Acesabo One Piece Chung Ta Cat Len Ban Tinh Ca Chong Lai Ca Dat Troi Chung Ta Cat Len Ban Tinh Ca Chong Lai Ca Dat Troi

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng
"Chúng ta cất lên bản tình ca chống lại cả đất trời
Và ngay cả khi kết quả là bị giết bởi điều tồi tệ nhất
Ngay cả khi không vẹn toàn, cũng không có gì chắc chắn
Thấy chưa, cứ đá văng nó đi, nỗi đau sẽ không còn
Xoay vòng theo năm tháng, và lần theo tiếng gọi
Và nếu như được sinh ra một lần nữa, thì tôi sẽ đi tìm cậu đầu tiên..."

...

Hôm ấy là một ngày cuối tháng mười hai. Giáng sinh vừa mới qua đi, và chỉ còn khoảng một tuần nữa thôi là bước sang năm mới rồi. Tiết trời đã bắt đầu trở rét từ hai tháng trước, và rồi bây giờ nhiệt độ lại tiếp tục giảm xuống thấp hơn nữa. Những bông tuyết đầu mùa đã xuất hiện trên bầu trời Biển Đông.

Tính đến thời điểm đó, thì đã gần một năm rồi kể từ khi tôi rời khỏi quê hương mình - một hòn đảo mùa đông nằm đâu đó ngoài Grand Line - để đi du ngoạn thế gian. Vùng biển đầu tiên mà tôi chọn đến là East Blue. Vì những hòn đảo tôi đã đi qua ở Grand Line trong suốt một năm qua hầu hết là đảo mùa xuân và mùa hè, nên đây là lần đầu tiên trong đời tôi được nhìn thấy tuyết ở một nơi mà không phải nơi mình sinh ra. Thật hoài niệm làm sao...

Ở hòn đảo quê hương tôi, quanh năm suốt tháng chỉ có duy nhất một kiểu thời tiết. Đi đến đâu cũng chỉ độc một màu tuyết phủ trắng xóa. Nhiệt độ rất hiếm khi đạt tới 0 độ C. Bởi vậy, tôi, cũng như những người đồng hương, hầu như không có khả năng chịu nóng cũng như khả năng thích nghi với sự thay đổi thời tiết. Người dân quê tôi cũng vì thế mà rất hiếm khi ra biển. Họ chỉ sợ có khi chưa kịp chết vì hải tặc, hải thú, bão tố hay đói khát thì đã chết vì sốc nhiệt rồi ấy chứ. Thế nhưng tôi thì khác. Hồi nhỏ, chính những câu chuyện về những chuyến phiêu lưu kì thú, về thế giới rộng lớn ngoài kia mà cha mẹ - những nhà thám hiểm nổi tiếng của Grand Line - vẫn thường kể cho tôi nghe mỗi lần trở về làng đã thôi thúc tôi ra khơi vào một ngày nào đó. Tôi đã chăm chỉ học y thuật và kĩ thuật hàng hải, để sau này có thể được lên tàu đi du ngoạn thế gian cùng với cha mẹ.

Thế nhưng khoảng hai năm trước, một tin sét đánh đã vang đến tai tôi. Tàu của cha mẹ tôi đã bị một cơn bão lớn nuốt chửng khi đang trên đường trở về quê hương. Không một ai trong đoàn thám hiểm sống sót.

Sự ra đi của cha mẹ đã khiến tôi chẳng còn lí do gì để lưu luyến hòn đảo mùa đông này nữa. Tôi học nốt những gì còn dang dở, và rồi quyết định, sau khi đã hoàn thành mọi thứ, tôi sẽ một mình ra biển, sẽ phiêu lưu cho cả phần của hai người.

Hồi mới ra khơi, tôi thường xuyên bị sốc nhiệt, thậm chí đổ bệnh vì không quen với khí hậu thất thường của vùng biển này. Cũng may nhờ nắm chắc y thuật trong tay nên tôi mới có thể giữ được cái mạng mình an toàn rời khỏi Grand Line.

Sau những gì đã trải qua ở Grand Line, thì việc đi lại ở East Blue dễ dàng hơn hẳn. Vì không còn cần phải dùng đến Log Pose để xác định phương hướng nữa nên ngay khi đến được vùng biển này, tôi đã đặt ra cho mình một quy tắc. Đó là không bao giờ dừng chân ở hòn đảo nào quá năm ngày. Bởi tôi sợ nếu ở lại lâu hơn sẽ lại khiến mình quyến luyến với đất liền và không thể tiếp tục phiêu lưu được nữa.

Ngày hôm ấy, điểm dừng chân của tôi là vương quốc Goa - một quốc đảo nằm ở rìa của East Blue.

Sau khi thuê phòng ở một nhà trọ trong làng Foosha, tôi đi thăm thú làng mạc, mua lương thực, thuốc men chuẩn bị cho chuyến đi tiếp theo và một vài cuốn sách hàng hải và y thuật để đọc giết thời gian. Chợt nhớ ra ở phía sau của ngôi làng này có một ngọn núi khá cao, hình như tên Colubo thì phải. Tôi liền về phòng trọ cất đồ rồi chạy lên núi xem có gì hay ho ở trên đó không.

Băng qua khu rừng già, cuối cùng tôi cũng lên được đến đỉnh núi. Cả một khung cảnh rộng lớn hiện ra trước mắt. Tuyết rơi khá mỏng nên tầm nhìn không bị hạn chế. Đứng từ vách đá cheo leo này, tôi có thể nhìn ra phía ngoài khơi, sang đến tận bên kia đường chân trời. Không có lấy một bóng người, chẳng có lấy một tiếng động. Chỉ có tiếng sóng rì rào, theo gió biển mà dội vào vách núi. Tựa như một bản nhạc du dương mà mẹ biển bao la đã ban tặng, lặng lẽ đưa những người thủy thủ xấu số vào giấc ngủ vĩnh hằng...

Từ bé đến giờ, nhất là sau khi cha mẹ qua đời, cứ mỗi khi một mình đứng trước những khung cảnh rộng lớn như thế này là tôi lại bị choáng ngợp. Chúng khiến tôi cảm thấy có gì đó xúc động và bình yên đến kì lạ, để rồi nhanh chóng đưa tôi chìm vào những dòng suy nghĩ, dòng hồi tưởng bất tận về những ngày đã qua, về ý nghĩa của cuộc đời, tưởng như không hề có điểm dừng.

Chợt một tiếng đàn vang lên từ phía sau, cắt đứt dòng suy nghĩ đang chực trào lên trong tiềm thức. Lúc quay đầu lại, tôi nhìn thấy một chàng trai trẻ đang ngồi trên một tảng đá, lặng lẽ kéo cây vĩ cầm cũ kĩ đã ngả màu thời gian. Nói là trẻ, nhưng có vẻ như người ấy cũng đã trạc ba mươi tuổi rồi. Mái tóc xoăn vàng dài đến ngang tai, dường như để che đi vết sẹo lớn bên mắt trái. Anh ta mang trên người một chiếc áo khoác đen dài, bên trong mặc áo vest xanh dương, trên cổ đeo một chiếc cà vạt lớn màu trắng, có vẻ là con nhà giàu có, mà có khi là quý tộc cũng nên. Thế nhưng vết sẹo trên khuôn mặt thì lại như muốn nói rằng, trong quá khứ anh đã từng trải qua một điều gì đó khủng khiếp lắm - điều mà một quý tộc bình thường chắc chắn sẽ không bao giờ phải nếm trải trong suốt cả cuộc đời. Dù trông không được rõ lắm, nhưng là một bác sĩ, tôi hoàn toàn có thể khẳng định đó là vết sẹo do chấn thương chứ không phải vết bớt có sẵn từ khi sinh ra. Chẳng lẽ là trẻ mồ côi bị ngược đãi và sau đó được quý tộc nhận nuôi? Cũng có thể lắm chứ... Tuy nhiên còn một điều khó hiểu nữa, đó là việc anh ta đang ngồi ở đây. Theo như bản đồ của hòn đảo này, thì Miền thượng - nơi ở của quý tộc - nằm ở tít sâu trong đất liền. Nếu thực sự là một quý tộc, thì việc gì anh ta phải cất công ra tận nơi vách đá cheo leo này chỉ để chơi đàn? Hay là vừa mới bị dân chúng lật đổ? Không... chỉ cần nhìn qua cũng biết chắc chắn đó không phải là lí do...

Bên cạnh đó, anh ta trông có vẻ rất ốm yếu, cứ như thể đang mắc phải một căn bệnh vô phương cứu chữa vậy...

Nói tóm lại, chỉ riêng những mâu thuẫn giữa bộ trang phục ấy và cái người đang mặc nó thôi cũng đủ trở thành một dấu hỏi lớn. Không biết trong quá khứ anh ta đã gặp phải chuyện gì, cơ mà suy luận lắm cũng chỉ càng muốn điên cái đầu.

Mải nhìn chàng trai ấy đến quên cả để ý xung quanh, tôi lỡ chân vấp phải cục đá rồi ngã nhào xuống lớp tuyết mỏng, khiến mặt đất vang lên một tiếng "uỵch" rõ to.

Theo phản xạ, anh ta dừng kéo đàn, bất giác cau mày lại, rồi nhìn về phía phát ra tiếng động.

"Có người ở đây sao?" Anh cất tiếng hỏi.

Cứ như thể đang theo dõi người ta thì bị phát hiện, tôi bối rối quá, chẳng biết phải xử trí như thế nào. Thế là tôi và anh ta cứ nhìn nhau một lúc.

Mà khoan đã, "Có người ở đây sao?", sao tự nhiên anh ta lại hỏi như vậy nhỉ? Chẳng phải anh ta đến đây sau tôi sao, đã vậy tôi còn đang đứng lù lù ở ngay chỗ vách đá này đây. Làm gì có chuyện đã lên đến đây rồi, đã ngồi xuống chơi đàn rồi mà còn không để ý đến sự tồn tại của một con người đang ở ngay trước mắt mình được?

Không lẽ...

"Này, trả lời đi chứ!" Anh ta lại thúc giục tôi một lần nữa.

"A... À vâng. Xin thứ lỗi." Tôi lúng túng đáp lại. "Mọi chuyện xảy ra đột ngột quá, tôi không biết phải nói gì cả..."

Chợt đôi lông mày giãn ra sau khi nghe thấy những lời tôi nói. Anh ta mỉm cười như để trấn an.

"Không sao đâu. Tôi mới là người phải xin lỗi vì đã khiến cậu phải khó xử. Cậu không phải là người ở đây, đúng không?"

Anh nói cứ như thể nhìn thấu tâm can đối phương vậy.

"Đúng vậy. Nhưng làm thế nào mà anh biết?" Tôi ngạc nhiên.

"Chỉ là cảm thấy thế thôi. Ở đây ai cũng biết tôi hết, cho nên tôi nhận ra ngay bởi cách mà cậu hành xử khi gặp tôi khác hẳn so với dân trên đảo."

"Mọi người đều biết? K... không lẽ... anh là người hoàng tộc sao?" Tôi lúng túng nhìn lại bộ trang phục của anh một lần nữa.

"Không. Đã từng là quý tộc thôi. Nhưng đó là chuyện của hai mươi năm trước rồi. Giờ tôi chỉ là một thường dân sống trên hòn đảo này như bao người khác mà thôi..."

Ngạc nhiên này cứ thế nối tiếp ngạc nhiên khác. Tôi thực sự chẳng biết phản ứng thế nào cho phải. Im lặng một lúc để tiêu hóa hết đống thông tin vừa đi qua não bộ, tôi mới tiếp tục hỏi.

"Vậy rốt cuộc anh là ai?"

Như thể không nghe thấy tôi nói gì, anh ta lại đưa cây vĩ cầm lên ngang vai, rồi tiếp tục bản nhạc vừa mới bị ngắt quãng. Bản nhạc nghe thật bình yên, thật nhẹ nhàng, sâu lắng, và có gì đó đượm buồn. Buồn đến da diết. Từng nốt nhạc vang lên như muốn dội thẳng vào tâm can người nghe, xoa dịu nó, và rồi chỉ chực chờ để cào nát nó ra bằng cái sự bi thương đến xé lòng...

Đột nhiên, một cơn gió mạnh thổi qua, chàng trai giật mình, bất giác buông tay. Cây vĩ theo đó trượt khỏi tay anh rồi rơi xuống đất, cứ thế tiếp tục lăn đi theo hướng gió thổi. Anh đứng lên, lưỡng lự một lúc rồi quay sang phía tôi, giọng có hơi ngại ngùng.

"Ph...phiền cậu... tìm nó hộ tôi được không? Tôi... không nhìn được..."

Biết ngay mà.

"Được thôi." Tôi vui vẻ nhận lời, rồi chạy đi nhặt cây vĩ ấy, cẩn thận đặt lại vào tay anh.

"Cảm ơn cậu nhiều lắm. May nhờ có cậu giúp. Mất nó rồi thì tôi không thể tiếp tục sáng tác được nữa." Anh mỉm cười nhận lấy thứ trong tay tôi, rồi cúi đầu tỏ vẻ biết ơn.

"Sáng tác? Anh là nhạc sĩ à?"

"Không. Nhưng bản nhạc này sắp hoàn thành rồi. Chỉ cần khoảng ba, bốn ngày nữa thôi." Anh cất cây vĩ cầm vào lại trong bao. "Hôm nay thế là đủ rồi. Tôi về đây."

"Khoan đã, ít nhất cũng phải cho tôi biết tên anh chứ!"

"Cái đó cậu không nên biết thì sẽ đỡ phiền phức hơn đấy. Đổi lại, cậu không cần phải cho tôi biết tên cậu cũng được. Thôi tạm biệt. Hẹn mai gặp lại nhé."

Chàng trai cầm lấy cây gậy chống rồi loạng choạng quay trở lại vào khu rừng già. Bóng dáng anh cứ thế xa dần, rồi khuất hẳn sau gốc cây cổ thụ.

"Hẹn mai gặp lại ư?"

...

Tối đó, nằm nghỉ ngơi trên chiếc giường trong phòng trọ để nạp lại năng lượng sau một ngày dài đằng đẵng, tôi cứ không ngừng suy nghĩ về cái người chơi đàn bí ẩn kia. Từ những gì nhận thấy được, tôi đã có thể tạm thời đưa ra kết luận về tình trạng của chàng trai ấy.

Anh ta đúng thật là đã mắc phải một căn bệnh mà đến giờ y học vẫn bó tay, và hiện đã đang ở giai đoạn cuối rồi. Nói sơ qua thì, căn bệnh này sẽ dần hủy hoại tất cả các loại tế bào cần thiết cho sự sống của cơ thể trong vòng mười năm, và không cách nào có thể tái tạo được nữa. Tế bào thần kinh thị giác là mục tiêu đầu tiên. Trong một năm đầu tiên, do virus gây bệnh làm đục thủy tinh thể, thị lực của bệnh nhân sẽ giảm dần, giảm dần, và sau một khoảng thời gian nhất định, họ sẽ hoàn toàn mất đi thị giác của mình. Suốt chín năm còn lại, virus sẽ từ mắt lan đi khắp cơ thể, tăng lên theo cấp số nhân, rồi dần dần xâm nhập vào các cơ quan và phá hủy các tế bào khác. Bệnh tình sẽ ngày càng diễn biến theo chiều hướng xấu hơn, kèm theo các biểu hiện như mệt mỏi vì thiếu máu, đau đầu, thổ huyết, chảy máu ở mắt,... với tần suất diễn ra ngày một dày đặc.

Chắc giờ anh ta cũng đang đếm từng ngày chờ tử thần đến đón rồi.

Có thể vì biết rõ bệnh tình của mình, nên ngày nào anh ấy cũng lặn lội ra tận chỗ vách đá chơi đàn để tận hưởng những tháng ngày cuối cùng của cuộc đời chăng?

...

Ngày hôm sau, đúng vào giờ đó, tôi lại tìm đến đỉnh núi Colubo và gặp lại chàng trai trẻ ấy đúng như dự đoán.

Ngồi xuống bên cạnh anh - nơi từng là thảm cỏ xanh ngắt nay đã bị bao phủ bởi những bông tuyết trắng xóa, hướng đôi mắt về phía ngoài khơi, tôi hỏi.

"Này, ngày nào anh cũng một mình chơi đàn ở đây, mà tự nhiên bây giờ lại ở đâu ra một kẻ lạ mặt ngồi bên cạnh, chẳng khác nào xâm lược vào 'vương quốc một mình' của anh. Thế mà anh vẫn cứ tiếp tục chơi như thể không có ai vậy. Chẳng lẽ anh không sợ phiền hay sao?"

Chàng trai mỉm cười.

"Tôi không nhìn được gì, thì cũng cứ coi như không có ai thôi."

Kéo đàn được một hồi lâu, đột nhiên anh ta dừng lại, rồi đưa tay lên cằm tỏ vẻ suy tư, miệng lẩm bẩm.

"Không được, giai điệu thế này, lời ca thế này... vẫn chưa ổn... Đúng, đúng vậy, phải như thế mới được..."

Tất nhiên hành động đó cũng đã đủ khiến hàng tá câu hỏi hiện ra trong đầu tôi. Thế nhưng đúng vào lúc tôi mở miệng ra định hỏi, thì anh ta lại đứng phắt dậy.

"Thôi, hôm nay như vậy là đủ rồi. Hẹn mai gặp lại nhé."

Lặp lại y chang câu nói hôm trước, anh ta lại cầm lấy cây gậy chống rồi loạng choạng quay trở lại vào khu rừng già.

...

Sang đến ngày thứ ba, và rồi ngày thứ tư, tôi vẫn chẳng có lấy một thông tin gì về chàng trai kì lạ này, ngoài việc anh đang mắc phải căn bệnh nan y kia và không còn sống được bao lâu nữa. Còn những điều mà tôi muốn hỏi anh thì cứ chồng chất lên ngày một nhiều. Ngày nào cũng vậy, chúng tôi cứ ngồi cạnh nhau ở đó suốt nhiều giờ đồng hồ, anh kéo đàn, tôi lắng nghe, nghe một bản nhạc lặp đi lặp lại đến thuộc lòng cả giai điệu, hầu như chẳng nói với nhau một lời nào. Dường như chúng tôi đã tạo với nhau một cái luật bất thành văn rằng đừng hỏi bất cứ điều gì về quá khứ của người kia cả.

Vốn dĩ tôi cũng là một kẻ bàng quan, chẳng có sở thích tọc mạch vào chuyện của người khác. Thế nhưng ở chàng trai này lại có một sức hút rất kì lạ, khác xa tất cả những người mà tôi đã từng gặp và đã chia tay trong suốt một năm lênh đênh trên biển. Chính cái sức hút ấy đã kích thích sự tò mò của tôi, thôi thúc tôi phải tìm hiểu ra cho bằng được, rằng bản nhạc ấy rốt cuộc là thứ gì, tại sao nó lại bi thương đến như vậy, điều gì đã xảy đến với anh trong quá khứ, tại sao anh luôn lảng tránh những câu hỏi của tôi. Và cuối cùng...

Chuyện phiền phức gì sẽ xảy ra nếu như tôi biết tên của anh chứ?

Nói quá lên như vậy thôi, chứ thực ra cũng chỉ là cảm xúc nhất thời, biết cũng được mà không biết cũng chẳng sao. Với lại để có được chừng ấy thông tin có lẽ cũng chẳng khó khăn gì cho lắm. Nếu như thực sự có chuyện cả hòn đảo này đều biết anh ta, thì tôi chỉ việc đi hỏi người trong làng là được. Nhưng bởi vì anh ta đã không muốn tiết lộ, nên tôi nghĩ dù có muốn biết đến thế nào thì mình cũng nên tôn trọng người ta một chút.

...

Muốn hay không muốn, thì ngày cuối cùng cũng đã đến. Chỉ còn vài tiếng nữa thôi. Khi hoàng hôn buông xuống, tôi sẽ nói lời chia tay với quốc đảo này.

Lắng nghe giai điệu não nề vang lên theo từng nốt nhạc dưới sợi dây vĩ thanh mảnh, tôi giật mình khi anh bắt đầu cất tiếng hát. Suốt bốn ngày qua, tôi vẫn cứ tưởng rằng đây chỉ là một bản nhạc không lời. Lần đầu tiên tôi được nghe thấy anh hát. Một giọng hát rất đặc trưng, không hề giống với bất kì giọng hát nào mà tôi đã từng nghe qua. Giọng hát khàn khàn, trầm ấm, thực sự rất hợp với giai điệu bi ai của bài hát. Giọng hát tràn đầy cảm xúc, như sưởi ấm cho tâm hồn, cho trái tim người nghe trong những ngày đông giá lạnh. Giọng hát ấm áp khiến cho cả băng tuyết cũng muốn chảy tan...

"Tôi yêu cậu rất nhiều, đến tận cuối cùng, và hôm nay vẫn thế. Dẫu vậy, người đặt dấu chấm kết thúc chẳng phải là tôi sao?"

Có thêm lời, bản nhạc ấy nghe lại càng thêm đau nhói. Tôi không hiểu hết những thông điệp mà anh muốn truyền tải. Nhưng đứng trước những bông tuyết trắng đang rơi xuống từ bầu trời cao vời vợi kia, tôi có thể cảm nhận được một điều, rằng bài hát này không phải là câu chuyện của hiện tại. Nó là sự hoài niệm của một con người đang đứng tách hẳn ra khỏi khung tranh đẹp đẽ của quá khứ, cố gắng chạm tay vào kỉ niệm xưa cũ của một thời nào đó đã xa lắm rồi...

Một giai điệu thực sự hoàn hảo, lời ca cũng đạt đến độ hoàn mỹ của ngôn từ. Chỉ nghe thôi cũng đủ hiểu chàng trai này đã phải kì công đến thế nào để có thể tạo nên cả một tuyệt tác như vậy. Không phải chỉ ngày một, ngày hai, mà có khi phải mất đến một năm, hai năm, năm năm,... thậm chí là cả một thập kỉ.

"Ước mơ ngày bé của tôi là được đi du ngoạn thế gian và viết một cuốn sách kể về chính những gì mà mình trông thấy. Thế nhưng đúng vào lúc mà cuộc hành trình kết thúc, căn bệnh nan y này đã cướp đi đôi mắt của tôi, nên ý định viết sách cũng theo đó mà tiêu tan. Thay vào đó, tôi tranh thủ những năm cuối đời để học chơi vĩ cầm và viết nên một bài hát cho những ngày đã qua. Chính là bài hát này đây. Nó là để dành cho người mà tôi yêu. Thật may vì tôi đã hoàn thành nó trước khi năm mới bắt đầu. Ngày đầu tiên của năm tiếp theo chính là cơ hội cuối cùng. Nếu như bỏ lỡ, thì tôi sẽ chẳng bao giờ có thể đón sinh nhật cậu ấy thêm một lần nào nữa, cũng chẳng thể gửi bài hát này đến cho cậu ấy được nữa."

Hát xong, anh bất chợt kể cho tôi nghe như để trả lời cho tất cả những câu hỏi đã tích tụ trong đầu tôi suốt năm ngày qua. Từng nốt nhạc vẫn tiếp tục vang lên đầy đau thương, cứ như thể đang đệm cho câu chuyện mà anh sắp kể. Tiếng đàn bi ai hòa lẫn với giọng kể đầy cuốn hút của anh, khiến cho tôi nhanh chóng bị cuốn vào mạch truyện.

"Chúng tôi đã quen nhau từ khi còn rất nhỏ. Cả tôi, cả cậu ấy, đều là những kẻ cô độc, dư thừa số phận, bị thế giới này ruồng bỏ. Và rồi, giữa chốn trần gian đầy bụi bặm này, chúng tôi đã tìm thấy nhau. Chúng tôi đã quyết tâm tiết kiệm thật nhiều tiền để làm một con tàu, hứa với nhau rằng một ngày nào đó sẽ cùng ra khơi, cùng nhau đi đến tận cùng của biển cả rộng lớn ngoài kia, và để cho cả thế giới này phải biết đến tên tuổi của mình..."

Khi anh nói đến đây, giai điệu của tiếng đàn bỗng nhiên chậm hẳn lại.

"Thế nhưng đến cuối cùng, chúng tôi đã lạc mất nhau suốt mười năm trời. Ở một thời điểm nào đó trong quãng thời gian dài đằng đẵng ấy, mục tiêu của cậu ấy đã hoàn thành. Cậu ấy đã trở thành một con người có tầm ảnh hưởng lớn của thời đại, một cái tên khiến cả thế giới phải khiếp sợ khi nghe đến. Còn mục tiêu của tôi... thì đã thay đổi mà chẳng hề hay biết..."

Tôi hướng đôi mắt nhìn về phía biển cả xa xôi mà im lặng lắng nghe. Anh bất chợt dừng chơi đàn, đưa bàn tay trái lên luồn vào mái tóc vàng hoe, chạm vào vết sẹo lớn nơi mắt trái.

"Cho đến tận bây giờ, cứ mỗi lần nghĩ về những ngày xưa ấy, là vết sẹo này lại đau nhói. Lần cuối cùng tôi gặp cậu ấy là một ngày của hai mươi năm về trước. Trước hôm ấy một ngày, tôi đã định rằng ngày mai sẽ nói cho cậu ấy biết tất cả những cảm xúc mà tôi vẫn luôn dành cho cậu ấy từ tận đáy lòng, rằng tôi thích cậu ấy, còn trên cả mức tình bạn, rằng tôi yêu cậu ấy, bằng tình yêu đôi lứa, rằng tôi muốn một ngày nào đó sẽ được kết hôn cùng cậu ấy, và rồi sau khi chuyến du ngoạn thế gian kết thúc, chúng tôi sẽ cùng nhau sống thật hạnh phúc cho đến hết cuộc đời này. Thế nhưng thật đau đớn làm sao. Cái ngày mai ấy đã chẳng bao giờ đến. Để rồi suốt mười năm qua, tôi vẫn luôn dằn vặt, luôn ân hận sau khi chứng kiến những gì đã xảy ra trên thế giới ngày hôm ấy. Ân hận bởi lúc ấy tôi đã bỏ mặc cậu, đã chẳng thể làm được gì ngoài khóc thương cho cậu..."

Tôi không hiểu lắm lời anh nói, bởi thú thực thì câu chuyện ấy nghe cũng khá là mơ hồ. Nhưng dù sao thì điều mà tôi vẫn thắc mắc suốt những ngày qua về cơ bản đã được giải đáp.

Bỗng anh quỳ sụp xuống, đưa hai bàn tay lên mà ôm chặt lấy lồng ngực. Miệng anh nở một nụ cười thật hạnh phúc, nhưng nước mắt thì lã chã tuôn rơi. Như thể cảm xúc tích tụ lâu ngày, nay mới được dịp trào ra vậy. Anh cứ khóc mãi, khóc mãi, dường như không cách nào có thể ngừng lại được. Anh vừa khóc vừa nói giữa những tiếng nấc nghẹn ngào.

"Cuối cùng... Cuối cùng thì bài hát này cũng đã hoàn thành rồi. Thời gian của tôi không còn nhiều... Suốt mười năm qua đã phải sửa đi sửa lại, thậm chí có khi phải thay đổi hoàn toàn cả lời ca và giai điệu. Chỉ sợ đến lúc sang đến bên kia rồi vẫn không thể sáng tác được một bài hát ra hồn... Thế nhưng giờ đây nó đã hoàn thành rồi... Tất cả cảm xúc của tôi... tất cả những gì tôi muốn nói, muốn kể cho cậu ấy... suốt hai mươi năm qua... đều nằm ở trong đó hết. Giờ tôi... tôi chỉ cần đợi đến ngày hôm ấy thôi... là có thể gửi nó đến cho cậu ấy rồi..."

Lời nói của anh đột ngột bị cắt đứt bởi một tràng ho dữ dội. Bệnh tình đã nặng đến mức này, nên bị như vậy cũng chẳng có gì lạ, hơn nữa tôi cũng đã nhìn thấy anh thổ huyết không dưới năm lần suốt mấy ngày qua rồi. Thế nhưng lần này có vẻ nghiêm trọng hơn những lần trước. Những giọt máu chảy xuống từ cả mắt và miệng anh, hòa lẫn với hai hàng nước mắt lăn dài trên gò má, rồi loang đầy ra đất, nhuộm đỏ cả những bông tuyết trắng xóa phủ kín dưới chân.

"N... Này! Anh không sao chứ?" Tôi hoảng hốt đỡ lấy chàng trai đang dần mất thăng bằng mà sắp sửa ngã xuống đống tuyết dày đặc.

"Tôi ổn." Anh lại mỉm cười - một nụ cười gượng gạo - như thể đang cố gắng để trấn an người khác.

...

Ngày hôm ấy, anh đã không nói với tôi lời "tạm biệt" cũng như "hẹn mai gặp lại".

Hỏi ra mới biết, những người đồng đội đã sát cánh cùng anh trong suốt những năm tháng ngao du trên biển, đến nay đều đã không còn sống. Có lẽ trong số đó có cả người con trai nọ. Con người đó, cho dù có đang ở nơi nào đi chăng nữa, cũng mong rằng sẽ có thể nghe được tiếng đàn bi ai ấy...

...

Dựa theo những gì đã quan sát được, tôi có thể đoán được gần như chính xác tuổi thọ của chàng trai đó. Sau đúng một tuần nữa, sẽ là ngày tận số của anh ta.

Trong suốt nhiều năm theo ngành y, đã bao lần tôi gặp phải những trường hợp vô phương cữu chữa, khi mà mọi cố gắng đều trở nên vô nghĩa và phải đành lòng buông bỏ. Thế nhưng, chỉ riêng đối với chàng trai cùng cây vĩ cầm ấy là không thể. Cái chết của anh không hề giống như những cái chết đã từng lướt qua trong cuộc đời tôi. Tôi thậm chí không thể đối diện với sự thật rằng anh sắp rời khỏi thế gian này, cũng chẳng thể rơi nổi một giọt nước mắt nào. Từ rất lâu rồi, trong tôi đã chẳng còn lại gì ngoài sự trống rỗng đến vô hạn. Mà đã vô hạn thì, dẫu có rộng ra thêm chút nữa cũng chẳng thực sự rõ ràng. Nói trắng ra thì tôi đã cố, nhưng đến cuối cùng vẫn chẳng thể nào chấp nhận, chẳng thể cảm nhận được gì cả...

Nếu một ngày nào đó, con thuyền nhỏ này đưa tôi trở lại nơi đây, liệu tôi có còn được gặp chàng trai với mái tóc xoăn vàng cùng vết sẹo lớn bên mắt trái, ngày ngày chơi đàn trên đỉnh núi, gửi những giai điệu vĩ cầm nhẹ nhàng đến bi thương cho người con trai mà anh yêu, ở tận cùng của nơi phương trời xa xôi ngoài kia hay không?

Tôi tự hỏi.

Thế nhưng điều đó đã không còn quan trọng đối với tôi. Nếu như chuyện đó thực sự có thể xảy ra, chỉ thế thôi cũng đủ làm nên một phép màu.

Đứng trên thuyền, tôi đưa mắt nhìn hòn đảo lần cuối trước khi tiếp tục cuộc hành trình. Hôm ấy, tuyết rơi dày hơn mọi ngày. Quốc đảo Goa cứ thế xa dần, xa dần, rồi khuất hẳn sau sắc trắng xóa đầy hoài niệm của làn tuyết bất tận tự lúc nào không hay.

Và khi ấy, tôi đã tiếp tục tiến bước, không còn do dự.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenFun.Vip