - Cả năm mươi vụ án mạng ở đây chưa đủ để chứng minh hay sao? Trong cùng thung lũng này không ai không biết những việc ấy. Móc-đô nói rất nghiêm trang: - Thưa bác, cháu muốn bác rút lại những lời vừa nói, nếu không thì bác phải giải thích. - Tôi chỉ nhắc lại cho anh cái gì mà tất cả mọi người đều nói ở đây. Những người chủ của Hội thì cũng là những người chủ của bọn "Tiên Phong". Nếu ai làm gì phật ý Hội, thì bọn "Tiên Phong" sẽ ra tay ngay. - Cháu muốn có những chứng cớ thực sự kia. - Nếu anh

còn ở lại Vermissa này, thì rồi anh sẽ có những chứng cớ. Nhưng tôi

quên mất rằng anh cũng ở trong cái băng ấy, thì rồi anh cũng chẳng hơn gì bọn chúng đâu. Trong khi chờ đợi, thưa ông, xin ông

đi tìm một nơi trọ khác. Thế là Móc-đô bị kết án phải đi đày đến hai lần: đi đày khỏi căn buồng ấm cúng và đi đày xa người thiếu nữ. Anh đi tìm Ettie. - Ba em vừa mới đuổi anh. Nếu chỉ là chuyện căn buồng thôi thì anh có cần gì. Nhưng mà, anh không thể sống không

có em được. - ồ, ông Móc-đô. Xin ông đừng nói thế. Ông đã đến quá trễ. Em chưa hứa với hắn nhưng em cũng không thể hứa với người khác được. - Thế nếu anh là người đến trước, thì liệu anh có một tia

hy vọng nào không? Cô gái úp mặt vào hai bàn tay, khóc nức nở: - Em thề trước Thượng Đế là em muốn anh là người đầu tiên đến với em. Móc-đô quỳ ngay xuống bên cô gái, thốt lên: - Anh van em, em hãy làm theo tiếng gọi của trái tim mình. Móc-đô nắm lấy đôi bàn tay cô gái. - Em hãy nói rằng em là của anh, và chúng ta sẽ cùng nhau xây dựng cuộc đời. - Nhưgn không pảhi ở đây chứ? - ở đây, ngay ở đây em ạ. - Không, không, anh... Móc-đô ôm chặt cô gái vào trong tay. Cô gái không chống cự. - ở đây thì không được đâu anh. Nhưng... anh có thể đi với em được không? Một trận bão nội tâm, làm rung động nét mặt người thanh niên. Một lát sau, khuôn mặt trở lại rắn đanh - Không. Anh ở đây để bảo vệ em và chống với cả hoàn cầu. - Thế tại sao chúng ta không đi nơi khác. - Không, anh không thể đi được. - Tại sao? - Nếu chúng ta yêu nhau thì ai dám ngăn cản? - Anh mới đến đây nên anh không biết cái thằng Ted đâu. Anh cũng không biết Ganh-ty và bọn "Tiên Phong". - Anh đã sống giữa những con người dữ tợn, và bao giờ rồi cuối cùng chính chúng phải kiêng anh. Nếu bọn chúng đã phạm tội thì tại sao không ai đưa chúng ra trước pháp luật. - Không có ai dám ra làm chứng chống lại chúng: người nào làm như vậy, thì ngay trong tháng đó sẽ chết. - Có thể người ta tìm cách hại chúng và chúng không có cách gì để tự vệ chăng? - Ôi, em không muốn nghe anh nói như vậy. hắn cũng nói đúng như vậy đó... cái thằng ấy. - Thằng Ted

ấy à? à, nó nói như vậy có phải không? - Và vì vậy, mà em ghét nó. Em ghét nó nhưng em sợ nó. Cho nên em cứ phải tìm cách tránh né

bằng những lời hứa nửa vời. Nhưng nếu anh chịu đi với em, thì

chúng ta sẽ đưa ba em đi, và sống mãi mãi với nhau. Một lần nữa nét mặt người thanh niên lại hiện lên cuộc tranh đấu nội tâm dữ dội, và một lần nữa, một quyết định không gì lay chuyển nổi. - Sẽ không có gì nguy hại xảy đến cho em và ba em đâu.Còn về cái bọn độc ác kia, anh tự hỏi không biết rồi em có ngạc nhiên khi thấy rằng anh còn độc ác hơn cả đứa độc ác nhất trong bon chúng, trước khi chúng ta lấy nhau. - Không, em tin anh... tin suốt đời. Trên môi Móc-đô nở một nụ cười cay đắng. - Em biết anh còn ít quá, em không thể đoán biết được những gì diễn ra trong tâm hồn anh đâu. Này, ai đến kìa? Hai cánh cửa buồng bật toang ra, và một người trẻ tuổi bước vào, dáng điệu dương dương tự đắc, hắn đẹp trai, ăn mặc đẹp đẽ. Vóc dáng và tuổi tác cũng vào cỡ của Móc-đô. Dưới chiếc mũ phớt vành đen rộng, cặp mắt dữ tợn nhìn chăm chăm vào đôi trai gái đang ngồi cạnh lò sưởi. Ettie vội vàng đứng bật dây, hoảng hốt.

- Tôi rất sung sướng được ông đến chơi, ông Ted. Xin mời ông ngồi. Ted hai tay chống nạnh, nhìn thẳng vào mặt Móc-đô, hỏi: - Người này là ai? - Một người khách trọ mới. Ông Móc-đô, ông cho phép tôi giới thiệu với ông, ông Ted. Hai người thanh niên trao đổi một cái gật đầu lạnh nhạt. - Cô gái đã nói cho anh biết sự quan hệ của cô ta với tôi rồi chứ? - Tôi chẳng biết mối quan hệ nào giữa cô ta và anh

cả. - Cô gái này là của tôi, và bây giờ thì anh đi chơi đi, ngoài kia trời dễ chịu lắm đấy. - Cám ơn. Lúc này tôi không thích đi chơi. - "Lại thế nữa kia". Đôi mắt của Ted rừng rực lửa giận. "Thế chắc ông thích đánh nhau có phải không, thưa ông khách trọ?" Móc-đô nhảy dựng lên: - Anh đã đoán đúng đấy. Chưa bao giờ anh lại có một lời nói đúng hơn thế nữa. Cô thiếu nữ kêu lên, sợ hãi: - Ôi, anh Móc-đô.

Ôi anh Móc-đô. - ồ, người ta đã gọi nhau bằng anh rồi, nhanh quá nhỉ? - Anh Ted. Xin anh hãy độ lượng mà tha lỗi cho anh ấy. Móc-đô bình tĩnh nói: - Ettie, anh sẽ giải quyết chuyện này ổn thoả thôi. Thưa ông Ted, ông có thấy hứng thú mà đi dạo với tôi một vòng ngoài đường kia không? Trời ban đêm đẹp lắm, đúng như ông đã nói, ở đằng sau nhà bên cạnh này có một cái bãi trống, tiện lợi lắm, ông ạ. - Tôi sẽ trả món nợ này, mà không cần phải bẩn tay. Anh sẽ

hối hận là đã đặt chân vào nhà này. - Sẽ à? Có ngay vẫn hơn chứ. -

Tôi sẽ chọn giờ. Anh có thể để tôi thu xếp việc ấy cho. Này, nhìn đây. Ted kéo ống tay áo lên và chỉ vào một dấu hiệu đặc biệt: một hình tam gíac nằm trong một đường tròn. - Anh có biết cái này là gì không? - Tôi không biết và cũng chẳng cần biết. - Thế thì rồi anh sẽ biết. Ettie sẽ chỉ dẫn cho anh. Con kia, mày sẽ quỳ xuống ,và van xin trở về với tao. Sau đó, mày sẽ biết tao trừng phạt mày như thế nào. Mày đã gieo..., thì tao sẽ cho mày gặt... Hắn giận dữ, nhìn hai người một lần cuối, rồi quay gót đi ra và dập cửa lại. Trong giây lát, Móc-đô và người thiếu nữ đứng lặng đi. Nhưng rồi người thiếu nữ nhào tới ôm chặt lấy anh: - Ôi, anh Móc-đô, anh can đảm biết bao nhiêu. Nhưng anh phải trốn ngay tối nay, nó sẽ giết anh. Em đã nhìn thấy trong mắt nó. Làm sao mà anh chống cự được với cả băng của chúng. Móc-đô dịu dàng hôn người thiếu nữ và dìu cô ngồi xuống ghế - Em đừng có lo, Anh cũng là một hội viên trong Hội những Người Tự Do, anh đã nói với ba em rồi, và bây giờ anh cũng nói cho em biết nữa, đừng ghét bỏ anh. - Em không thể nào ghét bỏ anh được. Nhưng nếu anh cũng là một hội viên, tại sao anh không đến lấy lòng ông Ganh-ty. ồ, anh đi ngay đi. - Anh cũng có ý đó. Em

có thể nói với ba em là đêm nay anh còn về ngủ ở đây, nhưng ngày mai anh sẽ đi tìm một căn phòng khác.

Quầy rượu của quán Ganh-ty đông nghẹt khách gồm toàn những bọn hạ lưu của thị trấn. Ganh-ty là nhân vật nổi tiếng, bên ngoài được che đậy bằng tác phong của một người vui tính sởi lởi. Nhưng bên trong, sự sợ hãi mà hắn gieo rắc không những ở Vermissa, mà cả trên 50 cây số của cái thung lũng này, đủ lôi kéo khách đến quán rượu của hắn rồi. Ganh-ty đã được những bọn cướp, bọn lưu manh, bầu hắn giữ chức vụ Uỷ viên Hội đồng Thành phố, và Quận trưởng Cảnh sát giao thông. Thuế má và các khoản tiền đóng góp rất lớn, những công trình công cộng thì bị bỏ bê, báo cáo trước nhân dân thì bị bóp méo sự thật Người dân thường bị bắt buộc phải câm miệng vì sợ bị tai hoạ. Thế là, năm này qua năm khác, quán rượu của ông a đã phình ra đến mức đe doạ nuốt cả một góc của phố chợ. Móc-đô đẩy cửa bước vào, chen giữa đám đông ồn

ào, trong một bầu không khí ô nhiễm khói thuốc và sặc mùi rượu.

Căn phòng được thắp đèn sáng choang. Những tấm gương lớn, khung mạ vàng, treo trên bốn bức tường phản chiếu và nhân lên gấp bội không biết bao nhiêu là đèn. Những người bồi rượu, tay áo

sơ mi xắn lên đến khuỷu tới tấp pha rượu cho khách hàng. Ở một đầu, đứng dựa mình vào quầy, là một người đàn ông cao lớn. Đó là Ganh-ty. Ông ta có bộ tóc đen nhánh, dài như một cái bờm rủ xuống đến tận cổ, bộ râu nham nhở hai bên má, nước da mai mái của một người ý Đại Lợi, đôi mắt đen nhìn không chớp, trông rất dữ tợn. Tất

cả phần còn lại, một thân hình cân đối, nét mặt thanh tú, tác phong

cởi mở, phù hợp với dáng điệu vui tính và chịu chơi mà ông ta cố làm cho mọi người thấy rõ. Một người khách lạ sẽ nghĩ rằng đây là một tay làm ăn lương thiện. Nhưgn khi đôi mắt hung bạo kia nhìn trừng trừng vào khách, thì người này bắt đầu run sợ, và cảm thấy mình đang đứng trước một thiên tai thực sự. Sau khi đã quan sát

kỹ con người đó, Móc-đô, cùi tay gặt một đám xu nịnh đang bao quanh. Đôi mắt táo bạo của người thanh niên như đóng đinh vào đôi mắt đen đang soi mói nhìn anh. - Này anh, tôi chưa hề thấy cái bản mặt của anh ở đây. - Tôi mới đến, thưa ông Ganh-ty. - Nhưng không vì thế mà không biết thưa gởi với một người có chức vụ. Một người trong bọn xu nịnh vội giải thích: - Này anh, đây là ông hội đồng Ganh-ty đó. - Rất tiếc, thưa ông hội đồng. Tôi chưa biết hết các tập quán ở đây. Nhưng người ta có khuyên tôi đến gặp ông. - Thế thì anh gặp tôi rồi đó. Anh thấy tôi thế nào? - ồ, nói ra bây giờ còn sớm quá. Nhưng nếu trái tim của ông cũng to như thân hình của ông, và tâm hồn ông cũng đẹp như ông, thì tôi tự thấy là bằng lòng rồi. Nghe câu trả lời đó, tên chủ quán đâm ra ngỡ ngàng, không biết nên cười cợt hay giữ một vẻ nghiêm trang với tên thanh niên này. Một lát sau, hắn mới quyết định. - Tổ mẹ, đúng là một kiểu ăn nói

ái Nhĩ Lan rồi. Thế ra tôn ông đã hài lòng về phần người ngợm của

tôi rồi, phải không? - Chắc chắn thế. - Và người ta bảo anh đến gặp tôi. - Vâng. - Ai nói? - Môn huynh Can-lân, chi nhánh 341, của Vermissa. Tôi xin nâng ly mừng sức khoẻ của ông, ông hội đồng. Móc-đô vừa uống vừa giơ ngón tay út lên. Ganh-ty chăm chú theo

dõi anh ta và bỗng nhíu cặp mắt đen rậm lại nói: - ồ, ra thế đấy.

Vậy thì tôi phải xét trường hợp của ông một cách cặn kẽ hơn nữa, thưa ông... - ... Móc-đô - Một cách cặn kẽ hơn nữa, thưa ông Móc-đô,

vì ở đây không ai tin lời nói của ai cả. Xin mời qua đằng sau quầy này. Ở đó có một căn phòng nhỏ với những thùng rượu xếp dọc theo tường. Ganh-ty đóng cửa rồi ngồi lên một thùng, vừa cắn vào điếu

xì gà vừa quan sát anh thanh niên. Hai phút trôi qua như thế. Móc-

đô chịu đựng cuộc thẩm tra này một cách vui vẻ. Anh ta đút một tay trong túi áo vét, còn một tay thì vân vê ria mép. Đột nhiên Ganh-ty chồm người về phía trước và chìa ra một khẩu súng lục. - Này, thằng kia. Nếu mày định chơi tao thì cái này sẽ đưa mày sang thế giới bên kia ngay. Móc-đô bình tĩnh trả lời: - Đón tiếp một môn huynh như thế này thì quả thật là kỳ cục, nhất là khi người ta lại

là một trưởng toán trong chi nhánh của Hội những Người Tự Do. - Anh được nhập hội ở đâu? - Chi nhánh 29, Chicago - Bao giờ? - Ngày 24 tháng 6 năm 1871 - Tên trưởng toán? - J.H.Scott. - Ai chịu trách nhiệm toàn khu? - Bartholomew Wilson. - Đến Vermissa làm

gì? - Tôi cũng đi làm như ông - Anh đối đáp trơn tru lắm nhỉ? - Vâng, tôi không ngọng nghiụ. - Thế trong hành động, anh có lanh lẹ không? - Tôi nổi tiếng về việc ấy. - Rất tốt, anh sẽ được thử thách. Anh đã nghe nói đến chi nhánh ở đây bao giờ chưa? - Người ta nói với tôi rằng trước tiên phải là một con người đã, rồi sau mới thành một môn huynh được. - Đúng đó. Tại sao anh lại bỏ Chicago ra đi? - Ông đừng hòng bắt tôi khai. Ganh-ty trố mắt ra nhìn. Hắn không quen nghe những câu trả lời như vậy. Câu này, hắn thấy nó thật ngộ nghĩnh. - Tại sao vậy? - Vì môn huynh không được phép nói dối với một môn huynh khác. - Nghĩa là sự thật không được tốt lắm chứ

gì. - Nếu ông muốn hiểu như vậy, thì xin tuỳ ông. - Một người trưởng toán như tôi, chắc sẽ không đưa một ai vào trong chi nhánh Hội, khi chưa biết quá khứ của anh ta. Móc-đô có vẻ lúng túng. Sau cùng, anh ta lôi ở túi áo trong ra một mảnh báo cũ, và còn hỏi lại: - Ông không phản thùng tôi chứ? - Mày mà còn nói cái kiểu ấy thì tao đập vỡ mặt mày ra bây giờ. Móc-đô tỏ vẻ hối tiếc: - Tôi xin lỗi ông. Tôi nói mà không suy nghĩ. Tôi biết rằng ở trong tay ông thì tôi sẽ

được an toàn. Ông hãy đọc mảnh báo này đi. Ganh-ty đọc lướt qua

bài báo đưa tin về vụ án mạng tên Jonas Pinto ở quán rượu phố

Chợ, tại Chicago, đêm mồng 1 tháng giêng năm 1874. Hắn đưa trả

lại mảnh báo cũ, hỏi: - Anh làm cái việc ấy à?... Móc-đô trả lời bằng cái gật đầu. - Tại sao anh lại hạ nó? - Tôi giúp đỡ nhà nước đúc ra các đồng đô la. Có lẽ những đồng đô la của tôi làm ra, vàng không

đủ tuổi như đồng đô la của Nhà nước, nhưng trông nó vẫn có vẻ xài được. Cái tên Pinto này giúp tôi tiêu thụ những đồng ấy. Một hôm

nó nói rằng sẽ đi tố cáo tôi. Tôi hạ nó ngay, rồi đến đây. - Tại sao lại

đến cái xứ than này? - Thấy báo nói ở đây người ta không khó tính lắm. Ganh-ty bật cười. - Thế ra trước hết anh là một thằng làm bạc giả, rồi sau là một tên giết người, và anh nghĩ rằng đến đây anh sẽ được người ta đón tiếp tốt có phải không. - Vâng, đại khái là như vậy. - Thế bây giờ anh còn làm đươc những đồng đô la ấy không? Móc-đô móc túi lấy ra mấy đồng tiền vàng đưa cho Ganh-ty xem - Đây ông xem... - Thật không? Không nói đùa đấy chứ? Ganh-ty soi các đồng tiền ra ánh sáng, để nó trên bàn tay to tướng. - Không thấy có gì khác cả. Tổ mẹ, thế này thì anh sẽ là một môn huynh đắc lực đây. Ở đây chúng tôi cũng có thể nhận một vài tay đầu bò đầu bướu. - Thưa ông, tôi sẽ giữ được vị trí của tôi, trong cuộc tự vệ đó. - Thần kinh của anh có vẻ vững vàng lắm. Anh không xáo động khi

tôi chĩa súng vào anh? - Lúc đó không phải tôi đang bị nguy hiểm. - Thế thì ai vậy? - Ông. Móc-đô rút tronng túi áo vét ra một khẩu súng sáu đã lên đạn. - Tôi vẫn nhắm vào ông suốt trong thời gian vừa qua, tay tôi cũng không lanh kém gì ông đâu. Ông hội đồng đỏ mặt tía tai nhưng rồi bỗng phá lên cười. - Tôi có cảm giác một ngày nào đó, chi nhánh Hội ta rồi sẽ đươc kiêu hãnh về anh đó... Cái gì thế này. Chúng mày không thể để yên cho tao được nói chuyện đến năm phút với một vị khách quí hay sao? Người hầu bàn cúi đầu: - Xin lỗi ông hội đồng, có ông Ted. Ông ấy muốn gặp ông gấp. Lời báo

ấy là vô ích, Ted đã hiện ra trong khung cửa. Hắn gặt người hầu ra

rồi đóng cửa lại, và nhìn Móc-đô bằng một cặp mắt nẩy lửa. - Thế là mày đã đến đây trước tao rồi hả? Được, ông hội đồng, tôi có câu chuyện muốn nói với ông về cái tên này. Móc-đô nói như hét: - Thì

mày nói ngay đi, nói ngay trước mặt tao nè. - Tao sẽ nói lúc nào tao

cần nói, và nói theo cách của tao. Ganh-ty từ trên thùng rượu nhảy xuống, can thiệp - Ted, đây là một môn huynh mới đến, chúng ta không được đón tiếp anh ta như vậy. Hãy chìa tay ra làm lành với nhau đi. - Không đời nào. - Ted hét lên - Tôi đã mời anh ta đấu với

tôi bằng tay không, hoặc bằng bất cứ thứ vũ khí nào. Thưa ông hội đồng, bây giờ tôi xin để ông phân xử cho chúng tôi. - Thế giữa hai anh có chuyện gì vậy? - Một cô gái trẻ tuổi. - "Tự do à?" Ông trưởng toán nói tiếp. "Vì đây là giữa hai môn huynh trong cùng một chi nhánh hội, nên cô gái đó hoàn toàn tự do". - ồ, luật lệ của ông là như thế đấy hả? - Đúng, luật lệ của tao là như thế đấy, Ted! Ganh-

ty nhìn hắn một cách hiểm ác, tiếp luôn: - Phải chăng mày định chống lại luật lệ ấy không? - Ông gạt ra ngoài một người vẫn đứng bên ông từ năm năm nay, để ôm vào lòng một tên mà ông chưa bao giờ gặp mặt. Mẹ kiếp, đến kỳ phiếu sắp tới... Ông hội đồng chồm lên như một con hổ, khép chặt hai bàn tay vào quanh cổ tên kia và vật ngửa nó lên một thùng rượu. Móc-đô can thiệp. Anh kéo ông hội đồng lại, làm ông ta thả tay ra. Ted bị khuất phục. Hắn ngồi lên trên thùng rượu. - Ted, đã từ lâu mày đáng được một trận như thế này. Ngày hôm nay thì mày nếm mùi sơ sơ rồi đó. Mày tưởng tượng rằng nếu tao không được bầu lại làm trưởng toán thì mày sẽ chiếm chỗ tao phải không? Rồi đây chi nhánh Hội sẽ định đoạt việc này. Nhưng chừng nào tao còn là trưởng toán, thì không một đứa nào được mở mồm ra chống lại những điều tao quyết định, nghe rõ chưa? Ted vừa xoa cổ vừa lắp bắp nói: - Tôi có chống ông cái gì đâu. Thế là Ganh-ty đột ngột trở lại ngay cái kiểu cách ra vẻ hồ hởi thường ngày của hắn: - ồ, nếu thế thì thôi. Chúng ta đều là bạn tốt với nhau cả. Và việc này coi như là xong. Lão lấy từ trong hốc tủ ra một chai sâm banh bật nút mở rượu, rót đầy vào ba cốc : - Nào, chúng ta hãy uống ly rượu hoà giải. Sau tuần rượu này, không có một cuộc cãi lộn nào nữa. Vậy thì bây giờ Ted, hãy để tay trái của anh lên cổ tôi đi. Rồi lão nói tiếp: - Thưa ông, nghĩ sao khi bị xúc phạm? - "Những đám mây đều nặng nề". - "Nhưng chúng sẽ tan đi,

để không bao giờ trở lại nữa". - "Và điều đó, tôi xin thề". Hai người

uống cạn ly rượu, và nghi lễ đó lại diễn ra giữa Ted và Móc-đô

Ganh-ty xoa hai tay vui vẻ nói: - Được rồi. Thế là cuộc cãi lộn đã kết thúc. Nếu nó còn tái diễn thì các anh sẽ phải chịu sự trừng phạt của Hội. Móc-đô chìa tay ra cho Ted bắt: - Tôi thật không dám thế. Tôi

dễ gây lộn, nhưng cũng dễ tha thứ. Người ta bảo đó là do giòng máu

ái Nhĩ Lan. Nhưng đối với tôi thế là xong, và tôi không có thù hằn

gì cả. Ted đành phải giơ tay ra bắt, vì đôi mắt của ông trưởng toán không rời hắn Ganh-ty ôm lấy vai hai người, thở dài: - Thật không thể tưởng tượng được là mảnh gấu váy ấy lại có thể làm cho hai chàng trai của tôi đến phải trở thành đối thủ của nhau. Nhưng những chuyện này vượt ra ngoài thẩm quyền của một người trưởng toán rồi. Môn huynh Móc-đô, anh được nhập vào chi nhánh 341. Chúng tôi thường hội họp vào tối thứ 7. Nếu anh đến dự, anh sẽ mãi mãi là một người Tự Do ở cái thung lũng này.

Chương 3

CHI NHÁNH 341 Ở VERMISSA

Ngay hôm sau, Móc-đô dọn đến nhà một bà goá chồng tên là Namara ở ven thị trấn. Can-lân ít lâu sau cũng có việc về Vermissa nên hai người đến ở chung với nhau. Bà chủ trọ đã già, tính kín đáo

và biết điều. Móc-đô và Can-lân ở đó không có ai khác cùng trọ nên

có thể ăn nói, hoạt động rất tự do. Cụ Sáp cũng đồng ý để cho Móc-

đô khi nào muốn, cứ đến nhà dùng cơm, thành ra quan hệ của anh với Ettie không bị đứt đoạn, mà trái lại cứ ngày càng chặt chẽ, thân thiết hơn. Móc-đô bày những cái khuôn dập bạc giả ra. Một vài môn huynh của chi nhánh được phép bí mật đến nhà anh, và khi ra về thì túi nặng những đồng bạc mới. Những người cùng làm với anh thường thắc mắc tại sao anh có tài như vậy, mà lại chịu hạ mình đi làm công. Anh trả lời rằng nếu anh không có những nguồn thu nhập chính đáng, thì cảnh sát sẽ điều tra về đời sống của anh ngay.

Sau cuộc gặp mặt lần đầu tiên với Ganh-ty, anh thường lui tới quán

rượu để biết "những chàng trai". Đó là cái tên rất dễ thương mà bọn quỉ sứ trong khắp vùng này tự đặt cho mình. Móc-đô nổi tiếng trong bọn chúng vì sự nóng nảy và về cách nói táo tợn của anh. Một buổi tối, khi quán rượu đang đông khách, thì có một người bước vào. Người đó mặc binh phục màu xanh và đội mũ lưỡi trai của cảnh sát vùng mỏ. Đây là một đơn vị đặc nhiệm đã được ban điều hành của các công ty hoả xa, mỏ than và mỏ sắt cùng dựng lên để yểm trợ cho cảnh sát dân sự. Khi người đó vừa mở cửa vào, thì cả phòng bỗng

im bặt, cả mấy trăm con mắt đều đổ dồn nhìn như xiên vào mặt anh ta. Ganh-ty đứng sau quầy, không tỏ ra một chút ngạc nhiên nào khi thấy viên thanh tra ngồi vào giữa đám khách quen của ông

ta. - Một ly uýt-ki nguyên chất. À, ông hội đồng, hình như chúng ta chưa gặp nhau lần nào? - Anh là đại uý mới đến đây phải không? - Chính tôi. Chúng tôi kêu gọi ông và tất cả mọi công dân, hãy giúp

đỡ chúng tôi giữ vững pháp luật và trật tự trong thị trấn này. Tôi là đại uý Mavin của Công ty than và sắt. - Không có ông, chúng tôi thu xếp còn tốt hơn đấy. Bởi vì chúng tôi có đội cảnh sát riêng. Ông chỉ là một công cụ tư bản, đến đây để quất roi gân bò và bắn giết những người công dân nghèo mà thôi. Viên sĩ quan cảnh sát cười: - Không nên cãi vã với nhau. Anh ta uống cạn ly rượu và sắp đi ra thì chợt trông thấy Móc-đô đang đứng cười gằn gần đó. Anh ta vừa nhìn Móc-đô từ trên xuống dưới vừa vui vẻ gọi: - à, một người quen

cũ đây. Móc-đô lảng ra. - Tôi chưa bao giờ là bạn của ông. Đại uý Ma-vin phá lên cười: - Một người quen không nhất thiết phải là một người bạn. Anh là Móc-đô, ở Chicago. Móc-đô nhún vai, đáp lời nagy: - Tôi không chối tên tôi, Anh tưởng tôi xấu hổ vì cái tên tôi à?

- Nếu anh có cảm thấy xấu hổ về cái tên của anh, thì cũng có lý thôi. Móc-đô đã nắm chặt lại thành hai nắm đấm và gầm lên: - Tôi yêu cầu ông phải giải thích những điều ông vừa mới nói? - Đừng có lên mặt anh chị với tôi. Trước khi tôi đến đây, tôi là một quan chức

ở Chicago, và khi tôi trông thấy một thằng lưu manh của Chicago,

tôi phải nhận ra được nó chứ. Móc-đô tái nhợt người, thốt lên: - Chắc ông không phải là Ma-vin của Sở cảnh sát trung ương ở

Chicago chứ? - Tôi luôn luôn vẫn là Ma-vin ấy đấy. Chúng tôi cũng

vẫn chưa quên được cái thằng Pinto đã bị giết. - Tôi không giết nó. - Thế à? Thế thì cũng hơi lạ đó. Bởi vì cái chết của nó đỡ cho anh biết mấy. Nó mà khai ra được trước toà, thì anh đã vào chảo rang lâu rồi. Nhưng thôi, không nói chuyện quá khứ nữa. Này, tôi nói riêng với anh một chuyện đáng lẽ tôi không đươc phép nói ra: cái vụ ấy mà, về phần anh không có gì là rõ ràng đâu. Ngày mai anh có thể trở về Chicago, nếu anh muốn. Anh sẽ không bị phiền đâu. - Tôi ở đây tốt rồi, chẳng phải đi đâu cả. - ờ thì tuỳ, tôi đã mách nước cho anh, đáng lẽ anh nên có một lời cảm ơn mới phải. Móc-đô trả lời một cách lạn nhạt: - Thì cứ cho là ông muốn làm cho tôi vui lòng đi, cám ơn. - Chừng nào mà tôi còn thấy anh trên con đường tốt thì tôi

sẽ không nói gì. Nhưng nếu anh lại muốn dở trò, thì lúc đó sẽ là câu chuyện khác đấy. Thôi, chào anh. Chào ông hội đồng! Ma-vin bước

ra khỏi quán rượu. Tin tức nhanh chóng loan ngay đi rằng Móc-đô

đã tác yêu tác quái ở Chicago. Trước đây, khi có người hỏi anh ta về việc này anh ta chỉ tránh né với nụ cười của một người không muốn

ai làm rùm beng quá khứ của một câu chuyện chẳng đáng gì. Bây

giờ câu chuyện đó đã được xác nhận chính thức. Những khách quen đến bao quanh và âu yếm bắt tay anh ta. Từ nay trở đi, anh đã có một vị trí xứng đáng trong tập thể. Một tối thứ bẩy, Móc-đô được đưa ra trình diện trước hội viên trong chi nhánh. Cuộc họp được triệu tập trong một căn buồng rộng ở nhà hội quán. Khoảng 60 hội viên có mặt. Họ chỉ là một phần rất nhỏ của tổ chức thôi vì có nhiều chi nhánh khác hoạt động ở trong thung lũng cũng như ở phía sườn núi bên kia. Trong tất cả khu mỏ này, tổng số hội viên như vậy không dưới năm trăm tên. Những người tới họp, tập trung quanh một chiếc bàn dài trong căn buồng hoàn toàn trơ trụi, không có bất

cứ một thứ trang trí nào. Ở một phía có một cái bàn khác trên xếp đầy rượu và ly. Một số môn huynh đã để mắt liếc nhìn về phía đó. Ganh-ty ngồi ở một đầu bàn, đầu đội một cái mũ bình thiên bằng nhung đen, vai khoác một tấm áo chòang bằng nhung đỏ. Những vị chức sắc cao cấp nhất của chi nhánh, trong số đó có Ted, bao quanh ông ta. Người nào cũng có đeo một cái đay hay một huy chương chỉ

rõ ngôi thứ và chức vụ. Phần đông trong số họ là những người tuổi,

số còn lại gồm những thanh niên từ 18 đến 25 là những tay chân thừa hành. Trông mặt của các hội viên già, người ta cũng đoán thấy bên trong là những tâm hồn tàn bạo và bất trị, nhưng khi nhìn đến những người trẻ tuổi, thì không ai có thể ngờ được rằng những thanh niên này lại họp thành băng nhóm tội phạm. Đồi truỵ đến tận gốc rễ, chúng cho rằng có xin xung phong đi thủ tiêu những người chưa bao giờ động chạm gì đến chúng, thì mới gọi là có can đảm và có tinh thần hiệp sĩ. Hồi đầu, chúng còn giữ bí mật về những hành động của chúng, nhưng vào thời xảy ra câu chuyện này thì chúng công khai khoe khoang thành tích. Trong mười năm chưa một đứa nào trong bọn chúng phải chịu một án sát phạt nào. Móc-

đô đã được báo trước là sẽ có những lễ nghi chờ đợi anh ta. Anh được hai môn huynh đưa vào một căn buồng biệt lập. Qua tấm vách ngăn bằng ván, lọt vào tiếng ồn ào của nhiều người nói trong căn buồng hẹp. Một hay hai lần gì đó, anh nghe thấy nói đến tên anh. Hình như người ta đang kháo nhau về sự chấp nhận anh vào chi nhánh hội. Rồi một người bảo vệ, bước vào căn phòng anh đang đứng đợi và truyền cho hai người môn huynh biết: - Ngài trưởng toán ra lệnh hãy trói người này lại, bịt mắt và đưa vào trình diện.

Cả ba người lột áo anh ra, vén tay áo sơ mi bên phải lên và trói giật cánh khuỷu anh ra đằng sau. Rồi họ đội lên đầu anh một chiếc mũ lưỡi trai may bằng thứ vải đen dày, và ấn sâu xuống cho đến che hết phần trên của mặt, anh được dẫn vào phòng họp. Anh có cảm giác là đêm tối đen như mực. Anh nghe tiếng thì thào của những người dự họp, rồi tiếng nói của Ganh-ty: - Móc-đô, anh đã là hội viên của Hội những Người Tự Do chưa? Móc-đô gật đầu. - Chi nhánh của anh có phải là số 29 ở Chicago không? Móc-đô lại gật đầu. - Những đêm đen tối rất khó chịu... - ... cho những người lạ mặt phải đi lại. - Những đám mây đều nặng nề - Một cơn bão sắp

lại gần. - Các môn huynh đã thoả mãn chưa?.... Có một tiếng rì rầm chứng tỏ sự đồng ý. - Môn huynh, anh đã đáp đúng được mật hiệu, chúng tôi biết anh thật sự là ngườ trong hội. Nhưng chúng tôi cũng muốn anh biết rằng trong khu vực này, chúng tôi có những nghi lễ

và những điều bắt buộc đòi hỏi phải có lòng dũng cảm. Vậy anh có

sẵn sàng để chịu đựng không? - Có. - Anh có can đảm không? - Có. - Hãy tiến lên một bước. Vừa nghe đến đây thì anh cảm thấy có hai mũi nhọn, cứng ở đằng trước mắt. Hai mũi nhọn này ấn vào hai mắt anh khiến anh có cảm giác là nếu tiến lên thêm thì hai mắt sẽ

bị đâm thủng. Mặc dầu vậy, anh vẫn tiến lên một bước, và hai mũi nhọn biến mất. Anh nghe thấy những lời khen ngợi kín đáo. - Anh can đảm đấy. Nhưng liệu có chịu được sự đau đớn không? - Không kém bất kỳ ai. - Hãy thử thách. Móc-đô đã phải sử dụng tất cả nghị lực mới không kêu thét lên: một sự đau đớn khủng khiếp vừa xiên qua cánh tay anh, suýt làm anh ngất xỉu. - Tôi có thể chịu được hơn thế nữa. Lần này thì tiếng vỗ tay nổ vang lên. Chưa bao giờ chi nhánh ở đây thấy một người mới nhập hội cương quyết hơn thế. Người ta nhấc cái mũ ở trên đầu xuống, và vỗ vào lưng anh đồm độp. Anh vẫn đứng im, chớp chớp mắt cười trong khi các môn huynh tới chúc mừng anh. Ganh-ty nói: - Môn huynh Móc-đô. Anh

đã tuyên thệ giữ bí mật và trung thành, nhưng chắc anh biết rằng

ai phản bội lời thề đó sẽ bị án tử hình tức khắc chứ? - Tôi biết. - Và anh có tuân theo lệnh của người toán trưởng trong bất kỳ hoàn cảnh nào không? - Có. - Vậy thì, nhân danh chi nhánh 341 của Vermissa, tôi mời anh được tham dự vào những nghi lễ và những đặc quyền của Hội. Môn huynh Can-lân, hãy cho chúng ta uống rượu đi. Có một người đem trả lại cho Móc-đô chiếc áo vét. Trước khi mặc vào, anh xem xét lại chỗ cánh tay phải vẫn còn đau như xé: Một cái ấn bằng sắt nung đỏ đã in lên đấy hình một tam giác nằm trong một đường tròn. Những người đứng xung quanh cũng vén tay

áo lên và chỉ cho anh xem dấu ấn của họ. - Chúng tôi cũng đã được nhận dấu ấn này, nhưng không ai dũng cảm được bằng anh đâu. -

ồ, cũng không có gì ghê gớm lắm. - Móc-đô trả lời. Mấy tuần rượu mừng lễ nhập hội đã xong, chi hội bắt đầu bàn đến một số vấn đề thường vụ. Ganh-ty tuyên bố: - Việc thứ nhất của buổi họp đêm nay

là bức thư của vị trưởng hạt Win ở Merton, chi nhánh 249. Bức thư như sau: "Quí vị thân mến, có một việc nhỏ cần làm đối với Adrew Rae, ở công ty Rae Sturmash, chủ những mỏ bên cạnh. Chắc các vị

chưa quên là chi nhánh các vị còn nợ chúng tôi về việc chúng tôi đã

cử hai môn huynh đến để giúp các vị trong vụ tên cảnh sát, mùa thu vừa qua. Nếu các vị cử đến cho chúng tôi hai người tình nguyện, thì họ sẽ được người thủ quỹ Hi-gi của chi nhánh chúng tôi trông nom chu tất, và sẽ hướng dẫn họ cách hành động, ở đâu và lúc nào. Chào huynh đệ. Ký tên J.Win." Ông Win chưa bao giờ từ chối cho chúng ta vay một hoặc hai người khi chúng ta cần, thì bây giờ chúng ta cũng không thể từ chối ông ta. Ganh-ty ngừng lại, đưa mắt nhìn khắp căn phòng. - Ai xung phong đi làm công việc này? Mấy thanh niên cùng giơ tay một lượt. Ông trưởng toán mỉm cười đồng ý. - Hổ Cóc-mắc, anh sẽ đi. Nếu anh cũng làm ăn tốt như lần trước thì mọi việc sẽ bình thường cả thôi. Cả anh nữa, Uyn-xơn. Người xung phong đó thắc mắc: - Nhưng tôi không có súng lục. - Đây là trận đầu tiêm của anh, có phải không? Thế thì phải bắt đầu bằng lễ chịu lửa đã. Còn súng lục, đến nơi sẽ có. Khi nào trở về, sẽ

có ăn mừng trọng thể. - Thế còn tiền thưởng, lần này thì sao? - Cóc- mắc hỏi. - Tiền thưởng không phải là quan trọng. Anh ra tay vì danh dự mà. Khi nào công viẹc xong xuôi, người ta cũng sẽ vét được

ở đáy két bạc một đôi đồng đô-la cũ rích nào đó để trao cho anh. Wil hỏi: - Cái người đó đã làm gì? - Chuyện đó không dính dáng gì đến chúng ta, công việc của chúng ta, là thay họ thanh toán nó, cũng như họ đã thay ta ở đây vậy. À cũng nhân đây nói luôn; tuần lễ sau

sẽ có hai môn huynh của chi nhánh Merton đến đây để làm thay cho chúng ta một công việc nhỏ. Có người hỏi: - Ai đến thế? - Đừng nên đặt những loại câu hỏi như vậy. Anh chỉ cần biết đây là những người rất chịu chơi. Ted kêu lên: - ở đây đang cần có những loại người ấy đấy. Dân chúng ở đây đã bắt đầu hơi coi thường rồi đó. Trong tuần trước ba người của chúng ta đã bị tên đốc công La-cơ đuổi không cho làm nữa. Chúng ta mắc nợ với cái thằng này từ lâu rồi, bây giờ phải hoàn lại đủ cả vốn lẫn lãi cho nó thôi. Móc-đô thì thầm vào tai người ngồi bên hỏi: - Hoàn vốn như thế nào? Người này phá lên cười: - Bằng một viên đạn súng săn chứ còn bằng cái gì nữa. Anh thấy những phương pháp của chúng tôi thế nào, môn huynh. Móc-đô tỏ vẻ tán thành những phương pháp của cái hội giết

người này. - Phương pháp hay quá. Một chàng trai không phải thỏ

đế thì ở đây tốt quá đi chứ. Những người ngồi bên vỗ tay tán thưởng. Ở đầu bàn đằng kia, ông toán trưởng hỏi với lại - Cái gì thế? - "Thưa ông", vị môn huynh nói, "Móc-đô thấy phương pháp làm việc của chúng ta hợp với khẩu vị của anh ấy lắm". Móc-đô đứng phắt ngay lên, trịnh trọng nói: - Thưa thầy kính mến, tôi muốn nói rằng, nếu thầy cần đến một người để làm một việc gì đó thì tôi sẽ tự coi như có danh dự lớn, nếu được thầy cho làm. Nhiều tiếng vỗ tay. Chỉ có một vài môn huynh trong hội là thấy anh ta đi

có hơi quá nhanh. Viên thư ký Ha-ra, một lão già râu xám ngồi bên cạnh toán trưởng, can thiệp ngay: - Tôi đề nghị là môn huynh Móc-

đô chờ đợi khi nào chi nhánh cần đến. - Tất nhiên. Đó chính là điều

mà tôi muốn nói. Tôi hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của chi nhánh. - Móc-đô đáp lại. Toán trưởng nói một cách an ủi: - Rồi sẽ đến lượt anh thôi, môn huynh. Chúng tôi nhận thấy anh là một con người cương nghị, và tin chắc rằng anh sẽ làm được những việc xuất sắc. Tối nay, nếu anh muốn, anh có thể tham dự vào một công việc nhỏ thôi. - Tôi xin chờ. - Bây giờ, trước hết tôi yêu cầu thủ quỹ cho chúng ta biết bản hạch toán tiền nong. Phải trả một số tiền kha khá cho người vợ goá của Jim. Một người ngồi bên Móc-đô giải thích cho anh ta hiểu: - Jim đã bị giết tháng trước trong khi đang định hạ sát Wil-co. Thủ quĩ mở sổ sách ra trước mặt, nói: - Quỹ hiện nay rất phong phú, Max và công ty ông ta đã trả 500 đô-la. Hai anh em Wan-cơ gửi đến 100 đô-la, nhưng tôi đã tự ý gửi trả lại họ, đề đòi

500 kia. Nếu từ nay đến thứ tư sau, mà tôi không có tin tức gì thì

bộ cầu trục của họ có thể sẽ bị tai nạn. Năm ngoái chúng ta đã bắt buộc phải đốt cháy cái máy nghiền quặng của họ. Hiện nay chúng

ta có vốn đủ để có thể đương đầu với bất cứ một yêu cầu nào. - Thế còn cái vụ Win-đô thì sao? - Nó đã bán hết gia sản và đi khỏi khu vực rồi. Cái thằng quỷ già đó có để lại cho chúng ta một bức thư nói rằng thà nó đi làm nghề quét đường ỏ Nữu-Ước còn thú vị hơn là làm một chủ mỏ lớn để bị một băng cướp tống tiền khống chế. Quân chó đẻ, cũng may là nó đã đi khỏi đây trước khi bức thư đến tay chúng ta. Một người đã đứng tuổi, mặt mũi nhẵn nhụi có dáng hiền

lành hỏi: - Thưa ông thủ quỹ, tôi có được phép xin ông cho chúng tôi

biết ai đã mua cái lô đất của người mà ta vừa đuổi chạy khỏi khu này không? - Được, môn huynh Mô-rít. Lô đất ấy đã do công ty Hoả

xa ở Merton mua. - Và ai đã mua lại những mỏ của Tod và Lee đem bán đấu giá, năm ngoái cũng vì những lý do trên. - Cũng lại công ty Hoả xa. - Và ai đã mua lại những lò rèn của Man-sơn và Su-man khi họ bỏ lại để chạy trốn. - Tất cả đều được công ty mỏ tổng hợp Gilmerton mua lại hết. Toán trưởng can thiệp, hỏi lại: - Môn huynh Mô-rit, tên tuổi của những người đã đứng tên mua không làm cho chúng ta phải quan tâm, vì không thể bê những cái bể là đó ra khỏi vùng này được kia mà. - Thưa thầy kính mến, với tất cả lòng tôn kính của tôi đối với thầy, tôi vẫn nghĩ rằng vấn đề này phải được chúng ta quan tâm nhiều hơn nữa. Như thế là trong mười năm nay, chúng ta vẫn tiếp tục dùng có một phương pháp thôi. Đó là chúng

ta dần dần đuổi hết những nhà thầu nhỏ ra khỏi nơi đây. Kết quả

là thế nào? Họ được thay thế bởi những công ty lớn, mà những giám đốc của các công ty đó thì ngự ở Nữu Ước hay Philadenphia, và hoàn toàn coi thường những lời đe dọa của chúng ta. Những chú nhỏ không thể làm gì chúng ta được. Nhưng, khi những công ty lớn thấy chúng ta là vật chướng ngại giữa họ và số lãi, thì họ sẽ không

từ bất cứ một cố gắng nào, để đưa chúng ta ra pháp luật. Mọi người

im bặt, nét mặt sa sầm xuống. Từ trước đến giờ họ vẫn cảm thấy họ

có uy lực đến mức không ai dám khiêu khích họ, và họ cho rằng họ vững như thành đồng. ý kiến của môn huynh đã làm dựng chân lông những con người bất trị nhất. Diễn giả nói tiếp: - Vì vậy, ý kiến của tôi là, chúng ta nên nới bớt tay đối với các chủ nhỏ. Ngày nào mà họ bắt buộc phải trốn chạy đi hết, thì ngày ấy quyền lực của Hội

sẽ bị tan vỡ. Không pải sự thật nào cũng nên nói ra. Khi môn huynh Mô-rit ngồi xuống, những tiếng kêu giận dữ đã nổi lên. Ganh-ty đứng dậy, vừng trán bừng bừng. - Này môn huynh Mô-rit, anh từ trước đến nay vẫn là người chuyên nói những điều gở dại. Chừng nào mà tất cả hội viên trong chi nhánh vẫn sát cánh với nhau, thì không có một thế lực nào làm hại đến chúng ta, những công ty lớn cũng sẽ cảm thấy được là trả tiền cho chúng ta sẽ đơn

giản hơn là chọi với chúng ta. Và rồi họ cũng sẽ làm theo như các

công ty nhỏ thôi. Còn bây giờ, thưa các môn huynh... Ganh-ty bỏ cái mũ nhung đen và tấm đai xuống. - ... Chi hội chúng ta đã bàn xong mọi công việc tối nay, chúng ta chỉ còn một việc nhỏ nữa cần phải nói trước lúc chia tay. Nhưng bây giờ đã đến lúc chúng ta nghỉ xả hơi giải khát một chút và vui hát với nhau, như anh em trong một nhà. Móc-đô có một giọng hát nam cao rất hay, anh hát bài "Em Mari, anh ngồi dưới dàn nho" và bài "Trên con sông lớn" và hốt hết các tình cảm của khán giả. Ai cũng đoán rằng rồi đây anh ta sẽ tiến bước lên những chức vụ cao nhất trong hội. Nhưng muốn làm một Người Tự Do trong cái hội này, cũng đòi hỏi phải có một vài đức tính khác nữa, Móc-đô đã hiểu ra được điều đó trước khi buổi họp

tối hôm ấy kết thúc. Chai rượu uýt-ki đã được truyền tay đi mấy lần. Các chàng trai mặt đỏ như gấc, đã chín mùi để có thể làm bất

cứ một việc gì. Ông trưởng toán tiếp tục: - Các cậu ơi, trong thành

phố có một người đang cần một bài học. Đó là lão James của tờ báo

Herald, gần đây hắn lại bắt đầu há cái mồm to tướng ra để chống

lại chúng ta. Một tiếng rì rào đồng tình đáp lại, pha lẫn đâu đó là một vài câu chửi thề thô tục. Ganh-ty rút ở trong túi áo ra một mẩu nhật trình, đọc bài Pháp luật và Trật tự. "Sự khủng bố đang ngự trị trong vùng than và sắt. Mười hai năm đã trôi qua từ khi xảy ra những vụ ám sát đầu tiên chứng tỏ có sự hiện diện của một tổ chức

tội ác trong vùng chúng ta. Từ ngày đó đến nay, những vụ án mạng không một lúc nào ngừng và bây giờ đã lên đến một quy mô làm cho chúng ta trở thành một mối ô nhục của thế giới văn minh. Một tình trạng khủng bố và vô chính phủ sẽ được thiết lập dưới bóng thiêng liêng của lá cờ tự do hay sao? Người ta biết rõ những tên cầm đầu. Chúng đã hoạt động công khai trước mắt mọi người. Chúng ta sẽ còn phải chịu đựng tình trạng này bao nhiêu lâu nữa. Chúng ta sẽ sống...". Ông trưởng toán vứt mảnh báo xuống bàn. - Thôi đọc cái thứ văn chương này như thế là đủ rồi. Đó, nó nói về chúng ta như vậy đó. Câu hỏi tôi muốn đặt ra cho các bạn là: Chúng ta sẽ nói gì với nó. Hàng tá tiếng thét hung dữ nổi lên: - Giết mẹ nó đi! Môn huynh Mô-rit, cái người có bộ mặt hiền lành đó lại đứng lên, cãi lại:

- Tôi đã nói với các môn huynh rằng: bàn tay chúng ta đập quá

nặng xuống thung lũng này, và cũng chẳng còn lâu nữa sẽ đến cái ngày mà tất cả công dân trong vùng họp nhau lại để đè bẹp chúng

ta. James là một ông già. ông ta được người trong thành phố và trong vùng kính trọng. Nếu các anh giết người này, thì cả nước sẽ náo động, cho đến khi chúng ta bị tiêu diệt hết mới thôi. Ganh-ty rống lên: - Chúng tiêu diệt chúng ta bằng cách nào, thưa ngài Thỏ đế. Bằng cảnh sát chăng? Coi nào, một nửa số cảnh sát ăn lương của chúng ta, nửa kia thì sợ chúng ta như sợ cọp. Bằng toà án chăng? Chúng ta đã thử nhiều lần rồi đó, hỏi có đi đến đâu không? Môn huynh Mô-rit đáp lại: - Có một quan toà tên là Lynch có thể tuyên án. - Tôi chỉ cần giơ một ngón tay lên, là có thể đưa về đây hai trăm người để dọn sạch thành phố này từ đầu đến cuối - Ganh-

ty nói Rồi bỗng ông ta chồm người về phía trước, vầng trán nhăn lại một cách dữ tợn, nói dằn từng tiếng: - Nghe đây, môn huynh Mô-rit,

tôi theo dõi anh từ lâu rồi. Bản thân anh không có một chút can đảm nào, nhưng anh lại cứ cố gắng phá hoại lòng can đảm ở người khác. Môn huynh Mô-rit, khi nào mà tên anh được ghi trên chương trình nghị sự, thì ngày ấy sẽ là một ngày không tốt cho anh. Mô-rit mặt nhợt nhạt, ngã ngồi xuống ghế, hai đầu gối nhũn ra như bông. Ông chìa một bàn tay run rẩy ra cầm lấy ly rượu uống cạn một hơi trước khi trả lời: - Thưa thầy tôn kính, tôi xin thầy thứ lỗi cho. Tôi xin tất cả các môn huynh thứ lỗi cho, nếu như tôi đã quá lời. Tôi là một hội viên trung thành và trung thực, tất cả các môn huynh đều biết chính vì sợ một biến cố có thể xảy ra, nên tôi mới phát biểu ý kiến như vậy. Nhưng tôi tin tưởng ở sự phán xét sáng suốt của thầy tôn kính hơn là tin tưởng ở sự nhận thức của tôi... Tôi xin hứa là từ giờ trở đi, tôi sẽ không bao giờ dám làm phật ý thầy nữa. Những nếp nhăn trên trán ngài trưởng toán dãn ra. - Được rồi, môn huynh Mô-rit, tôi sẽ buồn nếu phải giảng cho anh một bài học, nhưng chừng nào mà tôi còn giữ chức vụ, thì chúng ta sẽ giữ vững sự thống nhất trong chi nhánh về lời nói và việc làm. Và bây giờ, hỡi các chàng trai... Ông trưởng toán nhìn một vòng khắp mặt những người đứng xung quanh. - Nếu James lãnh đủ những gì mà hắn đáng phải

nhận, thì chúng ta sẽ bị phiền nhiều. Những thằng nhà báo kết với

nhau lắm đấy. Nếu James bị hạ, tất cả các báo chí ở Hoa Kỳ sẽ đòi cảnh sát và quân đội can thiệp. Vậy các anh chỉ nên cho hắn một lời cảnh cáo nghiêm khắc mà thôi. Môn huynh Ted, anh có thể gánh vác việc này được không? - Dĩ nhiên là được ạ. - Ted phấn khởi trả lời. - Anh cần bao nhiêu người? - Độ sáu người. Thêm hai người nữa

để giữ cửa. - Tôi đã hứa để cho vị môn huynh mới của chúng ta được tham dự vào trận ra quân này.-Ganh-ty nói. Ted nhìn Móc-đô với một cặp mắt chứng tỏ hắn chưa tha thứ một tí gì. Hắn trả lời bằng một giọng chua như giấm: - Thì để anh ta đi. Công việc làm xong sớm chừng nào hay chừng ấy. Hội nghị chia tay nhau giữa những tiếng la, hét và những bài hát say rượu. Quầy rượu bên ngoài vẫn còn đông khách, nhiều môn huynh cũng sà vào đó. Toán đi làm nhiệm vụ thì chia nhỏ ra. Bên ngoài rét lắm. Một mảnh trăng lưỡi liềm le lói trên bầu trời giá buốt và đầy sao. Các chàng trai tụ tập trong một mảnh sân đối diện với một toà nhà lớn, giữa hai cửa sổ sáng choang có khắc hàng chữ vàng "Tuần báo Vermissa". Bên trong các máy in đang chạy đều đều. Ted sẵng giọng hỏi Móc-đô: - Anh kia, đứng đấy. Anh sẽ ở dưới này canh cửa và giữ đường thông suốt lúc chúng tôi ra. Còn những người khác theo tôi. Đừng sợ gì cả. Móc-đô cùng một người khác đứng dưới nhà. Họ nghe thấy ở tầng lầu một những tiếng thét, tiếng kêu cứu, tiếng chân người chạy, và tiếng đập phá đồ đạc. Một lát sau, một người tóc hoa râm chạy ra cầu thang. Nhưng chưa chạy xa được, thì đã bị túm lại, và cặp kính

rơi xuống chân Móc-đô. Một tiếng người té ngã, tiếp theo là những tiếng rên rỉ. Người đó nằm sấp, mặt úp xuống. Sáu cây gậy cùng một lúc đánh tới tấp xuống. Đánh chán một lúc sau, chúng mới ngừng tay, Ted vẫn ra sức đánh vào đầu nạn nhân. Máu đã chảy loang lổ cả vùng tóc bạc. Ted cúi xuống định đánh một đòn cuối cùng, Móc-đô nhảy bổ lên gác, gạt nó ra. - Mày định giết ông ta à. Thôi! - Cút. Mày làm gì thế này, lùi ra. Nó giơ cao cây gậy lên. Nhưng Móc-đô đã rút súng, hét lên: - Nếu mày động đến tao, tao bắn bể đầu mày ngay. Lúc nãy ông trưởng toán đã ra lệnh là không được giết ông James. Một đứa trong bọn chúng tán thành: - Anh ấy

nói đúng đó. Người đứng gác dưới nhà gọi vọng lên: - Thôi nhanh

lên. Các anh muốn cả phố xông ra hay sao. Đúng là lúc ấy ở ngoài đường đã nghe thấy nhiều tiếng người kêu gọi nhốn nháo. Bọn lưu manh chạy vội xuống và tẩu thoát ra lối cửa. Khi chúng về đến hội quán thì một vài đứa lẩn ngay vào đám khách và thì thào vào tai Ganh-ty. Những đứa khác, trong số đó có Móc-đô thì tản ra trong các ngõ hẻm để về nhà.

Chương 4

THUNG LŨNG KHỦNG KHIẾP

Sáng sớm hôm sau, khi tỉnh dậy, Móc-đô thấy đầu nhức như búa bổ. Cánh tay phải nơi dấu ấn sắt nung đỏ in vào bị cháy bỏng

và sưng phồng lên, anh ăn điểm tâm rất trễ và không ra khỏi nhà. Anh viết một bức thư dài cho một người bạn. Rồi anh đọc lướt qua

tờ Herald. Trong mục tin giờ chót "Toà soạn báo Herald bị tấn công. Chủ bút bị thương nặng". Theo sau là một bài tường thuật ngắn về những sự việc mà anh biết rõ hơn ai hết. Bài báo kết thúc như sau:

" Sự việc hiện nay đang được cảnh sát tra xét. Nhưng người ta cũng không hề hy vọng có kết quả gì hơn những vụ trước đây. Một số những tên côn đồ không phải là những người xa lạ. Chúng phải bị kết tội. Những bạn hữu rất đông đảo của James sẽ hết sức vui mừng khi nghe tin, tính mạng của ông không bị đe doạ". Dưới bài báo, một mục tin nhỏ thông báo một đội canh gác của cảnh sát vùng mỏ được vũ trang bằng súng, từ nay sẽ bảo vệ toà soạn. Móc-đô ném

tờ báo xuống và đang đưa một tay lên đốt thuốc, thì có tiếng gõ cửa.

Bà chủ trọ vào đưa cho anh một bức thư, mà một đứa nhỏ vừa cầm đến. Thư không ký tên, viết như sau: "Tôi muốn nói chuyện với ông, nhưng nói ở bên ngoài nhà ông. Ông có thể gặp tôi ở cạnh cột cờ trên đồi Miller. Nếu ông đến ngay bây giờ, tôi sẽ nói cho ông hay một điều quan trọng đối với ông và tôi". Móc-đô đọc đi đọc lại bức

thư và không thể đoán được ai là tác giả. Anh chần chừ suy nghĩ rồi

quyết định phải làm cho sáng tỏ vấn đề. Đồi Miller là một công viên

ở ngay trung tâm thành phố. Mùa hè có đông người dạo chơi, nhưng mùa lạnh thì vắng ngắt. Đứng trên đồi, người ta nhìn thấy không những cả thành phố mà cả vùng thung lũng nữa. Móc-đô đi theo con đường dẫn lên một quán ăn, bên cạnh quán có một cột cờ, và dưới chân cột cờ là một người đàn ông mũ đội sụp xuống tận mắt, cổ

áo khoác bẻ cao lên. Khi người nay qua lại, Móc-đô nhận ra môn huynh Mô-rit. Hai người trao đổi với nhau nghi thức của Hội. Ông già ngập ngừng nói như người đang dò dẫm đi lần từng bước. - Tôi xin cảm ơn ông đã đến. - Tại sao ông không ký tên dưới bức thư. - Thưa ông. Trong cái thời buổi này, không ai biết trước được hậu quả của bất cứ một việc gì. Mà cũng không biết có thể tin cậy được vào ai. - Dù sao cũng có thể tin cậy được ở các môn huynh trong cùng một chi nhánh chứ. - Không. Không thể tin được. Dù chúng ta

có nói gì, thì tất cả đều đến tai của Ganh-ty cả. Móc-đô nói một cách trang nghiêm: - Tối hôm qua, tôi thề trung thành với ngài toán trưởng. Mà hôm nay ông lại đòi hỏi tôi phản bội lời thề đó sao? Mô-

rit buồn rầu nói thều thào: - Nếu ông nhìn sự việc như vậy, thì thôi,

tôi rất tiếc đã quấy rầy ông. Tình hình đã đi đến chỗ tồi tệ đến nỗi hai Người Tự Do không dám trao đổi những ý nghĩ của mình với nhau nữa. Móc-đô cảm thấy bớt căng thẳng hơn - Tôi là người mới

tới đây, tôi không hay biết gì hết, nếu ông tin rằng việc ông định nói với tôi là có ích lợi thì tôi đến đây chính là để nghe ông. Mô-rit cay đắng tiếp theo: - Để rồi mách lại tất cả với Ganh-ty. Nhưng Móc-đô vội nói ngay: - Ông đánh giá tôi không đúng. Tôi trung thành với chi nhánh Hội. Tôi đã nói dứt khoát với ông như vậy, nhưng tôi sẽ

là một thằng khốn nạn nếu tôi đi kể lại với một người nào khác những điều ông tâm sự với tôi, nhưng ông chớ có mong ở tôi một sự giúp đỡ hay cảm tình. - Tối hôm qua tôi có cảm tưởng là ông đang cố rập theo khuôn mẫu của những tên tệ hại nhất trong cái băng này. Dù ông có xấu đến đâu đi nữa, thì ông cũng vẫn là một hội viên mới, lương tâm chưa bị đanh cứng lại. Vì vậy, mà tôi muốn nói chuyện với ông. - Ông định nói gì với tôi? - Khi ông gia nhập Hội ở

Chicago, và khi ông tuyên thệ giữ lòng nhân ái, trung thành thì có

bao giờ ông nghĩ, rằng điều đó sẽ dẫn ông đến tội ác không? - Hãy giả thiết đó là tội ác. Mô-rit la lên, giọng nói xúc động: - Hãy giả thiết à?... Mới tối hôm qua đây thôi, đánh một người già bằng tuổi

bố ông, như thế có phải là tội ác không? Nếu ông cho rằng đó không phải là tội ác, thì là cái gì vậy? - Có người nói đó là chiến tranh. Chiến tranh giữa hai giai cấp. Một cuộc chiến tranh tốc lực, không khoan nhượng. - Thế khi ông xin gia nhập Hội những Người Tự Do

ở Chicago, lúc đó ông có nghĩ đến cuộc chiến tranh ấy không? - Không, lúc đó tôi không nghĩ như thế. - Tôi cũng vậy, khi tôi gia nhập Hội ở Philadelphia, Hội chỉ đơn giản là một hội ái hữu tương

tế, một nơi đến để gặp gỡ bạn bè. Rồi tôi nghe nói đến vùng này. Tôi dọn đến đây với dự tính cải thiện hoàn cảnh của tôi. Vợ tôi và ba con tôi cũng đi theo tôi. Tôi mở một cửa hàng bán vải ở Phố Chợ và phát đạt lên. Rồi người ta biết tôi là một hội viên Hội những Người

Tự Do, thế là tôi bắt buộc phải gia nhập vào chi nhánh ở địa phương. Tôi cũng có cái dấu hiệu ô nhục này trên cánh tay, và một cái gì còn tệ hại hơn nữa in bằng sắt nung đỏ vào tim. Tôi có thể làm gì được? Tất cả những gì tôi nói ra đều bị coi như một sự phản bội. Tôi không thể chạy trốn đi khỏi nơi này. Tất cả của cải của tôi

là nằm trong cửa hàng. Nếu tôi xin ra khỏi Hội, thì đó là tự ký vào bản án tử hình, rồi còn vợ và các con tôi. Mô-rit úp mặt vào hai bàn tay, và cả người đều run lên trong những tiếng khóc nức nở. - Ông quá yếu mềm đối với trò chơi này. Hoàn toàn không phải loại người thích hợp... - Trước đây tôi có một lương tâm và một tôn giáo. Chúng đã biến tôi thành một tên tội phạm, tôi đã bị chỉ định vào một vụ án mạng. Nếu tôi từ chối, tôi biết cái gì sẽ chờ đợi tôi. Tôi đã tham gia vào vụ án đó. Đó là một căn nhà hẻo lánh, ở cách đây ba mươi cây số, ở bên kia núi. Chúng cũng đặt tôi ngoài cửa như ông đêm hôm qua. Chúng không tin tôi. Chúng xông vào nhà. Và khi trở ra, thì tay chúng đầy máu. Chúng tôi bỏ đi, nhưng đằng sau tôi

có tiếng một đứa trẻ la hét: Đó là một đứa bé trai, khoảng 5 tuổi, vừa chứng kiến bố nó bị giết ngay trước mắt nó. Tôi muốn ngất đi vì khủng khiếp, nhưng tôi vẫn phải giữ nụ cười trên mội, vì nếu không

thì lần sau, chúng từ nhà tôi trở ra cũng với bàn tay đầy máu. Khi

biết tôi là một hội viên, vị thầy tu rút phép thông công. Đó là tình trạng tôi bây giờ. Thế mà tôi thấy ông cũng đang trượt xuống cái dốc đó. Ông có sẵn sàng trở thành một tên giết người như chúng hay không. Hay chúng ta có thể làm được một cái gì để ngăn chặn chúng. - Thế ông định tố cáo chăng? - Ai mà dám làm một việc như vậy. Chỉ nghĩ trong đầu thôi cũng đã đủ mất mạng. - Được. Tôi thấy ông nghĩ ngợi quá nhiều. - Ông hãy nhìn thung lũng này. Ông có thấy những đám mây toả ra từ hàng trăm ống khói đang bao phủ trên nó không? Những đám mây tội ác còn nặng nề gấp hàng trăm lần: đang bao phủ trên những người dân. Đây là thung lũng của sự khủng khiếp. Móc-đô trả lời một cách rất thản nhiên: - Thôi được,

để khi nào tôi thấy nhiều hơn, tôi sẽ nói cho ông biết tôi nghĩ gì. Nhưng có một điều chắc chắn là ông nên dẹp cái cửa hàng của ông

đi, càng sớm càng tốt. Những điều ông nói với tôi, chỉ hai người, tôi

với ông biết mà thôi. Nhưng nếu tôi nghĩ rằng ông là một người chỉ điểm... - Không. - Thế thì thôi, ta ngừng lại ở đây. Tôi tin rằng ông

đã nói với tôi vì có ý tốt. Bây giờ, tôi đi về đây. - Xin ông cho tôi nói

với ông một điều nữa trước khi ông ra về. Rất có thể là có người trông thấy chúng ta đứng đây, và người ta muốn biết chúng ta nói

gì với nhau. - ồ! Đúng. - ông sẽ nói rằng tôi muốn mời ông vào làm

công trong cửa hàng của tôi. - Và tôi đã từ chối. Thôi môn huynh Mô-rit, thế nhé, một ngày khác ta gặp lại. Buổi chiều hôm đó, trong lúc Móc-đô đang ngồi hút thuốc và tự lự bên cạnh lò sưởi thì cửa mở, và trong khung cửa hiện lên cái bóng to tướng cả Ganh-ty. Hắn làm dấu hiệu chào của Hội rồi đến ngồi trước Móc-đô và nhìn anh trân trân không chớp mắt. Cái nhìn đó đã được đáp lại bởi một cái nhìn khác cũng không kém. Một lát sau, Ganh-ty mới nói: - Tôi đến đây, không phải là để thăm anh, mà đến để xác định với anh một việc. Móc-đô tỏ vẻ rất hân hoan về việc tới thăm bất ngờ này. Anh đứng dậy, ra mở tủ lấy một chai rượu. - Thưa ông Hội Đồng, tôi vui mừng được đón tiếp ông. Tôi không ngờ lại có vinh dự này. - Cái tay thế nào? Móc-đô nhăn mặt: - Tôi sẽ không thể nào quên được. Nhưng việc đó cũng đáng ghi nhớ lắm. - Đúng. Thật đáng ghi nhớ

đối với những người trung thành, những người hết lòng với Hội.

Sáng nay anh nói gì với Mô-rit. Câu hỏi đã được đặt ra một cách hết sức đột ngột cho nên phải trả lời ngay. Móc-đô phá lên cười ngặt ngẽo. - Mô-rit không biết rằng tôi có thể làm ăn ở đây, ngay trong nhà này thôi. Mà cũng không nên để cho hắn biết, vì tôi thấy hắn thắc mắc nhiều quá. Nhưng hắn là một lão già tốt bụng. Hắn tưởng

tôi không có công ăn việc làm, nên muốn mời tôi về làm công trong cửa hàng bán vải. - ồ, ra thế đấy. - Vâng. - Thế anh đã từ chối chứ. -

Dĩ nhiên. Tôi có thể kiếm được 10 lần hơn thế nữa với 4 giờ làm

việc. - Đúng thế. Nhưng tôi là anh, tôi sẽ không đi lại với Mô-rit. - Sao thế? - Bởi vì tôi bảo anh là không nên đến, giải thích thế là đủ rồi. - Có lẽ đối với phần đông những người khác thì đủ đấy, nhưng đối với tôi thì chưa đủ đâu. Nếu ông là một người biết người biết của, thì ông phải hiểu điều đó. Ganh-ty như nhìn đóng đinh vào mặt Móc-đô, bàn tay hắn bóp chặt ly rượu. Nhưng rồi hắn lại bật cười. - Đúng, anh không phải là một loại người bình thường. Anh muốn biết lý do tại sao không nên đi lại với Mô-rit phải không? Được. Thế Mô-rit có nói gì chống lại chi Hội không? - Không. - Có nói gì chống lại tôi không? - Không. - À, vậy là hắn không tin anh, hắn không phải là một người trung thành. Chúng tôi biết rõ hắn, và vẫn theo dõi hắn để chờ đến lúc nào đó sẽ cho hắn một bài học xứng đáng. Trong đàn cừu, không thể để một con cừu ghẻ lở như vậy được. Nếu anh đi lại với một tên phản bội, thì chúng tôi có thể nghĩ rằng anh cũng là một tên phản bội. Anh thấy không? - Tôi không thể nào gắn bó với hắn được, vì tôi không thích loại người như hắn. Còn cái chữ phản bội ông vừa gắn cho tôi nếu một người khác nói như vậy thì anh ta sẽ không đến một lần thứ hai nữa đâu. Ganh-ty uống cạn ly rượu: - Đủ rồi đó. Tôi đến đây để cho anh một lời khuyên. Anh đã nghe lời khuyên đó rồi. Thế là xong. - Tôi muốn biết, ông làm cách nào mà biết được rằng tôi đã nói chuyện với Mô- rit. Ganh-ty mỉm cười: - Đừng bao giờ quên rằng, cuối cùng rồi tôi cũng sẽ biết tất cả mọi việc. Thôi, đến giờ rồi, và... Vừa lúc Ganh-ty đứng lên định đi thì hai cánh cửa bị đẩy mạnh, bật tung ra, và ba cái đầu đội mũ lưỡi trai của cảnh sát, chăm chăm nhìn hai người.

Móc-đô vùng đứng dậy, định rút súng ra, nhưng hai khẩu đã chĩa

thẳng vào anh. Anh thả tay xuống. Một người mặc binh phục bước vào. Đại uý Ma-vin ngúc ngắc cái đầu và mỉm cười nhìn Móc-đô. - Tôi vẫn nghĩ rằng thế nào rồi ngài cũng giở trò mà! Ngài lưu manh Móc-đô. Thôi lấy mũ đội vào, rồi đi theo tôi. Ganh-ty can thiệp: - Đại uý sẽ phải trả giá đắt về cái trò bông đùa này. Sao ông dám tự tiện xông vào nhà người ta để doạ nạt những người lương thiện. - Ông Hội đồng, ông không dính gì đến chuyện này. Chúng tôi chỉ có chuyện đối với tên Móc-đô này thôi. - Đây là một người bạn của tôi,

và tôi bảo lãnh cho anh ta về những hành vi của anh. - Theo tất cả những điều người ta nói về ông, thì rồi một ngày nào đó, chính ông, ông cũng sẽ phải trả lời trước pháp luật... Tên này là một thằng lưu manh trước khi đến đây. Hiện nay nó cũng vẫn là một thằng lưu manh. Thượng sĩ, hãy nhắm súng vào nó, trong khi tôi tước vũ khí của nó. Móc-đô lạnh lùng nói: - Đây, súng của tôi đây. - Trát bắt người của ông đâu. Tôi xin thề là ông sẽ biết tay tôi. - Ganh-ty đe doạ. - Ông cứ hành động. - Tôi bị buộc tội gì? - Móc-đô hỏi. - Dính líu vào vụ hành hung ở toà soạn báo Herald. Ganh-ty vừa cười vừa nói.

- Người này tối hôm qua ở trong quán rượu của tôi. Anh ta đánh bài đến nửa đêm mới ra về. Tôi có cả tá người làm chứng có thể xác nhận việc này. - Đó là việc của ông. Ngày mai ông sẽ trình bày trước toà. Móc-đô, đi thôi. Ganh-ty cố thu xếp để nói riêng với Móc-

đô mấy câu trước khi anh bị dẫn đi. - Thế còn cái?... Ganh-ty giơ một ngón tay cái lên để ám chỉ cái máy dập đô-la. Móc-đô đã giấu

kỹ nó dưới sàn nhà nên trả lời. - Yên trí. - Chúng ta sẽ sớm gặp nhau thôi. Tôi đi tìm thầy cãi. Chúng sẽ không giữ được anh lâu đâu. Đại uý Ma-vin xen vào: - Thượng sĩ, ông hãy canh gác kỹ tên

tù này, và cho phép ông bắn bỏ nếu nó định giở trò gì ra, tôi đi khám buồng của nó. Người sĩ quan không tìm thấy cái máy làm bạc giả. Khi ở trên lầu xuống, anh ra lệnh dẫn Móc-đô về đồn. Trời đã tối, gió thổi lạnh lẽo, đường xá vắng tanh. Chỉ có mổ vài người hiếu

kỳ đi theo, và được bóng tối làm cho bạo dạn hơn, đã văng tục chửi thề tên tù đang bị dẫn đi. - Hãy đánh chết cái thằng "Tiên phong" này đi! Đánh chết đi! Họ cười đùa và nói khôi hài khi thấy cả đám

bước vào trong đồn cảnh sát, Sau khi bị hỏi cung chiếu lệ, Móc-đô bị

dẫn tới một phòng giam. Anh gặp lại ở đây tên Ted và ba tên tội phạm khác. Nhưng ngay ở trong bức thành trì của luật pháp này, bàn tay dài ngoằng của những Người Tự Do cũng vẫn vươn tới được. Buổi tối hôm đó, một người cai ngục mang rơm vào để chúng rải xuống sàn nhà ngủ cho ấm. Chúng moi từ bó rơm ra hai chai rượu, mấy cái ly và một cỗ bài. Chúng đã qua một đêm vui vẻ, không cảm thấy có một chút nào lo sợ đối với vụ xử án ngày hôm sau. Tại toà, trước những chứng cớ đưa ra, vị quan toà đành chịu không thể tuyên án. Những người thợ nhà in công nhận rằng ánh sáng lúc đó nhấp nhem. Bản thân họ cũng không được tỉnh trí, nên

họ ở trong tình trạng rất khó nói dứt khoát về nhận dạng những tên côn đồ... Đến khi họ bị ông luật sư hỏi vặn lại thì họ lại càng ấp úng hơn nữa. Nạn nhân cũng đã khai rằng ông ta bị tấn công quá đột ngột nên không thể xác định được một điều gì ngoài việc thấy tên đánh đầu tiên vào ông có một bộ râu mép. Ông nói thêm rằng bọn chúng chỉ là "Những Người Tiên Phong" thôi, vì ông ta không

có ai khác là kẻ thù trong thành phố. Mặt khác, những lời làm chứng quả quyết của sáu công dân, trong số đó có Ganh-ty đã chứng minh rằng những người bị buộc tội ở đây đã đánh bài tại nhà Hội quán đến tận một thời điểm sau vụ hành hung rất nhiều. Chúng đã được tha bổng. Đại uý Ma-vin và ngành cảnh sát bị khiển trách.

Chương 5

GIỜ ĐEN TỐI NHẤT

Sau phiên tòa, Móc-đô càng nổi tiếng hơn. Những huynh trưởng trong chi nhánh bảo nhau: "Không ai có thể thay thế anh ta

được khi có những vụ gay go". Ganh-ty cũng công nhận rằng Móc-đô

là cánh tay đắc lực nhất. Hắn có cảm giác là đang nắm ở đâu đây một con chó săn cực kỳ hung ác. Tất nhiên để làm những việc lặt vặt thì hắn không thiếu những con chó-con, nhưng nhìn xa trông rộng, hắn đã nhìn thấy trước được cái ngày mà hắn phải xua con chó dữ tợn này vào một con mồi xứng đáng với nó kia. Một vài môn huynh trong chi Hội, trong đó có Ted đã đem lòng căm hờn, nhưng thầm lặng trong bụng. Nếu Móc-đô đã chiếm được cảm tình của các bạn hữu, thì ở một nơi khác, anh lại mất hết. Bố của cô Ettie không muốn trông mặt anh nữa và cũng không cho anh bước chân vào nhà nữa. Ettie thì không từ bỏ anh được. Nhưng cô cũng tỉnh táo suy nghĩ về những hậu quả của một cuộc hôn nhân với một kẻ bị mọi người coi như một tên tội phạm. Một buổi sáng, cô quyết định đi gặp anh ta, cố gắng kéo anh ta ra khỏi những ảnh hưởng độc hại đang hút anh ta xuống vực thẳm. Móc-đô đang ngồi trước bàn,quay lưng ra ngoài, trước mặt có một bức thư. Một ý nghĩ tinh nghịch thoáng qua đầu óc cô bé 19 tuổi này. Anh không nghe thấy cô mở cửa, nên cô nhón gót yên lặng đi đến sau lưng, nhẹ nhàng đặt hai tay lên vai anh. Anh ta nhảy chồm lên như một con hổ, tay phải thì nắm lấy cổ cô, tay kia thì vò nát bức thư để trước mặt. Lúc đó anh mới kịp nhìn ra cô. Thế là sự ngạc nhiên và niềm vui tràn ngập đến thay sự hung bạo. Nhưng, sự hung bạo đã làm cho cô khiếp đảm phải lùi mãi đến bức tường phía sau lưng. Móc-đô vừa lau mồ hôi trán vừa nói: - Em đấy à, lại đây, em yêu... Móc-đô giang rộng hai tay ra phía trước. - Anh phải đền em. Ettie vẫn còn bàng hoàng vì nét mặt của Móc-đô mà cô vừa phát hiện: Tất cả linh tính của phụ

nữ đã mách bảo cho cô biết rằng đó không phải là sự sợ hãi bình thường của một người bị bất ngờ. Không, rõ ràng là sự sợ hãi của một người có tội. Cô la lên: - Anh làm sao thế. Tại sao anh lại sợ em đến như vậy. - Anh đang mải suy nghĩ về hàng trăm việc, thì em đến nhẹ nhàng quá, như những bước chân của một nàng tiên. - Không. Có cái gì hơn thế nữa kia. Một thoáng nghi ngờ xuyên qua tâm trí cô. - Hãy đưa cho em đọc cái thư anh đang viết đó. - Anh không thể đưa em đọc được. - Anh viết thư cho một người đàn bà

khác rồi. Nếu không, tại sao anh lại không đưa cho em coi. - Anh

chưa có vợ, anh thề trên thánh giá. - Thế tại sao anh không cho em

coi thư. - Anh đã có lời thề với những người khác là sẽ không cho ai đọc bức thư đó, anh cũng không muốn phản bội những người đã tin anh, như anh không muốn phản bội em. Đây là một công việc của chi nhánh Hội, một công việc bí mật, ngay cả đối với em nữa. Và anh hoảng sợ tưởng đó là bàn tay của cảnh sát... Ettie tin lời Móc- đô. Những chiếc hôn nồng cháy của anh đã xoá sạch hết sợ hãi và nghi ngờ. - Em hãy đến ngồi bên cạnh anh. Đây là một cái ngai vàng thật không xứng đáng với một nữ hoàng như em. - Làm sao có thể yên tâm được khi biết rằng anh đã nhập bọn với một lũ tội phạm. - Hãy tin rằng anh không đến nỗi xấu xa như em tưởng đâu. Bọn anh chỉ là những người đáng thương đang cố sức, the cách riêng của mình, bắt người khác phải tôn trọng những quyền lợi của mình. Ettie quàng hai tay vào cổ người yêu: - Hãy bỏ hết đi anh! Vì tình yêu, hãy bỏ hết đi! Móc-đô ôm chặt cô vào lòng. - Làm sao anh

có thể bỏ được, vì như thế là anh sẽ phản bội, và bỏ rơi bạn hữu. Mà

dù bây giờ anh có muốn bỏ nữa cũng không thể được. Không bao giờ chi nhánh Hội lại để cho một hội viên rời bỏ mang theo tất cả những bí mật của Hội. - Em đã lo trước tất cả rồi. Ba có một ít tiền

để dành được. Ba cũng ngán nơi này lắm rồi. Em sẵn sàng đi nơi khác. Ở đó, chúng ta sẽ được an toàn. Móc-đô bật cười: - Chi nhánh Hội có cánh tay dài lắm. Em tưởng bọn chúng không thể với tay từ đây tới Philadelphia hay Nữu Ước sao? - Thì chúng ta đi về miền Tây, đi sang Anh Cát Lợi, sang Thuỵ Điển; đi bất kỳ đâu cũng được, miễn là ra khỏi cái Thung Lũng Khủng Khiếp này. Móc-đô chợt nghĩ đến môn huynh Mô-rit. - Đây là lần thứ hai anh nghe nói đến cái tên Thung Lũng Khủng Khiếp đó. - Anh tưởng rằng thằng Ted

đã tha chúng ta à? Nếu nó không sợ anh, thì nó đã tiêu diệt chúng

ta rồi. Mỗi lần gặp nó, chỉ cần nhìn đôi mắt hổ đói của nó, em phát run lên. - Nếu mà anh bắt được những lúc đó, anh sẽ dạy cho nó biết lễ phép. Nhưng em gái bé bỏng. Anh không thể đi khỏi nơi đây được. Nhưng anh sẽ tìm cách thoát khỏi những sự việc này một cách có danh dự. - Không có danh dự trong một việc như thế này

đâu. - Trong vòng sáu tháng, anh sẽ tìm cách đi khỏi nơi đây mà

không phải xấu hổ khi nhìn mặt người khác. - Sáu tháng à, chắc chắn nhé. - Có thể là bảy, tám tháng, nhưng tối đa, là trước một năm. Ettie không thể đòi hỏi thêm được. Cô ra về. Kể từ khi Móc-đô xâm nhập vào đời cô, chưa bao giờ cô thấy trong lòng vui vẻ, nhẹ nhàng như hôm nay. Móc-đô tưởng rẳng khi mình đã là một hội viên thực thụ, thì anh có thể biết được tất cả những hoạt động của Hội, nhưng chẳng bao lâu sau, anh khám phá ra rằng tổ chức này rộng lớn và phức tạp hơn một chi nhánh rất nhiều, chính Ganh-ty cũng có nhiều chuyện không biết, vì có một vị chức sắc cao cấp hơn gọi là Uỷ nhiệm vùng đóng ở phía dưới đường xe lửa, có toàn quyền đối với nhiều chi nhánh. Móc-đô có gặp hắn một lần. Trông hắn như một con chuột chù, dáng đi thì thậm thà thậm thụt, đôi mắt gian giảo chuyên nhìn ngang. Tên hắn là Ê-van Một hôm Can-lân, người bạn cùng trọ với Móc-đô, nhận được mấy chữ của Ganh-ty kèm theo một lá thư của Ê-van. Ông "đại vương" báo cho Ganh-ty biết rằng ông ta phái đến Vermissa hai người tên là Lâu-la và An-đe, với đầy

đủ chỉ thị để hoạt động trong vùng. Và ông toán trưởng phải chịu trách nhiệm bố trí cho hai người đó được ăn, ở chu đáo cho đến giờ hành sự. Ganh-ty viết thêm cho Can-lân là ông sẽ biết ơn Can-lan

và Móc-đô nếu hai vị này thu xếp để cho họ tới ở nhà trọ của bà quả phụ Namara. Họ đến ngay chiều hôm đó, mỗi người mang theo một cái bọc. Lâu-la là một người đứng tuổi, nét mặt khắc khổ, ít nói và

dè dặt, có dáng của một tay đi giảng đạo rong. An-đe thì giống như một đứa trẻ mới lớn lên, mặt mũi cởi mở, vui vẻ, không khác gì một cậu học sinh đi nghỉ hè. Cả hai chỉ uống nước lã, nhưng đều là những tên giết người có hạng. Lâu-la đã thực hiện mười bảy vụ, An-

đe ba vụ. Chúng kể lại những thành tích cũ của chúng với một thứ kiêu hãnh giống như những người đã làm được nhiều việc tốt đẹp cho tập thể. Nhưng khi hỏi đến công việc chúng sắp làm, thì chúng

lại tỏ ra kín đáo. - Chúng tôi đã được chọn đi, vì cả tôi lẫn thằng bé không ai biết uống rượu, vì thế chúng tôi sẽ không lỡ mồm lỡ miệng. Vậy các anh đừng giận chúng tôi, đó là vì phải tuân theo lệnh của ngài Uỷ nhiệm vùng. - Lâu-la giải thích. - Dĩ nhiên rồi. Móc-đô vừa

chửi thề vừa nói: - Ở trong vùng này có gần nửa tá những đứa mà

tôi sẵn sàng muốn cho đi mò giun. Không biết có phải thằng Jack là mục tiêu của các anh không? Tôi muốn trả giá rất đắt để được thấy

nó lãnh đủ những gì mà nó đáng được nhận. - Không. Không phải

nó đâu. - Hay là thằng Hốc-man. - Cũng không phải nó. - ồ thôi, chúng tôi không thể bắt buộc các anh nói được. Nhưng mà đối với

tôi nó ngứa ngáy chân tay thế nào ấy. Một buổi sáng, còn sớm lắm, Móc-đô nghe thấy hai thằng nhón gót bước nhẹ xuống cầu thang, anh vội đánh thức Can-lân dậy và hai người nhanh chóng mặc áo. Khi họ xuống đến dưới nhà thì thấy cửa mở và hai thằng đi trước

họ không xa. Họ liền thận trọng bước theo. Nhà trọ ở vùng gần ven thành phố, đi một lát thì đến một ngã tư ở giữa nông thôn. Có ba người đã chờ sẵn ở đó. Lâu-la và An-đe đứng nói chuyện với chúng một lát, rồi cả bọn lại kéo nhau đi. Từ ở chỗ đó có nhiều con đường dẫn đến những mỏ khác nhau. Bọn chúng đi vào con đường dẫn đến đồi Crow là một cái mỏ lớn của người Jo-si, người xứ Tân Anh Cát Lợi. Bây giờ trời đã sáng rõ. Thợ thuyền đang vội vã đi làm, hoặc đi

lẻ tẻ hoặc nhập lại thành từng nhóm. Móc-đô và Can-lân đi lẫn vào với họ. Sương mù dày đặc bao phủ tất cả. Một hồi còi xé tan bầu không khí: Đó là hiệu lệnh mười phút trước khi những thang máy đưa thợ xuống hầm mỏ. Khi họ đến khoảng trống trước miệng giếng xuống mỏ thì ở đó đã có khoảng một trăm thợ mỏ đang đứng đợi, vừa đập chân vừa thổi các ngón tay cho đỡ rét. Bọn hung thủ đứng tụm lại trong bóng tối của nhà máy. Can-lân và Móc-đô trèo lên một đống than xỉ để có thể nhìn rõ quang cảnh. Họ nhận ra kỹ sư mỏ tên là Men-dai, từ trong nhà máy đi ra thổi một tiếng còi để ra lệnh cho thang máy xuống hầm. Vừa lúc đó, một người trẻ tuổi, cao lêu nghêu, tiến lại gần miệng giếng. Anh ta trông thấy đám người đứng

im lặng cạnh nhà máy, mũ đội sụp xuống thấp, cổ áo thì kéo lên che kín cả mặt. Anh ta hướng về phía những người lạ mặt khả nghi và lớn tiếng hỏi: - Các anh là ai? Tại sao lại vào đây làm gì? Không có tiếng trả lời. Chỉ có thằng An-đe tiến lên một bước và bắn một phát vào bụng người đó. Cả trăm người thợ như vừa bị tê liệt hẳn. Người giám đốc mỏ ấn hai tay vào vết thương ở bụng và gập đôi người lại,

chuệnh choạng định chạy đi, nhưng một phát đạn nữa làm anh ta

ngã nghiêng xuống, tay chân quờ quạng trên mặt đất. Kỹ sư Men- dai hét lên một tiếng, tay cầm mỏ lết xông vào, nhưng anh cũng lãnh hai viên đạn và chết ngay dưới chân chúng. Lúc đó đám đông thợ mỏ mới rùng rùng lên như một đợt sóng. Một vài người xông về phía bọn sát nhân. Nhưng hai khẩu súng bắn chỉ thiên như trút đạn phía trên đầu họ. Thế là mọi người đứng sững lại, rồi lùi dần và bắt đầu tản ra. Một số chạy thẳng hẳn về nhà. Khi những người dũng cảm nhất tập hợp lại được và chạy tới nhà máy, thì bọn sát nhân đã biến mất trong đám sương mù. Can-lân là Móc-đô trở về nhà trọ. Can-lân có vẻ buồn rầu, Móc-đô im lặng, suy nghĩ. Tối hôm

đó có một buổi ăn mừng lớn ở chi nhánh Hội. Không những ăn mừng vụ ám sát người giám đốc và người kĩ sư mỏ ở đồi Crow, mà còn để ăn mừng một thắng lợi khác mà chi nhánh đã thực hiện được

ở một nơi xa đây. Bây giờ mới rõ là Ê-van cử hai người xuống

Vermissa, thì đồng thời hắn cũng đòi hỏi Vermissa phải bí mật cử

ba người lên trên hắn để thủ tiêu Hen-lơ, một trong những người chủ mẫu mực. Anh ta chỉ có cái tội là cứ thích có năng suất trong công việc nên đã đuổi một số tên sâu rượu và lười biếng, mà những tên này lại là hội viên của Hội. Bản án vừa được thi hành xong. Ted hãnh diện ngồi chễm chệ trên ghế danh dự bên phải ông toán trưởng. Bộ mặt đỏ dừ, hai con mắt đỏ sọc máu, chứng tỏ hắn vừa qua một đêm trắng và uống nhiều rượu. Chúng đã rình nạn nhân trong khi người này đi về nhà vào buổi tối. Chúng phục trên đỉnh một quả đồi, đường đi khấp khểnh nên bắt buộc ngựa phải đi bước một. Nạn nhân mặc nhiều áo quá để chống rét nên không rút súng

ra kịp. Cái xác đẫm máu được vứt lại trong đống tuyết để làm một

lời cảnh cáo cho tất cả các ông chủ có trái tim sắt đá. Đó là một ngày trọng đại cho tất cả những Người Tiên Phong. Bóng tối đè nặng hơn nữa lên thung lũng khủng khiếp. Ganh-ty đã nghĩ đến một trận tấn công mới chống những kẻ thù của ông ta. Đêm hôm đó, khi mọi người đã say sưa chia tay nhau ra về, ông ta ngoác Móc-

đô lại và đưa anh ta vào căn phòng gặp nhau lần đầu tiên. - Hãy nghe đây. Bây giờ tôi mới có một công việc xứng đáng với anh. - Tôi

hãnh diện vì đã được ông chọn lựa. - Chúng ta không thể nào yên

tâm chừng nào vụ Wil-co chưa được giải quyết xong. - Nó là ai vậy? Nó ở đâu? Ganh-ty bỏ điếu xì gà xuống, xé ở sổ tay ra một tờ giấy trên có vẽ một bản đồ sơ lược. - Nó là thằng đốc công chính của công

ty Đai-kơ, thượng sĩ cũ, đã có đi đánh trận về. Chúng ta đã hai lần định hạ nó, nhưng không được may mắn và Jim đã bị nó hạ lại. Đây nhà nó đây, ở chơ vơ một mình tại ngã tư của công ty. Không nên đi đến đó ban ngày, nó có vũ khí, bắn nhanh và bắn giỏi. Nhưng ban đêm... Tóm lại, nó ở đó với vợ nó, ba đứa con và một người đầy tớ gái. Nếu đặt một gói chất nổ ở cửa nhà nó với một cái ngòi, thì xong hết mọi chuyện. - Người này đã làm gì? - Nó đã giết Jim - Tại sao nó

lại giết Jim? - Một buổi tối Jim đi vào vùng nhà nó, thế là nó giết thôi. - Ở đó có hai người đàn bà và ba đứa trẻ con. Có cần phải cho tất cả bọn này bay lên trời không? - Tất nhiên rồi. - Nhưng sợ con

nó có tội gì đâu? - Ahh xì hơi rồi hay sao? - Hãy bình tĩnh, ông hội đồng. Tôi đã từ chối đâu. - Thế anh có thi hành mệnh lệnh không? - Tất nhiên. - Bao giờ? - Xin ông cho tôi một hay hai đêm, để tôi dò địa điểm cái nhà nó và lập một kế hoạch... Ganh-ty chìa tay ra bắt tay Móc-đô. - Tôi trông cậy ở anh. Các đòn cuối cùng này sẽ bắt chúng nó phải quỳ gối hết. Ngay đêm hôm đó, một mình Móc-đô đến đấy để nghiên cứu địa hình. Mãi sáng bạch hôm sau mới trở về. Ngày hôm sau, anh hội ý với hai tên trợ thủ. Ngày hôm sau nữa, cả

ba người tụ họp ở ngoài thành phố, mang theo đầy đủ thứ vũ khí. Một đứa mang theo một cái bọc đựng đầy thuốc nổ. Khoảng 2 giờ sáng thì cả bọn đến trước nhà Wil-co. Hôm ấy gió to lắm. Mây bay như chạy dưới một mảnh trăng hạ thuyền. Chúng đã được báo trước là phải đề phòng những con chó giữ nhà nên chúng rất thận trọng tiến lại gần. Nhưng không thấy có tiếng động nào khác ngoài tiếng gió rít và tiếng cây lá xào xạc. Móc-đô ghé sát tai vào cửa nghe, không thấy động tĩnh gì bên trong. Anh đặt gói thuốc nổ vào sát cửa, lấy dao thọc một lỗ và buộc ngòi vào. Sau khi anh đã châm ngòi, cả bọn vắt chân lên cổ mà chạy, được một quãng, vừa nằm rạp xuống một cái rãnh, thì nghe thấy tiếng nổ long trời lở đất, và căn nhà nọ sụp xuống. Công việc đã hoàn thành. Chưa bao giờ một sự

thành công trọn vẹn như vậy được ghi nhận trong lịch sử biên niên

của Hội. Nhưng than ôi Bọc thuốc nổ chỉ làm sụp đổ một căn nhà rỗng không, và người thượng sĩ già vẫn tiếp tục giữ vững trật tự trong các mỏ của công ty Đai-kơ. Móc-đô tỏ vẻ bực tức lắm. Anh nói:

- Tôi thề là tôi sẽ hạ được nó. Toàn thể chi nhánh bỏ phiếu biểu quyết tín nhiệm anh. Rồi vụ Wil-co cũng nguôi ngoai đi. Nhưng vài tuần lễ sau, khi báo chí đăng tin, Wil-co đã phải đấu súng trong một vụ phục kích, thì ai cũng hiểu rằng đó là Móc-đô quyết tâm hoàn thành một công việc còn đang dang dở. Đó! Hội những Người

Tự Do đã lũng đoạn cả một vùng bằng sự khủng bố. Bóng tối trùm kín thung lũng khủng khiếp. Rồi mùa xuân đến với những bông hoa tươi thắm và tiếng hát của các con suối. Thiên nhiên bị bàn tay nặng nề của mùa đông giam giữ nay đã trỗi dậy. Nhưng không ở đâu có một tia hy vọng nào, cho những người đàn ông và đàn bà bị khống chế trong sự khủng bố. Trên đầu họ chưa bao giờ có những đám mây dày đặc sự đen tối và hãi hùng như vào đầu mùa hạ năm

Chương 6

NGUY HIỂM

Móc-đô đã được tôn lên địa vị của một phụ tá trong Hội. Anh đã trở thành tối cần thiết trong các buổi họp của Hội. Nhưng nếu anh càng nổi tiếng giữa đám Người Tự Do bao nhiêu, thì khi ra ngoài đường phố ở Vermissa, anh càng phải chịu đựng những cái nhìn có ngụ nhiều ý nghĩa bấy nhiêu. Mặc dù vẫn khiếp sợ nhưng những người dân ở Vermissa bây giờ đã bắt đầu hợp đoàn với nhau. Chi nhánh đã biết tin là... có những cuộc họp bí mật được triệu tập tại toà soạn báo Herald, và những người bảo vệ pháp luật đã được phát đầy đủ súng ống. Ganh-ty và cả bọn đều coi thường những tin tức này. Chúng cậy đông người, gan lỳ và võ trang tốt. Địch thủ của chúng thì tản mạn, lại không có thế lực. Đó là ý kiến đánh gía của

Ganh-ty, của Móc-đô và của những tay cứng khác trong chi nhánh.

Một buổi tối thứ bảy tháng năm, theo thường lệ, chi nhánh họp ở nhà hội quán, Móc-đô đang sửa soạn sắp đi, thì môn huynh Mô-rit chợt đến tìm anh với vầng trán lo âu, đôi mắt hoảng hốt. - Tôi có thể nói chuyện tự do với ông được không, ông Móc-đô? - Dĩ nhiên. - Tôi không quên rằng đã có lần tôi trút cả bầu tâm sự với ông, và ông đã giữ kín cho tôi. - Nhưng sự yên lặng của tôi không có nghĩa

là một sự tán thành những ý nghĩ của ông. - Tôi biết. Nhưng tôi có một điều bí mật ở đây... Anh ta để một tay lên ngực. - Một bí mật ngày đêm gặm nhấm tim tôi. Nếu tôi nói nó ra, thì chắc chắn nó sẽ gây thêm một vụ án mạng nữa. Nhưng nếu không nói, thì nó sẽ là hồi chuông báo tử cho tất cả chúng ta. Mô-rit đang run bần bật. Móc-đô rót một ly rượu uýt-ki và đưa cho ông ta. - Đây là một liều thuốc cho ông. Bây giờ, ông hãy nói vì sao ông lo sợ đến thế. - Tôi nói một câu thôi: Có một thám tử đang dò theo dấu vết của chúng

ta. Móc-đô nhìn ông ta, kinh ngạc: - Thì ở đây lúc nào mà chẳng nhung nhúc những cảnh sát và thám tử. - Không. Đây không phải

là một người ở trong vùng này. Ông có nghe nói đến những người

của Pin-ke không? - Cái tên này có gợi cho tôi một cái gì đấy. - Đó! Đây không phải là một tổ chức muốn làm được việc, muốn có kết quả kia. Nếu một người của Pin-ke đang theo dõi công việc của chúng ta, thì chúng ta chắc chắn bị tiêu diệt mất. - Tất nhiên, - Nhưng tôi không phải là kẻ chỉ điểm người cần bị giết. Ôi! Tôi biết làm gì bây giờ? Mô-rit đứng lên, đi đi lại lại trong phòng, dáng điệu cực kỳ bối rối. Nhưng những lời nói của anh ta đã làm Móc-đô xúc động. Anh nắm lấy hai vai Mô-rit và lắc mạnh. - Không làm được gì

cả, nếu cứ than khóc như một mụ già. Trước hết phải biết thằng đó

là ai? Nó hiện ở đâu? Bằng cách nào ông lại biết nó có ở đây. Tại sao ông lại đến tìm tôi? - Tôi đã nói với ông rằng trước khi đến đây, tôi

đã có một cửa hàng ở miền đông, tại đó tôi có nhiều bạn tốt. Một

người trong bọn họ hiện làm việc ở sở Bưu điện. Ngày hôm qua tôi nhận được thư của anh ta. Đây cái đoạn ở trên đầu trang này. Ông

có thể đọc được. "... Ở vùng anh, bọn Tiên Phong hoạt động như thế

nào? Chúng tôi đọc báo thấy nói nhiều về chúng nó lắm. Giữa

chúng ta với nhau, tôi trông đợi tin tức của anh. Năm tập thể lớn và

hai công ty hoả xa đã đứng ra gánh vác việc này, và họ làm đến nơi đến chốn lắm. Họ muốn có những kết quả thực sự. Theo lệnh của họ, đích thân Pin-ke chỉ huy chiến dịch này và đã phái đến đó, thám tử giỏi nhất của ông ấy là Bốc-đy. Người ta chờ đợi là ngày một ngày hai, cái bọc mủ ung nhọt ấy sẽ được chọc thủng ra". - Bây giờ mời ông đọc thêm phần tái bút. "Tất nhiên, tôi biết được những điều nói trên là vì công việc của tôi, cho nên anh đừng cho ai biết nhé. Họ dùng một thứ mật mã riêng, mà anh có thể đoán cả ngày cũng không hiểu gì hết". Móc-đô ngồi lặng đi một lát, tay vẫn không

rời bức thư. Màn sương mù thế là vừa tan hết, để lộ ra một vực thẳm trước mặt anh. - Có ai biết việc này nữa không? - Tôi không nói với ai cả. - Người bạn của ông có viết thư cho ai nữa không? - Anh ta có biết một hai người ở đây. - Hội viên của Hội à? - Hình như thế. - Người bạn ông có thể cho họ biết nhân dạng của tên Bốc-

đy này, và nhờ đó chúng ta sẽ có thể tìm ra nó. - Có thể lắm. Nhưng

tôi tin rằng người bạn của tôi không biết mặt tên Bốc-đy đó. Anh ta chỉ cho tôi biết những tin tức đã thu lượm được trong công việc của anh ta thôi. Móc-đô nhảy dựng lên: - Tôi nắm được nó rồi. Chúng ta may mắn quá. Chúng ta sẽ thanh toán nó trước khi nó có thể làm hại được chúng ta. Này, ông Mô-rit, ông có để tôi đảm nhiệm việc này không? - Tất nhiên rồi. - Ông yên tâm, cứ để một mình tôi xử trí. Tôi coi như cái thư này gửi đến cho chính tôi. Như thế đối với ông đã được chưa? - Tôi không dám đòi hỏi gì thêm nữa. - Thế thôi, chúng ta ngừng ở đây nhé. Bây giờ tôi xuống hội quán để họp đây,

và rồi chúng ta sẽ cho tên Pin-ke này có dịp than khóc. - Ông không giết người thám tử đấy chứ? - Ông càng biết ít càng tốt. Xin ông đừng hỏi tôi nữa. Mô-rit lắc đầu buồn bã: - Tôi có cảm giác là tay tôi

đã vấy máu. Móc-đô đáp lại với một nụ cười ghê rợn: - Tự vệ không phải là ám sát. Hoặc nó, hoặc chúng ta. Móc-đô tuy mồm có vẻ cứng cỏi, nhưng những hành động của anh lại tỏ ra là anh thấy sự đe dọa rất nghiêm trọng. Trước khi ra khỏi nhà, anh đã huỷ hết những giấy tờ gì có thể buộc tội anh. Nhưng hình như anh vẫn còn lo sợ một cái gì đó, nên trên đường đến hội quán, anh đã dừng lại trước

cửa nhà trọ của cụ Sáp, khi anh gõ khẽ vào cửa thì Ettie chạy ra.

Nhìn dáng điệu trang nghiêm của anh, cô biết rằng một mối nguy hiểm đang gần kề. - Có gì thế, anh đang bị nguy hiểm à? - Chưa nguy hiểm lắm. Nhưng chúng ta nên đi khỏi nơi đây trước khi nó trở thành tệ hại hơn. - Đi hả anh? - Chiều hôm nay anh nhận được một số tin tức, và thấy nhiều nguy hiểm đang chờ anh. - Cảnh sát

à? - Không, anh đã dính líu quá sâu vào rồi, và bây giờ anh muốn rút ra khỏi đây không chậm trễ nữa. - Đó là con đường cứu nguy cho anh đó. Không một lời nói, Ettie đặt bàn tay mình vào tay người yêu. - Tốt lắm. Nhiều sự việc sắp xảy ra dồn dập trong vùng thung lũng này. Nhiều người trong bọn anh phải tự lo lấy thân mình. Nếu anh ra đi, em phải đi ngay với anh. - Em sẽ theo anh sau. - Không, em đi ngay cùng với anh. Anh có quen biết một bà con rất tốt, anh sẽ đưa em đến đó để chờ ngày làm lễ cưới. - Vâng, em sẽ

đi. Móc-đô đi tới nơi hội họp. Đến nơi, anh được chào đón một cách vui vẻ. Phòng họp đầy nghẹt người. Qua màn khói thuốc lá, anh trông thấy cái bờm tóc đen của ông trưởng toán, bộ mặt độc ác của thằng Ted, cái tướng diều hâu của thư ký Ha-ra, cùng khoảng một

tá những chức sắc cao cấp của chi nhánh. Anh mỉm cười khi nghĩ rằng tất cả bọn này rồi sẽ phải cuống cuồng lên vì cái tin anh đem đến. Ông chủ toạ cuộc họp tuyên bố: - Chúng tôi vui mừng thấy anh đến họp, môn huynh Móc-đô. Chúng tôi đang bàn về một vụ rất khó phân giải. Một người ngồi kế bên nói cho anh hay: - Chuyện Lâu-la

và An-ke đấy mà. Cả hai đều đòi tiền thưởng. Ai biết được đứa nào

đã bắn viên đạn chủ yếu. Móc-đô đứng dậy và giang tay ra. Nét mặt bất thường của anh chiếm hết sự chú ý của mọi người. Cả phòng họp im phăng phắc, Móc-đô trịnh trọng nói: - Thưa sư huynh tôn kính, yêu cầu được thông báo khẩn cấp. Ganh-ty nhắc lại: - Môn huynh Móc-đô yêu cầu được thông báo khẩn cấp. Theo nội qui của chúng ta, thì đây là một quyền ưu tiên phải tôn trọng. Bây giờ môn huynh, chúng tôi nghe anh nói. Móc-đô rút cái thơ ở trong túi ra. - Thưa sư huynh tôn kính, và thưa các môn huynh, hôm nay tôi mang đến đây những tin tức không tốt. Tin đó là những công ty có quyền lực nhất, và giàu có nhất của xứ này đã họp nhau lại để tiêu

diệt chúng ta. Ngay lúc này đây, một thám tử của Pin-ke, một

người mang tên là Bốc-đy đang hoạt động trong thung lũng, thu nhập những chứng cớ có thể tiêu diệt hết chúng ta. Đó là tình trạng mà tôi yêu cầu bàn bạc khẩn cấp. Cả hội nghị ngồi chết lặng đi, không ai nói câu nào. Một lát sau, chủ toạ mới lên tiếng: - Anh có chứng cớ gì không? - Chứng cớ ở trong bức thư này... Anh đọc đoạn thư cần thiết, rồi nói tiếp: - Đây là một vấn đề danh dự của tôi. Tôi không thể cho biết chi tiết hơn về bức thơ này, cũng không thể để cho mọi người chuyền tay nhau cùng đọc được. Một môn huynh đã

có tuổi đứng dậy, nói: - Thưa ông chủ toạ, xin cho phép tôi được phát biểu. Tôi đã có nghe nói đến cái tên Bốc-đy. Nó là phụ tá đắc lực của Pin-ke. - ở đây ai biết mặt nó? - Ganh-ty hỏi. - Có. Tôi biết. - Móc-đô trả lời. Một tiếng rì rầm ngạc nhiên truyền đi trong phòng họp. Móc-đô tiếp tục nói với một nụ cười đắc thắng trên môi. - Nếu chúng ta hành động khôn ngoan và nhanh chóng thì chúng ta có thể thoát ra được bước nguy hiểm này. Nếu tôi có được sự tin tưởng

và sự hỗ trỡ của chi nhánh thì các vị không có gì phải lo sợ nhiều nữa. - Chúng tôi có gì phải lo sợ, Nó biết gì về công việc của chúng

ta. - Thưa ông hội đồng, ông có thể nói được như vậy nếu như ai cũng thanh liêm như ông. Nhưng người này có khả năng sử dụng hàng triệu bạc của bọn tư bản. Vậy ông thử nghĩ xem, ở trong tất cả các chi nhánh, há lại không có một môn huynh nào sa ngã trước bạc tiền? Tên thám tử này rồi ra cũng sẽ biết hết những bí mật của chúng ta. Chỉ có một môn thuốc để trị bệnh này mà thôi. Ted nói dằn từng tiếng: - Không để cho nó ra khỏi thung lũng. Móc-đô tán thành nhiệt liệt: - Hoan hô, môn huynh Ted, anh đã nói rất đúng. - Bây giờ làm sao nhận ra nó? Móc-đô nói một cách trang nghiêm: - Thưa ông trưởng toán. Đây là một vấn đề sinh tử, quá quan trọng

để có thể đem ra bàn bạc rộng rãi. Tôi không nghi ngờ bất cứ một người nào trong chúng ta ở đây, nhưng nếu một câu nói chơi lọt đến

tai người ấy, thì chúng ta không có một hy vọng nào khống chế được nó. Tôi muốn xin chi nhánh bầu ra một uỷ ban tín nhiệm. Tôi xin

đề cử chính ông, ông chủ tọa, môn huynh Ted và năm môn huynh

khác nữa. Lúc đo trước uỷ ban, tôi sẽ nói rõ về những gì tôi biết và

các biện pháp nên theo. Đề nghị của Móc-đô được chấp nhận ngay,

và một uỷ ban được chỉ định. Ngoài Ganh-ty và Ted, còn có Ha-ra, Các-tơ, Hổ Cóc-mác và hai anh em Uyn-la. Buổi họp hàng tuần chấm dứt sớm hơn mọi lần trong sự buồn rầu, lo sợ. Lần đầu tiên thấy hiện lên trên bầu trời trong sáng của họ những đám mây đen của pháp luật. Khi mọi người đã ra về hết, trước mặt uỷ ban tín nhiệm, Ganh-ty ra lệnh: - Móc-đô, nói đi! Bảy người trong uỷ ban ngồi như những tượng đá lạnh lùng trong các ghế bành. - Bốc-đy đang ở đây nhưng với cái tên khác. Nó lấy tên là Ti-vơ và hiện ở Hobson's Patch. - Sao anh biết? - Tôi ngẫu nhiên có nói chuyện với

nó một lần mà không biết. Hồi đó tôi không nghĩ gì nhiều về Pin-ke,

và có lẽ cũng đã quên hẳn cái tên ấy đi nếu không nhận được bức thư này. Nhưng bây giờ thì tôi chắc chắn là nó rồi. Tôi đã gặp nó hôm thứ tư vừa rồi trên chuyến tàu. Nó nói nó là ký giả của tờ Nữu Ước thời báo. Tôi tin là thật. Nó muốn biết về những Người Tiên Phong, nói là để viết gửi về toà soạn. Tất nhiên là tôi không hở ra một chuyện gì. Nó nói với tôi rằng: "Tôi sẽ trả tiền, mà trả giá rất đắt để có những chi tiết có thể làm vui lòng ông chủ báo của tôi". Tôi đã bịa ra cho nó nghe những điều mà tôi cho là nó sẽ thích thú. Sau đó nó đưa cho tôi một tờ giấy bạc hai mươi đô la và nói rằng: "Anh sẽ có mười lần hơn thế này, nếu anh tìm được cho tôi những thứ gì mà tôi cần". - Thế anh đã kể những gì với hắn - Tất cả những

gì đến trong đầu tôi lúc ấy. - Tại sao anh biết nó không phải là nhà báo? - Khi xe chạy đến Hobson's Patch thì nó xuống tàu. Tôi cũng xuống. Cùng ngẫu nhiên khi tôi bước vào phòng bưu điện thì thấy

nó từ trong đó đi ra. Người đánh điện tín nói với tôi rằng: "Coi này,

tôi nghĩ có lẽ phải bắt hắn trả gấp đôi mới đúng". - Tôi trả lời "Tôi cũng nghĩ như ông". Thì ra nó đã viết được cả một tờ điện tín những câu đọc lên không ai hiểu gì cả. Người đánh điện nói ngày nào hắn cũng đánh đi những bức điện tối mò như thế. - Anh nói có lý. Thế bây giờ chúng ta phải làm gì? - Ganh-ty nói. - Tại sao không xuống dưới đó mà thanh toán mẹ nó đi? - Một người hỏi. - Mà sớm chừng nào càng tốt chừng ấy. - Tôi sẽ đi ngay tức khắc nếu tôi biết nó ở đâu. Nó ở Hobson's Patch, nhưng không biết ở nhà nào. Nhưng tôi

đã có sẵn một cái bẫy này, nếu các ông chịu nghe tôi... - Bẫy thế

nào? - Ngày mai tôi sẽ đi Hobson's Patch. Tôi sẽ nhờ người đánh điện tín chỉ dẫn cho, và tôi sẽ tìm ra nó. Tôi sẽ nói với nó rằng tôi cũng là một hội viên của Hội những Người Tự Do, và muốn bán những bí mật của chi nhánh, nó sẽ vồ ngay. Tôi sẽ nói rằng các tài liệu hiện để ở nhà tôi, nhưng nếu ban ngày mà đến đấy lấy, thì thật

là điên. Tôi sẽ hẹn đến mười giờ đêm. Chắc nó đến thôi. - Rồi sao nữa? - Sau đó thì phần các ông muốn xử trí thế nào thì tuỳ. Nhà trọ của bà quả Namara là một căn nhà hẻo lánh. Bà chủ trọ của tôi là người tin cẩn được. Nếu nó hứa chắc với tôi là nó sẽ đến, thì tôi sẽ báo cho các ông biết và tôi muốn vào khoảng 9 giờ tối mai cả bảy ông phải có mặt ở nhà tôi. Nó sẽ sập bẫy. Ganh-ty kết luận: - Đồng

ý về tất cả kế hoạch. Chín giờ tối mai, chúng tôi sẽ đến nhà. Anh chỉ việc đóng cửa sau lưng nó, còn để mặc chúng tôi.

Chương 7

BỐC-ĐY SẬP BẪY

Căn nhà nơi Móc-đô ở trọ nằm ở ven thành phố và xa đường cái

đi lại. Trong những trường hợp khác, bọn chủ mưu chỉ việc đưa con mồi đến đấy, rồi trút đạn lên nạn nhân. Nhưng đây chính là một trường hợp ngoại lệ: còn cần phải rõ người kia đã biết những gì, làm cách nào mà biết, và đã truyền đi nhưng tin tức gì. Nếu người thám

tử đã làm xong công việc thu thập tài liệu, thì cần phải biết ai đã phản bội để xử trí tên ấy Móc-đô đi xuống Hobson's Patch như đã

dự định trược. Buổi sáng hôm đó, hình như cảnh sát lại đặc biệt chú

ý đến anh ta thì phải. Đại uý Ma-vin định tới nói chuyện với anh, khi anh đứng đợi tàu ở sân ga. Anh quay mặt đi không thèm trả lời. Đến chiều thì Móc-đô trở về và tìm ngay Ganh-ty ở nhà hội quán để báo tin: - Nó sẽ đến. - Hoan hô! Ông trưởng toán vỗ tay reo mừng: - Cậu có tin là nó biết gì nhiều lắm không? Móc-đô gật đầu buồn bã: -

Nó đã ở đây ít nhất là sáu tuần rồi. Nếu nó cứ vung tiền ra trong

suốt thời gian vừa qua, thì nó cũng đã thu được không ít tin tức và

đã gửi những tin ấy đi rồi. Ganh-ty la lên: - Nhưng trong chi nhánh, mọi người đều vững vàng như thành đồng luỹ thép cả. Chỉ có cái thằng Mô-rit ấy thôi. Nếu có một người nào đó đi tố gíac chúng ta thì chính là nó. Tôi muốn cho hai đứa đến nhà nó ngay trước tối hôm nay để cho nó một trận và đồng thời cũng tra hỏi nó xem có biết thêm gì không. - Tôi không giấu ông là tôi cũng có thương hại lão ấy, mà nếu lão ấy bị làm sao thì tôi cũng có phần áy náy. Mặc

dù lão có những cách nhìn không giống ông và tôi, nhưng tôi có cảm gíac lão không phải là một tên phản bội. Nhưng thôi, tôi đâu có dám can thiệp chuyện giữa ông và lão. - Tôi sẽ thanh toán nó - Nhưng xin ông hãy đợi cho đến ngày mai, không nên để cho người ta chú ý quá nhiều đến chúng ta trước khi giải quyết xong vụ Pin-ke. - Anh nói có lý. Và chúng ta sẽ bắt thằng Bốc-đy phải khai rõ là nó đã nhận được những tin tức từ người nào. Dù chúng ta có phải moi tim

ra để bắt nó nói, cũng phải làm cho kỳ được. Nó có cảm thấy là bị gài bẫy không? - Tôi đã tóm được điểm yếu của nó. Nó sẵn sàng đi

từ đây đến Nữu Ước, nếu có được những tài liệu tốt. Tôi đã cầm tiền của nó... Móc-đô rút ở trong túi ra một xấp giấy đô-la - Nó sẽ đưa cho tôi bấy nhiêu nữa khi nào nó thấy những tài liệu của tôi. - Tài liệu nào? - Tất nhiên tôi làm gì có tài tiệu. Nhưng tôi đã cho nó giỏ nước giãi ra khi nói đến những nội quy, những sổ thanh toán, những đơn xin nhập hội. Hắn tin chắc rằng, trước khi đi khỏi nơi đây, hắn sẽ mò được đến tận đáy của vấn đề. Ganh-ty thì thầm với một giọng dễ sợ: -ừ, nó cũng không nghĩ sai đâu. Thế nó có hỏi anh

tại sao không mang những tài liệu đó đi theo luôn không? - Ai dại gì mang theo trong mình từng ấy tài liệu? Ngay mới buổi sáng hôm nay, đại uý Ma-vin còn muốn nói chuyện với tôi ở ngoài sân ga nữa kìa. - ừ, người ta cũng đã có thuật lại với tôi như vậy. Tôi sợ rằng không khéo rồi cuối cùng chỉ có một mình anh sẽ phải gánh chịu tất

cả sức nặng của vụ này. Sau khi thủ tiêu nó trong một cái giếng cũ, chúng ta không thể gạt bỏ được hai sự kiện là nó thì ở Hobson's Patch, mà hôm nay chính anh cũng đi Hobson's Patch. - Ban đêm

thì sẽ không có một ai trông thấy nó vào nhà tôi, và tôi cuộc rằng sẽ

không ai trông thấy nó ở trong nhà tôi đi ra. Bây giờ xin ông Hội đồng nghe kỹ tôi nói đây. Các ông sẽ đến đây đúng giờ đã quy định. Mười giờ thì nó đến. Nó sẽ gõ cửa ba lần. Chính tôi sẽ ra mở cửa cho

nó vào. Tôi đi đằng sau nó và sẽ khoá cửa lại. Thế là xong. -ừ, dễ như trở bàn tay thôi. - Nhưng chuyện tiếp theo mới là cần suy nghĩ. Nó có vũ khí, ai cấm nó không biết cảnh giác và đề phòng. Ông hãy

cứ tưởng tượng rằng tôi đưa nó vào một căn buồng có bảy người đàn ông ngồi chờ nó, trong khi nó tưởng chỉ có một mình tôi thôi. Thế là

sẽ nổ ra một cuộc đọ súng, và có thể có những cái không may xảy đến cho một vài anh em chúng ta. - Đúng. - Và tiếng súng có thể làm cho tất cả bọn cớm trong thành phố này đổ xô đến đây. - Anh nói có lý lắm. - Cho nên tôi định xếp đặt mọi việc như thế này. Các ông sẽ ngồi tất cả ở căn phòng lớn. Tôi mở cửa ngoài đường, đưa nó vào buồng khách nhỏ bên cạnh cửa. Tôi sẽ để nó ngồi đó trong khi

tôi đi vào lấy tài liệu. Tôi sẽ trở lại với một vài tài liệu giả. Trong khi nó đọc, tôi sẽ nhảy vào ôm chặt tay nó. Các ông sẽ nghe thấy tiếng tôi gọi và chạy ùa sang, xin các ông chạy nhanh nhanh cho một chút. - Kế hoạch thế tốt đấy. Chi nhánh Hội ta sẽ mang nợ anh nhiều lắm đấy. - Thưa ông Hội đồng, dĩ nhên tôi không còn là một tên lính mới tò te nữa. Khi về đến nhà, anh bắt đầu vào việc chuẩn

bị cho cái buối tối ghê gớm này. Trước hết anh đem khẩu súng ra lau chùi, bôi mỡ và lắp đạn. Rồi anh kiểm tra lại căn buồng nơi sẽ giương bẫy. Cuối cùng anh kể hết mọi chuyện cho Can-lân nghe và nói thêm: - Này Can-lân, đêm nay anh nên đi ngủ ở nơi khác. Trước sáng ngày mai, nơi đây sẽ có nhiều máu đấy. - Tôi sợ chi nhánh đánh giá tôi không tốt, chứ tôi rất muốn theo lời khuyên của anh. Bọn sát nhân đến đúng giờ đã định. Nhìn bề ngoài chúng có vẻ là những công dân ăn mặc đẹp đẽ, sạch sẽ. Nhưng nếu người nào biết xem tướng mặt, thì sẽ hiểu rằng Bốc-đy ít có khả năng sống sót được. Chủ nhà có để chai rượu uýt-ki trên bàn, nên chúng vội vã nốc rượu ngay cho ấm bụng. Ted và Cóc-mac đã chuếnh choáng say rồi. Rượu hun đốt thêm sự độc ác tự nhiên của chúng. Cóc-mac để tay gần cái bếp lò sưởi đã được đốt lên. Nó nói: - Nóng thế này, được

đấy. Thằng Ted hiểu ngay ý nghĩa của câu nói đó, gật gù tán thành:

- ừ, được, đem trói nó vào đây thì sự thật nào cũng phải khạc ra hết. Móc-đô nói: - Đừng lo. Chúng ta sẽ bắt nó phải khai. Móc-đô, con người này có lẽ có những dây thần kinh bằng thép hay sao ấy. Tất

cả công việc khó khăn nguy hiểm này là đặt trên hai vai anh ta, mà anh ta vẫn bình tĩnh, như không có gì xảy ra cả. Tên toán trưởng nói với Móc-đô: - Một mình anh sẽ thu xếp riêng với nó. Chừng nào mà tay anh còn chưa nắm được vào cổ nó, thì nó sẽ chưa biết sự có mặt của chúng tôi. - Có thể nó sẽ không đến. Có thể nó cảm thấy có

có nguy hiểm. - Tên thư ký nói. - Thế nào nó cũng đến. Nó ao ước được đến đây cũng không kém gì các ông ao ước được thấy nó. Này, nghe xem. - Móc-đô đáp. Chúng sững người lại, đứng im lặng như tượng đá. Ba tiếng gõ cửa vang lên ở cánh cửa ngoài đường. Móc-đô giơ một tay lên để căn dặn phải thận trọng. Cả bảy cặp mắt cùng lóng lánh chung một ánh đắc thắng, cả bảy bàn tay đều đặt lên vũ khí. - Không được gây tiếng động nữa. - Móc-đô thì thầm. Rồi anh bước ra khỏi phòng và đóng cửa kỹ lưỡng. Bọn sát nhân căng tai nghe ngóng. Chúng nhận thấy bước chân của Móc-đô đi trên hành lang, rồi thấy anh mở cửa ngoài. Có vài lời chào đón trao đổi qua lại, sau đó chúng nghe thấy tiếng bước chân của một người đi rụt rè trong nhà, và một giọng nói mà chúng không quen biết. Một lát sau, một cánh cửa đập mạnh và có tiếng chìa khoá xoay. Thế là xong, con mồi đã sập bẫy. Hổ Cóc-mac phá lên cười ghê rợn. Ganh-ty vừa bắt nó im, vừa thì thào: - Đồ ngu, mày làm hỏng việc bây giờ. Ở buồng bên, nghe có tiếng người nói chuyện, nói rất lâu. Rồi cửa mở. Móc-đô hiện ra, một ngón tay để lên môi ra hiệu. Anh ta đi đến một đầu bàn và nhìn kỹ từng bộ mặt. Một sự thay đổi rất tế nhị xuất hiện ở anh ta, gương mặt lạnh lùng, rắn đanh lại, đôi mắt sâu đậm, long lanh sau cặp kính. Rõ ràng anh ta đã lột xác thành một người

có uy quyền đối với người khác. Bọn sát nhân ngắm anh không chớp mắt, nhưng anh vẫn không nói gì. Chỉ nhìn chúng bằng cặp mắt rất

kỳ lạ. Cuối cùng Ganh-ty phải lên tiếng: - Thế nào. Thằng Bốc-đy có

ở đây không? Móc-đô chậm rãi trả lời, dằn từng tiếng: - Có. Tao là

Bốc-đy đây. Mười giây đồng hồ trôi qua, sự im lặng sâu đậm đến nỗi

người ta tưởng căn phòng này không có người. Bảy bộ mặt xám

ngoét, quay nhìn về hướng con người đang chế ngự chúng. Trong tiếng kính bị bể vỡ, rèm cửa bị rứt tung và qua mỗi khung cửa sổ, những họng súng chĩa vào. Ganh-ty rống lên như một con gấu bị thương, nhảy bổ ra phía cửa. Hắn chạm ngay vào mũi súng và đôi mắt xanh của đại uý Ma-vin. Tên trưởng toán lùi lại, ngã ngồi xuống ghế. Móc-đô gật đầu tán thành: - Ông Hội đồng, ông ngồi chỗ

ấy tốt đấy. Còn mày, Ted, nếu mày không cất tay ra khỏi khẩu súng thì mày sẽ không được gặp mặt đao phủ đâu. Bỏ tay ra. Đó. Thế được đấy. Có bốn mươi tay súng chung quanh ngôi nhà này. Ma- vin, hãy tước hết súng của chúng nó đi. Bọn giết người bị tước hết

vũ khí. Kinh ngạc, sợ hãi, buồn rầu, chúng vẫn ngồi cả chung quanh bàn. Người giương bẫy dõng dạc nói lớn: - Tao muốn nói với chúng mày một vài lời trước khi chia tay. Tao chính là Bốc-đy của

tổ chức Pin-ke đây, tao đến đây là để tiêu diệt chúng mày. Tao đã phải chơi một ván bài khó khăn và nguy hiểm. Bảy bộ mặt tái nhợt, sững sờ. Bảy cặp mắt trong đó cháy bỏng một mối căm hờn không bao giờ có thể dập tắt được. - Chúng mày tưởng là ván bài chưa kết thúc phải không? Nó kết thúc rồi: ở đây bảy đứa và ngay đêm nay, sáu mươi tay chân của chúng mày sẽ ngủ trong nhà tù. Khi đảm nhiệm vụ án này, tao không tin rằng trên đời này lại có cái hội như hội của chúng mày. Tao tưởng đó chủ là những chuyện phóng đại của một số nhà báo. Người ta nói với tao rằng tao sẽ phải chạm trán với những "Người Tự Do" vì thế tao đã đi đến Chicago đến trở thành một Người Tự Do. Ở đó, tao thực sự tin rằng đúng là những chuyện phóng đại của báo chí, vì tao thấy Hội không có gì xấu xa, mà trái lại là đằng khác. Vì phải làm cho trọn vẹn cuộc điều tra, nên tao đã đến thung lũng này. Khi đến đây tao mới hiểu rằng tao

đã lầm. Cho nên tao đã ở lại đây để nghiên cứu vấn đề cho cặn kẽ. Tao chưa hề giết một người nào ở Chicago, tao chưa bao giờ làm bạc giả. Những đồng đô-la tao đưa cho chúng mày tiêu, nói là bạc giả nhưng chính là bạc thật. Thế là tao được nhập vào cái chi nhánh địa ngục của chúng mày và cùng chúng mày bàn bạc những chuyện giết người. Cái đêm hôm tao được nhập vào chi nhánh, chúng mày

đi hành hung cụ James. Tao không báo kịp cho cụ biết. Nhưng tao

đã giữ tay mày lại, Ted, khi mày định giết ông cụ. Tao không cứu được anh bạn Men-đai ,vì tao không rõ sự việc, nhưng tao sẽ treo cổ những tên giết hai người đó. Tao đã báo tin cho Wil-co, để có thể cùng vợ và các con ông ta thoát đi khỏi, trước khi tao đặt thuốc nổ. Cũng có nhiều vụ tao không thể báo trước cho nạn nhân biết. Nhưng rõ ràng đã có biết bao nhiêu lần những người mà chúng mày định ám hại đã trốn thoát. Ganh-ty rít lên giữa hai hàm răng: - Thằng phản bội. - Ganh-ty! Mày gọi tao là "phản bội", nhưng sẽ có hàng nghìn người khác gọi tao là "người tốt", đã xuống tận địa ngục

để cứu họ lên, trong cái địa ngục này, tao cố sống cho đến khi nắm được tất cả từng đứa một, từng bí mật trong lòng bàn tay này. Nhưng một bức thư đã khiến tao sắp bị lộ. Vì vậy tao phải hành động ngay tức khắc. Tao không còn nói gì thêm với chúng mày nữa. Thôi, bây giờ ông Ma-vin, ông hãy đem giam bọn này lại, Chuyện còn lại ta sẽ làm sau. Can-lân được giao một chiếc phong bì dán kín mà anh ta có nhiệm vụ phải đưa đến địa chỉ của Ettie. Sáng hôm sau, một cô gái trẻ đẹp và một người đàn ông khăn áo trùm kín người bước lên một chuyến tàu đặc biệt của công ty hoả xa dành riêng cho họ, mở hết tốc lực rời khỏi một vùng đất đầy nguy hiểm. Mười ngày sau, họ làm lễ cưới ở Chicago. Cụ Sáp là người làm chứng trong cuộc hôn nhân đó. Vụ xử án những "Người Tiên Phong" được tổ chức cực kỳ cẩn mật. Chúng cố chối cãi. Nhưng vô ích. Ganh-ty và tám tên phụ tá, chết trên đoạn đầu đài, năm mươi đứa khác ngồi tù. Thắng lợi của Bốc-đy trọn vẹn và hoàn toàn. Nhưng thằng Ted không phải lên đoạn đầu đài. Anh em thằng Uyn-la cũng thế. Và một vài thằng hung thần khác cũng thoát. Chúng bị giam giữ trong mười năm, rồi chúng tìm được tự do. Ngày chúng ra khỏi

tù, Bốc-đy biết rằng ông bắt đầu gặp khó khăn. Chúng ám sát hai lần, nhưng ông đều thoát. Ông phải rời Chicago, đổi tên để sinh sống ở Cali. Tại đây, Ettie từ trần. Một lần khác ông lại suýt bị giết. Mang một cái tên mới là Du-gia, ông làm việc trong một hầm mỏ với một người hùn vốn tên là Bar, và trở nên giàu có. Có người báo rằng: bọn khát máu lại đánh hơi thấy dấu vết của ông rồi. Thế là

ông vội vã xuống tàu trở về Anh Cát Lợi. Đổi tên là Jôn Du-gia, lấy

vợ và sống như một nhà quý phái nông thôn tại vùng Sussex rồi sau

đó tại lâu đài cổ này xảy ra câu chuyện như ta đã thấy.

*

* *

TÁC PHẨM BẬC THẦY

Trước toà đại hình, Du-gia được trắng án vì đã hành động trong hoàn cảnh tự vệ. Holmes viết thư cho bà vợ ông ta: "Bằng mọi giá, bà hãy đưa ông ấy đi khỏi nước Anh. Ở đây có những tổ chức còn mạnh hơn gấp bội những tổ chức mà ông đã thoát được. Không thể nào có an toàn cho ông ở Anh Cát Lợi này". Hai tháng đã trôi qua. Vụ án chìm dần vào dĩ vãng. Một buổi sáng, có một bức thư khó hiểu được nhét vào hòm thư của chúng tôi. "Ông Holmes đáng thương của tôi ơi! Ôi... ôi..." Bức thư nặc danh chỉ có mấy chữ đó thôi. Tôi bật cười. Holmes thì trở nên nghiêm trang: - Quỷ quái thật. Và anh ta ngồi lặng đi, vầng trán cau lại. Tối khuya hôm đó,

bà chủ nhà trọ bước vào, nói rằng có một vị khách muốn được gặp ông Holmes về một vấn đề quan trọng. Người khách được mời vào ngay: Đó là ông Bar. Với gương mặt căng thẳng, đôi mắt hoảng hốt, ông nói: - Tôi mang đến những tin tức xấu. - Đó là những điều tôi đang sợ đây. - Holmes nói - Ông nhận được một bức điện? - Thư của người nhận được bức điện đó. - Chuyện của ông Du-gia. Người ta nói với tôi rằng tên thật của ông ta là Bốc-đy. Hai ông bà ấy đã xuống tàu Panama đi nam Phi từ ba tuần lễ rồi. Tối hôm qua, tàu

đỗ lại ở bến Cáp. Sáng nay, tôi nhận được bức điện này của bà Du- gia: "Du-gia mất tích dưới biển trong một trận bão ngoài khơi Sainte-Helene. Không ai biết tai nạn xảy ra như thế nào. - Thì ra như vậy đó. Việc bố trí và dàn cảnh thật tuyệt vời. Holmes nói. - Ông không tin đây là một tai nạn? - Phải. - Thế thì Du-gia đã bị mưu sát? - Phải. - Tôi cũng nghĩ thế. Bọn Người Tiên Phong.

Holmes ngắt lời: - Không phải đâu. Đây là một bàn tay bậc thầy

kia. Đây không còn là một khẩu súng săn cưa nòng, một khẩu súng lục. Mà là tác phẩm vĩ đại của một bậc thầy. Trông những nét bút tuyệt vời này, tôi có thể nhận ra ngay đây là tác phẩm của Mori. Vụ

án mạng này không phải là sản phẩm của Mỹ quốc mà chính là của Luân Đôn đó. - Vì sao vậy? - Vì nó đã được thực hiện bởi một người "bất bại". Một bộ óc lớn và một tổ chức khổng lồ dùng để thủ tiêu một người mà thôi. Khác nào dùng búa tạ để đập một hạt dẻ. Một

sự phung phí năng lực quá cỡ, nhưng hạt dẻ đã bị đập nát bét. - Nhưng bậc thầy ấy sao lại dính líu vào vụ này được. - Thằng Por chính là một trong những tay chân của bậc thầy đó, Người Mỹ rất khôn ngoan. Khi họ dự định đánh một trận ở Anh, thì họ nghĩ ngay đến việc hợp tác với một chuyên gia lớn về tội ác ở Anh. Mới đầu Mori chỉ huy động bộ máy của hắn để tìm ra Du-gia. Rồi hắn chỉ dẫn cho hung thủ cách tiến hành công việc như thế nào cho tốt. Nhưng Ted đi từ Mỹ sang đây đã thất bại. Bấy giờ Mori tự đứng ra đảm nhận việc này, và đã giải quyết nó bằng một tác phẩm bậc thầy. Bar đùng đùng nổi giận, nắm chặt bàn tay, tự đấm vào trán. - Chúng ta bắt buộc phải chấp nhận điều đó ư? Sẽ không có ai lên đến ngang tầm của tên ma vương này sao? Holmes chậm rãi trả lời:

- Không. Tôi không nói rằng tên ma vương ấy sẽ không thể bị đánh bại. Nhưng ông phải để cho chúng tôi có thời gian... vâng, phải có thời gian. Chúng tôi ngồi lặng im. Đôi mắt tiên tri của Holmes vẫn như đang muốn chọc thủng bức màn tương lai.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenFun.Vip