Sát Phá Lang (1)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng
Sát Phá Lang

Tên gốc: 杀破狼

Tác giả: Priest

Dịch: QT đại hiệp

Biên tập: Yển

Nguồn: thuyluunien.wordpress.com

Độ dài: 128 chương chính văn + 6 phiên ngoại

~

Văn án lừa tình (về sau tg viết theo hướng khác nhưng bạn thích nên vẫn để nguyên không xóa)

"Chắc người đầu tiên đào 'tử lưu kim' lên từ dưới lòng đất, sẽ vĩnh viễn không ngờ đến, hắn đào ra lại là một 'bát' thế đạo ăn thịt người."

"Cuộc đời trẫm, chẳng qua là một trò lừa đảo tham lam ghê tởm, việc này trong lòng mọi người đều biết rõ, chỉ là không thể nói toạc ra mà thôi."

"Trò lừa này bắt đầu từ đâu? Là từ trên cánh buồm sáng rực của đại thuyền phiên bang đầu tiên vượt trùng dương, từ dưới đôi cánh dang rộng của cự diên(1) đầu tiên bay lên giữa gió lốc, hay là sớm hơn nữa – khi hàng dải đồng cỏ trên đại địa Bắc man bị tử lưu kim như nét mực đốt thành một biển lửa..."

"... Hoặc là lúc trẫm... ta lần đầu gặp Cố Quân giữa băng tuyết ngập trời."

Ôn nhu hiền huệ bệnh kiều(2) niên hạ công vs củi mục mù điếc thụ (tin ta đi =w=)

Phi chủ lưu steampunk(3) =w=

Chuyện quan trọng nói ba lần:

Lên sàn trước chính là công!

Lên sàn trước chính là công!

Lên sàn trước chính là công!

... Nhưng xét trên tổng thể thì đây không phải là chủ công văn. =w=

Thể loại: niên hạ, dưỡng thành, giả tưởng, không gian, cơ giáp, thiên chi kiêu tử, HE, ngược chó độc thân.

Nhân vật chính: Cố Quân, Trường Canh.

...

Chú thích:

1. Cự diên là một loại thuyền sẽ xuất hiện và được giải thích rõ hơn trong chương 2.

2. Bệnh kiều tức yandere.

3. Steampunk là một nhánh của khoa học viễn tưởng, chủ yếu tập trung vào các máy móc động cơ hơi nước, ra đời vào khoảng thế kỷ 19, thời kỳ cách mạng công nghiệp, rất phổ biến trong những năm 80 – 90 của thế kỷ 20.

https://thuyluunien.wordpress.com/hoan-thanh/sat-pha-lang/

Chương 1: Biên thùy

Trong thành Nhạn Hồi ở trấn nhỏ vùng biên thùy có một "dốc núi Tướng Quân", tên nghe rõ là uy phong, nhưng kỳ thực chỉ là một đống đất be bé, nghển cổ lên là có thể nhìn qua đỉnh.

Dốc núi Tướng Quân vốn không phải là từ xưa đã có, mà nghe đâu là mười bốn năm trước, khi Huyền Thiết tam đại doanh đệ nhất thiết kỵ của Đại Lương Bắc phạt, dẹp yên mười tám bộ lạc man tộc, khải hoàn quay về theo đường Nhạn Hồi thành, đã xếp xó phế giáp ở đây, tạo thành một ngọn núi nhỏ, sau đó cát bụi phong sương, gió táp mưa sa, nó liền trở thành dốc núi Tướng Quân.

Dốc núi Tướng Quân là một dốc núi hoang, chẳng trồng trọt được gì, ngay cả cỏ dại cũng vắng bóng, yêu đương vụng trộm cũng không có cái che, trụi lủi tọa lạc nơi đây, chẳng biết có thể dùng làm gì. Các cụ già đều bảo đây là do Huyền Thiết doanh sát nghiệt quá nặng, lệ khí bức người mà ra. Lâu ngày, đám lưu manh vô công rồi nghề liền lấy đây làm nguyên mẫu, thêu dệt ra hàng loạt truyền thuyết ma quỷ ở biên thùy, rồi dần dà cũng chẳng còn ai dám tới đó nữa.

Xế chiều hôm nay, lại có hai đứa nhãi mười mấy tuổi chạy tới dưới dốc núi Tướng Quân.

Hai đứa này một cao gầy, một mập lùn, ghép lại y hệt như một đôi bát đũa biết đi vậy.

Đứa cao gầy ăn mặc theo kiểu bé gái, nhìn kỹ mới biết là bé trai, nhũ danh Tào Nương Tử. Do thầy tướng số nói nó vốn là mệnh nữ bị đầu thai nhầm, chỉ sợ ông trời còn muốn kêu về đầu thai lại, gia đình lo nó sống không lâu, nên vẫn nuôi như con gái.

Đứa mập lùn là tiểu nhi tử nhà Cát đồ tể, nhũ danh Cát Bàn Tiểu, người cũng như tên, được bao bọc bởi một lớp mỡ phú quý. (Bàn là béo)

Hai đứa cùng thò đầu dòm dốc núi Tướng Quân, có điều là sợ truyền thuyết ma quỷ lộng hành nên chẳng đứa nào dám đến gần.

Cát Bàn Tiểu tay cầm cái ống đồng "thiên lý nhãn", thò đầu cố gắng nhìn về hướng dốc núi Tướng Quân, miệng lẩm bẩm: "Ngươi nói mặt trời cũng lặn rồi mà còn chưa chịu xuống núi, đại ca ta thật là... Đó gọi là gì nhỉ – à, là thượng điếu tích cốc!"

Tào Nương Tử: "Đó gọi là huyền lương thích cổ(1), đừng nói nhảm nữa, mau đưa thiên lý nhãn cho ta!"

Nha đầu dỏm này thường xuyên kịch giả làm thật, tiếc rằng phương hướng có chút vấn đề, khuê tú đâu chưa thấy, ngược lại y hệt mụ đàn bà chanh chua, đặc biệt khoái dùng đôi móng gà cào người ta.

Nó vừa thò tay thì lớp mỡ của Cát Bàn Tiểu liền nhức nhối, vội chắp tay dâng thiên lý nhãn, dặn đi dặn lại: "Ngươi nhớ cẩn thận, nếu làm hỏng, nhất định cha ta sẽ tẩn ta thành nhân bánh đó."

"Thiên lý nhãn" là cái ống tròn làm bằng đồng, xung quanh khắc "ngũ bức"(2), bên trong có một mảnh lưu ly trong suốt, chụp lên mắt thì thỏ cách mười dặm hơn cũng có thể nhận ra đực cái.

Cái của Cát Bàn Tiểu khá tinh xảo, do tổ phụ từng làm lính trinh sát để lại.

Tào Nương Tử cầm món đồ mới mẻ trong tay cả buổi, giơ lên dòm sao trời: "Rõ thật!"

Cát Bàn Tiểu nhìn theo tầm mắt nó, chỉ dạy: "Ta biết, đó gọi là sao Hôm, còn có tên khác là 'sao Trường Canh', giống tên đại ca ta, Thẩm tiên sinh từng dạy, ta vẫn còn nhớ đây."

Tào Nương Tử bĩu môi: "Ai là 'đại ca ngươi'? Ngươi xem người ta có thèm để ý tới ngươi không? Dày mặt đuổi theo người ta đòi nhận đại ca, thật đê tiện... Ôi, từ từ, ngươi xem kia có phải là y không?"

Cát Bàn Tiểu nhìn theo hướng ngón tay nó, thấy đúng thế thật.

Chỉ thấy một thiếu niên cầm kiếm cúi đầu chậm rãi từ trên dốc núi Tướng Quân đi xuống, Cát Bàn Tiểu lập tức giống như không sợ chuyện ma quỷ gì nữa, lao tới như một tia chớp(3): "Đại ca, đại ca!"

Nó chạy quá nhanh, đến chân dốc núi Tướng Quân thì bị vấp thứ gì đó, lăn lông lốc xuống dưới chân thiếu niên kia.

Cát Bàn Tiểu mặt đầy bụi đất ngẩng đầu lên, chưa thèm bò dậy, trước tiên nịnh nọt cười ngây ngô, nhăn nhó nói: "Hì hì, đại ca, đệ chờ huynh ở đây cả ngày rồi."

Thiếu niên tên Trường Canh im lặng lùi về suýt nữa giẫm trúng chân Cát Bàn Tiểu.

Mỗi lần nhìn thấy Cát Bàn Tiểu là trong lòng y đều cảm thấy thật thần kỳ, cho rằng vị Cát đồ tể giết ngàn con heo kia trời sinh có Hỏa nhãn kim tinh, từng ấy năm mà vẫn chưa coi nhi tử như heo để làm thịt. Nhưng Trường Canh tính tình ổn trọng, miệng rất tích đức, bất kể trong lòng nghĩ gì, đều không mở miệng tổn thương người ta.

Trường Canh rất có phong thái đại ca đỡ Cát Bàn Tiểu dậy, lại phủi bụi đất giúp nó: "Chạy cái gì, coi chừng ngã đần ra giờ! Tìm ta có việc gì à?"

Cát Bàn Tiểu: "Trường Canh đại ca, ngày mai cha huynh và mọi người sẽ về rồi, chúng ta không đi học nữa, huynh đi cướp nhạn thực với bọn đệ đi! Nhất định có thể đánh bọn Lý tiểu hầu tử tè ra quần!"

Cha Trường Canh là Từ bách hộ(4) – không phải cha ruột.

Hồi mới hai ba tuổi, Trường Canh theo quả phụ Tú Nương đến nơi này nhờ vả thân thích, ai ngờ thân thích dọn nhà đi mất từ lâu, không tìm được. Vừa vặn gặp Từ bách hộ quan binh của Nhạn Hồi vợ cả mất sớm, không có con cái, ông ta thích Tú Nương, liền cưới về làm vợ kế.

Từ bách hộ dẫn người xuất quan, thu cống phẩm hàng năm của người man, chỉ một hai hôm nữa là sẽ về thành.

Biên thành bần khổ, trẻ nhỏ cũng không có quà vặt gì, các tướng sĩ mỗi lần nạp cống trở về đều thuận tay ném ít pho mát và thịt khô của người man ra ven đường, dẫn đến đám trẻ con tranh nhau cướp đoạt, đây gọi là "cướp nhạn thực".

Đã là "cướp", đám nhóc con khẳng định không tránh khỏi đánh nhau, nhưng chỉ cần chưa què cụt thì người lớn sẽ không quản, thế là chúng kéo bè kết đảng như đánh nhau thật.

Chuyện như vậy, nếu ai có thể kéo Trường Canh đến nhập bọn, thì tương đương với đứng trên thế bất bại.

Trường Canh từ nhỏ đã chăm chỉ tập võ – biên thùy nhiều quân hộ, hài đồng tập võ vốn không ít, chẳng qua luyện công phu phải chịu khổ, nên phần lớn tiểu hài đều luyện tùy tiện lơ là không đến nơi đến chốn, chỉ có Trường Canh kể từ khi bắt đầu học kiếm, ngày nào cũng một mình lên dốc núi Tướng Quân luyện tập, nhiều năm qua khổ luyện không ngừng, nghị lực kinh người.

Hiện giờ tính cả tuổi mụ còn chưa đầy mười bốn, mà Trường Canh đã có thể dùng một tay cầm trọng kiếm hơn sáu mươi cân, tuy rằng trong lòng có chừng mực, chưa từng tham dự các cuộc ẩu đả của bọn nhãi ranh, nhưng mấy đứa này vẫn đều hơi sợ y.

Trường Canh nghe xong chẳng để tâm, cười nói: "Ta bao nhiêu tuổi rồi mà còn giành giật nhạn thực gì đó?"

Cát Bàn Tiểu chưa chịu buông tha: "Đệ đã nói với Thẩm tiên sinh rồi, Thẩm tiên sinh cũng đã gật đầu, mấy ngày này cho chúng ta nghỉ."

Trường Canh chắp tay sau lưng thong thả bước đi, trọng kiếm thi thoảng đập vào cẳng chân, không để ý tới mấy lời con nít của Cát Bàn Tiểu.

Y đọc sách hay không, luyện kiếm hay không đều quyết định bởi chính y, chẳng liên quan đến việc tiên sinh cho nghỉ hay chăng.

Cát Bàn Tiểu: "Hơn nữa, Thẩm tiên sinh nói mình phải đổi thuốc cho Thập Lục thúc, mấy ngày tới có thể cũng phải đi xa chọn mua thảo dược, không có ở nhà. Huynh đâu có chỗ đi, chi bằng đi theo bọn ta, chứ cả ngày luyện kiếm có gì vui đâu?"

Câu này rốt cuộc lọt vào lòng Trường Canh, y lập tức khựng lại, hỏi: "Thập Lục không phải mới từ Trường Dương quan trở về à, sao lại bị bệnh rồi?"

Cát Bàn Tiểu: "A... hình như vậy, y đó giờ đâu khỏe mạnh gì."

"Thế ta đi thăm y," Trường Canh phất tay đuổi hai cái đuôi nhỏ, "Mau về nhà đi, sắp tối rồi, trễ giờ cơm coi chừng cha ngươi lại đánh cho."

Cát Bàn Tiểu: "Ôi, đại ca, việc kia..."

Trường Canh chẳng có hứng thú nghe nó lải nhải "việc này" "việc kia" không thôi. Nam hài tử tuổi này, hơn một tuổi cũng là hơn, đầu óc và suy nghĩ khác nhau rất nhiều, nên Trường Canh đã không thể chơi với bọn Cát Bàn Tiểu nữa.

Y cậy mình vóc cao chân dài, chớp mắt đã đi xa.

Tiểu Bàn Tử uổng công một chuyến, không mời được người, thất vọng thở dài, quay đầu lại trừng mắt nhìn Tào Nương Tử: "Ngươi không chịu nói gì hết!"

Tào Nương Tử khuôn mặt đỏ bừng, ánh mắt mơ màng, bộ dáng vênh mặt hất hàm sai khiến Cát Bàn Tiểu ban nãy đã sớm mất sạch, ôm ngực như thiếu nữ hoài xuân: "Trường Canh đại ca của ta đi lại nhìn cũng đẹp hơn người khác."

Cát Bàn Tiểu: "..."

Không bao giờ có thể dẫn tên mất mặt này ra ngoài nữa.

"Thẩm tiên sinh" và "Thập Lục thúc" mà Cát Bàn Tiểu nói là một đôi huynh đệ, rất có uyên nguyên với Trường Canh.

Hai năm trước, Trường Canh còn nhỏ, một mình trốn ra ngoài thành chơi, không cẩn thận lạc đường gặp đàn sói, suýt nữa bị tha đi, may gặp huynh đệ Thẩm thị du lịch đến đây.

Thẩm tiên sinh dùng thuốc bột đuổi bầy sói đói, cứu cái mạng nhỏ của y. Sau đó hai huynh đệ ở lại Nhạn Hồi tiểu trấn, Từ bách hộ cho họ thuê khu viện để trống của nhà mình, cảm động trước ân cứu mạng nên không lấy tiền.

Huynh trưởng tên Thẩm Dịch, là một thư sinh thi mãi chẳng đỗ, tuy chưa già nhưng tâm sĩ đồ đã tuyệt, an phận thủ thường làm ẩn sĩ ở cái vùng khỉ ho cò gáy này, láng giềng đều khách khí gọi y là "Thẩm tiên sinh".

Trừ làm ẩn sĩ, Thẩm tiên sinh còn kiêm nhiệm các chức như đại phu, viết hộ thư từ câu đối, tây tịch tiên sinh(5) cùng "Trường Tý sư". Y hết sức đa tài đa nghệ, biết trị thương cho người, còn biết đỡ đẻ cho ngựa, ban ngày ở nhà mở tư thục, dạy đám thiếu niên học hành, buổi tối đuổi các học trò đi, là có thể xắn tay áo sửa chữa máy móc động cơ hơi nước, cương giáp và đủ các loại khôi lỗi(6), thêm vào chi phí sinh hoạt, lánh đời mà bận thấy sợ. Thẩm tiên sinh cái gì cũng biết, vừa biết kiếm tiền vừa giỏi lo cho gia đình, nhóm lửa nấu cơm cũng rất có nghề, giỏi giang cực kỳ, bởi vậy huynh đệ kia không có việc làm, đành phải chuyên môn phụ trách phá của – huynh đệ của Thẩm tiên sinh tên là "Thẩm Thập Lục", nghe nói là từ nhỏ thân thể không khỏe, gia đình chỉ sợ nuôi không nổi, bởi thế không đặt tên cho, do đẻ ngày mười sáu tháng Giêng nên bèn lấy "Thập Lục" làm tên luôn.

Thẩm Thập Lục từ sáng đến tối không học hành cũng chẳng làm việc, lọ dầu đổ không biết dựng lên, ngay cả nước cũng chưa bao giờ thấy gánh, không phải đi lang thang thì là uống rượu, không học vấn không nghề nghiệp, cơ hồ chẳng có một chút ưu điểm nào.

Trừ ngoại hình đẹp.

Ngoại hình thật sự rất đẹp, lão thọ tinh trong trấn chính miệng giám định, nói ông ta sống sắp chín mươi tuổi rồi mà chưa từng thấy nam nhân nào chỉn chu như vậy.

Đáng tiếc dù đẹp hơn cũng vô dụng – Thẩm Thập Lục hồi nhỏ từng một lần bị bệnh nặng, sốt hỏng cả người ra, mắt chắc cũng chỉ có thể thấy rõ trong vòng hai thước, cách mười bước thì ngay cả nam nữ cũng không phân biệt nổi. Y lại còn nặng tai, nói với y một câu cũng phải đứng sát mà gào lên, ngày ngày đi qua cửa nhà Thẩm gia, cách một bức tường cũng có thể nghe thấy Thẩm tiên sinh nho nhã lễ độ kia gào thét như chó điên.

Nói tóm lại, Thẩm Thập Lục là một con ma ốm vừa điếc vừa mù.

Với điều kiện của y, vốn nên là một tiểu bạch kiểm được trời ưu ái, tiếc thay ở trấn nhỏ biên thùy này không phải quỷ nghèo thì là thần nghèo, cho dù thiên tiên tới cũng chẳng ai bao nuôi nổi.

Theo phong tục địa phương, lúc đại ân đại đức không gì báo đáp được, sẽ kết nghĩa nhận người thân, có con cháu thì con cháu nhận, không có con cháu thì tự mình nhận.

Huynh đệ Thẩm thị cứu Trường Canh khỏi miệng sói, là ân nhân cứu mạng, Trường Canh như một lẽ đương nhiên nhận một trong hai người làm nghĩa phụ.

Thẩm tiên sinh học hành đến hỏng cả đầu óc, một mực nói không hợp lý cũng không hợp pháp, không dám nhận, ngược lại là huynh đệ y Thập Lục gia thống khoái, đương trường đổi giọng gọi "nhi tử" luôn.

Cứ thế, tên Thẩm Thập Lục vô công rồi nghề chiếm được món lợi to, nếu mai kia con ma ốm chơi bời lêu lổng này nghèo khổ, Trường Canh sẽ phải dưỡng già và lo tang ma cho.

Trường Canh quen đường băng qua viện của mình, từ cửa hông ra ngoài rẽ một chỗ là đến nhà Thẩm tiên sinh.

Thẩm gia tổng cộng hai tên đàn ông độc thân, ngay cả con gà mái cũng không có, đương nhiên chẳng cần kiêng dè ai. Y trước nay đến đi tùy tiện, cửa cũng không cần gõ.

Vừa vào viện, mùi thuốc và tiếng huyên thều thào liền đập thẳng vào mặt.

Thẩm tiên sinh đang ở trong viện cau mày sắc thuốc. Y là một thanh niên bộ dáng thư sinh, mặc trường sam cũ, chưa già, nhưng luôn cau mày, có một thân thanh hàn nồng nặc mùi khói lửa.

Tiếng huyên từ trong nhà vẳng ra, cái bóng cao ráo của người thổi huyên bị ngọn đèn u ám chiếu lên khung cửa bằng giấy, hiển nhiên người này tài nghệ chẳng ra sao, cũng không nghe ra là điệu gì, thường xuyên có một hai âm thổi không kêu, tiếng huyên tậm tịt, đượm nỗi thê lương và mệt mỏi kỳ dị.

Nói đây là tiếng nhạc thì có thể hơi gượng ép, Trường Canh lắng tai thưởng thức một chút, cảm thấy nếu nhất định phải khen, thì chỉ có thể khen là y khóc tang rất du dương.

Thẩm Dịch nghe thấy tiếng bước chân liền cười với Trường Canh, sau đó quát người trong buồng: "Tổ tông, hạ miệng lưu tình đi, nghe mắc đái quá, Trường Canh đến rồi!"

Vị thổi huyên kia nhắm mắt bịt tai, mà với thính lực của y, có khả năng là thật sự không nghe thấy đâu.

Thẩm tiên sinh mặt mày xanh xám.

Trường Canh cảm thấy người thổi huyên vẫn rất khỏe mạnh, không như bị bệnh, liền hơi yên tâm, hỏi: "Ta nghe Cát Bàn Tiểu nói tiên sinh đổi thuốc cho Thập Lục, y sao vậy?"

Thẩm tiên sinh nhìn màu thuốc, tức giận nói: "Không sao, đổi mùa thôi, bốn mùa dùng các loại thuốc khác nhau, con ma ốm này yểu điệu khó chiều lắm – A đúng rồi, ngươi tới vừa khéo, hôm nay không biết y kiếm đâu ra một món đồ chơi, còn tính sáng mai đưa qua cho ngươi đấy, mau vào xem thử đi."

Huyền lương là treo lên xà nhà. Thời Đông Hán, có một chàng trai trẻ tên Tôn Kính, chăm chỉ hiếu học, luôn đóng cửa học hành từ sớm đến khuya rất ít nghỉ ngơi, có khi đến nửa đêm rất dễ ngủ gật. Để không ảnh hưởng việc học tập, Tôn Kính đã nghĩ ra một cách, chàng tìm một sợi dây thừng, một đầu cột vào tóc mình, đầu kia cột lên xà nhà, như vậy lúc đọc sách mệt ngủ gật chỉ cần cúi đầu là dây thừng sẽ kéo tóc làm đau da đầu, chàng sẽ do đau đớn mà tỉnh táo học tiếp, sau đó chàng rốt cuộc trở thành chính trị gia tiếng tăm lừng lẫy.

Thích cổ là đâm vào đùi. Tô Tần thời Chiến quốc là một chính trị gia nổi danh, nhưng lúc trẻ học vấn không cao, đến rất nhiều nơi cũng chẳng ai để ý, cho dù có hùng tâm tráng chí cũng không được trọng dụng, vì thế ông ta hạ quyết tâm phấn đấu học hành. Do thường xuyên đọc sách đến đêm khuya, lúc mệt mỏi buồn ngủ sẽ dùng cái dùi chuẩn bị sẵn đâm vào đùi, như vậy cảm giác đau đột nhiên xảy đến sẽ khiến ông ta tỉnh táo, tiếp tục học bài.

Cả câu này dùng để hình dung khắc khổ học tập. Tuy nhiên Cát Bàn Tiểu lại nói là thượng điếu (treo cổ) và tích cốc (tức không ăn ngũ cốc, một cách dưỡng sinh của người xưa).

Ngũ bức là họa tiết hình 5 con dơi.

Nguyên gốc tác giả dùng cổn địa lôi, tức một tia chớp hình tròn.

Bách hộ là một chức trong quân đội, trên là thiên hộ và vạn hộ.

Tây tịch chỉ gia sư, còn Trường Tý sư sẽ được giải thích rõ hơn trong chương 3.

Khôi lỗi là con rối, tuy nhiên trong truyện này dịch là rối thì cũng không đúng lắm. Thôi thì đành để nguyên vậy, các bạn đọc từ từ sẽ hình dung ra thôi.

Edit: Yển

Trường Canh thuận tay bưng bát thuốc đã sắc xong vào phòng tiểu nghĩa phụ.

Trong phòng Thẩm Thập Lục chỉ thắp một ngọn đèn nhỏ tù mù, quầng sáng bằng hạt đậu, hệt như đom đóm vậy.

Y đang ngồi dựa cửa sổ, hơn nửa khuôn mặt chìm dưới ánh đèn, chỉ hơi lộ ra một tẹo, đại khái là sắp ngủ rồi. Thẩm Thập Lục không đội mũ, tóc tai bù xù, dưới khóe mắt và vành tai đều có một nốt ruồi chu sa nhỏ, như dùng kim châm ra, tí tẹo ánh đèn trong nhà đều bị y thu cả vào hai nốt ruồi ấy, cơ hồ lóa mắt người.

Ngắm người dưới đèn, có thể tăng thêm ba phần nhan sắc.

Ai cũng thích cái đẹp, thế nên dù đã nhìn quen rồi, Trường Canh vẫn không nhịn được ngừng thở. Y nhanh chóng chớp mắt một cái, như muốn làm nốt chu sa chói mắt ấy văng ra khỏi tầm nhìn, hắng giọng, âm thanh cao lên: "Thập Lục, uống thuốc đi."

Thiếu niên đang vỡ giọng, nói chuyện với kẻ điếc dở này hơi tốn sức, cũng may lần này Thẩm Thập Lục nghe thấy, tiếng huyên khiến người ta vãi đái kia dừng ngay lại.

Thẩm Thập Lục híp mắt mới thấy rõ Trường Canh đứng ở cửa: "Không biết lớn nhỏ kêu ai thế?"

Kỳ thực y cũng chỉ hơn Trường Canh bảy tám tuổi, vẫn chưa lập gia đình, và đại khái cũng hơi biết về bản tính bùn loãng không thể trát tường của mình, đã chuẩn bị tâm lý sẵn sàng lẻ loi một mình không cưới nổi vợ, nay chẳng dễ dàng gì đụng trúng thằng con hời khỏi cần nuôi, chỉ hận không thể bám dính lấy, thành thử khi không luôn thích lôi thân phận "cha" ra cường điệu một phen.

Trường Canh không thèm để ý, cẩn thận bưng bát thuốc đến trước mặt y: "Nhân nóng mà uống đi, uống xong thì mau nằm xuống nghỉ ngơi, không còn sớm nữa đâu."

Thẩm Thập Lục bỏ huyên xuống, nhận bát thuốc: "Đồ vô ơn, làm con ta không tốt sao? Uổng công ta tốt với ngươi như vậy."

Y uống thuốc rất ngoan, hiển nhiên đã quen rồi, uống một hơi cạn sạch, lại nhận nước tráng miệng Trường Canh đưa hớp hai ngụm, đoạn xua tay không cần nữa: "Hôm nay bên Trường Dương quan có họp chợ, ta bèn mang về một món thú vị cho con, lại đây."

Nói xong, Thẩm Thập Lục khom lưng, lục lọi lung tung trên bàn đọc sách. Y không nhìn rõ, chóp mũi thiếu điều cọ lên bàn, Trường Canh bất đắc dĩ đành phải nói: "Tìm cái gì vậy? Để ta tìm cho."

Tiếp đó lại không nhịn được cằn nhằn: "Ta lớn rồi, người không dưng cứ lôi về một đống đồ chơi con nít cho ta làm gì?"

Rảnh thế chi bằng bớt gây chuyện, để ta có thời gian học thêm một chút hữu dụng – khúc sau chạy một vòng trong lòng, khi sắp đến miệng lại cảm thấy hơi tổn thương người ta, Trường Canh bèn thôi không nói ra.

Thẩm Thập Lục là một kẻ chơi bời lêu lổng, tự mình lãng phí thời gian thì thôi, lại còn luôn lôi Trường Canh đi chung, không phải rủ đi chợ thì là kéo đi cưỡi ngựa, có một lần không biết còn nhặt từ đâu về một con "chó con" cho y nuôi – lần ấy Thẩm tiên sinh sợ tái cả mặt, hóa ra tên mù này chẳng phân biệt được chó với sói, ôm về hẳn một con sói non.

Từ bách hộ quanh năm vắng nhà, lại là người chất phác, tuy rất tốt với Trường Canh, nhưng không thường chuyện trò, tính ra thì trong hai năm mười hai mười ba tuổi quan trọng nhất này, hình như Trường Canh toàn đi theo nghĩa phụ ất ơ Thẩm Thập Lục thôi.

Từ một đứa trẻ ranh thành một chàng thiếu niên ngọc thụ lâm phong, phải có bao nhiêu định lực mới có thể cam đoan mình không bị Thẩm Thập Lục dạy hư?

Trường Canh quả thực không dám nhớ lại.

Trời sinh tính y không ham chơi, mọi việc đều có kế hoạch riêng, chấp hành cũng hết sức nghiêm khắc, không thích người khác quấy rầy, thế nhưng thường xuyên bị Thẩm Thập Lục làm phiền đến phát cáu vô cùng.

Nhưng thường chẳng cáu được lâu, bởi vì Thẩm Thập Lục thật sự thương y như con ruột chứ không hề chỉ chiếm lợi ngoài miệng thôi.

Năm ấy Trường Canh bị bệnh nặng, Từ bách hộ vắng nhà như thường lệ, đại phu đều nói hung hiểm, cũng là tiểu nghĩa phụ bế y về nhà, ngày đêm không nghỉ mà trông nom y suốt ba ngày liền.

Mỗi lần đi ra ngoài, vô luận gần xa, vô luận đi làm gì, Thập Lục nhất định sẽ mang về cho Trường Canh một ít quà vặt hoặc đồ chơi, Trường Canh không ham mấy món này, nhưng không thể không cảm động khi y luôn nhớ đến mình.

Tóm lại, mỗi ngày gặp Thập Lục, can hỏa của Trường Canh sẽ mạnh vô cùng, nhưng không thấy y thì lại luôn bận lòng. Nhiều lúc Trường Canh cũng nghĩ, tuy Thẩm Thập Lục vai không thể gánh, tay không thể vác, văn chẳng thành, võ chẳng tựu, nhưng về sau chưa chừng sẽ có ai mắc lừa coi trọng ngoại hình y thì sao?

Tiểu nghĩa phụ tương lai cũng sẽ cưới vợ sinh con, như vậy có con ruột rồi, y còn nhớ đến đứa con nuôi này không?

Nghĩ tới việc này, trong lòng Trường Canh liền khó chịu không tả nổi. Y tìm được một cái hộp vuông trên bàn Thập Lục, tạm thời dẹp hết những suy nghĩ lung tung trong đầu, thiếu hứng thú mà đưa cho Thẩm Thập Lục: "Cái này à?"

Thẩm Thập Lục: "Cho con đấy, mở ra xem đi."

Không chừng là cái ná, hoặc một gói pho mát, nói chung là chẳng phải thứ nghiêm túc – Trường Canh mở ra mà không hề chờ mong, thuận miệng càu nhàu: "Dư dả cũng phải tiết kiệm một chút, hơn nữa ta..."

Ngay sau đó, thấy rõ thứ trong hộp, y lập tức ngậm miệng, mắt phút chốc trợn tròn.

Trong hộp lại là thiết oản khấu!

"Thiết oản khấu" kỳ thực là một bộ phận của khinh giáp trong quân, chỉ quấn một vòng trên cổ tay, cực kỳ thuận tiện, bởi vậy cũng thường xuyên bị tháo ra dùng riêng. Thiết oản khấu rộng tầm bốn tấc, bên trong có thể giấu đến bốn thanh tiểu đao, đao chế bằng công nghệ đặc thù, mỏng như cánh ve, còn gọi là "tụ trung ty".

Nghe nói trong nháy mắt tụ trung ty tốt nhất bị cái chốt trong thiết oản khấu bắn ra, có thể chia đôi sợi tóc cách xa mấy trượng.

Trường Canh kinh hỉ hỏi: "Cái này... người kiếm đâu ra vậy?"

Thẩm Thập Lục: "Suỵt – đừng để Thẩm Dịch nghe thấy, cái này không phải đồ chơi đâu, y nhìn thấy lại cằn nhằn – con biết dùng không?"

Thẩm tiên sinh đang tưới hoa trong viện, y nào có lãng tai, người trong nhà nói gì y đều nghe rõ mồn một, đúng thật là hết cách với cái tên điếc chuyên lấy mình đo người này.

Trường Canh từng đi theo Thẩm Dịch học cách tháo cương giáp, thuần thục đeo thiết oản khấu, bấy giờ mới phát hiện chỗ đặc thù của vật này.

Tụ trung ty chế tác không dễ, dân gian rất ít có, quá nửa thiết oản khấu ngoài chợ đều là hàng cũ trong quân tuồn ra, kích cỡ đương nhiên cũng là của nam tử trưởng thành, nhưng cái Thẩm Thập Lục mang về rõ ràng nhỏ hơn một cỡ, vừa vặn thích hợp cho người thiếu niên.

Trường Canh ngây người, Thẩm Thập Lục liền biết y muốn hỏi gì, rì rì nói: "Ta nghe người bán nói đây là hàng lỗi, không có khiếm khuyết nào khác, chỉ là kích cỡ hơi nhỏ, mãi chẳng có ai hỏi mua, bấy giờ mới bán rẻ cho ta. Ta cũng chẳng dùng làm gì, thôi thì con cầm lấy mà chơi, có điều phải cẩn thận, đừng làm người khác bị thương."

Trường Canh hiếm khi vui mừng ra mặt: "Đa tạ..."

Thẩm Thập Lục: "Tạ ai?"

Trường Canh thống khoái kêu: "Nghĩa phụ!"

"Có sữa chính là mẹ, đồ khốn nạn!" Thẩm Thập Lục cười, bá vai Trường Canh tiễn ra ngoài: "Mau về nhà đi, tháng cô hồn không được lang thang ở bên ngoài giữa đêm hôm khuya khoắt."

Trường Canh nghe thế mới nhớ, thì ra hôm nay là rằm tháng Bảy.

Y theo đường cửa hông quay về nhà mình, trong chớp mắt sải bước vào cửa, đột nhiên cảm thấy đoạn huyên Thẩm Thập Lục thổi hơi quen tai, tuy điệu lạc đi tít mù tắp, nhưng ngẫm lại cẩn thận thì thấy mang máng có điệu "Tống Tây" khi dân gian than khóc đưa tang.

"Có hợp không?" Trường Canh nghĩ thầm.

Thẩm Thập Lục tiễn Trường Canh về, cúi đầu tìm một lúc lâu, mới miễn cưỡng nhìn thấy hình dáng cánh cửa, liền cẩn thận cất bước tới đóng.

Thẩm tiên sinh đang chờ trong viện mặt không biểu cảm đưa tay đỡ khuỷu tay y, dẫn y vào nhà.

Thẩm tiên sinh: "Thiết oản khấu rèn từ huyền thiết tốt nhất, ba thanh tụ trung ty bên trong là do Thu Thiên Lâm đại sư tự tay rèn, từ sau khi đại sư chết thì thành tuyệt bản... Hàng lỗi hả?"

Thập Lục không tiếp lời.

Thẩm tiên sinh: "Được rồi, đừng giả câm vờ điếc với ta – Ngươi muốn coi nó như con thật sao?"

"Đương nhiên là thật, đứa trẻ này nhân nghĩa, ta thích," Thập Lục rốt cuộc lên tiếng, "Vị kia đại khái cũng có ý này – Nếu tương lai có thể cho thằng bé làm con thừa tự của ta, những người đó sẽ yên tâm, nó cũng sống tốt hơn nhiều, chẳng phải lưỡng toàn sao?"

Thẩm tiên sinh trầm mặc một hồi rồi thấp giọng nói: "Đầu tiên ngươi phải để nó đừng hận ngươi đã – Ngươi không lo lắng chút nào sao?"

Thẩm Thập Lục cười cười, vén vạt trường bào đẩy cửa vào nhà.

Y vẻ mặt vô liêm sỉ, nói: "Những kẻ hận ta nhiều lắm rồi."

Đêm nay, đèn trôi trên sông, hồn về quê cũ.

Chưa đến canh năm, Trường Canh đã thức dậy trong cảnh toàn thân khô nóng, sống lưng rịn một tầng mồ hôi mỏng, khố cũng ướt sũng.

Mỗi một thiếu niên khi sắp sửa trưởng thành, đều phải trải qua một lần kinh hoảng thất thố như vậy – cho dù trước đó có người dẫn dắt.

Nhưng Trường Canh không kinh hoảng cũng chẳng thất thố chút nào, y phản ứng dửng dưng, chỉ ngồi yên giây lát trên giường, rồi đứng dậy dọn dẹp qua loa, trên mặt có vẻ chán ghét không dễ phát hiện. Y ra ngoài gánh một thùng nước lạnh, lau chùi một lần từ đầu đến chân thân thể mới trưởng thành, lấy quần áo gấp gọn đặt bên gối đem thay, uống một hơi cạn sạch trà từ đêm trước, như thường lệ bắt đầu buổi học ngày hôm nay.

Trường Canh không biết người khác là thế nào.

Về phần y, kỳ thực không hề gặp mộng xuân gì, y chỉ mơ thấy một trận tuyết to có thể làm người ta chết cóng ở quan ngoại.

Gió hôm ấy như thổi đám lông trắng tung lên, vô tình thốc qua người, máu trong vết thương chưa kịp chảy ra đã đóng băng, tiếng gầm gừ của đàn sói dần lại gần, nhưng khứu giác không nhạy chẳng ngửi thấy mùi tanh, vừa hít thở liền sặc hơi lạnh thấu xương mang theo vị ngòn ngọt mằn mặn, Trường Canh tứ chi cứng ngắc, phế phủ như thiêu, còn cho là mình sẽ bị nuốt cả thi cốt trong đại tuyết.

Nhưng không hề.

Lúc tỉnh lại, Trường Canh phát hiện mình được một người dùng áo ngoài bọc trong lòng mà bế đi.

Y nhớ người ấy vạt áo trắng như tuyết, ngực thoang thoảng mùi thuốc đăng đắng xa xăm, thấy y tỉnh lại cũng chẳng hỏi gì cả, chỉ lấy một bầu rượu ra cho y uống một ngụm.

Trường Canh không biết đó là rượu gì, sau này y cũng chẳng còn được nếm lại, chỉ nhớ Thiêu Đao Tử ở quan ngoại cũng không mạnh như vậy, nó như một ngọn lửa, xuôi yết hầu chảy xuống, chỉ một ngụm đã đốt cháy huyết dịch toàn thân y.

Người ấy chính là Thập Lục.

Giấc mộng quá rõ nét, đôi tay Thập Lục bế y trong mộng phảng phất còn dán trên người. Đến bây giờ Trường Canh vẫn không sao hiểu nổi, người ấy chẳng phải là ma ốm ư? Giữa băng thiên tuyết địa đáng sợ như vậy, sao lại có đôi tay vững vàng hữu lực đến thế?

Trường Canh cúi đầu nhìn thoáng qua thiết oản khấu trên cổ tay, không biết thứ này làm bằng vật liệu gì, dán trên người một đêm vậy mà chẳng ấm lên chút nào. Nhờ cảm giác lành lạnh của kim loại, Trường Canh lẳng lặng chờ trái tim và dòng máu xao động của mình bình tĩnh lại, y mỉm cười, ném phăng ý nghĩ vớ vẩn "mộng xuân gặp nghĩa phụ" này, sau đó đốt đèn đọc sách như thường lệ.

Bỗng nhiên, phương xa truyền đến tiếng "ù ù", mặt đất và nhà cửa đều chấn động theo, Trường Canh thoáng sửng sốt, lúc này mới nhớ ra, tính thời gian, thì hẳn là "cự diên" Bắc tuần sắp về rồi.

"Cự diên" là một con thuyền lớn dài hơn năm nghìn thước, lưng thuyền có hai cánh, do ngàn vạn "hỏa sí" tạo thành, lúc cự diên cất cánh, tất cả "hỏa sí" cùng phun ra hơi nước, tựa non tựa triều, tựa sông tựa mộng, bên trong mỗi một "hỏa sí" đều đốt tử lưu kim to bằng cái bát, giữa khói sóng mênh mang lóe ra ánh sáng nhạt màu đỏ tía, thoạt nhìn như vạn gia đăng hỏa vậy.

Kể từ mười bốn năm trước Bắc man cúi đầu tiến cống, vào ngày mười lăm tháng Giêng hàng năm, đều có hơn mười chiếc cự diên từ các đại trọng trấn biên thùy xuất phát Bắc tuần, đều tự đi một tuyến đường đã định, uy nhiếp ngàn dặm, có thể thấy rõ mỗi một chút dị động của người man.

Trừ uy nhiếp và tuần tra, cự diên còn phải phụ trách áp tải cống phẩm hàng năm của các bộ lạc Bắc man về triều, chủ yếu là "tử lưu kim".

Một chiếc cự diên chở đầy tử lưu kim gần trăm vạn cân, ngay cả tiếng bước chân trở về cũng nặng nề hơn lúc đi vài phần, cách hai ba mươi dặm cũng có thể nghe thấy hỏa sí phun khói ù ù.

Cự diên Bắc tuần tháng Giêng xuất phát, đi nửa năm liền, lưu Hỏa(1) mới trở về.

Thất nguyệt lưu hỏa xuất xứ từ bài Thất Nguyệt của Khổng Tử, đại ý là tháng 7 sao Đại Hỏa hạ thấp xuống. Ý ở đây là cự diên Bắc tuần từ tháng 1 đến tận tháng 7 mới về.

Tổ tiên Từ gia để lại ít đất đai, Từ bách hộ lại là quân hộ, sống ở địa phương cũng rất không tệ, trong nhà có chút tài sản, liền nuôi một bà đầy tớ già làm mấy việc linh tinh như nấu cơm quét tước.

Đợi đến khi sắc trời hơi hửng sáng, lão trù nương Từ gia mới chậm chạp làm xong điểm tâm, đến gõ cửa thư phòng Trường Canh: "Thiếu gia, phu nhân hỏi cậu có đến phòng bà ăn hay không."

Trường Canh đang tập trung tinh thần luyện viết chữ theo mẫu, nghe vậy động tác cầm bút dừng lại, trả lời theo thói quen: "Không, mẹ thích thanh tĩnh, ta không đi quấy rầy đâu, phiền bà nói với mẹ ta một tiếng, cứ bảo nhi tử vấn an."

Lão trù nương không bất ngờ với câu trả lời của y, vì đối đáp mỗi ngày giữa mẫu tử này giống như chỉ làm lấy lệ, chẳng có gì mới mẻ cả.

Kể cũng lạ kì, theo lý thì Từ bách hộ chẳng qua là cha kế, Trường Canh và Tú Nương mới là mẫu tử ruột, nhưng chỉ có mấy ngày Từ bách hộ ở nhà, đôi mẫu tử ruột này mới ngồi ăn cơm cùng bàn, sớm chiều thăm hỏi, giả bộ từ hiếu, hòa thuận vui vẻ, chỉ cần nam chủ nhân vừa đi là họ sẽ lạ hơn cả người lạ, chẳng ai thèm để ý tới ai, ở trong cùng một viện, vậy mà Trường Canh ngay cả cửa chính cũng không đi, mỗi ngày đều qua cửa hông chạy sang cách vách, hai mẹ con mươi bữa nửa tháng cũng chưa chắc đã gặp mặt một lần.

Ngay cả đợt bệnh nặng mất nửa cái mạng của Trường Canh năm trước, Tú Nương cũng chỉ thờ ơ đến ngó qua, chẳng hề để ý tới việc đứa con duy nhất này sống hay chết.

Cuối cùng vẫn là Thập Lục gia bế đi chăm sóc.

Lão trù nương luôn hoài nghi Trường Canh không phải con ruột của Tú Nương, nhưng nhìn ngoại hình thì hai mẹ con lại rất giống nhau, hẳn nhiên có quan hệ huyết thống.

Huống chi, nếu không phải con ruột, một nữ nhân nhu nhược như Tú Nương, lưu lạc tha hương, thân mình còn khó bảo vệ, vì sao phải dẫn theo đứa trẻ đó?

Căn bản không nói thông nổi.

Một lát sau, lão trù nương xách hộp đựng cơm tới, nói với Trường Canh: "Chắc hôm nay lão gia sẽ về thành, phu nhân dặn thiếu gia nhớ về sớm."

Trường Canh hiểu ý bà ta là gì, Từ bách hộ trở về, họ lại phải giả vờ mẫu từ tử hiếu, liền gật đầu đáp một tiếng: "Biết rồi."

Ánh mắt y dừng trên hộp cơm, bỗng nhiên, Trường Canh nhìn thấy trên quai dính một sợi tóc dài, tay vốn đưa ra lập tức rụt về.

Tóc lão trù nương đã bạc trắng, sợi tóc đen nhánh mềm mượt này đương nhiên không phải của bà lão, Từ bách hộ vẫn chưa trở về, trong nhà cả chủ lẫn bộc, tổng cộng ba người, không phải trù nương thì đương nhiên là của Tú Nương rồi.

Trường Canh bị bệnh sạch sẽ một cách kỳ quái – con chê mẹ ruột.

Ở cách vách, bảo y ăn cơm thừa trong bát nghĩa phụ đã dùng cũng được, nhưng vừa về nhà, chỉ cần là thứ Tú Nương từng chạm thì một miếng y cũng không đụng vào.

Lão trù nương biết tính nết kỳ lạ này, vội dè dặt lấy sợi tóc kia đi, cười xòa nói: "Đây là phu nhân không cẩn thận làm rơi lên thôi, món bánh này ra khỏi nồi chưa có ai động vào cả, cậu cứ yên tâm."

Trường Canh hết sức lễ phép nở nụ cười với bà lão: "Không sao, hôm nay ta vừa vặn có vài vấn đề muốn thỉnh giáo Thẩm tiên sinh, để lát nữa ta đến chỗ nghĩa phụ ăn luôn."

Nói xong, y rốt cuộc không nhận hộp cơm, kẹp sách vở trên bàn vào nách, cầm trọng kiếm treo ở cửa sau mà đi ra ngoài.

Trong viện, Thẩm tiên sinh đang xắn tay áo bận rộn bôi dầu cho mấy cương giáp đã tháo ra.

Cương giáp là do quan binh thủ thành đưa tới. Thực ra quan binh Nhạn Hồi cũng có "Trường Tý sư" chuyên môn tu sửa cương giáp quân dụng, chỉ là trong quân có quá nhiều mũ giáp nên luôn làm không xuể, họ liền chia bớt việc cho Trường Tý sư dân gian.

"Trường Tý sư" là những người sửa chữa cương giáp, hỏa cơ, cả ngày tiếp xúc với mấy thứ bằng sắt, xem như là một người thợ tay nghề. Thế nhưng trong mắt lão bách tính thì Trường Tý sư chẳng khác lắm với đánh chó sửa chân cắt tóc, đều thuộc về "hạ cửu lưu"(1), dù cho làm nghề này không lo cơm áo, song cũng chẳng vẻ vang lắm.

Thẩm tiên sinh là người đọc sách, chẳng biết vì sao lại có sở thích kỳ lạ này, không chỉ rảnh rỗi tự mình loay hoay, còn thường xuyên dùng tay nghề kiếm chút đỉnh tiền, rất ảnh hưởng tới sự văn nhã.

Mà Thẩm Thập Lục bất cẩn chui vào trong giấc mơ của thiếu niên kia đang vô công rồi nghề duỗi đôi chân dài ngồi trên bậc cửa, toàn thân dặt dẹo dựa khung cửa như không xương, bên cạnh để một bát thuốc không – y uống xong cũng chẳng biết đi rửa.

Thập Lục lại vươn vai, lừ đừ vẫy tay gọi Trường Canh, phân phó: "Nhi tử, đi lấy bầu rượu cho ta."

Thẩm tiên sinh tay toàn dầu máy, mồ hôi nhễ nhại bảo Trường Canh: "Mặc xác y đi, đã ăn chưa?"

Trường Canh: "Vẫn chưa ạ."

Thẩm tiên sinh liền quay đầu sang Thập Lục gào lên: "Sáng dậy đã nằm đó chờ ăn! Không thể làm chút việc hả? Đi vo ít gạo, nấu vài bát cháo đi!"

Thẩm Thập Lục nghiêng đầu, điếc vừa đủ, chậm rì rì nói: "Hả? Cái gì?"

"Để ta," Trường Canh riết cũng thành quen, "Vo gạo gì?"

Lần này Thập Lục gia nghe thấy, hàng mày dài nhướng lên, nói với Thẩm tiên sinh: "Bớt sai trẻ con đi, sao không tự mình đi nấu hả?"

Thẩm tiên sinh nhã nhặn này ngày ngày bị tên đệ đệ bại gia khốn nạn kia chọc giận khiến Tam muội chân hỏa bốc lên đầy mặt: "Không phải đã nói là thay phiên sao? Nam tử hán đại trượng phu, ngươi không nghe thấy thì thôi, nói chuyện còn chẳng bao giờ giữ lời là thế nào!"

Thẩm Thập Lục giở lại chiêu cũ, lại "không nghe thấy", hỏi: "Y đang sủa cái gì vậy?"

Giả bộ giống hết sức.

Trường Canh: "..."

Kỳ thực làm kẻ điếc cũng rất tiện.

"Tiên sinh nói..." Trường Canh vừa cúi đầu, liền đụng trúng ánh mắt trêu đùa của Thập Lục, chỉ tích tắc cảnh trong giấc mơ đêm hôm trước lại lướt qua trước mắt, y thình lình phát hiện thì ra mình không phải là không chút động lòng.

Họng Trường Canh đột nhiên hơi khô, y vội cố gắng định thần lại, mặt không biểu cảm nói: "Lão nhân gia người nên ngồi yên đi, đừng có sáng sớm đã phí tâm chơi xấu."

Thẩm Thập Lục hôm nay còn chưa kịp uống rượu, chút lương tâm ít ỏi cuối cùng không bị ngâm thành hèm rượu, y cười tít mắt kéo tay Trường Canh, mượn lực đứng dậy, thân mật vỗ đầu thiếu niên, rồi khập khiễng đi vào bếp.

Y vậy mà thật sự chuẩn bị làm việc – Thập Lục gia trăm năm khó được một lần có thể làm chút việc, hiếm thấy vô cùng, có thể so với đá nở hoa luôn ấy chứ.

Trường Canh vội đi theo, chỉ thấy nghĩa phụ khệnh khạng bốc đại mấy nắm gạo, ném hết vào nồi, sau đó ào ào đổ nước, khiến bọt nước văng tung tóe, kế đó y tự hạ thấp địa vị thò hai ngón tay khuấy một cái, lấy ra vẩy vẩy cho khô, tuyên bố: "Vo xong một nửa rồi, Thẩm Dịch, tới thay phiên đi!"

Thẩm tiên sinh: "..."

Thẩm Thập Lục tiện tay xách bầu rượu trên bàn bếp, ngửa đầu dốc một ngụm, như mây bay nước chảy, chuẩn xác không lầm.

... Đôi khi Trường Canh hoài nghi, y ngay cả "mù" cũng chỉ là làm bộ thôi.

Chắc Thẩm tiên sinh phục rồi, không thèm đấu tranh vô nghĩa nữa, hùng hùng hổ hổ dùng bồ kết rửa sạch tay, chạy vào bếp hấp bánh và bắt đầu thu dọn đống lộn xộn Thập Lục vứt lại.

Trường Canh cho Thẩm tiên sinh xem từng tờ giấy mà mình viết lúc sáng sớm, Thẩm Dịch xem xong bình luận xong, Trường Canh liền bỏ giấy vào bếp, giúp đỡ nhóm lửa.

"Chữ viết rất tiến bộ, gần đây bỏ không ít công sức nhỉ," Thẩm tiên sinh nói: "Ta thấy ngươi phỏng theo là Trường đình thiếp của An Định hầu Cố Quân?"

Trường Canh: "Vâng."

Thập Lục đang ngồi chơi xơi nước bên cạnh nghe vậy bất ngờ quay đầu sang, trên mặt thoáng qua dị sắc.

Thẩm tiên sinh không ngẩng đầu: "An Định hầu mười lăm lĩnh binh, một trận chiến thành danh, mười bảy làm thống soái, phụng mệnh Tây chinh, trên đường đi qua ngoài thành Tây Lương, gặp di tích cổ nhân, tiền triều cảnh vật như xưa, mà giang sơn đã trăm năm, cảm xúc dâng lên cầm bút viết 'Trường đình phú', vốn là viết xong thì thôi, không ngờ bị bọn nịnh hót bên cạnh trộm lưu lại, khắc lên bia đá – kể ra thì nét chữ của Cố Quân là do Mạch Sâm tiên sinh hồng nho đương thời một tay dạy dỗ, quả có chỗ đáng học hỏi, chỉ là lúc viết Trường đình thiếp, y còn trẻ, lại là thiếu niên đắc chí, không khỏi có chút không biết trời cao đất dày, chưa đủ hỏa hầu. Ngươi đã luyện chữ, có nhiều cổ thiếp như vậy không chép, vì sao phải chép của người thời nay?"

Trường Canh cuộn tờ giấy đã viết đầy chữ, không hề tiếc rẻ nhét vào bếp: "Ta từng nghe kể, Huyền Ưng, Huyền Giáp, Huyền Kỵ tam đại Huyền Thiết doanh, ở trong tay lão Hầu gia dẹp yên mười tám bộ lạc Bắc man, sau truyền đến dưới trướng tiểu Hầu gia, lại khiến hãn phỉ Tây Vực cúi đầu – Không phải là ta thích nét chữ của y, ta chỉ muốn biết, nét chữ do bàn tay nắm tam đại Huyền Thiết doanh lưu lại là như thế nào."

Cái muôi trên tay Thẩm tiên sinh vô thức khuấy trong nồi, ánh mắt lại tựa hồ đã bay xa, một lúc lâu mới chậm rãi nói: "An Định hầu họ Cố tên Quân, tự Tử Hi, là độc tử của trưởng công chúa của tiên đế và lão Hầu gia, thuở nhỏ cha mẹ mất sớm, được kim thượng thương hại, nuôi trong cung, còn đặc biệt ban cho tập tước, vốn trời sinh là người nhàn rỗi phú quý, lại phải đến Tây Vực ăn cát, anh hùng hay không thì ta không biết, nhưng chỉ sợ đầu óc không được tốt lắm."

Thẩm tiên sinh mặc trường sam cũ giặt đến bạc màu, trên chéo áo còn dính dầu mỡ từ cương giáp, cổ đeo cái tạp dề mốc meo – nhà không có phụ nữ, hai huynh đệ này sống với nhau, chẳng kẻ nào ra gì, tạp dề kia không biết có phải là chưa từng giặt hay không mà sớm chẳng còn nhìn thấy màu nền, khoác trên người trông thật chẳng ra làm sao.

Chỉ có khuôn mặt ấy đường nét rõ ràng.

Thẩm Dịch mũi cao thẳng, lúc không nói cười, khuôn mặt nghiêng gần như uy nghiêm lãnh đạm, mí mắt y run nhẹ, bỗng nhiên thốt ra: "Từ sau khi lão Hầu gia đi, Huyền Thiết doanh công cao chấn chủ, khiến bên trên nghi kị, lại thêm trong triều nịnh thần hoành hành..."

Thập Lục vẫn không lên tiếng chợt mở miệng cắt ngang: "Thẩm Dịch."

Hai người ở cạnh bếp cùng nhìn y, Thập Lục đang đăm đăm dòm một tấm mạng nhện nho nhỏ trên khung cửa.

Thập Lục uống rượu không lên mặt, càng uống sắc mặt càng trắng, một chút cảm xúc đều thu vào trong mắt, chẳng nhìn thấy rõ.

Y thấp giọng: "Đừng nói bậy bạ."

Huynh đệ Thẩm thị bình thường cực kỳ không biết lớn nhỏ, kẻ làm huynh đệ bất kính huynh trưởng, huynh trưởng cũng chiều huynh đệ như gì, ngày ngày cãi nhau om sòm từ sớm đến khuya, thế nhưng tình cảm rất tốt.

Trường Canh chưa bao giờ nghe thấy Thập Lục nói chuyện bằng giọng điệu cứng nhắc này.

Y trời sinh mẫn cảm, không rõ nội tình, liền cau mày thật sâu.

Thẩm Dịch cắn chặt răng một thoáng, ý thức được Trường Canh đang quan sát mình, bèn miễn cưỡng thu lại cảm xúc, cười nói: "Coi như ta lỡ lời – nhưng phỉ báng triều đình chẳng phải là thức nhắm lúc trà dư tửu hậu sao? Ta chẳng qua tùy tiện nói một chút."

Trường Canh nhận thấy bầu không khí xấu hổ, liền thông minh chuyển hướng đề tài, hỏi: "Thế trong mười năm từ Bắc phạt đến Tây chinh, Huyền Thiết doanh về ai quản?"

"Không ai quản cả," Thẩm Dịch nói, "Sau khi Bắc phạt, Huyền Thiết doanh một độ trầm tịch, kẻ thì đi, kẻ thì chết, trong quân còn lác đác vài lão nhân, phần lớn cũng nản chí ngã lòng. Sau mười mấy năm, tinh binh ngày trước đã sớm đổi một thế hệ khác, trang bị nhiều năm chưa từng thay mới cũng đều hỏng hóc hết cả, cho đến vài năm trước Tây Vực phản loạn, triều đình không còn biện pháp, mới để An Định hầu nhận nhiệm vụ lúc lâm nguy, bắt đầu lại Huyền Thiết doanh – Nói là Cố soái tiếp quản Huyền Thiết doanh, chi bằng nói là y ở Tây Vực một lần nữa mài giũa ra một đội quân tinh nhuệ. Nếu có cơ hội, ngươi trái lại có thể học nét chữ của y hiện tại."

Trường Canh sửng sốt: "Chẳng lẽ Thẩm tiên sinh từng nhìn thấy nét chữ về sau An Định hầu viết?"

Thẩm Dịch cười nói: "Tuy rằng hiếm thấy, nhưng phố phường thỉnh thoảng cũng lọt ra một hai tờ, đều tự xưng là hàng thật, có điều là thật hay giả thì ta cũng không biết."

Y vừa nói vừa thổi khói trắng, bưng đồ ăn lên bàn, Trường Canh biết điều tới giúp đỡ, khi bưng cháo đi lướt qua Thẩm Thập Lục, lại bị con ma ốm kia bắt lấy bả vai.

Trường Canh lớn nhanh hơn thiếu niên bình thường, thân hình cao to hơn hẳn bạn cùng lứa, dù cho xương và thịt chưa đủ, chiều cao lại sắp đuổi kịp tiểu nghĩa phụ rồi, thế nên vừa hơi ngẩng đầu đã nhìn vào mắt Thập Lục.

Thập Lục kỳ thực có đôi mắt hoa đào rất điển hình, nhưng chỉ khi ánh mắt y rời rạc nhìn khắp nơi mới nhận ra, bởi vì khi tầm mắt y ngưng tụ, trong đôi đồng tử ấy phảng phất có một đôi vực sâu mây mù che phủ, đen kịt không thấy rõ.

Trong lòng Trường Canh lại giật mình, y hạ giọng, cố ý dùng cách xưng hô bình thường mình không hay dùng: "Nghĩa phụ, sao vậy?"

Thập Lục hờ hững nói: "Trẻ con chơi giỡn, không nên suốt ngày muốn làm anh hùng, anh hùng có kết cục nào tốt đẹp không? Con chỉ cần cả đời ăn no mặc ấm, không sầu lo gì, thì chính là cuộc sống tốt nhất rồi, cho dù túng thiếu nhàn tản một chút cũng không hề gì."

Thẩm Thập Lục giả câm vờ điếc thì nhiều, hiếm khi mới nói vài câu tiếng người, nhưng vừa mở miệng đã hắt nước lạnh vào Trường Canh.

Một kẻ tàn phế dở mù dở điếc như y, đương nhiên không có chí lớn, nhuệ khí cũng không nốt. Nhưng những lời nhụt chí kiểu được ngày nào hay ngày nấy như vậy, người thiếu niên làm sao nghe lọt nổi?

Trong lòng Trường Canh phần nào không thoải mái, bởi vì cảm giác như bị coi thường vậy, y tức giận nghĩ thầm: "Đều chơi không như ngươi thì tương lai ai nuôi gia đình qua ngày? Ai chăm lo cho ngươi cơm ăn áo mặc? Đúng là đứng nói chuyện không đau lưng mà!"

Y tránh tay Thập Lục, nói lấy lệ: "Đừng lộn xộn, coi chừng cháo nóng làm bỏng bây giờ."

Trung Quốc xưa chia thân phận làm cửu lưu – chín loại, chia rõ hơn thì có thượng và hạ cửu lưu, tu cước tức sửa chân là dùng kéo cắt móng hoặc các vết chai ở bàn chân.

Thẩm gia không chú trọng "ăn không nói ngủ không nói", vừa ăn cơm, Thẩm tiên sinh vừa giảng "Đại học" cho Trường Canh, giảng một hồi mất luôn trọng điểm, lại xen cả "cách bảo dưỡng cương giáp trong mùa đông" vào. Bản thân y là một người theo học phái Tạp Gia, cứ nhớ gì nói nấy, có một lần không biết thế nào mà còn hào hứng giảng cách phòng và chữa trị dịch ngựa, khiến ngay cả kẻ điếc là Thập Lục gia cũng nghe không nổi nữa, bắt y ngậm miệng lại.

Ăn xong nói xong, Thẩm tiên sinh còn chưa thỏa mãn mà dọn dẹp bát đĩa, nói với Trường Canh: "Hôm nay ta phải sửa xong số trọng giáp này, bọn họ chẳng bao giờ chịu bảo dưỡng, làm các khớp rỉ sét hết. Buổi chiều có khả năng ta còn phải đi một chuyến để hái ít thảo dược, bọn Cát Bàn Tiểu đều xin nghỉ đi chơi rồi, ngươi thì tính thế nào?"

Trường Canh: "Ta lên dốc núi Tướng Quân luyện..."

Chữ "kiếm" còn chưa nói ra, vừa quay đầu lại đã thấy Thẩm Thập Lục treo thiết kiếm của y trên tường, tuyên bố: "Nhi tử, đi, cự diên có thể sắp vào thành rồi, chúng ta đi chung vui nào."

Trường Canh bất lực: "Nghĩa phụ, ta vừa nói với Thẩm tiên sinh..."

Thẩm Thập Lục: "Cái gì? Con nói to lên xem nào."

Giỏi, lại tới nữa.

Cự diên đến rồi lại đi, năm nào cũng như năm nấy, Trường Canh chẳng thấy có gì mới mẻ để xem, nhưng còn chưa kịp phản đối thì Thập Lục đã không nói năng gì nửa kéo nửa lôi mà đẩy y đi ra ngoài.

Hoàng hôn mùa hạ trời chưa hết nóng, quần áo mặc trên người đều mỏng, Thập Lục dán cả người lên lưng Trường Canh, mùi thuốc thoang thoảng như ẩn như hiện phút chốc bao phủ Trường Canh, giống hệt như trong giấc mơ vậy.

Trường Canh bỗng dưng cảm thấy không được tự nhiên, liền lặng lẽ cúi đầu tránh né tiểu nghĩa phụ, bịt mũi quay đầu đi, làm bộ hắt xì.

Thập Lục cười tủm tỉm trêu ghẹo: "Có người nhớ con rồi. Là tiểu cô nương mặt tròn nhà Lão Vương sao?"

Trường Canh rốt cuộc không nhịn được hơi sầm mặt, cứng nhắc nói: "Nghĩa phụ đùa với vãn bối như vậy có thích hợp không?"

Thẩm Thập Lục còn khuya mới để tâm, cợt nhả: "Không thích hợp sao? À, ta trước kia chưa từng làm cha ai, nên không biết chừng mực thế nào, lần sau nhất định ta sẽ chú ý."

Ai mà nghiêm túc với Thẩm Thập Lục thì nhất định bị y chọc tức bốc khói.

Trường Canh hất tay tên lưu manh muốn bá vai mình, dẫn đầu đi ra ngoài.

Thẩm tiên sinh ở đằng sau dặn dò: "Thập Lục, ngươi nhớ về sớm bổ củi đấy!"

Thẩm Thập Lục đi như bôi dầu dưới chân, không biết xấu hổ nói: "Không nghe thấy, tạm biệt!"

Trường Canh bị y đẩy chạy chầm chậm, hỏi: "Người rốt cuộc điếc từ khi nào vậy?"

Thẩm Thập Lục chỉ cười không đáp, vẻ mặt cao thâm khó lường.

Lúc này hai người vừa vặn đi qua cửa chính nhà Trường Canh, cánh cửa "két" một tiếng chợt mở ra.

Một nữ nhân váy dài màu trắng đi ra, Trường Canh thấy nữ nhân ấy, vẻ mặt bực bội pha lẫn bất đắc dĩ và nổi cáu tức thì sững lại.

Y giống như bị giội một gáo nước lạnh từ đầu tới chân, ánh mắt vừa nãy còn dằn cơn giận lập tức trống rỗng, cả sự giận dữ lẫn sức sống cùng biến mất tăm.

Nữ nhân chính là Tú Nương, mẹ Trường Canh trên danh nghĩa.

Tú Nương không còn trẻ, mỹ mạo lại chưa mất nửa phần, đứng trong nắng mai, tựa như một bức phác họa mỹ nhân nhàn tĩnh u nhiên vậy.

Nữ nhân như thế, dù là một quả phụ, cũng thật sự không nên hạ mình gả cho một bách hộ con con trong một trấn nhỏ ở biên thùy.

Tú Nương gật đầu sửa lại vạt áo, dịu dàng chào hỏi Thẩm Thập Lục: "Thập Lục gia."

Thẩm Thập Lục chỉ lưu manh với Thẩm Dịch, vừa đụng tới nữ nhân thì y tức khắc lắc mình biến thành một phiên phiên quân tử. Y hơi nghiêng người, không nhìn thẳng mặt Tú Nương, nho nhã lễ phép chào hỏi: "Từ phu nhân, ta đưa Trường Canh ra ngoài giải khuây."

"Làm phiền quá," Tú Nương cười mỉm không lộ răng, kế đó quay sang Trường Canh, nhẹ nhàng dặn dò: "Hôm nay phụ thân con về, nếu đi ra ngoài, nhớ mua một hộp son về cho mẹ."

Tiếng nói chuyện nhẹ như muỗi, hà một hơi cũng bay mất, nhưng Trường Canh còn chưa kịp trả lời thì Thẩm điếc đã đáp trước: "Ôi, phu nhân cứ yên tâm."

Trường Canh: "..."

Lúc này, Trường Canh mới đại khái tìm được một chút về quy luật điếc của nghĩa phụ – lời Thẩm Dịch nói y nhất loạt không nghe thấy, những người khác nói thì phải xem có thích nghe hay không, về phần các đại cô nương tiểu tức phụ, cho dù là muỗi cái vo ve một tiếng, y cũng có thể nghe không sót một chữ nào.

Ham ăn biếng làm thì đã đành, còn là một kẻ sắc hoại nữa chứ!

Câu "bên ngoài vàng ngọc, bên trong thối rữa", y như là lượng thân làm cho riêng y vậy.

Khi cự diên trở về, lũ trẻ chờ nhặt nhạn thực cùng mười dặm tám thôn lân cận chạy tới xem náo nhiệt tụ tập ở cổng thành, vừa đông người, liền có kẻ có óc kinh doanh đến bán thức ăn, dần dần hình thành một cái chợ quy mô không nhỏ, dân bản địa gọi là "chợ Nhạn Tử".

Thẩm Thập Lục chưa bao giờ biết xem sắc mặt người ta – nhìn thấy cũng làm bộ không thấy.

Y giống như không hề nhận thấy tâm trạng đứa con nuôi không tốt, hào hứng chạy tới chạy lui trên Nhạn Tử chật ních người, gặp cái gì cũng rất hứng thú.

Trường Canh tâm trạng bực bội, lại còn phải theo sát y không rời một tấc, thường xuyên lưu ý không để y bị lạc.

Mấy năm nay thế đạo không tốt, lão bách tính đều nghèo, buôn bán trên chợ phần lớn là sản vật nông gia, đồ ăn thức uống đều chẳng có gì ngon, buồn chán muốn chết.

Đều nói cuộc sống khó khăn là do chiến tranh, thuế má năm sau nặng hơn năm trước. Nhưng kỳ thực trước đây cũng có chiến tranh, đánh xong một trận còn có thể nghỉ ngơi một thời gian, ấy thế mà mấy năm nay không biết cớ làm sao, mọi người giống như chưa bao giờ được nghỉ xả hơi vậy.

Tính ra chẳng qua hai mươi năm, Đại Lương trước là Bắc phạt, sau lại Tây chinh, trở thành đại quốc, tứ phương triều bái, uy nghi đến nhường nào?

Thế nhưng lão bách tính ngày càng nghèo, cũng thật là kì lạ thay.

Trường Canh đi lang thang chán gần chết, chỉ muốn ngáp dài, mong tên nhà quê Thẩm Thập Lục gặp cái gì cũng tò mò này sớm hết hứng, sớm cho y về, y thà đi làm trợ thủ cho Thẩm tiên sinh còn hơn.

Thẩm Thập Lục mua một bọc đậu nướng muối đen sì, vừa đi vừa dùng tay bốc ăn, sau đầu như có mắt, thò một tay chuẩn xác nhét một hạt đậu muối vào miệng Trường Canh.

Trường Canh bị bất ngờ, không cẩn thận liếm phải ngón tay đối phương, trong cơn hoảng loạn y cắn luôn trúng lưỡi mình, tức khắc bật máu, đau quá thét lên một tiếng, phẫn nộ trừng Thẩm Thập Lục đại họa này.

"Hoa tàn còn nở lại, niên thiếu chẳng quay về." Thẩm Thập Lục không quay đầu lại, nhón một hạt đậu giơ lên nhắm ngay hướng thái dương. Đôi tay y thật là đẹp, thon dài trắng nõn, như đôi tay công tử thế gia, vốn nên cầm sách hoặc nhón cờ, chẳng hợp chút nào với hạt đậu nướng đen sì.

Thẩm Thập Lục ra vẻ ông cụ non: "Chờ trưởng thành là con sẽ biết, thời thiếu niên của một người chỉ được tí tẹo như hạt đậu, chớp mắt là qua, cả đời cũng không quay lại được, đến lúc đó con sẽ hiểu mình đã phí hoài bao nhiêu năm tháng."

Trường Canh: "..."

Thật sự là y vô luận thế nào cũng không nghĩ thông, sao Thẩm Thập Lục có thể dày mặt nói người khác "phí hoài năm tháng" cho được.

Đúng lúc này, đám đông ở gần cổng thành đột nhiên reo hò.

Cho dù là mù dở, cũng có thể nhìn thấy "cự diên" đáp xuống nơi chân trời đằng xa.

Vô số hỏa sí chĩa lên trời, tất cả khói trắng đồng loạt tạo ra ngàn tầng vân sơn, hơi nước như một đám bông từ cửu trùng lăng tiêu rơi xuống.

Sau đó, một con thuyền khổng lồ lờ mờ hiện ra giữa khói sóng mênh mang, tám con giao long hùng vĩ ở đầu thuyền trông cứ như thật, chúng chiếm giữ hai bên hông thuyền, bễ nghễ vô song rẽ mây mà đến.

Thẩm Thập Lục thoạt đầu sửng sốt, đoạn y chợt nghiêng tai, nốt ruồi chu sa trên vành tai tựa hồ lóe ánh đỏ, y nhíu mày, khẽ lẩm bẩm: "Sao năm nay thuyền lại nhẹ như vậy?"

Nhưng xung quanh toàn là tiếng ù ù đinh tai nhức óc của cự diên cùng tiếng người la hét huyên náo, một tiếng nói thầm thoáng như thở dài này nhanh chóng biến mất tăm, ngay cả Trường Canh theo sát bên cạnh y cũng không nghe thấy.

Lũ trẻ con bắt đầu bưng cái giỏ trúc nhỏ của mình, chen lấy đùn đẩy tranh vị trí, chờ đón nhạn thực.

Trên thành, một tốp quan binh xếp hàng chạy chậm ra, binh truyền lệnh đứng đợi lệnh sau "đồng hống" cao ba trượng.

"Đồng hống" như một cái loa to đặt ngược, nằm ngang trên tường thành, bên ngoài có một vòng rỉ đồng xanh biếc, rỉ loang lổ đẹp mắt, như là chạm hoa vậy.

Binh truyền lệnh kia hít sâu một hơi, nhắm ngay một đầu đồng hống, lên giọng, âm thanh từ "đồng hống" khổng lồ truyền ra, được khuếch đại mấy chục lần, vang vọng như chuông lớn vậy.

"Nhạn về, mở – sông – ngầm -"

Hai hàng quan binh theo lệnh nắm những bánh xe bằng gỗ khổng lồ trên thành lâu, đồng thời quát to một tiếng. Họ cởi trần lộ ra gân cốt, đồng loạt dùng lực, bánh xe gỗ trên cao "cót két" quay, một con đường lớn bằng đá tảng dưới thành lâu chia ra làm đôi, vô số bánh răng khớp nhau bắt đầu quay tròn, gạch ở hai bên phân thành hai đường rút đi ngược nhau.

Đại địa đã nứt ra, để lộ con sông ngầm sâu thẳm, chảy qua cả Nhạn Hồi tiểu trấn.

Binh truyền lệnh thổi lên tiếng kèn đùng đục ngân nga, truyền ra từ đồng hống, xuyên thấu hết thảy vang vọng mà đi.

Trên cự diên cũng đáp lại một tiếng kèn dài, tiếp đó vô số hỏa sí đồng thời phát lực, hơi nước chung quanh như mây mù vờn trên đỉnh núi phụt ra một cách điên cuồng – nó chuẩn bị hạ xuống rồi.

Đợt "nhạn thực" đầu tiên rắc xuống tung tóe như thiên nữ rải hoa, lũ nhóc bên dưới phát điên, nhao nhao vươn tay tranh đoạt.

Đáng tiếc, đoạn đường rải nhạn thực không hề dài, cự diên nhanh chóng đáp xuống con sông ngầm, vững vàng đậu trên mặt nước trước mắt mọi người.

Thân thuyền uy nghiêm, ánh sáng nhạt của kim loại đượm khí sát phạt khó tả rõ, tiếng kèn từ trên thuyền truyền đến bi tráng lạ lùng, vọng mãi không thôi, cả Nhạn Hồi trấn đều bị cộng hưởng tiếng "ù ù" ấy, như những vong hồn ngàn năm trên sa trường nhất tề tỉnh lại hòa chung tiếng hát vậy.

Cự diên chậm rãi xuôi con sông ngầm vào thành, nước chảy ào ào, binh truyền lệnh lại cao giọng hô một tiếng.

"Tắt – đèn -"

Hỏa sí ở hai cánh cự diên theo đó tắt phụt, không trung phả đến mùi khét như sau khi đốt pháo. Cự diên xuôi dòng, giao long quanh thân thuyền phảng phất ngưng trệ ở đồ đằng nào đó trong dòng thời gian, mang theo thần tính yêu tà.

Trường Canh chen chúc trong đám đông chăm chú nhìn cự diên dần đến gần, dù ngoài miệng nói không muốn đến, và quả thật cũng từng xem rất nhiều lần cự diên quay về, nhưng khi đối mặt y vẫn phải chấn động vì thân hình của vật khổng lồ ấy.

Cự diên Bắc tuần còn như thế, vậy Huyền Thiết tam đại doanh lợi khí quốc gia, lại sẽ là phong thái ra sao?

Thiếu niên bị nhốt trong một góc xa xôi chật hẹp của Nhạn Hồi tiểu trấn, quả thực ngay cả nghĩ cũng không nghĩ ra.

Cự diên tới gần, hơi nóng của hỏa sí đã tắt hất vào mặt, Trường Canh theo bản năng túm người bên cạnh, dặn dò: "Cự diên đến rồi, bên này đông người quá, chúng ta lui lại một chút đi."

Không ai trả lời, y chẳng túm được gì, Trường Canh quay đầu phát hiện nghĩa phụ phiền phức kia không biết từ khi nào đã mất tăm.

Trường Canh kiễng chân nhìn qua đám đông một cách khó khăn, kêu to: "Thập Lục!"

Không ai trả lời, đám đông đuổi theo cự diên bắt đầu ùa hết tới, có người reo hò, có kẻ kêu "đến rồi", còn có kẻ phẫn nộ la "đừng chen lấn".

Trường Canh mấy lần bị người ta đụng phải, khiến lửa giận càng bốc cao, tức sùi bọt mép gào: "Nghĩa phụ!"

Đám đông dọc theo con sông ngầm không ngừng đổ tới, Trường Canh vừa tìm kiếm vừa đứng vững một cách khó khăn trước dòng người ngược lên, nhanh chóng vã mồ hôi vì đám đông chen lấn, chút chấn động vì cự diên ban nãy đã không còn sót lại chút nào. Đụng trúng nghĩa phụ như vậy, không biết phải tổn thọ bao nhiêu năm!

Trường Canh tức tối nghĩ bụng: "Thẩm Thập Lục rõ là ăn no rửng mỡ, nóng nực như thế, thiếu gì việc để làm, lại nhất định đòi đi xem người!"

Đúng lúc này, không xa có người gào to: "Đừng chen lấn nữa, có người rơi xuống rồi!"

Trường Canh đang nhìn ngang ngó dọc không tự chủ được trông qua phương hướng tiếng gào truyền đến.

Đám đông ở bờ sông bắt đầu hỗn loạn trong quy mô nhỏ.

"Ôi mẹ ơi, sao lại rơi xuống thật rồi!"

"Qua bên kia tìm quân gia trong ca trực đi!"

"Xin nhường cho! Xin nhường cho! Không đi được vậy..."

Trường Canh vừa định nhường đường cho người đang liều mạng lách ra thì mang máng nghe thấy có kẻ nói một câu: "Thập Lục gia, cẩn thận!"

Trường Canh giật mình, hoài nghi thần kinh mình quá căng thẳng, bước lên phía trước một bước, túm một người vừa từ chỗ bờ sông chen ra: "Ai rơi xuống? Không phải Thẩm Thập Lục chứ?"

Người nọ gật bừa một cái, chẳng biết có nghe rõ Trường Canh hỏi gì hay không: "Hình như vậy – để ta ra trước nào."

Trong đầu Trường Canh "Uỳnh" một tiếng, đang đứng trong sóng nhiệt nóng hầm hập của cự diên nhưng sau lưng lại toát mồ hôi lạnh chẳng đúng lúc chút nào. Y lập tức hít sâu một hơi, chân không chạm đất ngược dòng người chen đến bờ sông, lảo đảo vài bước mới vịn lan can đứng vững lại.

Y hoảng loạn thò đầu nhìn xuống, quả nhiên thấy một người trầy trật quẫy đạp dưới nước.

Mặt sông ngầm kia cách mặt đất sáu bảy trượng, không nhìn thấy đáy, bốc lên hơi lạnh thâm u, từng đợt sóng trắng tinh đánh qua, người dưới sông lênh đênh không nơi bám víu, ngay cả một chút động tĩnh cũng chẳng nghe được, căn bản không thấy rõ là ai.

Trường Canh cởi áo ngoài: "Nhường đường, làm phiền nhường đường!"

Bên cạnh có người kêu: "Không thể trực tiếp xuống đâu, mau lấy một sợi dây thừng cho thiếu niên kia đi!"

Không biết là ai ba chân bốn cẳng nhét một sợi dây thừng vào tay, Trường Canh nhận lấy, ngẩng đầu nhìn cự diên cơ hồ đã gần trong gang tấc một cái, vẫn nhảy xuống không chút do dự.

"Kéo chặt! Nhanh lên nhanh lên, cự diên đến là người sẽ bị xô đi đấy!"

Cự diên sắp sửa lướt qua ngay lập tức làm con sông ngầm xô lên một đợt sóng lớn cao hơn một người, Trường Canh vừa mới xuống nước, đã tức thở vì bị đánh ngay vào ngực, y uống một ngụm nước, suýt nữa bị cuốn đi, liền vội vàng túm chặt sợi dây thừng trên bờ thòng xuống, ra sức lau mặt một phen.

Tiếng nước và cự diên giảm tốc độ ầm ầm bên tai, trước mắt toàn là sóng nước, Trường Canh mang máng nghe thấy trên bờ có người hô: "Đừng thả dây nữa! Cự diên đến rồi, mau kéo thiếu niên kia lên, không còn kịp nữa đâu!"

Trường Canh: "Chờ một chút!"

Nhưng tạp âm dưới nước to đến mức cả tiếng la của chính mình mà y cũng không nghe rõ.

Y vừa liều mạng phất tay ra hiệu cho người trên bờ đừng kéo dây, vừa gắng sức bơi đến nơi sóng xô mạnh nhất.

Trong cảnh hỗn loạn có người túm bàn tay y đang sờ soạng khắp nơi, Trường Canh không kịp nghĩ nhiều, nắm ngược cổ tay người nọ kéo vào lòng, không đợi y thấy rõ là ai, cự diên đã "ù ù" chạy đến.

Người trên bờ không dám trì hoãn thêm, sợi dây thừng thô ráp đã thít chặt thắt lưng y, sức mạnh đánh tới, người Trường Canh chợt trĩu xuống, được mấy hán tử trên bờ hợp lực kéo lên.

Vừa lên khỏi mặt nước, y mới cảm thấy trọng lượng trong tay không đúng. Trường Canh chớp rơi bọt nước quanh lông mi, đột nhiên phát hiện y lôi lên căn bản không phải Thẩm Thập Lục, mà là một đứa bé mười một mười hai tuổi – nha đầu dỏm Tào Nương Tử.

Lúc này, một tiếng kèn ngân dài trên cự diên như trường đao đâm vào tai vang ong ong, Trường Canh không kịp nghĩ nhiều, hét lớn một tiếng, đưa Tào Nương Tử ngắc ngoải lên trước.

Người trên bờ hè nhau lần lượt kéo hai thiếu niên lên, nhưng vẫn chậm, hai chân Trường Canh còn ở ngoài bờ sông, cự diên đã lao vút tới không hề dừng lại, một hỏa sí sắp sửa quét trúng chân y, nó còn chưa đến mà lệ phong nóng rực đã cuốn tới trước, khiến da thịt đau rát.

"Không thể đụng vào hỏa sí!"

"Cẩn thận!"

Lúc này, một đôi tay tái nhợt đột nhiên chìa ra, xuyên qua mọi tiếng thét, túm hai tay Trường Canh kéo cả người bay vọt lên, một vòng người chung quanh tập thể kinh hô khom lưng, Trường Canh cảm thấy mình sắp sửa bay thẳng ra ngoài, nhưng ngay sau đó y đã rơi vào lòng một người.

Y không nhịn được hít sâu một hơi, mùi thuốc nháy mắt xộc vào mũi, Trường Canh ngẩng phắt lên, chóp mũi suýt nữa cọ trúng khuôn cằm như dao gọt của Thẩm Thập Lục.

Thẩm Thập Lục mặt trầm như nước: "Ta mới lơ là một chút, mà con đã gây họa rồi!"

Trường Canh bị y tranh nói trước, nhất thời không thốt được gì.

Thẩm Thập Lục nổi giận: "Trên bờ ngần ấy quan binh, cần một đứa trẻ ranh như con đứng ra cứu người sao?"

Trường Canh: "..."

Trái tim thấp thỏm treo cao rơi phịch xuống chỗ cũ, máu đọng ở ngực tuôn ra tứ chi tê dại như vỡ đê, đến lúc này, hơi thở đầu tiên mới phun ra toàn bộ, khó chịu đến mức ngũ tạng lục phủ muốn lộn ngược, hai chân mềm nhũn suýt nữa không đứng nổi.

Tào Nương Tử đã được khiêng sang bên kia, sặc sụa một hồi rồi từ từ tỉnh lại. Thẩm Thập Lục thấy đứa trẻ đó không có gì đáng ngại, liền dẫn Trường Canh chui ra khỏi đám đông. Y cau mày rất sâu, lôi Trường Canh đang nhũn chân phải loạng choạng, vừa đi vừa quở mắng: "Độ nóng của hỏa sí còn chưa giảm, vạn nhất bị nó chạm phải là có thể mất luôn nửa cái chân, con tính làm một kẻ thọt hết nửa đời sau à? Đồ nhóc con không biết nặng nhẹ..."

Trường Canh run rẩy định thần lại, còn chưa kịp nói gì đã phải nghe Thẩm dở điếc làm ác nhân cáo trạng trước, thế là một bầu lửa giận lập tức sôi trào.

Y cứng cổ quát: "Ta còn cho là người bị rơi xuống!"

Thẩm Thập Lục nhướng hàng lông mày dài đa tình: "Bớt tìm cớ đi, ta lớn thế này rồi, sao lại vô duyên vô cớ rơi xuống sông được?"

Trường Canh: "..."

Trái tim hễ quan tâm là loạn của y hoàn toàn bị coi thành gan phổi lừa, nhiệt khí từ cổ tuôn thẳng đến tai, đỏ bừng hết lên, nhất thời không rõ là xấu hổ hay giận dữ, chỉ biết là nước phàm đã không thể làm gì được một bụng yêu hỏa này. (Gan phổi lừa rất khó ăn nên rẻ như bèo, trong khi hảo tâm thì đắt.)

"Được rồi, đừng ở đây ồn ào nữa," Thẩm Thập Lục sờ mái tóc dài sũng nước của Trường Canh, cởi ngoại bào khoác cho, "Ở đây quá loạn, hôm nay ta tạm không tranh cãi với con, mau về nhà thay quần áo, coi chừng cảm lạnh."

Y trái lại còn rất rộng lượng!

Trường Canh nổi giận đùng đùng hất tay Thập Lục, động tác hơi mạnh, bàn tay không biết đụng phải vật cứng gì trong tay áo, làm xương đau nhói.

Thẩm Thập Lục nói: "A, đó là son ta mới mua, nhớ mang về cho mẹ con... Ơ, Trường Canh, con đi đâu thế?"

Trường Canh không đợi y dứt câu, đã chẳng nói một lời bỏ y lại mà chạy mất.

Kỳ thực Trường Canh biết mình chỉ đang cố tình gây sự thôi. Y đơn thuần tin theo ấn tượng đầu, chỉ nghe một câu, căn bản chưa thấy rõ là ai bị rơi, đã hoảng hốt nhảy xuống nước trước, bị nghĩa phụ quở mắng là không trách được.

Nhưng vừa nghĩ đến khi mình nóng lòng như lửa đốt, tên sắc hoại kia lại thảnh thơi đứng chọn son, y liền tức giận đến đau cả ngực, vô luận thế nào cũng không dằn xuống nổi.

Thẩm Thập Lục tự dưng bị Trường Canh bỏ lại, lúng túng sờ sờ mũi, chẳng tài nào hiểu nổi, đành phải quy cho là nam hài đều có độ tuổi hỉ nộ vô thường như vậy. Thập Lục gia lần đầu làm cha hơi khổ não, nghĩ bụng: "Sớm biết vậy đã giữ thiết oản khấu lại hôm sau hẵng cho, lần này giận thật rồi, phải dỗ dành sao đây?"

Y chắp tay sau lưng đứng cách bờ sông ngầm không xa không gần, cự diên đã ầm ầm đi qua, ánh đèn ở phần đuôi lúc sáng lúc tối, con sông ngầm phía sau chậm rãi đóng lại, Thẩm Thập Lục chỉ khổ não giây lát, liền bắt đầu nhìn chằm chằm hướng ngọn đèn sau, nhưng ánh mắt không rời rạc như bình thường khi nhìn ra xa, sau đó từ từ nhíu mày.

Bỗng nhiên, thân hình y thoáng cái đã như cá bơi mà mất hút trong đám đông, chân bước không một tiếng động, đi nhanh chóng vô cùng, chớ hề lề mề như bình thường bước qua bậc cửa cũng phải cúi đầu nhìn cả buổi.

Trường Canh ủ rũ trở về nhà, gió nóng thổi qua nước sông lạnh buốt trên người làm y bình tĩnh hơn, vẻ tức giận đầy trên mặt dần dần tiêu tan.

Đôi mắt y cực kỳ giống Tú Nương, khuôn mặt mới phát triển đường nét rất sâu, có một chút không giống người Trung Nguyên... nhưng cũng không giống ngoại tộc lắm, tóm lại đó là vẻ anh tuấn rất đặc biệt.

Trường Canh vừa bước một chân vào cửa, đã gặp lão trù nương kiễng đôi chân bó nhìn ra ngoài, thấy y nhếch nhác, lão trù nương thoạt tiên giật nảy mình: "Ối, sao lại biến thành như thế?"

"Không sao," Trường Canh uể oải nói, "Có người rơi xuống sông, ta tiện tay kéo lên, làm ướt hết cả người."

Lão trù nương bước nhỏ đi theo sau y, dông dài: "Phu nhân nói chưa vội dọn cơm, tôi thấy chắc là bà muốn chờ bách hộ lão gia – Đúng rồi, phu nhân bảo thiếu gia bao giờ về thì đến phòng bà một chuyến, nói là có chút việc riêng giữa hai mẹ con."

Trường Canh dừng chân, bả vai không tự chủ được căng lên, giây lát sau y gật đầu với khuôn mặt không biểu cảm, trước tiên về phòng thay quần áo khô, vừa bực bội vừa cẩn thận gấp gọn ngoại bào của Thẩm Thập Lục đem cất, xong rồi mới cầm hộp son đi sang phòng Tú Nương.

Lão trù nương rất tò mò về mối quan hệ mẫu tử quỷ dị giữa họ, không dám công khai thăm dò, đành phải đi theo nghe ngóng.

Đến trước cửa phòng Tú Nương, Trường Canh sửa sang lại áo mũ đàng hoàng, trịnh trọng như muốn gặp khách, trông chỉnh tề quy củ rồi, lúc này mới gõ cửa, cúi đầu hạ mắt gọi: "Mẹ."

Trong phòng truyền ra tiếng nữ nhân lạnh tanh: "Vào đi."

Trường Canh mở cửa, sau khi vào phòng lại quay đầu nhìn lướt qua, lão trù nương nhìn lén gặp ánh mắt y thì giật mình vội vã ngó đi chỗ khác, sau đó thò đầu dòm lần nữa thì cửa đã đóng lại, chẳng trông thấy gì.

Trong phòng Tú Nương rất tối, cửa sổ hướng mặt trời đã bị kéo rèm.

Bà ta giống như không muốn thấy ánh sáng, một mình ngồi trong một góc tối om, trước mặt là gương trang điểm.

Nhìn thấy bóng lưng bà ta, Trường Canh thoáng nhíu mày – Tú Nương chẳng biết uống nhầm thuốc gì mà mặc áo ngắn và váy(1) màu vàng nhạt, chải kiểu tóc của thiếu nữ chưa gả chồng. Năm tháng thâm tình hậu nghĩa, lại thêm trong phòng khá tối, dễ dàng che đi vài nếp nhăn nhỏ nơi khóe mắt, nên trông cứ như một thiếu nữ đôi tám vậy.

Trường Canh mở miệng muốn gọi, Tú Nương lại nói trước: "Không có người khác, không được gọi ta là mẹ – Đã mua son chưa?"

Trường Canh nghe vậy, không nói một lời nuốt lại tiếng "mẹ" thứ hai, để ngũ tạng lục phủ tiêu hóa sạch, sau đó đi tới, vứt nhẹ hộp son được ủ ấm trong tay lên bàn trang điểm của Tú Nương.

"Ôi, hộp này màu đẹp, tươi tắn." Tú Nương rốt cuộc nở nụ cười mỉm bủn xỉn.

Bà ta dùng đầu ngón tay quết một ít son, bôi lên đôi môi nhợt nhạt, hào hứng ngắm nghía mình trong gương, hỏi: "Đẹp không?"

Trường Canh thần sắc lãnh đạm đứng bên không lên tiếng, trong lòng âm thầm lấy làm lạ, không biết Tú Nương tự dưng gọi mình tới làm gì.

Y đang nghĩ như vậy thì một bên mí mắt đột nhiên giật giật không hề báo trước, Trường Canh giật mình, trong minh minh giống như tâm sinh dự cảm xấu.

Đúng lúc này, Tú Nương mở miệng: "Về sau ở trước mặt người ngoài cũng không cần gọi ta là mẹ nữa, duyên phận giữa mẫu tử chúng ta, hôm nay xem như kết thúc."

Nói xong bà ta ngẩng khuôn mặt trang điểm rạng rỡ, chìa đôi tay như cọng hành, giống như định chỉnh lại cổ áo cho Trường Canh.

Trường Canh bất ngờ né ra sau: "Ý bà là sao?"

Loại váy này gọi là "nhu quần" gồm áo ngắn (nhu) không quá đầu gối và váy dài (quần), xuất hiện từ thời Chiến quốc, phát triển từ thời Ngụy Tấn, đặc biệt thịnh hành vào thời Đường, đến thời Nguyên Minh thì không còn lưu hành nữa.

Tú Nương cười, lơ đễnh lấy tay về.

Môi bà ta bôi son do Thẩm Thập Lục mua, làm khuôn mặt tái nhợt đoan trang bỗng có thêm một chút diễm sắc, như một đóa hoa đã hút no máu tươi vậy.

"Ta biết trong lòng ngươi vẫn luôn nghi hoặc, hôm nay vừa vặn có cơ hội, chi bằng chúng ta nói cho rõ ràng đi – Ngươi quả thật không phải con ruột của ta," Tú Nương nói, "Ta nói như vậy, trong lòng ngươi có dễ chịu hơn không?"

Khóe mắt Trường Canh giật nhẹ, dù sao thì y cũng còn trẻ, vẫn chưa thể giấu kín hỉ nộ.

Trên đời này, bằng hữu tốt hơn hay sư trưởng thân hơn cũng chẳng ai có thể thay thế mẫu thân, dù là phụ thân cũng không được – Không phải là Trường Canh không ao ước có mẫu thân, nhưng đôi khi, nếu biết rõ mong muốn không thể thành, còn không chịu chấp nhận trước số phận, vậy thì quá là khổ, chính mình cũng phải cảm thấy mình đáng thương.

Trường Canh từng vô số lần nghĩ thầm trong bụng, y tuyệt đối không thể là con ruột của Tú Nương, hiện giờ nhận được đáp án không hề bất ngờ, trong lòng nhất thời lại trống rỗng, chẳng rõ là cảm giác gì.

Dự cảm xấu trong lòng Trường Canh dần tăng lên, y đề phòng hỏi: "Đột nhiên nói mấy chuyện này với ta làm gì?"

Tú Nương soi gương ngắm nghía dung nhan mình. Có khả năng là phấn nhiều làm mặt hơi nhợt nhạt, thế là bà ta cẩn thận lấy ít son, bôi đều lên hai má.

"'Trường Canh' là nhũ danh ta đặt cho ngươi," Tú Nương nói, "Người Trung Nguyên bọn họ nói 'Đông có Khải Minh, Tây có Trường Canh', nó xuất hiện lúc hoàng hôn mới mọc, cai quản việc sát phạt, không may mắn. Ngươi chảy trong mình dòng máu cao quý nhất và cũng nhơ bẩn nhất trên thế giới, trời sinh là một quái vật đáng sợ, đặt tên này là không thể hợp hơn." (Khải Minh là sao Mai, Trường Canh là sao Hôm)

Trường Canh lạnh lùng trả lời: "Chẳng phải ta được sinh ra khi bà lưu lạc Sơn Tây bị sơn phỉ bắt đi sao? Mười ngón tay cũng chẳng đủ để đếm số cha của ta – Con của cường đạo, cao quý ở chỗ nào?"

Tú Nương thoáng sững người, không quay đầu lại, son cũng chẳng che được vẻ nhợt nhạt trên mặt, trong đôi mắt phảng phất biết nói kia thoáng qua thần sắc đau đớn, song lại nhanh chóng lắng xuống, tan vào sự bình tĩnh điên cuồng.

Ký ức ban sơ của Trường Canh chính là ở trong hang ổ sơn phỉ, Tú Nương luôn nhốt y trong chạn thức ăn tản ra mùi mốc meo, xuyên qua khe hở giữa những mảnh gỗ mục, Trường Canh bé nhỏ có thể nhìn thấy đám sơn phỉ say khướt xông vào.

Đám hán tử thô lỗ dã man đó hoặc là ra tay đánh, hoặc là giao cấu với bà ta ngay trước mặt Tiểu Trường Canh.

Ban đầu, bọn sơn phỉ canh chừng Tú Nương rất nghiêm; rồi dần dần, thấy Tú Nương nhu nhược dễ bắt nạt, không biết phản kháng, chúng cũng liền buông lỏng, sau đó thậm chí thả ra để hầu hạ chúng ăn uống như các đầy tớ già trong sơn trại. Tú Nương hạ độc hết các giếng nước lẫn mấy trăm vò rượu, trời cũng không biết bà ta kiếm đâu ra nhiều độc như vậy.

Tú Nương dùng một cái bát nhỏ múc nước giếng có độc cho Trường Canh uống, song chờ y thật sự uống rồi, bà ta lại giống như hối hận, liều mạng móc họng bắt y nôn ra.

Tú Nương địu Trường Canh thoi thóp trong cái gùi trúc, tay cầm một thanh cương đao, nhìn thấy kẻ nào chưa tắt thở là xông đến bồi thêm một nhát đao.

Trường Canh nhớ rõ, ngày hôm đó bà ta mặc chiếc váy đỏ nhuộm đẫm máu tươi, hắt dầu hỏa và tử lưu kim mà tên trùm thổ phỉ tàng trữ ra khắp núi, một mồi lửa đốt trụi nơi này, rồi đưa mình đi.

Trong sinh mệnh ngắn ngủi hơn chục năm này, Tú Nương từng vô số lần muốn giết y, hết ép y uống rượu độc, lại dùng đao đâm y, trói y vào ngựa lôi đi, thậm chí vô số lần đêm khuya tỉnh mộng, cảm xúc đột nhiên mất khống chế, còn toan dùng chăn làm y chết ngạt...

Nhưng mỗi lần đều dừng cương trước bờ vực mà để lại cho y một cái mạng nhỏ.

Cũng để lại cho y một chút ảo tưởng không thực tế.

Trường Canh cố hết sức bình tĩnh nói: "Bà nghĩ nhiều rồi, ta chưa bao giờ coi bà là mẹ ruột cả, chỉ là ta vẫn cảm thấy sở dĩ bà hận ta, chính do ta là nỗi nhục bọn phỉ để lại cho bà."

Tú Nương đờ đẫn ngồi đối diện với gương, sắc mặt ngày càng nhợt nhạt, rất lâu sau bỗng than thở: "Hài tử, ta có lỗi với ngươi."

Trong nháy mắt bà ta nói ra câu này, vạn ngàn đề phòng và oán hận trong lòng Trường Canh suýt nữa tan hết, bấy giờ y mới biết, thì ra ngần ấy ấm ức từ nhỏ đến lớn, chỉ một câu này là có thể dễ dàng hóa giải.

Song thiếu niên mười bốn tuổi này dùng hết khí lực toàn thân nén nước mắt lại, rồi mệt mỏi hỏi: "Hiện giờ bà nói với ta những điều này là có tính toán gì? Lương tâm lên tiếng, muốn giải độc cho ta, hay dứt khoát giết luôn ta đi?"

Tú Nương nhìn y bằng ánh mắt kỳ dị, giống như thiếu niên ấy là một món đồ quý báu: "Ngươi biết..."

Trường Canh: "Ta đương nhiên biết, vì bắt đầu từ ngày đến Nhạn Hồi tiểu trấn, không một đêm nào ta không mơ thấy ác mộng, dù là ban ngày chợp mắt nghỉ ngơi, cũng choàng tỉnh dậy khỏi bóng đè."

Chỉ trừ đêm hôm trước – mạch suy nghĩ của Trường Canh trong nháy mắt đã tán loạn, chợt hối hận vì đã giận Thập Lục.

Trường Canh: "Ta tự nhận mình đến tuổi này vẫn chưa có công tích gì, nhưng cũng chưa làm mấy việc thẹn với lòng, nào có nhiều quỷ canh ba đến gõ cửa như vậy? Chẳng lẽ trên đời còn có quái bệnh hàng đêm gặp ác mộng sao?"

Tú Nương nhếch khóe môi đỏ thắm thành một nụ cười quỷ dị, ánh mắt chậm rãi dừng ở thiết oản khấu trên cổ tay Trường Canh, trong mắt có tia sáng sắc bén, như ẩn giấu một đôi độc tiễn ô đầu: "Ngươi còn biết những gì nữa?" (Ô đầu là một loại độc dược mạnh nhất trong thời đại vũ khí lạnh)

Trường Canh vô thức kéo thiết oản khấu về trong tay áo, chỉ cảm thấy bị bà ta nhìn thôi cũng là làm bẩn thứ ấy rồi.

"Ta còn biết hai năm trước ở quan ngoại, bầy sói đuổi giết ta không phải tự mình chạy tới, mà là bị người khác triệu tới – Đó là bà đang cảnh cáo, ta chạy không thoát nổi, bà có cả tá biện pháp để giết ta, đúng không?" Trường Canh bình tĩnh nói, "Chỉ có man tộc mới biết cách điều khiển lũ súc sinh đó. Sau khi đến Nhạn Hồi trấn, bà liên tục liên lạc với bọn man tộc – Ta đoán bà cũng là nữ nhân man tộc, hồi nhỏ ta bị bà nhốt trong tủ, nhìn thấy một nam nhân xông vào xé quần áo bà, trên ngực bà có một hình đầu sói."

Tú Nương nở nụ cười trầm trầm: "Man tộc, ngươi lại gọi chúng ta là man tộc..."

Bà ta càng lúc càng cười to, đến cuối cùng cơ hồ thở không ra hơi.

Đột nhiên, tiếng cười chói tai của Tú Nương ngừng bặt, bà ta ôm ngực ho dữ dội, Trường Canh theo bản năng giơ tay như muốn đỡ, sau đó lại tự mình nhận ra, vội rụt phắt về như co giật, các đốt ngón tay nắm chặt lại.

Một dòng máu nhỏ chảy qua kẽ ngón tay Tú Nương, rơi xuống vạt váy vàng nhạt, có màu tím đen nhìn mà ghê người.

Trường Canh giật nảy mình, rốt cuộc tiến lên một bước: "Bà..."

Tú Nương túm tay y, liều mạng mượn lực nâng lưng thẳng lên, run rẩy như một chiếc lá khô trong gió lạnh. Bà ta thở dốc mấy hơi, lấy nửa mảnh ngọc bội uyên ương tịnh đế dưới đáy hộp gương lược, mang theo máu đầy tay cùng nhét cho Trường Canh.

Mặt bà ta trắng như tuyết, đôi môi nhuộm máu còn chói mắt hơn son, đôi mắt sung huyết nhìn chằm chằm Trường Canh: "Ta không phải là Tú Nương, đó là tên của nữ nhân Trung Nguyên các ngươi, ta là Hồ Cách Nhĩ, ý nghĩa là tử lưu kim dưới lòng đất..."

Bà ta đang nói thì tự mình bị sặc, lại ho một trận tê tâm liệt phế, sau đó phun ra một búng máu, nhuộm đỏ vạt áo trước của Trường Canh.

"Tử lưu kim... xui xẻo." Nữ nhân hơi nức nở một cách kỳ dị, hô hấp dần gấp hơn, ngực phập phồng như một cái ống bễ cũ, "Tỷ tỷ ta là thần nữ của trường sinh thiên(1), lang thần cũng phải bái lạy, ngươi..."

"Ngươi là tiểu quái vật một tay ta nuôi nấng," Bà ta thoi thóp cười, "Không ai yêu ngươi, không ai đối xử thật lòng với ngươi..."

Bà ta giãy giụa bấu cổ tay Trường Canh, những móng tay sắc bén đâm vào thịt y, túm lấy thiết oản khấu thiếu niên đang đeo: "Đây là Vân Bàn oản khấu trong Huyền Thiết khinh giáp – là đồ đặc chế của bọn hắc quỷ Huyền Thiết doanh, ai đưa nó cho ngươi? Hả?"

Trường Canh giống như bị phỏng, đẩy mạnh bà ta ra.

Nữ nhân ngã lên bàn trang điểm, cuộn mình co giật, đôi mắt quyến rũ trợn to lộ ra tròng trắng trông thật dữ tợn.

"Trên người ngươi có 'Ô nhĩ cốt' do ta hạ, ta đặt cho nó cái tên tiếng Hán, cũng là 'Trường Canh', nghe có... hay không?" Má bà ta co giật dữ dội, bọt mép và máu lẫn lộn chảy xuôi ra khóe miệng, tiếng nói cũng mơ hồ, nhưng Trường Canh vẫn nghe rõ, "Ô... nhĩ cốt cử thế vô song, không ai có thể phát hiện, không ai có thể giải được... một ngày kia, ngươi sẽ trở thành võ sĩ mạnh nhất trên thế giới, cũng sẽ bắt đầu không phân nổi đâu là ác mộng đâu là hiện thực... Ngươi sẽ biến thành một kẻ điên cường đại..."

Trường Canh đờ đẫn đứng tại chỗ, cảm thấy những lời như hiểu như không ấy thổi qua bên tai, dễ dàng làm xương cốt y đóng băng.

"Máu của thần nữ cũng chảy trong ngực ta, lấy thần lực vô hạn của trường sinh thiên phù hộ ngươi, ngươi... ngươi suốt cả cuộc đời, trong lòng đều chỉ có căm hận, hoài nghi, nhất định phải bạo ngược hiếu sát, nơi đi qua phủ kín tinh phong huyết vũ, định trước là sẽ kéo theo bọn họ cùng không... không được... chết... tử tế."

Chữ "tế" thều thào ra khỏi miệng, thân thể nữ nhân thoáng co giật kịch liệt, ngay sau đó bà ta đột nhiên như có sở cảm, chậm rãi nghiêng đầu nhìn túi thơm nho nhỏ thòng xuống trên màn giường, trong đó có một lá bùa bình an, do Từ bách hộ lần nọ trực xong quay về, cầu ở ngôi chùa ngoài thành mà tặng cho.

Hai hàng lông mi nữ nhân chớp nhẹ, đột nhiên như đọng đầy lệ, lệ rửa ánh mắt âm độc ấy trở nên ôn nhu vô cùng, tiếc thay sự ôn nhu này chỉ ở lại giây lát.

Đồng tử co lại rốt cuộc như đèn cạn dầu, nặng nề vẻ chết chóc, nữ nhân trang điểm lộng lẫy tắt thở trong lời nguyền rủa ác độc nhất thế gian này, sau đó mang theo chút hơi ấm cuối cùng, ngã vật xuống.

Không ai yêu ngươi, không ai đối xử thật lòng với ngươi, suốt cả cuộc đời ngươi, trong lòng đều chỉ có căm hận, hoài nghi, nhất định phải bạo ngược hiếu sát, nơi đi qua phủ kín tinh phong huyết vũ, định trước là sẽ kéo theo bọn họ cùng không được chết tử tế.

Giữa khói lửa nặng nề buổi hoàng hôn mùa hạ, Trường Canh ngơ ngác nhìn thi thể ăn vận lộng lẫy trên bàn trang điểm, ngỡ ngàng nắm thiết oản khấu dính máu.

Tại sao bà ta phải tự sát?

Tại sao bà ta hận y như vậy? Và tại sao lại nuôi y lớn bằng này?

... Thiết oản khấu của Huyền Thiết doanh lại là thế nào?

Thẩm Thập Lục rốt cuộc là ai?

Lời nguyền rủa của Tú Nương tựa hồ đã phát huy. Đối với một đứa trẻ, sự tín nhiệm và thân cận ban đầu với nhân thế đến từ việc phụ mẫu hết lòng nuôi nấng, mà điều này Trường Canh lại chưa bao giờ được nhận.

Dẫu y trời sinh rộng lượng nhân nghĩa hơn, khi bị ép buộc khiến trong lòng thường xuyên đầy nghi ngờ và đề phòng, y cũng sẽ như một con chó hoang nhà có tang cắp đuôi chạy, cho dù vô cùng khát khao một chút ôn nhu của nhân gian, vẫn phải kinh hồn táng đảm mà liên tục từ chối.

Trong lòng Trường Canh đột nhiên sinh ra một ý nghĩ mãnh liệt – Y phải đi tìm Thẩm Thập Lục, y phải giáp mặt hỏi cho rõ ràng vị nghĩa phụ này là thần thánh phương nào và có rắp tâm gì.

Song y rốt cuộc không đi ra khuê phòng tanh tưởi mùi máu tươi, mới vừa ra đến cửa thì y đã khiếp đảm.

"Đúng rồi," Trường Canh hoang mang nghĩ thầm, "Với kiến thức tài học bình nhật Thẩm tiên sinh thỉnh thoảng để lộ, sao có thể là một thư sinh chán nản thi mãi không đỗ được?"

Thẩm Thập Lục tuy chơi bời lêu lổng nhưng lại có khí độ công tử thế gia, cho dù ăn nhờ ở đậu cũng chẳng thấy mảy may chán chường khốn quẫn... Sao có thể là một tên lưu manh bình thường được?

Trong lòng y vốn nên sớm nắm được những điều này, nhưng vừa nhắm mắt lại thì y thủy chung nhớ tới hình ảnh Thẩm Thập Lục chống cằm ngồi trước giường bệnh trông nom mình.

Nếu như đó cũng là hư tình giả ý...

Lão trù nương thò đầu nhìn trộm vừa thấy cửa mở liền vội cười xòa sán lại: "Thiếu gia, hôm nay..."

Trường Canh hai mắt đỏ hoe nhìn bà lão một cái.

Lão trù nương bị ánh mắt y dọa run lên, một lúc lâu mới hết, vỗ ngực trách một câu: "Cậu muốn làm gì đây..."

Còn chưa dứt lời thì bà lão đã thấy rõ tình cảnh trong phòng.

Lão trù nương lặng người, sau đó lảo đảo lui ba bước, ngồi phịch xuống đất, nghển cổ gào khóc, rít lên một tiếng thê lương không giống tiếng người.

Mà cùng lúc đó, trong thành đột nhiên vang lên tiếng cảnh báo chói tai.

Không biết là ai mở còi cảnh báo trong thành lâu, cái còi cao hơn hai thước kia cuốn theo khói trắng từng dính tử lưu kim, "Vù" một tiếng phóng thẳng lên trời, rõ nét như nước gợn mà lan ra ba bốn mươi dặm, phá tan sự yên tĩnh thảm đạm suốt mười bốn năm của Nhạn Hồi thành.

Thẩm Dịch đang mải mê sửa cương giáp ngẩng đầu lên, ngay sau đó, cổng chính Thẩm gia bị đạp mở từ bên ngoài, Thẩm Dịch nhấc thanh trọng kiếm tháo từ cương giáp đang bỏ dưới đất lên.

"Là ta." Thẩm Thập Lục nói nhỏ.

Thẩm Dịch trầm giọng hỏi: "Người man động thủ sớm?"

Câu hỏi này ngắn và trầm thấp, Thẩm Thập Lục dở điếc lại nghe rõ không sót một chữ: "Trên cự diên có mật thám người man, trên con thuyền trở về không phải là người của chúng ta."

Thẩm Thập Lục vừa nói vừa lao vào buồng không dừng bước, ở bên giường giơ tay chém một nhát, cả ván giường uỳnh một phát nứt làm đôi, bên dưới lại trống không.

Nằm dưới tấm ván gỗ lại là một bộ thiết giáp màu tối.

Tay Thẩm Thập Lục linh hoạt nạy một ô bí mật trên ngực cương giáp, lấy ra một tấm lệnh bài Huyền Thiết, ngón tay bị lệnh bài lạnh ngắt ánh lên tái xanh. Y bất ngờ quay người lại, tấm lưng luôn như một vũng bùn không thẳng nổi giờ đây lại tựa một cây thương bằng sắt, gió lùa vào từ cánh cửa mở rộng thổi vạt thanh sam mỏng màu trắng bay lên, phảng phất sợ sát ý lạnh lẽo trên người y nên chỉ dám thổi vòng sượt qua vai mà thôi.

Thập Lục nói: "Quý Bình."

"Quý Bình" là tên tự của Thẩm Dịch, chưa bao giờ gọi trước mặt người ngoài. Hai người bình nhật vì vài việc lặt vặt trong nhà mà đấu võ mồm và ẩu đả không ít, thân như huynh đệ thật, thế nhưng lúc này Thẩm Dịch lại lui về sau một bước, nhanh nhẹn nửa quỳ xuống: "Có thuộc hạ."

"Bọn chúng đã đến sớm, thì vừa vặn cho chúng ta nhân loạn thu lưới – Ta phó thác tứ điện hạ cho ngươi, ngươi hãy đưa y ra khỏi thành trước."

Thẩm Dịch: "Vâng."

Thẩm Thập Lục nhanh chóng lấy áo ngoài và một thanh bội kiếm ở đầu giường, quay người đi ngay.

Dân tộc Mông Cổ coi "thương thiên" là thần vĩnh hằng tối cao, gọi là "trường sinh thiên", tóm lại trường sinh thiên này cũng chỉ là cách gọi khác của ông trời thôi. Tuy nhiên truyện này bối cảnh giá không nên hẳn man tộc trong đây không phải là Mông Cổ.

Lão binh họ Vương thống lĩnh đội thành phòng hôm nay, sống phí hết hơn nửa đời ở Nhạn Hồi thành, rỗi rãi thích uống rượu, quá chén liền tụ tập bốc phét, toàn nói năm đó từng theo Cố lão hầu gia Bắc phạt.

Thật hay giả thì chẳng ai biết, nhưng cũng không phải là không có khả năng – Lão Hầu gia cũng là người, cũng cần ăn uống tiểu tiện, bên cạnh chung quy phải dẫn theo một người nhóm lửa nấu cơm chứ.

Nhưng dù làm ẩu thế nào, Lão Vương cũng không dám uống rượu hôm cự diên trở về, các vị trưởng quan đều phải xếp hàng theo thứ tự, ai cũng sợ để xảy ra chuyện mất mặt.

Đáng tiếc, sợ gì gặp đó, hôm nay định trước là không thể yên bình được.

Lão Vương ngửa cổ nhìn còi cảnh báo từ từ bay lên trời, điên cuồng gầm lên: "Tiểu vương bát đản nào đái không xem ngày, muốn mượn rượu làm càn đến đè vợ ngươi? Phóng còi cảnh báo làm gì hả? Coi lão nhân gia nó là pháo bông chắc?"

Cuối con sông ngầm có một hồ nước lớn vây lưới sắt chờ nghênh đón cự diên, lưới vốn đã mở ra một nửa, tiểu binh kéo chốt bị tiếng còi cảnh báo bất thình lình dọa giật nảy mình, cũng không biết đã xảy ra chuyện gì, tức khắc không dám làm bừa, một lần nữa kéo chốt lại, thế là tấm lưới sắt ấy nửa mở nửa khép, như ngoác cái miệng rộng mà trợn mắt há mồm, vừa vặn kẹp lấy đầu giao long nhô ra từ cự diên.

Binh lính chờ bốc dỡ tử lưu kim trên thuyền lớn vốn đã bày trận sẵn sàng, lúc này tất cả đều hoang mang thò đầu nhìn phía sau, bách hộ phụ trách lĩnh đồ quân nhu lấy một cái đồng hống nhỏ trong lòng ra, chĩa tới tiểu binh thả lưới sắt quát to: "Đang ngủ mơ gì thế hả? Cự diên kẹt rồi, không nhìn thấy à!"

Hắn chưa dứt lời thì trên sàn cự diên đột nhiên bùng lên ánh lửa lóa mắt, sương trắng dày đặc bắn "Phụt" ra, một mũi tên thép to bằng cánh tay ngang ngược phóng lên trời, sắc lẹm mà bắn trúng còi cảnh báo chói tai trên không trung giữa những tiếng kinh hô.

Còi cảnh báo nháy mắt ngỏm củ tỏi mà ngậm miệng, dừng giây lát trên không rồi rơi thẳng xuống, xung quanh thoạt tiên yên tĩnh, sau đó ầm lên.

"Bạch hồng tiễn!"

"Đã xảy ra chuyện gì? Ai bắn bạch hồng? Người trên thuyền điên rồi sao?"

"Tạo phản rồi! Muốn làm gì đây?"

"Bạch hồng" là một loại cung lớn cơ giới, cả cây cung khi kéo dài đến bảy trượng, chỉ có vật khổng lồ như cự diên mới lắp được. Đương nhiên, sức người không thể sử dụng nổi vũ khí đáng sợ như vậy, dưới cung lắp hộp động lực đốt tử lưu kim, trường cung kéo căng bắn tên ra có thể đâm xuyên cổng thành rộng mấy trượng.

Nghe nói khi cự diên lướt qua chân trời, bạch hồng ào ào rơi xuống, dưới đất như bị trời phạt, trọng giáp cũng không thể ngăn cản.

Biến cố này xảy đến quá đột nhiên, Lão Vương đoạt lấy một cái "thiên lý nhãn", thò cổ như một con rùa già, lẩm nhẩm: "Ôi chao rét đậm... Không được rồi. Mau! Mau báo Quách đại nhân và Lữ đô úy, mau lên!"

Lão còn chưa dứt lời thì hỏa sí vốn đã tắt trên cự diên lại nhất tề sáng lên, tử lưu kim cháy thiếu dự nhiệt, phát ra một tiếng gầm kèm tiếng nổ sập, cự diên kia tựa như một con quái thú tỉnh giấc vậy.

Lão Vương trơ mắt từ thiên lý nhãn nhìn thấy sàn cự diên lật lên, một loạt tướng sĩ mặc trọng giáp hùng dũng xếp thành hàng, trọng giáp anh ánh như nắng rọi xuống sóng nước trên mặt sông, cách rất xa cũng có thể cảm nhận được áp lực không tiếng động đó.

Kẻ cầm đầu đẩy mặt nạ bảo hộ của trọng giáp, lộ ra khuôn mặt sẹo dọc sẹo ngang.

Lão Vương giật mình đánh thót – Đây là một gương mặt lạ, sao lại trà trộn lên cự diên được?

Mặt thẹo đột nhiên thoáng nở nụ cười, ngửa mặt lên trời mà rú, tiếng rú ấy át cả tiếng nổ của máy móc, nghe như thể sói tru, tất cả các võ sĩ mặc trọng giáp phía sau hắn đều làm động tác không khác lắm, tiếng tru nối nhau như thể dẫn theo bầy sói đói khát suốt một mùa đông, tham lam nhe cặp răng nanh trí mạng.

Trong đám đông đuổi theo cự diên xem náo nhiệt không biết là ai gào lên: "Người man!"

Câu này đã chọc thủng tổ ong vò vẽ.

Bách tính nông thôn mười mấy thành quách xung quanh đổ hết về đây, nam nữ già trẻ đều có đủ, nhất thời tất cả đều thành sơn dương đá hậu, kinh hoảng bỏ chạy tứ tán, chen lấn đùn đẩy giẫm đạp nhau vô số, ngay cả chiến mã của tiểu binh đang trực trên đường cũng bị họ xô trúng mà hí lên không ngừng.

Lão Vương một bước nhảy lên đài quan sát của thành lâu, rút trường thương bên hông, giơ tay đâm "hộp vàng" ở đỉnh tháp. Lão biết, trong cái hộp vàng ấy chứa tử lưu kim dùng để đốt đèn chong, nếu vận khí không tồi, đốt thỏa đáng, thì có thể biến đỉnh đài quan sát thành còi cảnh báo nổ bay lên trời.

Lão binh khoác lác cả đời này một thương đâm một góc hộp vàng, tử lưu kim nồng nặc trút ra, lão run rẩy lấy dụng cụ đánh lửa cất trong lòng. Trong tiếng sói tru vang vọng khắp trời, dụng cụ đánh lửa kia bắn ra mấy đốm lửa nguyên lành, bị đôi tay già nua nọ nhét vào hộp vàng.

Tử lưu kim trong hộp vàng vãi mất một nửa, nửa còn lại gặp minh hỏa lập tức bùng lên, cửa thông khí của hải đăng bị chặn, thế nên chỉ có ít hơi nước phun ra, có vẻ sẽ nổ tung –

Ngay sau đó, lại một mũi bạch hồng tiễn với thế xuyên trời lao ra, ghim thẳng vào ngực Lão Vương, cái xác bằng máu thịt trong khoảnh khắc nát bét. Thế bay của bạch hồng không mảy may giảm đi, cuốn xác lão binh lao đến cạnh đài quan sát. Tòa tháp sau một tiếng nổ đổ sụp từ trên cao, đá vụn lăn khắp nơi, dưới đất từ quan binh đến bách tính không ai không cuống cuồng bỏ chạy.

Cùng lúc đó, hộp vàng cháy trên đỉnh tháp rốt cuộc phóng lên không trung, ánh sáng màu tím không may mắn lóe lên, nó nổ giữa trời thành một đóa pháo hoa khổng lồ, rọi sáng nửa Nhạn Hồi thành.

Binh truyền lệnh sau đồng hống mãi đến lúc này mới kịp có phản ứng, gào ầm lên: "Địch tập – người man tập kích -"

Cự diên bị người man khống chế chậm rãi rời mặt đất, bạch hồng vũ tiễn bắn xuống như đòi mạng.

Bách tính chạy trối chết như ruồi nhặng cụt đầu. Ba mươi sáu thớt kỵ binh khinh giáp thành thủ rít gào lao qua con đường đá chưa hoàn toàn đóng lại, tất cả đại bác trên thành lâu cùng ngẩng đầu, nhắm ngay cự diên đang bay lên –

Cả kinh thành chìm trong khói lửa.

Chỉ thấy khoang vận chuyển tử lưu kim trên cự diên mở rộng, hằng hà sa số binh lính Bắc man trong tiếng sói tru từ trên trời giáng xuống.

Quần lang gầm rú, đường phố đẫm máu – tất cả đã hỗn loạn.

Nam nhân mặt thẹo trên cự diên nhún người nhảy xuống, hơi nước dưới chân cương giáp phun mạnh ra, bắn cả người hắn lên cao ba trượng, phóng lên một thớt chiến mã, chiến mã căn bản không chịu nổi trọng giáp đè như vậy, hí dài một tiếng, đầu gối chân trước lập tức gãy, kỵ sĩ trên ngựa không kịp phản ứng liền bị người man nọ bóp cổ hung tợn cắn một phát.

Kẻ người man ngẩng đầu lên, cắn đứt một miếng trên cổ kỵ sĩ nọ, máu bắn tóe ra, kỵ sĩ thăng thiên mà thậm chí chưa kịp kêu rên.

Mặt thẹo cười sằng sặc, như một ác quỷ ăn thịt thối, nuốt chửng miếng thịt người kia, đoạn hắn thình lình huýt sáo, bốn năm người man mặc trọng giáp theo tiếng phóng ra, bám sát hai bên hắn, nhanh chóng lướt qua ngã tư đường đã biến thành địa ngục nhân gian, lao thẳng đến hướng nhà Từ bách hộ.

Giáp trong quân chia thành "khinh" và "trọng", khinh giáp là cho kỵ binh mặc, chỉ có thể gắn chút ít động lực, phần lớn vẫn dựa vào sức người và súc vật, chỉ là thắng ở nhẹ nhàng tiện lợi.

Trọng giáp lại hoàn toàn là một khái niệm khác. Một bộ trọng giáp cao bằng hai nam tử trưởng thành, lưng đeo "hộp vàng", tử lưu kim chảy qua khớp tứ chi, chân có thể thần tốc đi ngàn dặm liền, tay vung được đại đao mấy trăm cân, thắt lưng thậm chí trang bị thêm đoản pháo, một bộ trọng giáp có thể quét sạch ngàn quân.

Nếu như có trọng giáp binh thì kỵ binh, bộ binh, thủy binh gì đó... vốn đều không cần. Nhưng chẳng có cách nào, trọng giáp quá đắt, dăm ba canh giờ là có thể cháy hết một hộp tử lưu kim, đó ước chừng là lượng của hai năm trong đèn chong trên tháp quan sát. Tử lưu kim chính là mệnh mạch quốc gia, trên chợ đen một lượng hoàng kim chưa chắc mua nổi một lạng tử lưu kim lẫn bảy tám phần tạp chất.

Dù là đại quốc rộng lớn, đội ngũ toàn trọng giáp cung dưỡng được cũng chỉ có một nhánh – Huyền Thiết doanh của An Định hầu Cố Quân.

Bọn người man này rốt cuộc kiếm đâu ra lắm trọng giáp như vậy?

Các tướng sĩ chết oan đã không biết phải hỏi ở đâu.

Lão trù nương lảo đảo chạy khỏi Từ gia vừa vặn đụng trúng đám sát tinh này, chưa kịp mở miệng nói một tiếng thì đã bị ghim lên tường.

Tay người man mặt thẹo kia thần tốc xâm nhập nội viện, hét to: "Hồ Cách Nhĩ! Hồ Cách Nhĩ!"

"Hồ Cách Nhĩ" – Tú Nương, đương nhiên đã không thể trả lời.

Cửa gỗ điêu hoa bị kỵ sĩ trọng giáp đạp tung, trục cửa gãy lìa trong một tiếng kêu thê thảm, đại môn đổ rầm xuống.

Bước chân không gì cản nổi của người man rốt cuộc dừng lại, hắn sững sờ đứng trước cửa gian khuê phòng nữ nhân.

Mùi hương nhàn nhạt còn chưa tan đi, trong nhà vẫn leo lắt ánh sáng, bóng của đám tua dài thượt trên tấm màn giường buông xuống rải dưới đất, bàn trang điểm được dọn dẹp gọn gàng, trong góc còn một hộp son để mở.

Một thiếu niên quỳ trước giường đưa lưng lại, mà trên giường lờ mờ... tựa hồ là một người nằm đó.

Thiếu niên – Trường Canh nghe thấy tiếng động lớn như vậy, theo bản năng quay đầu lại, thấy một đám người man đáng sợ giữa ban ngày ban mặt xông vào nhà mình, nhưng trong lòng chẳng hoảng sợ lắm, ngược lại choàng tỉnh ngộ, phần nào hiểu được vì sao Tú Nương muốn chết.

Đám người man này có thể vào thành, nhất định không thoát được can hệ với Tú Nương, Từ bách hộ còn ở trên cự diên, có lẽ vì bà ta thông đồng với ngoại quốc mà đã bị người man giết, bà ta báo được quốc thù gia hận, cũng hại chết nam nhân duy nhất trên đời này tốt với mình.

Trường Canh hờ hững nhìn đám người man ấy một cái, sau đó ngoảnh lại, dập đầu với nữ nhân trên giường, xem như đền đáp ơn không giết nhiều năm qua, sau đó nhất đao lưỡng đoạn với người chết.

Dập đầu xong, y đứng dậy, quay người nghênh võ sĩ trọng giáp ngoài cửa.

Trọng giáp như núi, y là một thiếu niên nhục thể phàm thai, đứng ở giữa như thể một con kiến càng chuẩn bị lay đại thụ, tựa hồ sợ hãi là lẽ đương nhiên, nhưng y không hề – Trường Canh chưa tự cao đến mức cho rằng y có thể một thân một mình đối kháng cả đám người man đông như núi, cũng biết mình có chạy đằng trời, nhưng lạ lùng là y chớ hề sợ hãi.

Có thể tất cả sợ hãi của y trong nháy mắt khi nghe thân phận "Thẩm Thập Lục" có ẩn tình khác đã bộc phát hết rồi.

Tay mặt thẹo nhìn y chằm chằm, không biết nghĩ đến điều gì mà thần sắc chợt dữ tợn: "Hồ Cách Nhĩ đâu?"

Trường Canh dừng tầm nhìn giây lát trên mặt hắn, nói: "Ta nhớ ngươi, ngươi chính là kẻ mùa đông năm kia dẫn sói đánh lén ta giữa tuyết địa."

Một trọng giáp Bắc man muốn xông lên bắt y, bị nam nhân mặt thẹo giơ tay ngăn cản.

Mặt thẹo cúi đầu, hơi vụng về khom lưng, nhìn chằm chằm thiếu niên chưa đến ngực cương giáp trước mặt, dùng tiếng Hán lơ lớ hỏi lại lần nữa: "Ta hỏi ngươi, Hồ Cách Nhĩ, Tứ... Tú Nương đang ở đâu?"

Trường Canh: "Chết rồi."

Y nắm thiết oản khấu trên cổ tay mình, tránh sang bên một bước, để lộ thi thể nằm im trên giường. Khóe miệng Tú Nương còn có một dòng máu đen nhỏ, dung nhan trắng như tuyết, tựa một đóa hoa tàn có độc vậy.

Mấy kẻ người man trong viện rào rào quỳ hết xuống mà than khóc.

Trong nháy mắt thần sắc mặt thẹo thoáng vẻ ngỡ ngàng, hắn từ từ nhấc chân đi vào khuê phòng Tú Nương, dù rằng động tác có vẻ rất cẩn thận, mặt đất lại vẫn bị trọng giáp giẫm lõm.

Hắn ta đi đến trước cửa sổ, đưa tay muốn vịn giường lớn điêu hoa, giữa chừng lại rụt tay về, giống như chỉ sợ đè sập giường vậy.

Hắn khom tấm lưng bọc trong trọng giáp, khói trắng mờ ảo sau lưng tản ra căn phòng ngủ nho nhỏ, tử lưu kim trên trọng giáp lặng lẽ cháy, phát ra tiếng "hồng hộc" như một con súc sinh hấp hối.

Súc sinh ấy khẽ khàng sờ mặt nữ nhân.

Lạnh ngắt.

Tay mặt thẹo chợt tru lên như một con sói mất ái lữ, ngay sau đó, trọng giáp trước giường chuyển động với tốc độ mắt người không thấy rõ, khói trắng cuồn cuộn phun ra, một bàn tay to bằng máy thò tới bắt Trường Canh.

Trường Canh hai chân lơ lửng cách mặt đất, lưng phút chốc đau nhức dữ dội, ngũ tạng lộn ngược, bị kẻ người man kia đẩy mạnh lên tường.

Tường bị xô nứt ra.

Trường Canh rốt cuộc không ngậm lại được, phun một búng máu lên cánh tay sắt của kẻ mặt thẹo.

Y cúi đầu một cách khó khăn, nhìn thẳng vào đôi mắt ngập tràn sát ý kia.

Trường Canh lần đầu tiên nhìn thấy đôi mắt như vậy, trong đó phảng phất có vị rỉ sắt nặng trịch.

Song không biết là thế nào, trong hoàn cảnh mạnh yếu cách xa này, lòng y bỗng sinh chiến ý, ánh mắt lại không chùn bước, hung ác nhìn thẳng kẻ trước mặt.

Tầm mắt thiếu niên và hung thủ như ngõ hẹp đụng đầu, ấu lang kia nanh vuốt còn chưa kịp mài bén, nhưng sự hung ác như là sinh ra đã có rồi.

Đây có khả năng là tính tình trời sinh. Khi nằm trong hoàn cảnh trí mạng, có hai loại người sẽ gắng sức phản kháng, một loại trải qua suy sâu tính kỹ, hoặc là xuất phát từ đạo nghĩa, chức trách, khí tiết, hoặc là sau khi cân nhắc thiệt hơn, bất đắc dĩ mới phải làm vậy, nội tâm y không phải không biết sợ hãi, chỉ là lương tâm hay lý trí có thể chiến thắng nỗi sợ hãi này, đây là đại dũng khí chân chính.

Còn một loại người khác, trong lòng chẳng nghĩ gì cả, hết thảy đều xuất phát từ bản năng, phẫn nộ theo bản năng, chiến ý tràn trề theo bản năng, dẫu trong lòng mơ hồ hiểu được sự phản kháng của mình sẽ dẫn đến kết quả đáng sợ hơn, cũng chẳng cách nào khắc chế khát khao cắn một miếng thịt trên người địch nhân.

Giờ khắc này, Trường Canh chắc chắn thuộc về loại sau, có lẽ bản thân hai chữ "đáng sợ" đã đủ chọc giận y rồi.

Hồi tưởng những năm đó, đâu chỉ mình Tú Nương luôn mâu thuẫn, Trường Canh kỳ thực cũng vậy. Tú Nương rốt cuộc không giết y, có khả năng là vì một nửa huyết mạch thuộc về tỷ tỷ mình trên người y, mà Trường Canh rốt cuộc không giết bà ta, có khả năng là vì trong sự hành hạ lâu dài, bà ta xét cho cùng vẫn có ơn dưỡng dục.

Tay mặt thẹo tựa như bị ánh mắt y đâm bị thương, tức tối giơ cao nắm đấm to bằng cái đấu, tính đương trường nện cho Trường Canh phải "máu chảy đầu rơi".

Đúng lúc này, ngoài cửa đột nhiên truyền vào tiếng gầm giận dữ, một người man canh cửa bay ngang ra, đâm sập nửa căn phòng.

Khuê phòng tối om chợt sáng bừng lên, ánh nắng chói mắt ùa vào, Trường Canh nheo mắt, không nhìn thấy hàn quang, mà nghe tiếng rú thảm thiết trước.

Cả cánh tay sắt của kẻ người man mặt thẹo đang bóp Trường Canh bị chém gãy không lưu tình chút nào, Trường Canh hụt chân, không tự chủ được nghiêng sang một bên, ngay sau đó, lại bị một cánh tay trọng giáp khác dịu dàng bế lên.

Trong sân nhà Thẩm tiên sinh luôn có mấy bộ cương giáp tháo vứt ngổn ngang, chỉ là trọng giáp rất đắt, nên bình thường không cho Trường Tý sư dân gian bảo dưỡng – cả cá nhân liên quan như Từ bách hộ cũng không được.

Chỉ có lần nọ, một trọng giáp triệt để đi đời nhà ma, chuẩn bị phải đem đến dốc núi Tướng Quân xử lý, bị Thẩm tiên sinh cậy quen biết mà lén xin về, rồi y hào hứng tháo cương giáp cũ rích từ đời tổ tông kia ra từng chút một, giảng một lần từ trong ra ngoài cho Trường Canh.

Trường Canh còn nhớ y từng nói, khi người ta mặc trọng giáp, tựa như có thêm sức của vạn quân vậy, đè chết mấy thớt chiến mã, đẩy ngã mấy bức tường vây, là không thể dễ dàng hơn, chỉ cần hơi nhập môn, thì trẻ con cũng làm được. (1 quân bằng 30 cân)

Nhưng khó nhất không phải là lực có thể vác đỉnh.

Võ sĩ cương giáp mạnh nhất, là những người mặc trọng giáp mà vẫn có thể xâu sợi chỉ mảnh nhất qua lỗ kim.

Cương giáp của người mới tới bất đồng với của võ sĩ man tộc, thoạt nhìn tựa hồ nhỏ hơn một chút, bên ngoài mũ giáp cũng không có tầng ngân quang sáng loáng như tuyết kia, trông đen sì, chẳng hút mắt chút nào. Y vỗ nhẹ lưng Trường Canh, đặt thiếu niên trên vai trọng giáp, thấp giọng nói: "Đừng sợ."

Thanh âm từ sau mặt nạ bảo hộ truyền đến nghe hơi khang khác, nhưng Trường Canh nhạy bén quay đầu lại, hơi suy tư nhìn đăm đăm cái mặt nạ sắt che kín bưng kia.

Cho đến lúc này, mấy người man ở cửa cuối cùng đã kịp phản ứng, xông vào như ong vỡ tổ, lấy mặt thẹo làm trung tâm, tản ra một vòng, bao vây người vận hắc giáp kia và Trường Canh.

Người vận hắc giáp một tay che hờ Trường Canh trên vai, tay kia cầm "trường côn" trơn, hơi nước phụt ra từ phần đuôi thiết côn không lấy gì làm đẹp này.

Một kích ban nãy y chém xuống tay mặt thẹo thật sự quá nhanh, Trường Canh không thấy rõ – Chẳng lẽ vũ khí của y chính là cây thiết côn quèn này sao?

Mặt thẹo mướt mồ hôi lạnh, sắc mặt xanh xám, đề phòng lui lại hai bước, thấp giọng nói: "Huyền giáp, cát phong nhận... Ngươi là người của đám quỷ quạ đen kia."

Trường Canh mới đầu chưa kịp phản ứng, giây lát sau, sống lưng y chợt cứng đờ – quỷ quạ đen!

Đúng rồi, mười bốn năm trước Bắc phạt, Huyền Thiết doanh đánh thẳng một mạch vào đại thảo nguyên Bắc man, như một cơn lốc xoáy màu đen, người man vừa sợ hãi vừa căm hận họ, liền gọi họ là "quỷ quạ đen".

Người vận hắc giáp không để ý, chỉ lạnh nhạt dặn Trường Canh: "Bám cho chắc."

Mặt thẹo quát to một tiếng, bốn võ sĩ man tộc được huấn luyện nghiêm chỉnh phóng lên theo hắn. Đao thương tứ phía chém tới, người vận hắc giáp kia dưới chân lóe lên màu tím bầm, linh hoạt chui qua khe hở của đao kiếm, nhảy lên nóc nhà đổ nát của Từ gia, chân vừa đáp xuống, vai trái vác Trường Canh hầu như không động đậy, nửa bên phải lại xoay tròn lao ra bằng tốc độ hoa cả mắt, "thiết côn" trong tay khoảnh khắc hóa thành một luồng hư ảnh.

Trường Canh trợn tròn mắt, chỉ thấy một đầu "côn" trong tay người vận hắc giáp lại xuất hiện một vòng lưỡi đao như ảo giác, tựa gió xoáy chém xuống đầu, binh giáp man tộc đuổi theo không kịp trốn tránh trúng một nhát đao ngay ngực, hộp vàng ở ngực khoảnh khắc nổ tung, tử lưu kim bên trong bùng lên ánh lửa đáng sợ, tức khắc nổ tung xác vật khổng lồ nọ.

Máu nóng nổi bắn lên mặt Trường Canh, y khống chế mình hết cỡ, miễn cưỡng duy trì vẻ mặt bình tĩnh, tay lại nắm chặt một góc vai hắc giáp.

Đây là... Huyền Thiết doanh có thể lấy một địch trăm, không gì phá nổi trong truyền thuyết.

Mấy người man nhìn ra thực lực song phương cách xa, không còn dám một mình nghênh chiến, đưa mắt ra hiệu cho nhau, đồng thời tứ tán chạy khỏi phòng Tú Nương, từ mấy hướng nhảy lên nóc nhà, một kẻ lao đến chân hắc giáp, chém xuống khớp chân, một kẻ vung kiếm chém đỉnh đầu y, chặn đường thoát thân, còn có một kẻ đâm hậu tâm, chỉ thẳng vào hộp vàng.

Mặt thẹo cụt một tay lui hơn chục bước, giơ một tay còn lại, một đầu cánh tay sắt mở ra, một mũi tên hiểm ác rục rịch muốn phóng tới, nhắm ngay Trường Canh trên đầu vai hắc giáp.

Những người man này đi săn với nhau từ nhỏ, thế nên bao vây chặn giết phối hợp không chê vào đâu được.

Sát ý ngập trời bốc hơi trong bạch khí phất phơ, làm người ta dựng thẳng mỗi một sợi tóc gáy.

Trường Canh rốt cuộc nhìn rõ cây "côn" trong tay người vận hắc giáp, khi nó bị múa với tốc độ cao, ba bốn lưỡi đao huyền thiết dài một thước từ một đầu trường côn bắn ra theo hơi nước, khi triệt lực, lưỡi đao sắc bén sẽ nhanh chóng chui vào nấp ở đầu kia, một động một thu, lưỡi đao xoay một vòng, như cái máy xay thịt đáng sợ.

Lúc này, dưới chân Trường Canh đột nhiên trống không, bị người vận hắc giáp đẩy từ đầu vai vào khuỷu tay, toàn thân dán lên ngực trọng giáp, bất ngờ cong người ra sau theo nó.

Trường Canh giật nảy mình – Tạm thời không bàn tới trọng lượng của y, chỉ riêng trọng giáp kia, nhất định đã lên đến mấy trăm cân, sau khi cong lại, toàn bộ sức nặng đều đè trên lưng người vận hắc giáp nọ, thắt lưng y không bị cương giáp đè gãy luôn sao?

Người vận hắc giáp nghiêng hông, nhanh nhẹn xoay một vòng trên không, ôm Trường Canh từ trên nóc nhà nhảy xuống, vừa vặn sượt qua mũi tên mà tay sẹo mặt bắn tới.

Ánh sáng trên cát phong nhận ngưng tụ thành một đường, động tác mau lẹ, giết thêm một người, chém hai chân một người, sau đó trong tấm nẹp chân của hắc giáp phun ra hơi nước, đẩy trọng giáp về phía trước, chớp mắt y đã ở ngoài mười trượng.

Y giải quyết mấy binh giáp man tộc dễ dàng như trở bàn tay, chỉ là vướng Trường Canh mới không dây dưa với họ.

"Ta đưa ngươi ra khỏi thành trước." Người vận hắc giáp vẫn nói không nhanh không chậm, "Nơi này quá loạn, chuyện của mẹ ngươi... ôi, hãy nén bi thương đi."

Trường Canh dựa trên người y, trầm mặc một hồi mới nói: "Mẹ ta là uống thuốc độc tự sát, bà ta vẫn có liên lạc với bọn người man ở quan ngoại, nói không chừng chính là gian tế của man tộc."

Người vận hắc giáp không lên tiếng, tựa hồ không hề ngạc nhiên lắm.

"Ngài cứu trúng con trai của gian tế man tộc, lỗ rồi," Trường Canh dừng một chút, sau đó nói toạc ra thân phận đối phương, "Thẩm tiên sinh."

Bên tai người vận hắc giáp bốc ra một làn khói trắng mỏng, mặt nạ huyền thiết đẩy lên, để lộ khuôn mặt như thư sinh văn nhược của Thẩm Dịch.

"Trên cự diên Bắc tuần có người làm phản," Thẩm Dịch nói, "Ta vốn tưởng kẻ phản quốc chính là Từ huynh, nhưng hiện tại xem ra, Tú Nương tự sát chỉ sợ một phần là do có lỗi với trượng phu. Ta nghĩ Từ huynh có khả năng đã tuẫn quốc rồi, hơn nữa đến chết cũng không biết chuyện này. Ngươi cũng... nén bi thương đi."

"Xem ra ngươi đã sớm biết..." Trường Canh thấp giọng nói, "Ngươi là ai?"

Thẩm Dịch: "Mạt tướng chính là bộ hạ của Huyền Thiết doanh, Cố đại soái đích hệ." (Chữ đích này là trong đích tôn, đích tử)

Bộ hạ của Huyền Thiết doanh, An Định hầu Cố Quân đích hệ.

Trường Canh nghiền ngẫm câu này trong lòng mấy lần, cảm giác hết sức vi diệu – Y vừa mới biết được mình không phải con ruột của mẹ, người mẹ cổng chính không ra cổng trong không vào là gian tế man tộc, hiện tại lại nghe thư sinh cổ hủ từ sáng đến tối tay cũng chẳng rửa sạch ở cách vách là tướng quân của Huyền Thiết doanh.

Vậy Thập Lục thì sao?

Trường Canh cười khổ nghĩ, cho dù bây giờ có người bảo nghĩa phụ y là Cố đại soái, thậm chí là chính Hoàng đế, y cũng chẳng còn sức lực mà giật mình.

"Tướng quân dưới trướng Cố soái vì sao ẩn cư ở vùng thâm sơn cùng cốc này? Vì sao phải cứu con trai nữ nhân man tộc là ta đây?" Hỏi xong hai vấn đề này, Trường Canh ý thức được là mình có thể sắp mất khống chế, lập tức muốn ngậm chặt miệng, tiếc thay vẫn không thể ngăn cản câu hỏi dư thừa cuối cùng chui ra khỏi kẽ răng, "Thẩm Thập Lục đâu?"

Trường Canh hỏi xong, trong lòng buồn không sao tả nổi. Đã đến nước này mà y vẫn lo cho Thẩm Thập Lục, biết rõ người nọ chẳng hiểu là đại nhân vật nào vi phục xuất tuần, vẫn lo lắng mắt người ấy không tốt, tai lại điếc, liệu có bị đao kiếm bên ngoài ngộ thương, liệu có tìm được chỗ trốn...

Y thậm chí cũng không nhịn được nghĩ: "Tại sao đến tìm ta lại là Thẩm tiên sinh? Sao Thập Lục không đến?"

Tiếng hò hét rung trời, thân hình cự diên trùm lên cả Nhạn Hồi tiểu trấn, bạch hồng tiễn qua lại như quỷ mị, xa xa không biết nhà ai cháy, thế lửa nhanh chóng lan ra. Thẩm Dịch thần sắc lạnh nhạt, làm như không thấy hết thảy, tựa chim bay cá lội tránh né tên lạc giữa cảnh hỗn loạn: "Điện hạ, xin hãy ngồi cho vững."

Trường Canh đờ đẫn hỏi: "Ngươi gọi ta là gì?"

Thẩm Dịch điềm tĩnh nói: "Mười bốn năm trước, bệ hạ Nam tuần, hoàng quý phi bụng mang dạ chửa một mình ở lại hành cung, bị kẻ gian hại, may được trung bộc và tỷ muội cứu mới chạy thoát, không ngờ trên đường Nam hạ gặp bạo dân tạo phản, quý phi thể nhược, trong cảnh hỗn loạn liều chết sinh ra điện hạ, cuối cùng không thể gặp lại thiên nhan."

"Muội muội ruột của quý phi bế điện hạ bỏ trốn, từ đó mất đi tin tức. Những năm qua Hoàng thượng phái vô số người âm thầm tìm kiếm, vẫn cho rằng điện hạ đã lâm nạn – tận đến ba năm trước mới có ít manh mối, liền phái chúng ta tới đón." Thẩm Dịch ngắn gọn nói vài câu, "Mãi không thể tỏ rõ thân phận, xin điện hạ thứ tội..."

Trường Canh quả thực dở khóc dở cười, cảm thấy đầu óc Thẩm tiên sinh có thể đã bị đổ đầy dầu máy, thành thử bịa chuyện cũng chẳng tròn – Theo lời y nói thì Tú Nương chính là muội muội của quý phi? Chẳng lẽ quý phi cũng là người man?

Vả lại, Hoàng thượng phái người tìm con, chỉ phái có hai người thôi sao? Cho dù Hoàng thượng nghèo rớt mồng tơi, cả triều văn võ chỉ sai được hai người, vì sao hai người này hơn hai năm qua vẫn không tỏ rõ thân phận?

Tướng quân Huyền Thiết doanh thần kỳ ở ngay cách vách, chẳng lẽ không biết Tú Nương liên tục qua lại với người man? Vì sao không ngăn cản?

Trường Canh ngắt lời: "Ngươi nhận lầm người rồi."

Thẩm Dịch: "Điện hạ..."

"Nhận lầm người rồi!" Trường Canh rất mệt mỏi, bỗng nhiên không muốn dây dưa với những kẻ chỉ biết nói dối này nữa, "Thả ta xuống, ta là tiểu tạp chủng mà nữ nhân man tộc kia không biết cẩu hợp với sơn phỉ nào sinh ra, đâu xứng để tướng quân Huyền Thiết doanh vượt hiểm nguy đến cứu? Đâu xứng nhận mấy đại nhân vật như các ngươi làm nghĩa phụ?"

Nghe câu cuối cùng Thẩm Dịch không khỏi thở dài, cảm giác tên Trường Canh này có bảy tám phần đều là nhằm vào Thẩm Thập Lục, mình hình như chỉ bị liên lụy, bị giận chó đánh mèo thôi.

Y khẽ cầm chân Trường Canh đang đạp loạn: "Mạt tướng thất lễ – Ngón út chân phải của điện hạ hơi cong hơn người khác, giống bệ hạ như đúc, chính là long tử chi tướng, không sai được."

Trường Canh rụt phắt chân lại, trong lòng càng lạnh như băng.

Việc này y còn nhớ rõ mồn một, ngón chân này căn bản không phải trời sinh, mà là lúc nhỏ bị Tú Nương tự tay bẻ, bà ta không để ý y gào khóc, vặn gãy một ngón chân y, sau đó dùng cách bó chân cho nữ nhân khiến ngón chân y cong thành dị dạng.

Phượng tử long tôn chó má, cái này cũng có thể bịa đặt sao?

Lúc này, một tiếng gào khóc quen thuộc lọt vào tai, Trường Canh quay đầu lại nhìn thấy đầu Cát đồ tể treo trên lan can cùng đầu heo, bà vợ béo ú sắc mặt xanh mét, bị bức tường sập đè bên dưới, đã chẳng còn hơi thở. Tiếng khóc đứt quãng của tiểu bàn tử nhà họ từ không xa vọng đến, Trường Canh giật mình, chẳng màng lo lắng việc khác nữa, buột miệng nói: "Đó hình như là Cát Bàn Tiểu nhà đồ tể..."

Thẩm Dịch bay vút qua không dừng bước.

Trường Canh cho rằng y không nghe rõ: "Chờ chút!"

Thẩm Dịch nói: "Thần phụng mệnh bảo vệ điện hạ ra khỏi thành, không được chậm trễ."

Tiếng y từ sau mặt nạ bảo hộ truyền ra, cực kỳ giống lãnh thiết đóng đầy vụn băng ngày Sổ cửu. (Sổ cửu là chín ngày đầu tiên tính từ Đông chí)

Trường Canh sững sờ.

Gió rít gào sượt qua tai, mồ hôi lạnh dinh dính hậu tri hậu giác xuôi cột sống chảy xuống, tay chạm đến đều là lãnh giáp huyền thiết – lạnh ngắt, hệt như thiết oản khấu vĩnh viễn không ủ ấm được trên cổ tay y vậy.

Cát Bàn Tiểu giỏi nhất là làm nũng, cười chỉ thấy răng không thấy mắt, cực kỳ tinh quái, không ai không thích gã.

Trường Canh chợt thấp giọng hỏi: "Đó không phải cũng là học trò của ngươi à?"

Trong mắt Thẩm Dịch, bọn học trò hai năm sớm chiều kề cận này chỉ là do hoàng mệnh sai sử ẩn nấp ư?

Cũng phải, đối với các đại nhân vật Huyền Thiết doanh thì Nhạn Hồi thành bé tí có tính là gì?

Con nhà đồ tể có tính là gì?

Trên đời này, đại khái có một số mạng người đáng giá hơn những người khác một chút, và chưa chắc đáng yêu thì đã quý.

Thẩm Dịch đương nhiên sẽ không lãnh huyết như lãnh giáp của y, nhưng lúc này y chỉ có một mình, dĩ nhiên phải ưu tiên nhiệm vụ, không cho phép một chút sơ suất.

Tây Vực mới quy thuận, quân tinh nhuệ của cả Huyền Thiết doanh đều ở bên đó trấn giữ, họ mang tới chỉ là một phần rất ít, tung lưới hai năm, phải một kích tất sát, bắt gọn con cá to.

Bắt được, thì có thể đổi lấy cho Bắc cương dăm ba năm an ổn thái bình, bằng không công lao sẽ đổ sông đổ biển.

Nguyên do trong đây rất phức tạp, một lời khó nói hết, dăm ba câu làm sao nói rõ được với đứa trẻ choai choai này?

Thẩm Dịch nghiêm nghị nói: "Điện hạ thứ lỗi... Điện hạ!"

Thì ra là Trường Canh nhân y chưa chuẩn bị, khom lưng mò đến chốt khóa chỗ khuỷu tay cương giáp huyền thiết.

Trọng giáp của Huyền Thiết doanh dĩ nhiên sẽ không bị y đẩy một cái là mở, lại giúp y thành công đẩy tay Thẩm Dịch ra một tấc – Thẩm Dịch không thể không lui tránh. Trường Canh lần đầu nhìn thấy huyền thiết trọng giáp, căn bản không biết chỗ khác biệt của huyền thiết trọng giáp tinh xảo với mớ đồng nát của Nhạn Hồi thành thủ – Nếu huyền giáp bị người ta dùng ngoại lực cố phá hoại, khóa bắn ra có thể đánh gãy gốc cây to bằng hai cánh tay ôm.

Nhờ một tấc này, Trường Canh nhanh nhẹn rút chân ra, lộn người phóng từ trên vai Thẩm Dịch xuống.

"Ta không phải điện hạ gì đó," Trường Canh đứng cách hai bước nhìn y, sắc mặt còn u ám hơn huyền thiết, "Chân ta cũng không phải long trảo gì, mà là tàn tật do mẹ ta dùng mảnh gốm buộc thành. Nếu bà ta quả thật như ngài nói, có dây mơ rễ má với hoàng gia, không chừng chính là muốn tạo một kẻ giả mạo để làm lẫn lộn huyết thống hoàng gia. Ta thấy tướng quân đi gấp như vậy, chắc hẳn có trọng trách khác, ta không sợ chết, cũng không có ý trộm thân phận kim chi ngọc diệp, hiện tại nói rõ với ngài, không làm lỡ việc của tướng quân nữa."

Mặt nạ huyền thiết bật lên, Thẩm Dịch sửng sốt nhìn thiếu niên trước mặt.

Trường Canh không nhìn y nữa, nhún người nhảy xuống đầu tường, chạy tới hướng Cát Bàn Tiểu kêu cứu.

Huyền thiết trọng giáp ở Nhạn Hồi thành con con đặc biệt dễ thấy, Thẩm Dịch chỉ hơi sững ra, tức khắc liền bị một tốp người man bám lấy. Trường Canh không hề lo lắng, dù là người ngoài nghề, y cũng có thể nhìn ra được, mấy kẻ đó căn bản là tới nộp mạng cho cao thủ Huyền Thiết doanh này, đủ thấy truyền thuyết dân gian bốn mươi Huyền Giáp là có thể quét sạch thảo nguyên năm đó mặc dù có chút khoa trương, cũng không phải hoàn toàn vô căn cứ.

Võ nghệ thiếu niên nhiều năm khổ luyện không hề là không có đất dùng, y cực kỳ nhanh nhẹn chui vào đường hẹp, vượt qua tường viện, nhìn thấy một người man một quyền đánh lõm ngực lão binh thủ thành Nhạn Hồi, lão binh kia ngã vật xuống mà chẳng rên được tiếng nào, xem chừng không sống nổi nữa.

Cát Bàn Tiểu mặt sưng phù như màn thầu, ôm đầu hoảng sợ co vào một góc.

Trường Canh vừa nhìn đã thấy thanh kiếm bay xa mấy trượng của lão binh nọ, nhân khi người man kia đưa lưng lại, y tiến lên một bước, cầm trọng kiếm trong tay, phần đuôi trọng kiếm phun ít hơi nước, là một thanh "cương giáp kiếm", đáng tiếc lâu năm không bảo dưỡng, chẳng biết còn dùng được hay chăng.

Người man nghe thấy động tĩnh, lập tức cùng trọng giáp vụng về quay đầu lại, Cát Bàn Tiểu há hốc miệng –

Trường Canh xoay đệm hơi nước dưới cương giáp kiếm, một vòng lưỡi đao sắc bén xoay tròn trên đó, pha lẫn mùi khét lẹt, bên trong không biết hỏng mất mấy bộ phận rồi, khiến Trường Canh suýt nữa cầm không nổi, y quát to một tiếng, với tay chém một gốc đại thụ bên cạnh.

Cương giáp kiếm kêu vù vù tuy trông y như phế liệu nhưng chặt cây lại rất ngọt, không đợi tay người man kịp phản ứng, đại thụ đã đổ xuống, vừa vặn nện trúng hắn. Trường Canh gào lên với Cát Bàn Tiểu: "Còn không mau chạy!"

Cát Bàn Tiểu nước mắt nước mũi tèm lem trên mặt, hét ầm lên: "Đại ca!"

Còn không chờ gã lải nhải lời biệt ly, kẻ bị đại thụ đè kia chợt quát to một tiếng, hung hãn chém đôi khúc gỗ như xà nhà ném đi. Hắn hệt như một con trâu bị chọc giận, đôi mắt đỏ ngầu chằm chằm nhìn hai thiếu niên cơ hồ tay không tấc sắt trước mặt.

Trường Canh thấy sự tình không ổn, bèn dứt khoát nghênh chiến.

Y hít sâu một hơi, nghiêng người, vai hơi nghiêng, hai tay nắm chặt kiếm, vững vàng bày ra thức mở đầu.

Tiếc thay, vững vàng hơn cũng vô dụng, y vừa đứng yên liền nghe cái "Rắc", thanh cương giáp kiếm kia triệt để khỏi dùng, cót két hai tiếng, phụt ra khói đen, rồi thành một mớ phế liệu hàng thật giá thật.

Cát Bàn Tiểu rùng mình: "Đây đây đây..."

"Tránh ra!" Trường Canh nói khẽ với Cát Bàn Tiểu.

Cát Bàn Tiểu không thẹn với mỹ danh quỷ lanh lợi, nghe vậy không ý kiến ý cò, co mình thành một cục thịt viên vô hại, lăn vào một góc, hoàn mỹ nhường sân.

Người man gầm lên một tiếng, tính dùng đôi thiết quyền đập tên oắt con không biết trời cao đất dày này nát như tương.

Trong chớp mắt thiết quyền to bằng cái nồi đến đỉnh đầu, Trường Canh khom lưng, mau chóng chui tọt ra, lướt qua bên cạnh thi thể lão binh, thấp người cực kỳ nhanh nhẹn bẻ tấm nẹp chân trên cương giáp của lão ta.

Lúc này, tiếng gió đã đến sau lưng, Trường Canh cuộn đôi "nẹp chân" ấy vào lòng, lăn mười tám vòng chui vào lỗ chó ở bức tường bên cạnh, nháy mắt hạ đất duỗi chân, không cần biết đúng sai gắn cái "nẹp chân" nọ lên chân mình.

Chỉ nghe "Ầm" một tiếng, bức tường đất không mấy rắn chắc trong nhà bách tính bị người man kia một quyền đập nát, đất rào rào rơi xuống, nẹp chân của Trường Canh nhờ một chút hơi nước mà tử lưu kim sót lại chỗ mắt cá chân phun ra, thời khắc mấu chốt đẩy cả người y đi ba trượng.

Trường Canh cơ hồ có ảo giác là mình đã bay lên.

Trừ thiết oản khấu, đây vẫn là lần đầu tiên y đeo một bộ phận của cương giáp trên người, trong lúc sinh tử hiểm nguy, y cố giữ vững thăng bằng, bám một góc tường viện còn sót lại.

Cát Bàn Tiểu thét lên: "Cẩn thận -"

Người man tộc đã dùng sức mạnh làm gạch xây thành rung lên, cương giáp phát ra tiếng cót két khó lòng chịu nổi, hơi nước dưới chân như đằng vân giá vũ. Hắn hơi bất ngờ vì thiếu niên này khó đối phó, thu thiết quyền về, bánh răng trước ngực xoay một vòng nghe mà ê răng, đoản pháo đen sì nhắm vào Trường Canh.

Chuẩn bị tốc chiến tốc thắng rồi.

Trường Canh vẫn chưa học được cách chung sống hòa bình với đôi "phong hỏa luân"(1) dưới chân, nghe thấy "vù" một tiếng, lập tức theo bản năng lao về phía trước, sau lưng tức khắc đau rát, cát từ mặt đất bắn lên như đinh thép, đổ ập xuống đầu, y chỉ kịp dùng phế kiếm bảo vệ đầu và mặt.

Trên cương giáp của người Trung Nguyên tuyệt đối không dám gắn đoản pháo trước ngực, loại đoản pháo đầy uy lực này có thể chấn nát xương một người, chỉ có man tộc trời sinh sức mạnh vô địch mới dám làm vậy – Có người nói, sở dĩ năm đó tam đại Huyền Thiết doanh có thể quét sạch mười tám bộ lạc Bắc man, chẳng qua là nhờ người man màn trời chiếu đất còn chưa thể tự sản xuất cương giáp. Hiện giờ trong tay bọn họ không biết từ đâu ra số trọng giáp này, sau lưng lại có tử lưu kim chạy dài ngàn dặm dưới thảo nguyên, họ sẽ còn mặc cho người Trung Nguyên ức hiếp như cừu sao?

Chuyện này đáng sợ đến nhường nào, thiếu niên Trường Canh lúc này đã chẳng có thời gian nghĩ nhiều.

Khi Thẩm tiên sinh... Thẩm tướng quân dạy y về cương giáp, từng vô tình nhắc tới, đoản pháo trên cương giáp không gian có hạn, ống băng dùng làm lạnh không hề hữu hiệu như vậy, bởi thế để người trong giáp trụ không bị cháy khét, mỗi lần bắn đều cần thời gian làm lạnh tầm một nén nhang, lúc này đoản pháo trên cương giáp tự động khóa chết nòng, cho nên y còn đường tạm nghỉ.

Người man dùng tiếng Hán lơ lớ quát: "Mau chạy đi, con sâu nhép! Sợ chết rồi! Mau chạy đi!"

Trường Canh ánh mắt trầm xuống, từ chân tường trượt một vòng như mây bay nước chảy, lại quay người lao tới kẻ đang truy kích tốc độ cao kia.

Người man bất ngờ không kịp đề phòng, không liệu được y to gan lớn mật như vậy, theo bản năng dùng trường đao chém y. Trọng giáp kia cơ hồ cao gấp đôi thiếu niên, phía dưới dĩ nhiên có góc chết, Trường Canh nằm ngửa ra sau, dán sát mặt đất né tránh một đao thẳng vào mặt, nẹp chân ma sát mạnh với đá phiến, tóe lên tia lửa.

Trường Canh ném thanh kiếm thép đã ngỏm củ tỏi đi, nện thẳng lên hậu tâm người man, hắn theo bản năng né tránh, đúng lúc này, Trường Canh ấn thiết oản khấu trên tay, tụ trung ty như độc xà thè lưỡi xoay tròn phóng ra, đâm thẳng vào trọng giáp như thái dưa.

Trường Canh: "..."

Y chỉ thử thời vận thôi, hoàn toàn không liệu được thiết oản khấu Thẩm Thập Lục tiện tay ném cho y chơi lại là thần binh lợi khí như vậy.

Tụ trung ty xuyên thủng "kim hành kinh lạc" của trọng giáp, trọng giáp tinh xảo chớp mắt mất đi động lực, để phòng ngừa tử lưu kim rò rỉ nổ chết người bên trong, nó mở chế độ tự bảo vệ, tất cả các khớp từ cánh tay đến sau lưng tích tắc đã khóa chết.

Vào lúc này, nếu kẻ trong trọng giáp đầu óc tỉnh táo, nên nhân lúc còn nửa người cử động được mà tháo giáp trước rồi giết địch sau – Chẳng lẽ không có trọng giáp, một tráng hán man tộc cao to như hắn không làm gì được hai đứa trẻ choai choai sao?

Nhưng hắn ta tuy thông qua cách nào đó có được số trọng giáp này, hiển nhiên còn chưa thể hoàn toàn nắm giữ quái vật thiết này, trong nháy mắt trọng giáp khóa chết, kẻ bên trong tự mình đần ra trước, phản ứng đầu tiên lại là muốn dùng sức mạnh đối kháng với khóa máy móc.

Nhục thể phàm thai, dẫu trời sinh thần lực, sao có thể đối kháng trọng giáp kia?

Hắn lần này mất đi thăng bằng, ngã lăn quay ra đất.

Trường Canh kịp thời quyết đoán, không chút do dự tiến một bước, nẹp chân mở động lực lên mức cao nhất, nhắm ngay hộp vàng ở gần đoản pháo chỗ hậu tâm mà hung tợn giẫm xuống.

Nẹp chân dẫu quèn hơn, tăng lực lên cũng có thể đạp nát đá phiến dày ba tấc, hộp vàng theo đó nứt ra.

Nhưng nẹp chân của Trường Canh trong quá trình cứng đối cứng cũng bị hỏng, y giẫm quá mạnh, một phần lực đạo dội ngược lên cẳng chân, một chân nhất thời đau không còn cảm giác, chẳng biết đã gãy hay chưa.

Trường Canh cắn chặt răng, một chân quay người lui lại.

Ngay khoảnh khắc y thối lui, hộp vàng bị vỡ nổ tung, đương trường nổ nát óc tên kia, bắn tóe khắp nơi.

Trường Canh không thể tránh né bị bắn ít óc đỏ trắng nhầy nhầy lên người. Y co một chân, không biểu cảm mà lau khô máu trên mặt, trong mùi tanh khủng bố, lòng y lại không hề sợ hãi.

Có lẽ Tú Nương nói đúng, y trời sinh chính là một quái vật.

Cát Bàn Tiểu thời khắc quan trọng lại không thành xe đứt xích, dù rằng người run như cầy sấy, đầu óc vẫn hoạt động, gọi Trường Canh: "Đại ca, chúng ta mau tìm một chỗ trốn đi, đệ dẫn huynh đến hầm của cha đệ!"

Trường Canh vừa đi một bước, đau đớn nhói tim ở chân khiến y rên khẽ một tiếng ngã quỵ xuống đất, mồ hôi lạnh chảy ròng ròng. Cát Bàn Tiểu thấy thế, không chút lề mề chạy tới, quát to một tiếng, cõng Trường Canh lên.

Gã tuy còn nhỏ tuổi nhưng cái xác đầy mỡ đã hết sức cao to, trong lúc chạy, theo lớp mỡ trắng hếu rung rung, Cát Bàn Tiểu cũng thở hổn hển.

Thở hồng hộc cũng không để lỡ việc thề nguyền son sắt tỏ lòng trung: "Đại ca, cha mẹ đệ bị chúng hại chết rồi, huynh đã cứu mạng đệ, về sau đệ sẽ đi theo huynh! Huynh bảo làm gì đệ làm nấy! Chúng ta giết sạch bọn mọi rợ này!"

Câu cuối cùng không thành âm, hơi nức nở.

Tay Trường Canh thoát lực không cầm được thanh phế kiếm kia, đành phải mặc cho nó rơi xuống đất vang một tiếng trầm trầm, cơ trên tay co rút, đồng thời y chật vật nở nụ cười, nói đùa với Cát Bàn Tiểu: "Ta cần ngươi làm gì, giữ lại chờ năm nào mất mùa làm thịt ăn à?"

Cát Bàn Tiểu: "Ít nhất đệ còn có thể rửa chân cho huynh mà..."

Đúng lúc này, tai Trường Canh động nhẹ, y nghe thấy tiếng "lẹp kẹp" không tốt, lập tức lên tiếng quát Cát Bàn Tiểu ngưng lại: "Suỵt!"

Cát Bàn Tiểu: "Mẹ đệ toàn nói đệ rửa chân rất sạch, rửa chân cho cha đệ xong còn trắng hơn màn thầu..."

Tiểu bàn tử ngừng bặt, chợt dừng chân, nơm nớp lo sợ lui hai bước.

Chỉ thấy nơi cuối con đường nhỏ, một người man mặc trọng giáp sáng như tuyết chậm rãi đi ra.

Phong hỏa luân là đôi vòng lửa dưới chân Na Tra.

Kẽ răng và môi Trường Canh không ngừng rỉ máu, hơi mím lại là miệng đầy vị tanh ngọt.

Cát Bàn Tiểu mới chạy vài bước đã hoảng hốt như sắp tắt thở, có điều tiểu bàn tử này bất ngờ biết nặng nhẹ, thủy chung nắm chặt ống tay áo Trường Canh, chặt đến độ lòng bàn tay toàn mồ hôi vừa lạnh vừa dính, Trường Canh bị bệnh sạch sẽ không rảnh hất gã ta ra, hai thiếu niên tựa hai ấu thú cùng đường, trong tuyệt lộ gian nan nhe răng nanh non nớt.

Kẻ đứng cuối đường giơ tay nâng mặt nạ bảo hộ lên trán, để lộ ngũ quan tuấn lãng.

Mặt hắn gầy gò, trong hốc mắt hơi lõm như là có bóng mờ, ánh đại địa Trung Nguyên kéo dài ngàn dặm. Mà khi tầm mắt hắn từ trên cao nhìn xuống Trường Canh, ý tứ bên trong vô cùng phức tạp, giống như có một chút hoài niệm, một chút kiêu ngạo, làm hắn thoạt nhìn tựa hồ rất có tình người.

Tiếc thay, chút tình người này hết sức ít ỏi, rốt cuộc vẫn bị thù hận sâu nặng bao trùm, như một sợi tơ hồng chôn trong đại tuyết vô biên ở quan ngoại, tuy rằng tồn tại nhưng chớp mắt đã không còn tung tích.

Tiếng nổ của trọng cương giáp liên tiếp vang lên, từng trọng giáp man tộc sáng loáng nhao nhao hạ xuống sau lưng hắn, con số lên đến hơn hai mươi.

Phía sau truyền đến tiếng gió, Trường Canh cảnh giác quay đầu lại, bả vai bị đè lên trước – người vừa đến chính là Thẩm Dịch mặc huyền giáp.

Trên người Thẩm Dịch dính nhiều máu hơn, huyền thiết có vẻ càng thêm xám xịt.

Cát Bàn Tiểu không biết nội tình, mắt trợn muốn lọt ra: "Thẩm... Thẩm tiên sinh?"

Trường Canh nghiêng đầu, phun ra một búng máu: "Đó là tướng quân Huyền Thiết doanh, người bên cạnh An Định hầu, đừng gọi bậy."

Lưỡi Cát Bàn Tiểu tức khắc xoắn thành một sợi dây thừng, toàn thân trên dưới hơn một ngàn tảng mỡ tề giọng lắp bắp: "An, An An Định hầu!"

Thẩm Dịch áy náy chìa một bàn tay sắt đen sì cho Cát Bàn Tiểu.

Bàn tay ấy to bằng đầu thiếu niên, còn dính máu, Cát Bàn Tiểu theo bản năng nhắm mắt rụt cổ, nhưng bàn tay sắt lại chỉ nhẹ nhàng sờ đầu gã, so với một sợi lông chim bay xuống còn nhu hòa hơn, không làm gãy một sợi tóc nào.

Thẩm Dịch che chở hai thiếu niên sau lưng, đứng vững lại, chuyển hướng sang nam nhân ở cuối con đường: "Ta nghe nói 'đầu lang' của Thiên Lang mười tám bộ Cát Đồ vương gia có một nhi tử tài ba, tên là..."

Người man kia nhàn nhạt tiếp lời: "Gia Lai – dịch sang tiếng của người Trung Nguyên các ngươi thì ý nghĩa là 'huỳnh hoặc'." (huỳnh hoặc nghĩa là mê hoặc)

"Huỳnh Hoặc thế tử, hữu lễ." Thẩm tiên sinh đỡ cát phong nhận, chậm rãi giơ thiết quyền lên trước ngực, nhập gia tùy tục dùng lễ tiết của người man.

Thế tử người man hỏi: "Quỷ quạ đen, mau báo tên đi."

"Vô danh tiểu tốt, không đủ giắt vào hàm răng tôn quý," Thẩm Dịch thoáng nở nụ cười, dùng giọng điệu nhẹ nhàng kiểu thư sinh, nghe hết sức biết điều mà hỏi, "Bắc man mười tám bộ đã xưng thần với triều ta hơn mười năm, những năm qua bang giao hữu hảo, tiến cống đầy đủ, lui tới thông thương, hai bên vẫn bình yên vô sự, Đại Lương ta tự thấy chưa từng bạc đãi chư vị, xin hỏi các vị hiện giờ không mời tự đến, đao binh liên lụy bách tính phụ nhụ tay không tấc sắt, là đạo lý gì đây?"

Cát Bàn Tiểu giật mình đần ra – Thẩm tiên sinh sáng sớm dậy còn đeo cái tạp dề buồn cười, chửi bới đi quanh bệ bếp, lúc này trước mắt một loạt người man đông nghịt, y đứng trong huyền giáp u ám, lại có tư thái "ngàn vạn người ta cũng xông lên" không mảy may lay chuyển.

Thế tử người man nhìn Thẩm Dịch giây lát, ngoài cười trong không cười mà hừ một tiếng.

Tiếp đó, ánh mắt hắn lại lần nữa chuyển sang Trường Canh, nói bằng thứ tiếng phổ thông Đại Lương rõ ràng: "Vừa nghe các huynh đệ đến báo, nói trong tòa thành biên thùy này lại có người của Huyền Thiết doanh, ta còn tưởng là họ đang hù dọa thôi, thì ra là thật, như vậy xem ra... lời đồn kia cũng là thật? Nhi tử do thần nữ năm đó Hoàng đế Trung Nguyên các ngươi cướp đoạt sinh ra, thật sự trốn ở chỗ này?"

Tim Trường Canh đập mạnh.

Thế tử người man ngắm nghía Trường Canh chốc lát, tựa như không đành lòng nhìn y nữa.

Tay người man cao lớn hơi ngẩng đầu lên, trời thoáng âm u, không trung tầng mây che phủ, lọt vào ánh mắt như chứa vực sâu của hắn. Hắn thì thào nói với vị thần không biết tên nào đó trên trời: "Thần nữ của Thiên Lang mười tám bộ ta, là tinh linh sạch sẽ nhất trên thảo nguyên, thiên phong cũng muốn hôn góc váy nàng, tất cả sinh linh nhìn thấy nàng đều phải cúi đầu, nơi nàng ca múa, năm sau có bò dê thành đàn, có cỏ cây um tùm, hằng hà sa số hoa tươi có thể nở đến dưới chân trường sinh thiên..."

Trong giọng nói của hắn có nhịp điệu kỳ lạ, giống như hát lên một khúc ca du mục đến từ thảo nguyên.

"Vị tướng quân này," Thế tử người man nói, "Các ngươi chiếm đoạt đồng cỏ của chúng ta, đào rỗng tâm huyết của đại địa, cướp đoạt thần nữ, hiện giờ lại hỏi ta vì sao mà đến, cũng thật vô lý quá! Quý quốc thánh hiền thiên cổ, giáo hóa vạn ngàn, chỉ dạy các ngươi cách làm cường đạo sao? Cho dù là Huyền Thiết doanh, nơi này cũng chỉ có một mình ngươi, ta khuyên ngươi mau tránh ra, giao tiểu tạp chủng đó cho ta, để nó một mồi lửa đi chuộc tội với trường sinh thiên, bình ổn oán khí của thần nữ bị làm bẩn. Ta thật là... nhìn không nổi khuôn mặt này!"

Cát Bàn Tiểu nội tâm vẫn hỗn độn, nghe đến đó nhìn chung đã hiểu dăm ba câu, vội hỏi: "Đại ca, hắn nói tiểu... khụ, là huynh à?"

Trường Canh hết sức bực bội, lạnh nhạt nói: "Có thể bớt nói hai câu không?"

"Thế tử nói như vậy..." Thẩm Dịch bất đắc dĩ lắc đầu, "Thật là ác nhân cáo trạng trước mà! Thôi, hai ta ở đây truy lại nguyên nhân cuộc chiến Bắc phạt mười bốn năm trước cũng chẳng có nghĩa lý gì, muốn đánh cứ đánh đi."

Y một câu như đinh sắt nói ra, hai bức tường thấp hai bên ngõ nhỏ đồng loạt bị đám trọng giáp cao hơn đầu tường đẩy đổ, hai tốp võ sĩ Bắc man tách ra, đằng đằng sát khí bao vây Thẩm Dịch và Trường Canh.

Thẩm Dịch lấy một thanh đoản kiếm trên người đưa cho Trường Canh: "Điện hạ cẩn thận!"

Thẩm tiên sinh nói chuyện khách khí, tay lại rất xấu xa, một câu chưa dứt đã tiên hạ thủ vi cường.

Sau lưng huyền giáp phun ra hơi nước dài gần một trượng, cát phong nhận trong tay y rít lên bắn ra, tựa gió xoáy sáng như tuyết, rời tay quét qua, ba võ sĩ man tộc đứng gần nhất không kịp phòng bị, hộp vàng ở ngực đồng thời bị nghiền nát, tức khắc bị trọng giáp khóa lại tại chỗ.

Thế tử người man quát to một tiếng, làm gương cho binh sĩ mà lao tới, kéo theo cơn gió ngột ngạt.

Thẩm Dịch không chút do dự tiếp chiêu, đồng thời quát Trường Canh và Cát Bàn Tiểu: "Chạy!"

Huyền giáp của Huyền Thiết doanh cố nhiên tinh diệu trác tuyệt, nhưng cũng tinh diệu quá mức rồi – nghe nói một bộ huyền giáp nhẹ hơn trọng giáp bình thường hơn bốn mươi cân. Thẩm Dịch vốn như một thư sinh văn nhược, độ cường tráng kém xa thế tử người man kia, y hai tay giơ cát phong nhận, ngăn đối phương đập tới như sấm đánh một cách khó khăn, cả người lại bị ép lui ra sau.

Hai bộ trọng giáp đọ sức, tường, sân, nhà đá chung quanh... thậm chí đại thụ người ôm không xuể, đều chẳng được may mắn thoát khỏi, ầm ầm đổ hết.

Thế tử người man quát: "Để tiểu tạp chủng đó lại!"

Mấy trọng giáp người man theo lời hành động, hơi nước trắng xóa bay lên khắp nơi, chặn hai thiếu niên tổng cộng ba chân lại.

Trường Canh hoành kiếm trước ngực, một chân hoàn toàn không đủ sức, đành phải mềm nhũn buông thõng. Ngực y đập như nổi trống, tim chừng như muốn tung ra, trên mặt là vẻ trẻ con âm trầm, lang tính ẩn sâu trong huyết mạch khi hung tợn đối mắt với võ sĩ man tộc kia đã bị bức ra – Tạm thời khoan bàn người gọi là "thần nữ" đó có phải mẹ y thật hay không, cho dù phải, thiêu chết con trai để tế mẹ ruột là kỳ văn dị sự gì đây?

Cát Bàn Tiểu quẹt nước mũi, trong bụi đất mịt mù đần thối hỏi: "Đại ca, huynh thật sự là 'điện hạ' à, thế không phải là phát đạt rồi sao?"

Trường Canh: "Phát đạt cái rắm, nhận lầm người thôi – Sắp chết rồi, còn không mau chạy?"

Cát Bàn Tiểu ưỡn ngực: "Đệ không chạy, đệ phải đi theo đại ca... A, mẹ ơi!"

Hai người man một trái một phải lao tới, Cát Bàn Tiểu mới còn hào ngôn tráng ngữ bị một kẻ túm lấy giơ cao qua đầu, muốn ném chết gã.

Cát Bàn Tiểu kia tay mắt lanh lẹ, như chó con hấp hối quẫy đạp tứ chi, ôm cứng cành đại thụ bên cạnh, trong lúc sinh tử hiểm nguy bộc phát ra sức mạnh không như con người, vậy mà lại treo được mình lên cây.

Đáng tiếc, tuy gã không phải là người, quần gã vẫn là một mảnh vải phàm, bị xé cái roạt.

Cũng không biết Cát Bàn Tiểu là cái khó ló cái khôn, hay bị dọa vãi đái, thấy quần chết trận, gã bèn thuận thế tè luôn đầy đầu đầy mặt tên người man mặc trọng giáp.

Tên kia lại còn đẩy mặt nạ bảo hộ lên, hứng hết không lãng phí một chút nào.

Hắn ta tức phát điên, đương trường gầm lên một tiếng, quét ngang thiết quyền, muốn đập chết tên nhãi này, ngờ đâu dưới chân chợt mất khống chế, thì ra là Trường Canh đang trốn tránh kẻ địch nhân lúc hắn đứng bất động tại chỗ, nhắm chuẩn, xảo quyệt đâm đoản kiếm vào đường nối của cái chân thép.

Đoản kiếm kia không hổ là sản phẩm của Huyền Thiết doanh, sắc bén vô cùng, không gì cản nổi, chặt đứt một tấm nẹp chân của cương giáp. Tên người man mất thăng bằng trực tiếp quỳ xuống, không hề nghiêng lệch cản đường đồng bọn. Cát Bàn Tiểu như con khỉ béo nhảy lên ngọn cây, nhanh nhẹn vượt nóc băng tường, anh dũng ôm gạch trên đầu tường, gào lên với Trường Canh: "Đại ca mau tránh ra!"

Trường Canh dưới chân phun sương trắng, không kịp đứng dậy, để chân thép đưa y đi mấy trượng, sau đó một tảng đá lớn rơi xuống, nện ngay lên mũ sắt của tên người man, "Coong" một tiếng, âm cuối quả thực là dư âm văng vẳng bên tai, ba ngày không dứt.

Cát Bàn Tiểu: "Vương bát đản dám tụt quần ta, cho các ngươi dám tụt quần ta!"

Trường Canh lăn tròn dính đầy đất, đang muốn giãy giụa đứng dậy bằng một chân, thì đột nhiên sau gáy căng lên, một bàn tay sắt to kềnh từ trên trời giáng xuống, xách cả người y lên.

Trường Canh theo bản năng tìm thiết oản khấu, nhưng tên kia căn bản không cho y mượn lực, đương trường muốn đập y lên tường.

Thẩm Dịch bị thế tử người man quấn lấy đã ngoài tầm tay với –

Đúng lúc này, một tiếng ngựa hí chói tai truyền đến, một mũi thiết tiễn sáng rực như chẻ tre phóng qua ngang trời, xuyên qua tấm thép dày cộp, trực tiếp ghim kẻ vừa bắt Trường Canh lên tường.

Bức tường thấp lè tè không cách nào chịu được sức nặng của trọng giáp, đổ rầm xuống. Trường Canh chật vật ngã ngồi trong phế tích, nghe thấy trên bầu trời truyền đến một tiếng ưng kêu có lực xuyên thấu cực mạnh. Y nhìn lên đó, chỉ thấy hai bóng đen khổng lồ xoay tròn giữa trời, từ trên cao bao vây mười tám thiết hán của thế tử người man trong phạm vi của trường cung thiết tiễn.

Thế tử người man ngẩng đầu, trợn trừng mắt: "Huyền Ưng!"

Cách đó không xa một người đáp: "Không phải sao, đã lâu không gặp, Huyền Thiết tam bộ vấn an thế tử điện hạ."

Âm thanh ấy quen thuộc đến độ khiến Trường Canh chấn động toàn thân, y quỳ trong phế tích đầy gạch đá ngói vụn, khó lòng tin nổi mà nhìn người mặc khinh giáp ngự mã đi đến.

Người nọ mặc loại giáp nhẹ nhất chuyên dùng cho cưỡi ngựa, toàn thân trên dưới chẳng qua ba mươi cân, còn gọi là "khinh cừu".

Y không mang mặt nạ bảo hộ, ngay cả mũ giáp cũng ơ hờ xách trong tay, lộ ra khuôn mặt từng xông lầm vào giấc mơ của Trường Canh, nốt ruồi chu sa nơi khóe mắt đỏ đến bỏng người.

Cát Bàn Tiểu ngồi xổm trên đầu tường lắc lư, suýt nữa ngã dúi đầu, bóp mạnh đùi mình một phát: "Mẹ ơi... Thúc không phải là Thập Lục thúc của ta sao?"

"Đúng vậy, đại điệt tử," "Thẩm Thập Lục" không chút để ý phóng ngựa về phía trước, giống như trận địa địch hoàn toàn không lọt nổi vào mắt y, y ngạo mạn rút một thanh cát phong nhận bên hông, đẩy thi thể người man kia ra, quay đầu lại cười mắng Cát Bàn Tiểu trên đầu tường, "Oắt con, thả chim giữa đường vậy đó, mau tìm cái lá mà che đi!"

Cát Bàn Tiểu vội vàng xấu hổ đưa tay bịt.

Trường Canh lại chằm chằm nhìn y, nhất thời quên mất mình đang ở phương nào.

"Thẩm Thập Lục" đón ánh mắt y, nhảy xuống ngựa, hơi khom lưng đưa một tay cho Trường Canh: "Thần Cố Quân, cứu giá chậm trễ rồi."

Cố Quân người này trời sinh chẳng được tốt tính khiêm tốn gì cho cam, dẫu rằng chút khinh cuồng thời trẻ đã bị cát vàng Tây Vực mài mòn bớt rồi, bản chất vẫn là chó không bỏ được thói ăn cứt.

Y kiệt ngạo bất thuần, mục hạ vô trần, những năm gần đây, dù người khác khen hay chửi, y đều chưa bao giờ để tâm.

Thế mà buổi sáng hôm nay, Cố Quân dùng tên giả Thẩm Thập Lục rúc trong bếp làm biếng uống rượu, chợt nghe thấy Thẩm Dịch nói Trường Canh học nét chữ mình, khoảnh khắc ấy mùi vị trong lòng y lại không thể tả nổi.

Cố Quân từ thuở lọt lòng lần đầu tiên cảm thấy hoảng sợ, hận không thể sinh ra thêm mấy đôi tai không dùng được, để nghe rõ từng câu từng chữ xem Trường Canh nói mình viết đẹp hay xấu, lại âm thầm lo lắng công lực mình không đủ, sẽ lầm lỡ con cháu người ta.

Đây đại khái chính là sự động dung khi mỗi một người làm cha lần đầu nghe lén thấy con nói "tương lai ta muốn trở thành người như cha ta" nhỉ.

Thẩm Dịch từng hỏi y, nếu Trường Canh hận y thì phải làm thế nào?

Y lúc ấy dõng dạc đáp lại – kỳ thực hoàn toàn là nói khoác thôi.

Cố đại soái thong dong xuất hiện giữa thiên quân vạn mã, cố ra vẻ bình tĩnh nhìn đứa con nuôi, chờ mong có thể thấy một chút kinh hỉ – cho dù kinh lớn hơn hỉ cũng được, nhưng không ngờ Trường Canh chỉ cho y vẻ trống rỗng như lòng đã chết vậy.

Y khoác bộ da mặt bình tĩnh kia, trong lòng thầm giật mình.

Cố Quân nghĩ: "Xong rồi, lần này thì giận thật rồi."

Có một loại người, trời sinh nhân nghĩa đa tình, dẫu trải qua rất nhiều ác ý, vẫn có thể duy trì trái tim tốt đẹp lắc lư muốn đổ một cách khó khăn, người như vậy rất hiếm thấy, nhưng Trường Canh quả thật có tiềm chất này.

Nháy mắt gặp phải đại biến, y còn chưa kịp làm rõ thân thế phủ đầy bóng đen của mình, đã lại bị cuốn vào vụ hỗn loạn do Bắc man xâm phạm. Song dù rằng y rất đỗi do dự về con đường phía trước, đầy phẫn nộ và bất lực với cảnh ngộ, đối với huynh đệ Thẩm gia không rõ lai lịch cũng trùng trùng nghi ngờ – nhưng y vẫn muốn cứu Cát Bàn Tiểu, vẫn không cách nào kiềm chế sự nóng ruột nóng gan dành cho "Thẩm Thập Lục" thủy chung không thấy tăm hơi.

Dọc đường, Trường Canh từng vô số lần nghĩ: Hiện giờ trong thành toàn là bọn người man giết người như ngóe, Thẩm tiên sinh lại ở đây, vậy tiểu nghĩa phụ bước qua bậc cửa cũng lề mề cả buổi kia phải làm thế nào?

Ai bảo vệ y? Ai đưa y ra khỏi thành?

Tất cả sầu lo hóa thành tro bụi khi y nghe thấy hai chữ "Cố Quân".

Bỗng nhiên, Trường Canh không biết nên dùng biểu cảm gì để đối mặt với Thập Lục – Cố Quân.

Thật nực cười quá sức! Cố đại soái danh chấn thiên hạ sao có thể là con ma ốm nghe không rõ nhìn không thấy? Cần y lo lắng sao?

Hơn nữa, Cố Quân vì sao lại xuất hiện ở cái nơi chó ăn đá gà ăn sỏi này? Huyền Thiết doanh nên ở tít Tây Vực vì sao có thể tập kết nhanh chóng như vậy?

Thế tử người man kia rốt cuộc là tập kích bất ngờ, hay đã bước chân vào cái bẫy người ta giăng sẵn?

Những ý nghĩ này đột nhiên bùng lên trong đầu Trường Canh như pháo hoa, lại tựa sao băng lặng lẽ lướt qua, y chẳng buồn nghĩ sâu, chỉ là ngực đau nhói – bởi vì y cứ lo lắng mãi như bà già, hóa ra chỉ là tự đa tình và không biết lượng sức thôi. Trường Canh đã sớm biết thế nào là "sợ hãi" và "lạnh lòng", cũng từng cảm thụ sự tuyệt vọng và hấp hối, chỉ không biết hai chữ "xấu hổ" mà cũng có thể làm ruột gan đứt từng khúc.

Cố Quân thấy Trường Canh đỏ hoe vành mắt không trả lời, cuối cùng tìm ra một chút áy náy từ cái lương tâm đã thối rữa hết. Y thở dài, trước mắt đông đảo quân địch không coi ai ra gì mà quỳ một gối xuống, cẩn thận tháo tấm nẹp trên chân bị thương của Trường Canh, bàn tay mang một tầng khinh giáp ấn nhẹ vài cái, nói: "Mắt cá chân bị trật, không đáng ngại, có đau không?"

Trường Canh không hé răng một tiếng.

Đứa trẻ này tuy bình nhật cũng làm nũng giận dỗi y, nhưng cái gì cũng nghĩ cho y, lúc này đột nhiên dùng ánh mắt xa lạ như vậy nhìn y chằm chằm, khiến Cố Quân bỗng hơi hối hận.

Nhưng chỉ hối hận một chớp mắt thôi.

An Định hầu lòng dạ sắt đá nhanh chóng nghĩ thoáng: "Sự tình đã đến bước này, hối hận thì làm được cái rắm gì."

Thế là y không để lộ hỉ nộ mà cúi đầu, vẻ mặt hờ hững nâng chân bị thương của Trường Canh lên, chẳng nói tiếng nào, thoắt cái đã bẻ lại khớp.

Trường Canh toàn thân hơi run rẩy, nhưng không kêu đau.

Có lẽ giờ này khắc này dù người ta đâm một nhát đao, y cũng chẳng biết đau đâu.

Cố Quân bế y lên đặt trên lưng ngựa, phát hiện mình không đối phó được đứa con nuôi, đành phải chuyển sang bắt nạt người man.

Y xuống ngựa, gặp mặt, nối xương một loạt động tác ngay cả đầu cũng chẳng ngẩng lên, giống như đám địch giáp cầm vũ khí đều không tồn tại, nhưng nhất thời thực sự cũng chẳng ai dám manh động – có lẽ chỉ một chữ "cố" trên soái kỳ, đã có thể khiến đám lang sói thảo nguyên sợ mất mật rồi.

Ánh mắt thế tử man tộc nhìn y tựa như vua sói nhìn chằm chằm tên thợ săn từng tàn sát đồng tộc của mình, thù sâu như biển, đề phòng quá mức.

Mười bốn năm trước, cha ruột Cố Quân đã giết hết các tổng chỉ huy của mười tám bộ lạc, Lang Vương – cũng chính là cha vị thế tử này, đến nay đi lại dựa vào hai cái chân giả lởm chởm đáng sợ, toàn là nhờ Cố lão hầu gia ban cho cả.

Thế tử không thiếu đầu óc, chuyện mà ngay cả một đứa trẻ như Trường Canh trong lúc lòng rối như tơ vò cũng có thể lờ mờ đoán ra, hắn đương nhiên không thể không sáng tỏ, vừa thấy Cố Quân thì hắn liền biết đại thế đã mất.

Giống như thể theo nguyện vọng của hắn, không xa truyền đến một tiếng rít chói tai, một tháp tín hiệu trắng nhợt như toản thiên hầu bay lên không trung, nổ tung sáng rực như ban ngày. (Toản thiên hầu là một loại pháo chế tạo dựa theo nguyên lý của tên lửa)

Sau đó bảy tám bóng đen Huyền Ưng như tia chớp màu tối, lũ lượt đáp xuống cự diên.

Huyền Ưng là khắc tinh lớn nhất của cự diên, bọn người man đó không biết kiếm từ đâu ra một đám cương giáp, chẳng qua là tài hèn học mọn, bộ dạng đáng sợ, nào phải đối thủ của Huyền Thiết doanh xuất thần nhập hóa?

Cố Quân dù bận vẫn ung dung thu tầm nhìn về, dùng giọng điệu muốn ăn đòn riêng biệt nói: "Lang Vương Cát Đồ bại tướng kia thế nào rồi? Xương cốt còn rắn chắc chứ?"

Ban nãy Thẩm Dịch dù chính diện trách hỏi, đối diện đấu võ, cũng thủy chung là phong độ đại quốc khách khách khí khí, nhất phái hữu lý hữu cứ, thế tử người man nhất thời chưa thể thích ứng cách nói chuyện của Cố đại soái, suýt nữa tức hộc máu: "Ngươi..."

Cố Quân: "Sớm nghe nói mười tám bộ có một thế tử dã tâm bừng bừng, còn vẽ ra kế hoạch 'thực kim', ta nói này thế tử, bằng các ngươi mà cũng muốn thôn tính Đại Lương hả? Coi chừng bể bụng mà chết!" (Trong thực kim thì thực là đục khoét, làm hao mòn, kim là chỉ tử lưu kim)

Lần này thế tử người man thật sự đã biến sắc.

"Kế hoạch thực kim" là tuyệt mật của Thiên Lang bộ, cũng là do vị thế tử "Huỳnh Hoặc" này sau khi tiếp quản thực quyền của Thiên Lang một tay vạch mưu – cương giáp và kỹ thuật hơi nước của Đại Lương tiến bộ vượt bậc, Thiên Lang bộ về mặt này lỡ mất tiên cơ, trong mười mấy năm bị đánh đến cơ hồ không thở nổi. Cho dù là cao thủ tuyệt thế sức vác được đỉnh, trước mặt trọng giáp và thiết diên binh hiện giờ đã cải tạo hoàn thiện, cũng chẳng qua là châu chấu đá xe. Thế tử Huỳnh Hoặc hiểu rất rõ, muốn báo thù rửa hận, dựa vào đánh trực diện, tuyệt đối là mơ mộng hão huyền. (Diên trong thiết diên binh là con diều hâu)

Trừ phi Đại Lương mục nát từ trong ra ngoài.

Đại Lương tuy đất rộng của nhiều, nhưng không có quặng tử lưu kim thành quy mô. Tử lưu kim chính là mệnh mạch quốc gia, không được có bất cứ sơ suất gì, bởi vậy triều đình ra lệnh cấm dân gian mua đi bán lại, kẻ trái lệnh luận xử như "mưu phản", nếu bị bắt được, tru cửu tộc cũng không lạ. Các loại hỏa cơ khôi lỗi dân dụng trong dân gian cần động lực, phải mang theo công hàm bảo đảm của quan phụ mẫu, danh thân, cử nhân... các nhân vật có uy tín danh dự ở địa phương đến cửa hàng bên dưới hoàng thương riêng của triều đình mua tử lưu kim thấp hơn một cấp.

Nhưng buôn tử lưu kim rất lãi, chợ đen cấm mãi chẳng được. Có câu "người chết vì tiền, chim chết vì ăn", hạng vong mạng chịu liều mạng vì tiền từ xưa đến nay muốn bao nhiêu có bấy nhiêu, song chỉ có mỗi sự liều mạng mà không tìm ra nguồn cung cấp cũng vô ích.

Những "kim thương" chợ đen đầu tiên đều là tự mình chạy đến thảo nguyên tìm vận khí, kẻ có vận khí trong vạn người chẳng được một, phần lớn đều chết giữa đường.

Thiên Lang bộ nhắm vào chợ đen Đại Lương, dốc hết vốn liếng, không ngại mổ gà lấy trứng, hàng năm ồ ạt khai thác tử lưu kim, sau khi nộp đủ cống, liền dùng số tử lưu kim thừa hối lộ tướng sĩ biên thùy, đánh bại từng kẻ, đây chính là "thực kim".

Việc này từ bảy tám năm trước đã bắt đầu chậm rãi tiến hành. Sau đó, người man liên lạc được với Hồ Cách Nhĩ đang ở Nhạn Hồi tiểu trấn, song phương nội ứng ngoại hợp, qua mấy năm chuẩn bị, thế tử Huỳnh Hoặc tự tin, trong trọng trấn biên thùy Bắc cương, không có đâu là hắn không thò tay tới, không nhìn thấy.

Nhưng việc này trời biết đất biết, thủ phạm biết, Cố Quân làm sao mà biết được?

Chẳng lẽ y thật sự có thể thủ nhãn thông thiên?

Chỉ trong dăm ba câu, cuộc tranh đoạt cự diên trên trời đã có kết cục, không hề lề mề.

Cố Quân đáng ghét chắp tay sau lưng, chưa thỏa mãn mà mở miệng bồi thêm một nhát đao: "Thế tử, ta nói thật với ngươi vậy, Cố mỗ ở cái nơi quỷ quái này kính cẩn chờ ngươi đã lâu, ngày ngày gặp ác mộng lo lắng ngươi không đến – nếu ngươi không đến thì ta lấy cớ gì để dẹp sạch đám sâu mọt ăn hoàng lương không làm việc? Đa tạ ngươi nhé!"

Thế tử người man trông có vẻ rất muốn lột da rút gân y. Cố Quân thấy hắn đã tức sùi bọt mép, sự khó chịu vì bất lực với Trường Canh cuối cùng đã lắng xuống, nở nụ cười lệ khí bức người.

"Kế hoạch thực kim, ha ha, có tài – không nhiều lời nữa, bắt lấy cho ta!"

Nói xong, Cố Quân dắt cương ngựa của Trường Canh: "Để điện hạ giật mình, thần xin dẫn ngựa cho điện hạ."

Trường Canh dùng hết toàn lực trợn mắt nhìn đối phương, nhưng mặc cho ánh mắt y như kiếm, Cố Quân vẫn cứ đao thương bất nhập... giống như trước giờ luôn không nghe thấy Thẩm tiên sinh kêu mình rửa bát vậy.

Trường Canh thấp giọng nói: "An Định hầu ngay cả tôi tớ cũng không dẫn theo một người, đến nơi vũng cạn nước tù này mai danh ẩn tích, thật là trăm phương ngàn kế quá vất vả!"

Trước kia dù tức giận chết đi được, y cũng không nhẫn tâm nói một câu nặng lời với Thập Lục, lúc này một câu châm chọc ra khỏi miệng, đã tự làm mình khó chịu muốn chết trước, tay nắm chặt dây cương đến tái xanh.

"Giận đến mức không thèm nhận mình nữa." Cố Quân hơi phiền muộn nghĩ bụng, "Phải làm sao đây?"

Y xưa nay giỏi châm lửa, đốt ai kẻ đó nổ, nhưng luôn không giỏi dập lửa, mỗi lần muốn dàn xếp cho ổn thỏa, chẳng biết vì sao mà người ta ngược lại càng phẫn nộ hơn.

Cố Quân cố gắng hạ giọng giải thích: "Do quân vụ, không thể cho điện hạ biết thân phận, đã đắc tội nhiều. Trước kia bắt nạt tiểu điện hạ không ít, mong rằng sau này trở về, điện hạ đừng mách Hoàng thượng..."

Y chưa dứt lời thì Cát Bàn Tiểu trên đầu tường chợt hét lên: "Cẩn thận!"

Một người man không biết nấp trong phế tích từ khi nào, đột nhiên kéo động lực ở chân lên hết cỡ, chớp mắt đã lao đến sau lưng Cố Quân, gầm lên mà chém một nhát đao.

Trường Canh trên lưng ngựa liếc thấy, một bầu xót xa cay đắng đều chẳng màng nữa, dưới tình thế cấp bách, theo bản năng lao ra giơ tay muốn chặn trường đao cho Cố Quân: "Nghĩa phụ!"

Dưới chân Cố Quân chợt bốc lên một đường sương trắng, khinh cừu và trọng giáp không cùng một cấp trọng lượng, một chút động lực cũng có thể giúp thân nhẹ như yến, bóng người thoắt cái đã nhảy lên lưng ngựa. Trường Canh chỉ cảm thấy hông căng lên, lưng đâm sầm vào giáp mỏng ở ngực Cố Quân, sau đó bóng đen lướt qua trước mắt.

Lưỡi đao của cát phong nhận trong tay Cố Quân chưa ra, vẫn là một cây hắc thiết côn trơn, nhưng mũi nhọn đã vô cùng tinh chuẩn cắm vào kiên tỉnh của trọng giáp. Động lực trên vai trọng giáp đột nhiên bị cắt đứt, cánh tay sắt của người man phát ra một tiếng động ghê răng, khóa chặt, kẹp trường đao vung tới ở trên không, lúc này lưỡi đao cách trán Cố Quân chưa đầy ba tấc.

Mà y thì ngay cả mí mắt cũng chưa chớp một cái.

Cố Quân thúc mạnh bụng ngựa, chiến mã hí dài nhảy đi, bàn tay y ôm thắt lưng Trường Canh không nhanh không chậm dời lên che mắt thiếu niên. Cát phong nhận bị chiến mã lao ra kéo lên, hơi nước phun mạnh, phát ra một tiếng nổ rất nhỏ, một vòng lưỡi đao xoay tròn dài ba thước phóng ra khỏi vỏ, chém nát từ bả vai người man kia trở lên.

Một luồng hơi nước ấm áp phun lên cổ Trường Canh, y hơi giật mình, sau đó mới ngửi thấy mùi máu tươi.

Vị đắng như ngâm thuốc trên người Cố Quân ẩn dưới khinh cừu thiết giáp, tìm mãi chẳng ra, Trường Canh chớp mắt cảm thấy ngồi sau mình là một người xa lạ.

Tiểu nghĩa phụ của y, giống như chưa bao giờ tồn tại vậy.

Người man dốc hết toàn lực, toàn bộ trọng giáp quân bất ngờ tập kích Nhạn Hồi thành, có thể nói là liều cái mạng già. Trọng giáp mà Đại Lương nuôi còn trầy trật, đối với mười tám bộ lạc người man sẽ là khái niệm gì đây?

Đại khái là "vắt hết mỡ" cũng còn thiếu xa, cốt tủy cũng phải cạo ba lần mới được.

Họ vốn là dân tộc thiện chiến chung ổ với sói hoang mà lớn lên, lại thêm ủ mưu đã lâu dốc sức đánh một trận với bộ đội trọng giáp, đương nhiên nên đánh đâu thắng đó.

Tiếc thay lại đụng trúng Huyền Thiết doanh.

Huyền Ưng nhanh nhẹn đoạt lại cự diên, Huyền Giáp bắt sống thế tử người man, dưới sự đồng ý ngầm của Cố Quân, tru hết tàn quân Bắc man trong thành, ngày ấy thái dương chưa xuống núi thì cuộc chiến đã kết thúc.

Vẫn chưa hết, Cố Quân xử lý ngoại địch xong, lập tức lợi dụng thế sét đánh không kịp bịt tai, chuyển hướng đao binh sang phe mình, nhân khi mọi người sợ hãi thần uy của Huyền Thiết doanh, một hơi bắt hết đám võ tướng lớn nhỏ của Nhạn Hồi thành, Trường Dương quan tuyến Bắc cương hơn sáu mươi người, không hỏi phải trái đúng sai, nhất loạt giam giữ chờ thẩm sau, nhất thời Bắc cương phong thanh hạc lệ, người người lo lắng.

Trường Canh và Cát Bàn Tiểu tạm thời được an trí trong phủ Quách đại nhân Thái thú Nhạn Hồi. Quách đại nhân gặp Cố Quân liền run lẩy bẩy, sợ bị liên lụy, nghe bảo trông nom tiểu hoàng tử mới biết mình đã thoát nạn, thật sự không dám sơ suất tẹo nào, phái hai nhóm người chực sẵn ở cửa viện bọn Trường Canh đang trú tạm để nghe sai sử, chỉ thiếu tự mình đến bưng trà rót nước thôi.

Cát Bàn Tiểu dựa hơi Trường Canh, cũng được hưởng thụ lễ ngộ hoàng gia một phen.

Cục thịt mỡ kia từ trong binh hoang mã loạn bình tĩnh lại, vừa nghĩ mình đã cửa nát nhà tan, liền òa khóc một trận trước, khóc nửa chừng thì nhớ ra Trường Canh cũng giống mình, cô khổ lẻ loi, tuy còn một người thân là nghĩa phụ, nhưng Thập Lục thúc ngay cả bóng cũng không thấy, chẳng thèm đến thăm, không khỏi liền đồng bệnh tương liên, ngại không dám khóc lóc ầm ĩ ngay trước mặt Trường Canh.

Nhưng không khóc cũng chẳng có việc khác để làm, Cát Bàn Tiểu bèn bẻ ngón tay, tính suy nghĩ rõ ràng mọi việc trong đây, sau cùng vẫn từ bỏ, vì việc này quá phức tạp đối với gã, nghĩ kiểu gì cũng là một đống hồ, liền hỏi Trường Canh: "Đại ca, họ nói cha huynh là Hoàng đế, thế chẳng lẽ dì Tú là hoàng hậu?"

Trường Canh tay cầm nửa thanh "tụ trung ty", lúc cứu Cát Bàn Tiểu, y đã bắn một mũi tụ trung ty trong thiết oản khấu, sau đó khi thu dọn chiến trường lại lén nhặt về.

Hết thảy các vật bằng sắt, sắc bén và bền chắc rất khó cùng tồn tại, tụ trung ty trong Vân bàn khấu dẫu chém sắt như chém bùn, thật sự không được chắc lắm, mũi nhọn đã gãy trong trọng giáp của người man, bị tử lưu kim nóng hổi làm tan một góc, lưỡi cũng chẳng còn, biến thành một mảnh sắt đen sì trụi lủi.

Trường Canh vừa dùng đinh sắt cạo chỗ gồ trên mặt đao, vừa dửng dưng nói với Cát Bàn Tiểu: "Con của Hoàng đế đâu phải đều do hoàng hậu đẻ ra, ông ta có hàng tá vợ, hơn nữa Tú Nương là người man, ta cũng không phải hoàng tử gì đó, là nữ nhân man tộc đó muốn cho ta giả mạo hoàng tử thôi."

Cát Bàn Tiểu: "..."

Tiểu nhi tử nhà đồ tể nghe câu trả lời này, càng mù tịt chẳng hiểu gì hết, há miệng đần thối ra một lúc, cảm thấy đại ca thật quá đáng thương, chim bay thú chạy đều có cha mẹ, chỉ mình y không rõ nguồn gốc của mình, cha mẹ như một đống chỉ rối không gỡ nổi, cũng chẳng biết là thần thánh phương nào.

Cát Bàn Tiểu thề thốt: "Đại ca, huynh yên tâm, mặc kệ cha huynh là Hoàng thượng là bách hộ hay con hát, huynh đều là đại ca đệ!"

Trường Canh nghe vậy, thoạt tiên khô khốc nhếch khóe môi, sau đó có lẽ đã nếm được một tẹo tư vị, rốt cuộc hơi lộ ra nét cười mập mờ.

Cát Bàn Tiểu: "Mai kia nếu đệ cũng có thể vào Huyền Thiết doanh thì tốt rồi."

Trường Canh chưa kịp tiếp lời, bên ngoài chợt có người nói: "Huyền Thiết doanh không thể so với tướng sĩ bình thường, hằng ngày thao luyện cực kỳ gian khổ, ngươi chịu nổi không?"

Hai thiếu niên ngẩng đầu lên, thấy Thẩm Dịch đẩy cửa bước vào.

Thẩm Dịch đã thay hắc giáp đáng sợ, chớp mắt lại là một thư sinh nghèo túng dài dòng như đàn bà, toàn thân lộ rõ một chữ "nghèo", xách hai hộp thức ăn đi vào đặt lên bàn: "Bữa khuya, ăn đi!"

Quách đại nhân rất coi trọng dưỡng sinh, bữa khuya trong phủ chỉ lõng bõng toàn nước là nước, người lớn thì cũng đành, thêm một miếng bớt một miếng đều được, nhưng thiếu niên choai choai làm sao chịu nổi? Cát Bàn Tiểu húp liền ba bát mì gà, vẫn chỉ cảm thấy no nước, ngay cả lớp mỡ đông ấm hạ mát trên người cũng xám xịt đi, lúc này mở cặp lồng, thấy bên trong thật sự là bánh bao, màn thầu và thịt, mắt sáng rỡ, lập tức reo một tiếng lao tới, ném phăng Huyền Thiết doanh với chả Bạch Thiết doanh gì đó ra sau đầu.

Song tiểu bàn tử này rất ý tứ, quên thiên hạ cũng không quên đại ca, trước tiên hớn hở lấy một cái bánh bao to cho Trường Canh: "Đại ca, ăn đi."

Trường Canh thoáng nhìn phía sau Thẩm Dịch, không thấy người muốn gặp, tức thì chẳng muốn ăn nữa, ỉu xìu xua tay, dằn cảm giác mất mát trong lòng, uể oải chào hỏi: "Thẩm tướng quân."

"Không dám nhận," Thẩm Dịch vừa thấy sắc mặt y liền biết y đang nghĩ gì, điềm nhiên ngồi xuống bên cạnh, giải thích: "Lần này biên phòng thanh tẩy mạnh, Cố đại soái thật sự không thể phân thân, chỉ là trong lòng y hết sức lo lắng cho điện hạ, nên đặc biệt dặn ta đến thăm."

"Điện hạ thì không dám nhận," Trường Canh dửng dưng cúi đầu, trầm mặc một lúc, đoạn lạnh tanh nói, "Thập... Hầu gia trăm công nghìn việc còn nhọc lòng nghĩ đến chúng ta, thực khiến người ta thụ sủng nhược kinh."

Thẩm Dịch cười nói: "Nếu Đại soái biết điện hạ ở sau lưng xa cách như vậy, chắc lòng sẽ buồn lắm. Đáng tiếc người đó, trong lòng khó chịu cũng chưa từng nói thẳng, chỉ biết đổi trò gây chuyện, chỉ khổ đám làm thuộc hạ chúng ta."

Trường Canh thờ ơ không tiếp lời, toàn bộ tâm thần giống như đều nằm trên mẩu tàn đao trong tay, y cẩn thận chọn một vị trí bên trên, bắt đầu dùng đinh sắt dùi lỗ.

Trong lòng y như gương sáng, căn bản không tin Thẩm Dịch sẽ là thuộc hạ bình thường. Dù là vi phục xuất tuần, thuộc hạ bình thường dám tùy ý sai khiến An Định hầu rửa bát nấu cháo sao? Trừ phi là lão thọ tinh thắt cổ – chán sống rồi!

Không ai nói gì, bầu không khí nhất thời xấu hổ vô cùng.

Thẩm Dịch ngoài mặt mỉm cười, trong lòng chửi bậy, bởi vì sắc mặt Trường Canh hoàn toàn là cho Cố Quân xem, mà tên vương bát đản Cố Quân kia bịt mắt không dám nhìn, đẩy y sang đây gánh trách nhiệm. Y nghĩ bụng: "Bắt đầu từ ngày lên nhầm tặc thuyền của họ Cố, mình chưa từng gặp chuyện nào tốt đẹp."

Thẩm Dịch xuất thân thế gia, tính ra thì còn có chút dây mơ rễ má với nhà mẹ Cố lão Hầu gia, lúc còn sống lão Hầu gia từng đón y đến Cố gia ở một thời gian, sự tích anh hùng từ nhỏ nghịch ngợm gây chuyện của Cố Quân, có một nửa quân công của Thẩm Dịch.

Sau đó Cố lão Hầu gia qua đời, hai người đi hai ngả, Cố Quân tập tước tiến cung, Thẩm Dịch quay về khảo công danh, nhưng sau khi đỗ đạt y không chịu vào Hàn Lâm viện, ngược lại trước ánh mắt như nhìn kẻ điên của mọi người, tự xin vào "Linh Xu".

Linh Xu viện ở đây không giã thuốc chẩn bệnh, họ không chữa cơ thể người, mà chỉ chữa cho máy móc. Họ ngang hàng với cấm quân, trực thuộc đế vương, là quỷ đòi nợ lớn nhất của Hộ bộ, cũng là cha mẹ lo áo cơm cho hai bộ Công, Binh.

Trong "diên", "giáp", "kỵ", "cừu", "ưng", "xa", "pháo", "giao" bảy đại quân chủng, tất cả bản vẽ thiết kế trang bị, cải tiến đổi mới, thậm chí bí mật bất truyền của Huyền Thiết doanh, toàn bộ đến từ Linh Xu viện. (Diên là diều hâu, giao là giao long)

Linh Xu viện thường tự trào tự khiêm mình là "ngự dụng Trường Tý sư", trên đại sự trong triều họ hầu như không lên tiếng, nhìn như phẩm cấp không cao, phần lớn thời gian đều ru rú trong Linh Xu viện loay hoay mấy thứ bằng sắt.

Nhưng không ai dám đánh đồng họ với những người thợ kiếm sống nhờ dầu máy trong dân gian.

Năm đó sở dĩ Cố Quân có thể xây dựng lại Huyền Thiết doanh, tuyệt đối không chỉ vì chiến sự khẩn cấp hoặc một tờ chiếu thư nhẹ tênh của Hoàng đế, có một phần rất lớn là nhờ vị cố giao Thẩm Dịch này giúp y tạo quan hệ với Linh Xu viện, thời khắc mấu chốt, Linh Xu viện đứng sau lưng tướng quân thiếu niên, cho y sự ủng hộ có lợi nhất, bấy giờ mới giúp quân quyền hơn mười năm đã ẩn ẩn xuống dốc lại lần nữa đè lên sĩ tộc văn nhân lắm mồm.

Huyền Thiết doanh chết đi sống lại, Thẩm Dịch theo lời mời của Cố Quân, rời khỏi Linh Xu viện, trở thành người hộ giáp riêng cho Cố Quân – đương nhiên, những chuyện lộn xộn này, với kiến thức và lịch duyệt của Trường Canh hiện giờ, là không thể biết được.

Thẩm Dịch cũng không định giải thích, chỉ ngẩng đầu lên bảo Cát Bàn Tiểu: "Ta có mấy câu muốn nói với tứ điện hạ, ngươi..."

Cát Bàn Tiểu lập tức thông minh đáp: "Vâng vâng, hai người cứ nói, con ăn no là buồn ngủ, cũng nên về ngủ thôi."

Nói xong, gã nhét hai cái bánh bao vào ngực, miệng ngậm khúc giò tổ tướng, nhảy xuống ghế chạy luôn.

Trong phòng chỉ còn lại hai người họ, Thẩm Dịch mới chậm rãi nói: "Thời điểm chiến cục Tây Vực hơi ổn, Cố đại soái nhận được mật chỉ của Hoàng thượng, lệnh cho y đến vùng Bắc cương tìm tứ hoàng tử điện hạ năm đó mất tích cùng tỷ muội quý phi."

Trường Canh dừng động tác trên tay khoảng một chớp mắt, y nâng mí mắt, nhìn Thẩm Dịch không nói lời nào.

Thẩm Dịch vẻ mặt chân thành không như làm bộ, rủ rỉ nói: "Trên đường đến Nhạn Hồi, bọn ta phát hiện ngoài cổng thành có dấu vết Bắc man hoạt động. Thế tử của Lang Vương vẫn bừng bừng dã tâm, sớm không muốn làm bề tôi, Đại soái lo lắng Bắc cương sinh dị biến, bấy giờ mới dừng lại tra xét, ngờ đâu vừa vặn gặp điện hạ giữa bầy sói. Đại soái mười bốn năm trước đi theo trưởng công chúa, có duyên gặp mặt quý phi một lần, vừa gặp điện hạ đã cảm thấy quen mắt, cho đến khi bọn ta đưa ngài về, thấy Tú Nương, mới xác định ngài chính là tứ điện hạ mà bọn ta muốn tìm."

"Mười bốn năm trước Cố đại soái cũng chẳng qua là một đứa trẻ tóc trái đào, Tú Nương đã quên y từ lâu. Mới đầu, bọn ta vốn định tỏ rõ thân phận, đón hai người về kinh, không ngờ ngoài dự tính phát hiện Tú Nương âm thầm qua lại với người man. Để tránh đả thảo kinh xà, Cố soái vừa âm thầm điều một phần nhân thủ từ Tây Vực đến, vừa tương kế tựu kế gậy ông đập lưng ông – lần này người man mười tám bộ mất sạch tinh nhuệ, thế tử bị bắt, hàng loạt tài lực nhân lực bị chính họ tiêu hao, chí ít có thể cam đoan Bắc cương Đại Lương ta năm năm thái bình, mong điện hạ niệm tình mấy vạn bách tính biên quan, đừng so đo chuyện Đại soái lừa gạt."

Trường Canh nghe vậy, suy tính giây lát, đoạn thông tình đạt lý gật đầu: "Ừm."

Thẩm Dịch tức thì thở phào nhẹ nhõm, cười nói: "Năm đó Bắc man Thiên Lang dâng hai đại bảo vật thảo nguyên cho ngô hoàng, một là tử lưu kim, một là Thiên Lang thần nữ. Thần nữ thân phận cao quý, bệ hạ cảm niệm người Thiên Lang thành tâm, liền phong làm quý phi, là hoàng quý phi duy nhất của triều ta, còn chuyện về sau, hôm trước thần đã nói với điện hạ rồi. Quý phi nếu ở dưới suối vàng có biết, nhìn thấy điện hạ lớn như vậy, nhất định cũng sẽ rất vui mừng."

Trường Canh cười khẩy trong bụng, theo cách nói đó, vậy Tú Nương – Hồ Cách Nhĩ không phải dì ruột của y sao? Dì ruột đức hạnh kiểu này, mẹ ruột có thể tốt được đi đâu?

Trường Canh: "Ta cảm thấy dựa theo lẽ thường, câu chuyện này nên là 'quý phi' sau khi phát hiện hoài nghiệt chủng, liều mạng muốn chạy trốn, còn muốn dùng một bát thuốc phá thai giết chết đứa trẻ nhỉ?"

Thẩm Dịch: "..."

Cung đình bí sự không tiện nói tỉ mỉ, có điều thằng lỏi này đoán chuẩn thật.

Nhưng Thẩm Dịch dù sao cũng là hồ ly tinh từ nhỏ đã giao thiệp trong giới quyền quý, ngoài mặt lập tức giả bộ căng thẳng giật mình như thật: "Điện hạ nói gì thế? Nếu là do Tú cô nương, thì không cần nghĩ nhiều. Dù sao thì Tú cô nương cũng là người ngoại tộc, tâm hướng về bản tộc không có gì đáng trách, vả lại điện hạ cũng không phải con ruột của nàng ta. Huống chi, cho dù là như vậy, mấy năm nay nàng ta không ngại vất vả nuôi nấng điện hạ thành người, lại nghĩ mọi cách đem nửa mảnh ngọc bội uyên ương của điện hạ về kinh truyền tin, chắc hẳn là đã chuẩn bị sẵn sàng lấy thân tuẫn quốc, không muốn liên lụy điện hạ, quá nửa cũng là do niệm huyết mạch thân tình thôi. Dì còn như thế, thì mẹ ruột sao lại không thương ngài được?"

Dừng một chút, Thẩm Dịch lại nói: "Ngoại hình điện hạ như đúc cùng một khuôn với quý phi, tính tình lại đều giống Hoàng thượng, huyết mạch thân tình là không lừa được ai. Về phần Tú cô nương bẻ gãy ngón chân điện hạ, ta nghĩ chung quy là có ẩn tình khác, hoặc là điện hạ lúc ấy còn nhỏ, ký ức có lầm lẫn, cũng đều có khả năng."

Thẩm tiên sinh nói chuyện rất có lý, tài ăn nói trác tuyệt, nếu không phải Trường Canh biết rõ trên người mình còn có một loại kịch độc chậm rãi khiến người ta điên cuồng, chắc cũng lung lay vì câu chuyện được vẽ ra.

Y rốt cuộc không cách nào hoàn toàn tin tưởng chân tướng từ miệng người khác, trong lòng chứa một đấu suy đoán, một thạch hoài nghi, không nhịn được bóp vụn mỗi một câu của người ta ra để xem xét, hơi nghĩ sâu một chút, là cảm thấy nghi ngờ chất chứa.

Trường Canh bỗng cảm thấy mệt mỏi vô cùng.

Sau một nén nhang, Thẩm Dịch với khuôn mặt cười đến đơ ra, bị Trường Canh khách khí tiễn đi.

Trường Canh tiễn Thẩm Dịch đến cửa: "Trước kia ta kiến thức nông cạn, cho rằng Cố hầu gia thân thể không khỏe, thường xuyên dông dài, vạn mong Hầu gia thứ lỗi."

Thẩm Dịch hạ mắt, chỉ có thể nhìn thấy cái xoáy trên đỉnh đầu khi Trường Canh cự tuyệt nhìn thẳng mình, đành phải thở dài, tâm sự nặng nề mà rời khỏi tiểu viện bọn Trường Canh ở. Ra cửa rẽ vào đường mòn, nhác thấy Cố Quân nghe đâu "quân vụ bận rộn" ngay trong vườn hoa nhỏ ở ngoài viện.

Trong viện nhà Quách đại nhân trồng rất nhiều bạc hà, Cố Quân lẻ loi ngồi trong tiểu đình, vô công rồi nghề bứt lá bạc hà ngậm trong miệng, ngậm một hồi liền nhai nuốt luôn.

Không biết y ngồi một mình ở đây bao lâu rồi, một gốc bạc hà sắp sửa bị y nhổ trụi, hệt như một bụi cây bị sơn dương giày xéo vậy.

Thẩm Dịch ho nhẹ một tiếng, Cố Quân lại như không nghe thấy, cho đến khi y tới gần, Cố Quân mới nheo mắt một cách khó khăn, thấy rõ là y.

"Thuốc hết tác dụng rồi?" Thẩm Dịch thở dài.

Cố Quân vẻ mặt mù mờ, theo bản năng nghiêng mặt làm động tác cố gắng lắng nghe.

Thẩm Dịch đành phải tiến lại, ghé sát tai y: "Đi về trước, trở về nói với ngươi sau – đưa tay cho ta, ở đó có thềm đá."

Cố Quân lắc đầu cự tuyệt, lấy từ trong lòng ra một mảnh "kính lưu ly", đặt trên mũi, không nói một lời chậm rãi đi ra ngoài, hai nốt ruồi ở khóe mắt và vành tai dường như cũng tối đi.

Thẩm Dịch liếc lá bạc hà như bị con sơn dương họ Cố gặm trụi, đoạn đuổi theo.

Kỳ thực Cố Quân ở ngay sát vách Trường Canh, nhưng không giống với bên này, nơi ấy có vẻ lạnh lẽo.

Nếu Trường Canh nói một câu "Không cần hầu hạ", Quách thái thú nhất định sẽ trơ mặt ra, rùm beng khen "điện hạ cần kiệm yêu dân", sau đó nhét tới mấy chục tôi tớ.

Nhưng dù cho hắn mượn thêm cả bao gan, Quách đại nhân cũng chẳng dám chạy đến nịnh nọt Cố đại soái.

Cố Quân nhẹ tênh ném ra một câu "Đừng đến quấy rầy", thế là nơi y ở trừ các tướng sĩ Huyền Thiết doanh đáng sợ ra thì chẳng ai dám tùy tiện tiến vào nửa bước.

Trước kia trong tình huống nghe không thấy nhìn không rõ, Cố Quân sẽ hết sức căng thẳng, đặc biệt ghét người lạ lượn lờ xung quanh.

Thẩm Dịch rất lâu rồi chưa thấy sự căng thẳng nhìn cỏ cây cũng thành binh lính này; vốn tưởng rằng ẩn nấp ở Nhạn Hồi tiểu trấn hai năm, Cố Quân đã học được cách chung sống hòa bình với nhân gian mơ hồ này, nhưng hiện tại xem ra khả năng là vẫn chưa được.

Kẻ học được cách chung sống hòa bình chỉ là "Thẩm Thập Lục", không phải Cố Quân.

Kỳ thực Cố Quân người này thường nhật tỏ ra bình tĩnh và tính trước trong lòng, thật ra có đến tám chín phần mười là làm bộ, nhưng y làm bộ quá thật, thành thử chẳng ai nhận ra sơ hở cả.

Đồng thời, bệnh điếc và mù của y tuy đều là thật, lại đều giống làm bộ.

Xét từ phương diện này, có thể nói là Cố đại soái đã tự mình giải thích cho câu "giả tác thực thời chân diệc giả", Thẩm Dịch cũng không biết là trong lòng y thật sự thiếu bộ phận nào, hay chỉ cố ý làm vậy thôi.

A đúng rồi, chân tâm của y kỳ thực cũng là thật, nhưng hình như cũng chẳng mấy ai tin.

Gần tối, màn đêm vừa buông, sao Hôm chưa ló dạng, việc đầu tiên Cố Quân làm sau khi về phòng chính là thắp sáng tất cả đèn đóm.

Sau đó y tháo kính lưu ly, ra sức dụi mắt, nói với Thẩm Dịch: "Lấy thuốc cho ta."

Thẩm Dịch là một kẻ lắm điều nho nhã, lải nhải là nghề tay trái ngoài đánh trận, quen thuộc tiếp lời: "Đại soái, dược có ba phần độc, chưa đến thời điểm lửa sém lông mày, ta thấy ngươi nên cố gắng uống ít thôi..."

Cố Quân mặt không biểu cảm đứng ở dưới đèn, ánh mắt hơi mù mờ, không phản ứng.

Thẩm Dịch liền ngậm miệng – y đã nhớ ra, ở khoảng cách này, Cố Quân không nghe thấy y nói gì.

Bệnh điếc của Cố Quân là một tuyệt chiêu khắc chế kẻ lắm điều, một kích tất sát, những năm qua chưa bao giờ thất thủ, Thẩm Dịch đành phải im lặng xuống bếp sắc thuốc.

Kính lưu ly là một thứ rất dở, kẹp trên mũi, xung quanh hơi có biến hóa nóng lạnh là đều bám sương trắng che tầm nhìn, lại còn rất dễ vỡ, một khi vỡ cũng rất dễ làm mắt bị thương, hết sức bất tiện cho việc hành động của võ tướng, nhưng nếu chỉ là ở trong nhà mình, lúc cần gấp đeo một chút cũng không hề gì.

Sau khi Thẩm Dịch đi ra cửa, Cố Quân đã một lần nữa đặt kính lưu ly lên mũi, tự mình mài mực, cầm bút bắt đầu viết tấu.

Quách thái thú tuy chỉ là tiểu quan biên giới, nhưng cuộc sống không hề thanh bần, đèn trên bàn không phải loại bình thường, mà là một ngọn đèn măng-sông có thể chỉnh sáng tối, dựa trên viền hoa quá phức tạp, thì có khả năng còn là mua từ người di. (Di trong man di)

Cạnh đèn măng-sông có một cái đồng hồ Tây Dương nhái như thật, chỉ là nhìn kỹ thì thấy bên trên đánh các dấu be bé gồm thiên can địa chi và mười hai canh giờ, trên góc phải còn có cửa sổ nhỏ cho thấy hai mươi bốn tiết thay đổi, có vẻ dở ngô dở khoai, phần dưới cái đồng hồ trong suốt, bánh răng lớn bé đều đều đẩy đi, Cố Quân ghét thứ này, bởi bánh răng quay rất ồn ào, định bụng hôm khác kêu người lấy ra.

Nhưng trước mắt thì không hề gì, vì dù sao y cũng chẳng nghe thấy.

Chờ Thẩm Dịch bưng một bát thuốc quay lại, thì Cố Quân vừa vặn viết xong gác bút.

Cố Quân: "Xem thử giúp ta xem có chỗ nào chưa ổn hay không."

Đèn măng-sông sáng chói mắt, trên chụp đèn còn có một loạt nữ nhân Tây di lộ ngực, họ õng ẹo uốn éo, lộ rõ đến từng chân tơ, Thẩm Dịch dùng tay che ánh sáng một chút, làu bàu: "Thật khiếm nhã!"

Sau đó y nhanh chóng xem lướt một lần tấu chương của Cố Quân, than ngắn thở dài: "Có chỗ chưa ổn hay không? Đại soái à, thứ cho Thẩm mỗ tài hèn học ít, ta chẳng thấy có chỗ nào ổn cả."

Cố Quân: "Hả? Cái gì?"

Thẩm Dịch: "..."

Thẩm Dịch vê một góc bản tấu của Cố Quân, nhét lại vào lòng y, nhẹ nhàng đỡ khuỷu tay y, lại chỉ chỉ cái sập nhỏ bên cạnh, ý bảo y ra đó ngồi cho mát, rồi tự mình trải giấy chấm mực, định bắt đầu viết lại một tờ mới.

Cố Quân bưng bát thuốc, thoải mái dốc một hơi cạn sạch, sau đó ngả lên sập mỹ nhân tinh xảo, giày cũng không thèm cởi, chân bắt chéo rõ cao, lẳng lặng chờ thuốc có tác dụng, đồng thời tay y cũng chẳng nhàn rỗi – Cố Quân nhanh nhẹn gấp tờ sớ ban nãy thành một con chim én, sau đó phóng thẳng tới gáy Thẩm Dịch.

Tay tên này khốn đến mức nào!

Thẩm Dịch nghe thấy tiếng gió, giơ tay chụp lấy, quả thực rất bất đắc dĩ, hỏi Cố Quân: "Ta nói thế này nghe thấy không?"

"Cũng được, hơi mơ hồ một chút," Cố Quân nói, "Dù sao thì ý ta chính là như ban nãy viết, ngươi theo đó sửa lại cho hay giúp ta là được rồi."

Thẩm Dịch thở dài: "Đại soái, ngươi nói với Hoàng thượng, là hoàng tứ tử điện hạ nhìn thấu âm mưu của Hồ nữ và người man, đại nghĩa diệt thân, mới giúp quân ta chiếm tiên cơ, nhất cử tiêu diệt người man? Chuyện này ngươi tin nổi không?"

Cố Quân chẳng biết uống linh đan diệu dược gì, mà hai nốt ruồi nhỏ ở khóe mắt và vành tai phảng phất sống lại, một lần nữa đỏ tươi.

"Không thì sao?" Cố Quân hỏi lại, "Chẳng lẽ nói với Hoàng thượng, ta muốn độc bá quân quyền Đại Lương rất lâu rồi, Tây chinh mới kết thúc đã gấp gáp toan tính thâu tóm binh quyền Bắc cương, sớm muốn mượn cơ hội bảo hộ tiểu hoàng tử để chạy đi đặt bẫy người man? Hay là nói ta âm thầm nhúng tay vào chợ đen tử lưu kim bị cấm, vô tình phát hiện lượng tử lưu kim mấy năm nay chảy vào chợ đen lớn đến bất thường?"

Thẩm Dịch: "..."

Cố Quân dõng dạc không ngượng: "Ngươi có thể vo tròn một chút, để nó có vẻ đáng tin hơn, chứ không thì ta cần ngươi làm gì? Hơn nữa, có bà mẹ ruột xui xẻo kia, thằng bé Trường Canh sau khi về kinh không thể thiếu bị mấy lão vương bát đản làm khó dễ, lát ngươi còn phải gọt giũa ngon lành cho ta, cứ nói tứ hoàng tử dù rằng thân thế thê khổ, nhưng tấm lòng tinh trung báo quốc chân thành không giảm, nhất định phải thổi cho bi tình vào, chỉ cần làm Hoàng thượng phát khóc, xem còn kẻ nào dám lắm miệng."

Thẩm Dịch: "..."

Mới bắt y dỗ hoàng tử xong, lại bắt y làm Hoàng đế khóc.

Thẩm Dịch cười gằn gác bút: "Mực trong bụng Thẩm mỗ không đủ, Đại soái nên mời cao nhân khác đi."

Cố Quân: "A!"

Thẩm Dịch nghiêng đầu, thấy y không hề có thành ý chơi khổ nhục kế: "Ta đau đầu, đau đau đau đau sắp bể rồi – Quý Bình huynh, trừ huynh ra, bên cạnh ta không còn ai giúp đỡ, sao huynh nhẫn tâm phụ ta chứ? Trần thế thê lương này thật là vô tình vô nghĩa, ta còn sống làm gì nữa?"

Nói xong y ôm ngực ngã vật xuống sập, dùng tư thế ván quan tài mà giả chết.

... Nói đau đầu mà ôm ngực làm quái gì?

Trên mu bàn tay Thẩm Dịch nổi lên hàng loạt gân xanh li ti.

Nhưng lát sau, Thẩm Dịch bất đắc dĩ vẫn đành một lần nữa ngồi xuống, trải giấy, cân nhắc câu từ mà sửa tấu chương cho Cố Quân.

Cố Quân sau khi nằm xuống không làm xác chết vùng dậy nữa, bởi vì y đau đầu thật, Thẩm Dịch cũng biết – đây là di chứng của bát thần dược kia, uống thuốc xong, thoạt đầu có một nén nhang tai thính mắt tinh, toàn thân khoan khoái vô cùng, chờ một nén nhang này qua, đầu y sẽ đau như búa bổ, vừa mở mắt liền cảm thấy hết thảy bên cạnh đang xoay vòng vòng, tất cả thanh âm lúc xa lúc gần.

Loại bệnh trạng này khoảng non nửa canh giờ sau mới chậm rãi giảm đi, sau đó tai mắt y có thể tạm thời giống người bình thường.

Bình thường bao lâu thì khó mà nói – khi Cố Quân lần đầu tiên dùng loại thuốc này, y đau đến mức phải đâm đầu vào cột giường, sau đó chừng hơn ba tháng nhìn rõ và nghe rõ, làm cho y suýt nữa quên trên người mình còn có hai cơ quan không tốt. Mà theo việc y dùng thuốc ngày càng thường xuyên, một mặt luyện thành tuyệt kỹ mặc kệ đau cỡ nào cũng có thể cắm đầu ngủ ngay, đồng thời dược hiệu tựa hồ cũng đang chậm rãi giảm đi.

Đến bây giờ, một liều thuốc chỉ có thể dùng được dăm ba hôm.

"Có khả năng qua vài năm nữa là triệt để hết hiệu nghiệm thôi." Thẩm Dịch nghĩ.

Hai người một ngồi một nằm, chẳng nói năng gì, tận đến đêm khuya, xa xa vẳng tới tiếng điểm canh, Thẩm Dịch mới gác bút, quay người lại nhặt một tấm chăn đắp cho Cố Quân. Cố Quân vẫn duy trì tư thế ngủ ván quan tài hệt như lúc đầu, không hề nhúc nhích, chỉ có mày nhíu lại, môi và má nhợt nhạt không chút máu, hai nốt ruồi chu sa tôn nhau sáng lên.

Thẩm Dịch nhìn y một cái, rồi khẽ khàng đi ra ngoài.

Ngày hôm sau, Cố đại soái vừa bò dậy thì lại thành một An Định hầu sinh long hoạt hổ.

Trời còn chưa sáng, Thẩm Dịch đã bị Cố Quân dậy sớm đập cửa đánh thức, ngái ngủ ra mở cửa.

Chỉ thấy Cố Quân rất đắc ý nói: "Thứ ta đặt rốt cuộc đã tới tay rồi, ngươi cứ chờ xem, ta đi thỉnh tội, bảo đảm có thể dỗ được tiểu hỗn đản đó!"

Thẩm Dịch ra sức chớp chớp mắt, trong lòng có chút dự cảm xấu.

An Định hầu sai bốn tướng sĩ Huyền Thiết doanh khiêng cái rương to còn dài hơn cả xà nhà, hùng dũng đi tìm Trường Canh, khi đi qua gốc bạc hà hôm qua phá hoại, lại bứt một lá nhét vào miệng, cũng không ngại rìa lá chọc, dùng phiến lá thổi một khúc do y tự sáng tác, từ đằng xa tuyên cáo lão nhân gia đại giá quang lâm.

Kết quả là vừa bước một chân vào cửa viện của Trường Canh, một thanh trọng kiếm đằng đằng sát khí đã mở cửa đón khách, tiểu tư chuẩn bị dâng trà bên cạnh sợ quá hét lên một tiếng, khay trà rơi xuống đất, ấm chén bát đĩa cùng nát bét.

Cổ tay áo Cố Quân nháy mắt bắn ra một thanh tiểu đao dài bằng bàn tay, đè lên trọng kiếm Trường Canh đang cầm, cả người trượt đi như cá bơi, rìa hai lưỡi đao sắc bén ma sát nhẹ, phát ra một tiếng ngân nga. Sau đó Cố Quân bấm tay bắn nhẹ, cổ tay Trường Canh tức khắc tê rần, suýt nữa đánh rơi trọng kiếm, đành phải thối lui.

Cố Quân bắn tiểu đao về bao cổ tay, chắp tay cười nói: "Mới sáng sớm, điện hạ có việc gì không hài lòng à? Không sao, cứ việc trút lên người thần cho nguôi giận là được."

Trường Canh: "..."

Có thể tên họ Cố tự cho là mình đến chịu đòn nhận tội, nhưng đáng tiếc, nhìn kiểu nào cũng giống đặc biệt đến gây sự hơn.

Đại ca sáng sớm luyện kiếm, Cát Bàn Tiểu vốn chuẩn bị sẵn sàng nịnh bợ, nào ngờ chưa kịp nói gì thì đã có màn này, đương trường sợ mất mật, đứng đực ra bên cạnh không dám thở mạnh.

Trường Canh sáng dậy trông như ngủ không ngon, sắc mặt hơi tái xanh, khóe mắt giật nhẹ, nhìn Cố Quân một cái thâm sâu. Sau đó y chậm rãi buông mũi kiếm xuống, kiềm chế mà thấp giọng nói: "Là ta nhất thời thất thủ, đắc tội Hầu gia rồi."

Cố Quân chà chà cằm, cố nghiêm mặt không dám cười.

Y thử giơ tay, muốn bá vai Trường Canh như mọi khi, không ngoài dự liệu bị Trường Canh né tránh.

Trường Canh lãnh đạm nói: "Mời Hầu gia vào."

Cố Quân xấu hổ rụt tay về, đặt lên môi ho khan một tiếng: "Trường Canh, từ từ."

Nghe y gọi tên mình, Trường Canh vô thức dừng chân. Chỉ thấy Cố Quân quay người lại, vẫy tay gọi phía sau. Mấy vị khiêng rương lập tức chỉnh tề đi vào, đặt rương trong viện, đồng thời lui về sau, quỳ một gối xuống thành hàng.

"Đại soái."

Cố Quân đưa tay đỡ hờ một chút, ý bảo các tướng sĩ đứng dậy, sau đó tự mình tiến lên mở khóa trên rương. Tay y đặt trên cái khóa rườm rà, giống như không hề có thành ý cầm cái trống bỏi cùi dụ trẻ con, còn muốn ra vẻ huyền bí, quay đầu cười bảo Trường Canh: "Tới đây, ta cho ngươi xem thứ này hay lắm."

"Cạch" một tiếng rương bật mở, Cát Bàn Tiểu kéo Trường Canh, thấy Trường Canh vẻ mặt thản nhiên, bản thân liền không kiềm chế được tò mò, tiến lên thò đầu dòm thử, lập tức giật mình kêu ra tiếng.

Chỉ thấy trong rương lẳng lặng nằm một bộ trọng giáp màu bạc không chút tạp sắc, đường cong trơn tru đến gần như lóa mắt, đẹp đến dọa người, so với nó thì mớ trọng giáp không biết người man kiếm đâu ra thực chẳng khác nào cục mụn cơm cồng kềnh cả.

Cố Quân khá tự đắc nói: "Đây là đợt trước ta đặt đại sư của Linh Xu viện làm, hiệu suất tử lưu kim đốt cao gấp đôi trọng giáp tương tự, các khớp có tầng gia cố, không như mấy thứ hàng dỏm của người man, bị một mũi tụ trung ty kẹp lại, là một kiệt tác, so với bộ ta dùng lúc trẻ còn tốt hơn nhiều, chỉ là còn chưa có tên... Ngươi cũng nên đến tuổi có đại danh rồi, có thể để tiểu danh lại cho nó."

Trường Canh trừ lúc ban đầu hơi lóa mắt trước trọng giáp, ngoài mặt không thấy biểu cảm gì khác, đặc biệt là khi nghe Cố Quân đề nghị y đặt tên cho trọng giáp là "Trường Canh".

Hai chữ "Trường Canh" này không biết từ khi nào trở thành ai cũng thích, Tú Nương Hồ Cách Nhĩ, Cố Quân, họ đều chung tình với nhũ danh của y.

Độc dược bức người ta điên cuồng mà cừu nhân được y coi là mẹ ruột trước khi chết cho y, tên "Trường Canh", tiểu nghĩa phụ y vốn muốn trông nom cả đời trước khi hóa thành bọt nước, tặng y một bộ trọng giáp tuyệt đại vô song, cũng đề nghị y đặt tên là "Trường Canh".

Còn sự trùng hợp nào châm chọc hơn không?

Tóm lại, Cố đại soái thiên phú dị bẩm trong tình huống bản thân không hay biết, lại lần nữa thành công "nhắc chuyện không nên nhắc".

Sự im lặng đáng kể của Trường Canh khiến mọi người chung quanh bất an, Cát Bàn Tiểu lê bước tới, kéo áo Trường Canh: "Đại ca, không mặc thử xem? Lần đầu tiên đệ nhìn thấy trọng giáp chính là ngày đám người man kia xuất hiện đấy."

Trường Canh đột nhiên cúi đầu, không hé răng một tiếng, quay người về phòng, đóng sầm cửa lại.

Nụ cười trên khóe môi Cố Quân dần hơi đắng, y đứng ở cửa viện, có vẻ hơi vô thố, nhưng rồi nhanh chóng nghĩ ra, tự giễu mà tìm lối thoát cho mình: "Lần đầu làm nghĩa phụ người ta, không làm tốt, bị chê cười rồi."

Một vị tướng sĩ Huyền Giáp tiến lên hỏi: "Đại soái, giáp này..."

"Đặt ở... Ừm, đặt ở gian ngoài đi, sau đó để chìa khóa lại cho y." Cố Quân dừng một chút, giống như tính nói gì, cuối cùng vẫn nản lòng nói, "Thôi."

Y mặc thường phục màu chàm, quần áo phong phanh, người cũng chẳng dày mấy, phí không ít tâm tư muốn lấy lòng, thế mà vỗ mông ngựa lại trúng ngay đùi, đành phải nhìn cánh cửa đóng chặt trước mặt mà phát sầu, thoạt trông hơi đáng thương.

Thẩm Dịch thấy tình cảnh này, không nhịn được oán thầm: "Ngươi không phải ngông cuồng lắm sao, lần này đá trúng thiết bản rồi chứ gì? Đáng!"

Trong lòng Cát Bàn Tiểu hơi khó chịu, gã gãi đầu: "Thập Lục thúc..."

Cố Quân sờ trán Cát Bàn Tiểu, miễn cưỡng cười cười: "Không sao, các ngươi cứ đi chơi đi."

Nói xong, y quay người sải bước về hướng Thẩm Dịch, lôi Thẩm Dịch đi rất xa, mới thấp giọng rỉ tai: "Lần trước tặng thiết oản khấu chẳng phải y rất vui mừng à, sao lần này không hữu dụng nữa?"

Thẩm Dịch nhìn xung quanh, thấy bốn bề vắng lặng, liền thẳng thắn chế nhạo: "Đại soái, ngươi coi người ta là chày gỗ hay sao mà lần nào cũng một chiêu đó vậy?"

Cố Quân hơi nôn nóng: "Bớt nói mát đi, vậy ngươi nói phải làm sao bây giờ?"

Thẩm Dịch trợn mắt: "Ngươi xem, ngươi ở Bắc cương làm chuyện lớn như vậy, mà lại giấu giếm y lâu đến thế. Y moi tim moi gan ra đối đãi ngươi, còn ngươi thì sao? Y bây giờ vẫn cảm thấy ngươi giả mù giả điếc lừa y – lại thêm mẹ ruột nuôi nấng từ nhỏ là gian tế Bắc man, hiện tại cũng mất, không chừng còn là bị ngươi bức tử..."

"Cái rắm," Cố Quân ngắt lời, "Người như yêu nữ thảo nguyên, nhất định là biết việc lớn thành công mới cam tâm tự sát, nếu y thị sớm biết ta đến, nhất định hiểu rõ chúng không có cơ hội, còn khuya mới chịu chết."

Thẩm Dịch cân nhắc câu này một chút, không hiểu trong đây là quan hệ nhân quả thế nào, chỉ nghe ra Cố soái "anh hùng thiên hạ, ngoài ta còn ai" mới là trọng điểm – cái gì là "biết y đến, liền hiểu mình không có cơ hội"?

Đúng là hết thuốc chữa!

Thẩm Dịch không thèm để ý đến y, nói lấy lệ: "Ngươi hãy để y một mình yên tĩnh vài ngày, đừng dùng trò dỗ tiểu thiếp chạy tới làm phiền y, chờ y tự mình định thần lại đi."

Cố Quân: "Ta không có tiểu thiếp."

Thẩm Dịch cười khẩy: "Đúng vậy, ngươi ngay cả một bà vợ cũng không có."

Cố Quân đạp y một phát.

Song mới đi hai bước, Cố đại soái lại ngộ ra, cho rằng việc này gãi đúng chỗ ngứa – vừa vặn y cũng lười quay về kinh thành.

Nhưng dẫn theo tiểu hoàng tử, chung quy không thể nán lại mãi ở Nhạn Hồi, y hơi đổi ý nghĩ, một chủ ý tệ hại liền nảy ra trong lòng.

Cố Quân nói với Thẩm Dịch: "Vừa khéo, tấu đêm qua còn chưa gửi, ngươi quay về sửa lại, cứ nói tứ điện hạ chí thuần chí hiếu, tuy trung hiếu khó lưỡng toàn, rốt cuộc vì nước vì dân đại nghĩa diệt thân, nhưng sau đó bi thương quá độ, ngã bệnh liệt giường, chúng ta ở lại Nhạn Hồi nghỉ ngơi một thời gian, chờ thân thể điện hạ khỏi hẳn lại về kinh. Nhất định phải viết thật hợp tình hợp lý, cố gắng làm Hoàng thượng phát khóc thì thôi."

Thẩm Dịch: "..."

Chỉ cần đánh thắng được thì bây giờ y nhất định phải tự tay đánh họ Cố phát khóc.

Đáng tiếc, người tính không theo kịp trời tính.

Ngày hôm sau khi Cố Quân lại ở trên tường xem Trường Canh luyện kiếm, một Huyền Ưng đột nhiên đưa tới kim bài lệnh khẩn cấp, Cố Quân xem qua liền biến sắc.

Hoàng thượng bệnh tình nguy kịch, triệu An Định hầu đưa tứ hoàng tử về gấp.

Cố Quân từ trên tường nhảy xuống, Trường Canh mang máng nghe thấy y phân phó ai đó ở bên ngoài: "Kêu Quý Bình tới gặp ta, chúng ta lập tức chuẩn bị hồi kinh."

Trường Canh ngẩn người, chống trọng kiếm đứng đó, ngửi thấy mùi tiền đồ chưa biết.

Cả Đại Lương đều cảm thấy y là tứ hoàng tử gì đó, ngoại trừ chính y.

Trường Canh luôn cảm thấy mệnh cách mình quá ti tiện, nếu thật là một hoàng tử, bất kể là thuần chủng hay tạp chủng, chung quy nên có huyết mạch chân long thiên tử che chở chứ?

Đâu tới nông nỗi này?

Nhưng nói đi cũng phải nói lại, y rốt cuộc là hoàng thân quốc thích hay con cháu ăn mày, bản thân y cũng chẳng quyết định được.

Cát Bàn Tiểu sát ngôn quan sắc, thông minh nhận thấy tâm tình Trường Canh không tốt, lập tức cười hì hì sán lại: "Không sao, đại ca, về sau đệ đi theo huynh, nếu huynh làm Đại tướng quân, đệ làm thị vệ, nếu huynh làm đại quan, đệ làm thư đồng, nếu huynh làm Hoàng đế, đệ làm thái... Ưm!"

Trường Canh bịt miệng gã ta, trừng mắt nói: "Chuyện nhảm như vậy nói lung tung được sao, ngươi không muốn sống nữa à?"

Đôi mắt đậu xanh của Cát Bàn Tiểu xoay tới xoay lui.

Tâm tình u uất của Trường Canh đột nhiên khá hơn, ngay cả tiểu bàn tử nhà đồ tể cũng chẳng thấy vấn đề gì, nếu mà y còn nơm nớp lo sợ, chẳng phải là quá vô dụng sao?

Trường Canh thầm nghĩ: "Thôi mình chạy quách cho rồi, dù sao cũng chẳng có gì vướng bận, chạy vào núi thẳm rừng già làm thợ săn, ai cũng không tìm ra."

Song quyết định muốn chạy, đầu tiên phải cắt bỏ Thập Lục... Cố Quân, Trường Canh thử động một đao, liền đau đến mức ruột gan đứt từng khúc, đành phải tạm thời gác lại, vừa gác lại, liền nước chảy bèo trôi bị Cố Quân dẫn lên đường về kinh.

Cát Bàn Tiểu nói đi theo liền đi theo, nam hài lớn lên ở nông thôn này quyết đoán chọn cho mình con đường xa tận đế đô, còn mua một tặng một – ngày hôm sau lúc chuẩn bị xuất phát, Trường Canh nhìn Tào Nương Tử trước mặt tuy đã thay trang phục nam hài nhưng vẫn giống hệt nữ cải nam trang, thật sự hết ý kiến.

Tào Nương Tử lấy hết dũng khí, cố gắng uốn giọng nói: "Trường Canh đại ca, ngày đó huynh đã cứu mạng ta bên sông ngầm, cha ta nói, nam tử hán đại trượng phu, không thể vong ân phụ nghĩa, ân cứu mạng nên lấy thân báo đáp..."

Lúc nghe "nam tử hán đại trượng phu" Trường Canh đã nổi da gà, khi nghe "lấy thân báo đáp" dạ dày liền hơi đau, khô khan trả lời: "Lấy thân báo đáp thì không cần đâu."

Tào Nương Tử tai đỏ bừng, xấu hổ nói: "Ta... chỉ muốn theo huynh đến kinh thành, ở bên hầu hạ."

Trường Canh vốn định từ chối, nhưng lời ra đến miệng, lại tự mình trượt vào họng một cách lạ kỳ. Trong ấn tượng, Cát Bàn Tiểu và Tào Nương Tử một là cái đuôi, một căn bản chưa nói được mấy câu hoàn chỉnh trước mặt y, không thể nói là có giao tình gì, nhưng một khi rời khỏi Nhạn Hồi tiểu trấn, hai người này lại giống như trở thành toàn bộ ký ức của y với nơi đây – không tính Thẩm Thập Lục.

Trường Canh hơi do dự, quay đầu nói với thị vệ Cố Quân cho y dùng tạm trên đường: "Làm phiền vị đại ca này hỏi thử An Định hầu."

Thị vệ mau chóng quay lại: "Đại soái nói toàn bộ do điện hạ làm chủ."

Trường Canh thở phào một hơi, thầm nghĩ quả nhiên việc nhỏ nhặt không đáng nhắc đến này, Cố Quân sẽ không quản.

Dẫn theo Cát Bàn Tiểu và Tào Nương Tử, Trường Canh leo lên ngựa, quay đầu nhìn Nhạn Hồi tiểu trấn sau lưng lần cuối.

Nơi này từng có cự diên trở về, đám đông huyên náo xếp hàng hai bờ sông đón chào, tuy nghèo rớt mồng tơi, chung quy vẫn luôn yên bình vui vẻ, hiện giờ chẳng qua bị chiến hỏa quét qua rìa, mà cả trấn nhỏ như rơi vào bóng tối, xa gần chỉ có tiếng quạ kêu.

Trong lòng Trường Canh có dự cảm khó tả – y cảm thấy những ngày vui vẻ đơn giản trước kia, chỉ e không bao giờ quay lại nữa.

Đội quân tinh nhuệ của Huyền Thiết doanh lao về kinh thành như hành quân gấp, dù là người thiếu niên tinh lực dồi dào, sau vài ngày cũng không khỏi kiệt sức.

Hôm nay ngủ lại một sơn cốc, Trường Canh trong lúc mơ màng gặp một cơn ác mộng lạ lùng. Y mơ thấy mình cầm một thanh cương đao, đâm xuyên ngực Cố Quân, máu phun rất cao, Cố Quân mặt như tờ giấy, ánh mắt ảm đạm, hơi tán loạn rời rạc, một dòng máu nhỏ chảy xuống khóe môi.

Trường Canh hét to một tiếng "nghĩa phụ", giật mình ngồi bật dậy, mồ hôi nóng vã đầy đầu, vô thức sờ ngực.

Trường Canh mài nhẵn thanh tụ trung ty đã phế, phát hiện nó phế rất kỳ lạ, dấu vết bị tử lưu kim đốt cháy lưu lại như hoa văn, tựa một đám mây lành, liền tự mình đục một lỗ, đeo lên cổ.

Thanh tụ trung ty ấy đã giúp y giết một người man, Trường Canh cho rằng mình đã thấy máu, thì không thể tính là trẻ con nữa, có tư cách làm người đàn ông chân chính rồi, vì thế suốt ngày đeo trên người.

Mảnh huyền thiết chạm vào ngón tay lạnh ngắt, dần dần bình ổn nỗi lòng Trường Canh.

Y chậm rãi thở ra một hơi khí bẩn, ra khỏi lều của mình, thị vệ trực đêm trông thấy, lập tức muốn theo, nhưng bị y cự tuyệt.

Trường Canh một mình đến bên dòng sông nhỏ, rửa mặt, nghe trong bụi cỏ có tiếng côn trùng rả rích kêu, thuận tay mò thử, liền bắt được một con dế cuối thu be bé.

Lưu hỏa là sắp hết mùa thu mát mẻ, mệnh số của con vật nhỏ này, cũng sắp kết thúc rồi. Trường Canh cảm thấy nó rất đáng thương, bèn buông tay phóng sinh, không mục đích tản bộ dọc bờ sông, bất tri bất giác đến trước soái trướng của Cố Quân.

Y định thần lại, nở nụ cười tự giễu, vừa định quay đi thì đột nhiên trông thấy Thẩm Dịch vội vã chạy tới, tay bưng một cái bát gốm, mùi thuốc quen thuộc tỏa ra.

Trường Canh nhăn mũi, đi không nổi.

Trường Canh rất khó coi Thẩm Thập Lục và Cố Quân là cùng một người.

Thẩm Thập Lục chẳng qua là một tên lưu manh ở trấn nhỏ biên thùy, suốt ngày chơi bời lêu lổng lang thang khắp nơi, ăn uống chọn nạc kén mỡ, không chịu làm việc, vừa chân thật vừa đáng ghét.

Nhưng Cố Quân thì khác.

Đối với đại đa số trên thế gian này, "Cố Quân" có khả năng không tính là một con người, mà giống một phù hiệu hơn, có ba đầu sáu tay, thủ đoạn thông thiên.

Một quốc gia khổng lồ, lãnh thổ ngàn dặm, chẳng phải cũng chỉ có một Cố Quân thôi sao?

Không riêng gì Trường Canh, ngay cả bọn Cát Bàn Tiểu, Tào Nương Tử bây giờ nhắc tới, cũng cảm thấy như nằm mơ vậy.

Nhưng Trường Canh khác với hai tiểu bằng hữu, vì dù gì thì Thẩm Thập Lục cũng không phải là nghĩa phụ của người ta.

Không phải Trường Canh oán hận Cố Quân lừa y, dù sao thì bắt đầu từ khi sinh ra, y đã sớm bị lừa thành quen rồi, thêm hay bớt một lần cũng chẳng hề gì.

Hơn nữa, đường đường An Định hầu, lại có thể mưu toan gì từ một tiểu tử nghèo tứ cố vô thân như y?

Tiểu nhân vật như y đời này có thể gặp An Định hầu một lần, đại khái đều là nhờ phúc Tú Nương gán ép cho y thân thế giả dối. Người ta chịu hạ mình lừa y, nhất định đều có lý do khác.

Chỉ là, tình cảm bên ngoài của Trường Canh, hai phần cho láng giềng quê nhà, hai phần cho Từ bách hộ luôn đi vắng, sáu phần còn lại dành hết cho tiểu nghĩa phụ, Cố đại soái bỗng dưng làm mất tiểu nghĩa phụ, khiến sáu phần cảm xúc ấy trống vắng rơi xuống đất, trải dài hàng dải máu trong tim.

Mà lúc này, Thẩm Dịch đêm khuya đưa thuốc lại khiến "Thẩm Thập Lục" và "Cố Quân" hai cái bóng hoàn toàn trái ngược bất ngờ chồng lên nhau.

Một lát sau, Thẩm Dịch bưng bát không đi ra, Trường Canh nghe thấy y dặn dò thị vệ của soái trướng: "Các ngươi canh ở đây, đừng để ai vào quấy rầy y."

Trường Canh chần chừ giây lát, cuối cùng vẫn như ma xui quỷ khiến cất bước đi tới.

Đồng hành nhiều ngày, thân vệ của Cố Quân đương nhiên nhận được y, nhưng do phân phó của Thẩm Dịch vừa rồi, đành phải bất chấp khó khăn tiến lên ngăn cản: "Điện hạ, Đại soái hôm nay không khỏe lắm, đã uống thuốc đi ngủ rồi, nếu ngài có việc gì, cứ phân phó một tiếng, thuộc hạ cũng có thể làm thay."

Người trước kia ở ngay sát vách, chẳng cần gõ cửa có thể tùy ý đi tìm, hiện giờ ngay cả gặp mặt một lần cũng phải làm khó người khác.

Trường Canh hơi buồn bã cúi đầu: "Vị đại ca này..."

Thân vệ sợ quá quỳ thụp xuống: "Thuộc hạ không dám."

"Không không, ta không có ý đó," Trường Canh vội vàng khoát tay, rồi ngay lập tức nở nụ cười bất đắc dĩ, than thở, "Trước kia ở Nhạn Hồi, ta còn từng bưng thuốc cho y, ta chỉ muốn nhìn một cái, nếu thật sự không tiện thì thôi, ta..."

Y không nói nổi nữa, đành phải nở nụ cười câu nệ. Trong lòng Trường Canh thầm hạ quyết tâm, nếu lần này bị cự tuyệt ngoài cửa, y sẽ không đến rước nhục nữa.

Ai ngờ đúng lúc này, một thân vệ khác tiến lại rỉ tai: "Chẳng phải Đại soái đã phân phó, nếu điện hạ muốn gặp ngài, thì không cần thông báo sao? Đừng có cứng nhắc."

Trường Canh tai thính mắt tinh, đương nhiên nghe thấy, y hơi kinh ngạc ngẩng đầu lên, trong lòng nhất thời không rõ là cảm thụ gì. Cứ thế, y được cho vào.

Mùi thuốc trong trướng còn chưa tan, màn kéo ra, một người lặng lẽ nằm ở đó.

Hơi đến gần, Trường Canh mới phát hiện thì ra Cố Quân chưa ngủ.

Cố Quân khả năng là đau đầu, hai tay ấn mạnh huyệt thái dương, cau mày rất sâu, lại không phát hiện có người tiến vào.

Trường Canh cách vài bước ho một tiếng, khẽ gọi: "Hầu..."

Y vừa lên tiếng, Cố Quân trên giường nháy mắt đã bật dậy, thò tay rút một thanh bội kiếm trong chăn, tuốt khỏi vỏ ba tấc. Trường Canh ngay cả mắt cũng chưa kịp chớp, mũi kiếm sáng loáng đã đặt trên cổ, hàn ý trườn lên xuôi theo cổ y, người cầm kiếm như thể ác long bị đánh thức.

Trường Canh giật mình vì sát ý ấy, buột miệng thốt ra: "Thập Lục!"

Cố Quân hơi nghiêng đầu, một lúc lâu mới nheo mắt, tựa hồ nhận ra Trường Canh, ậm ừ nói một tiếng: "Xin lỗi."

Y lại nhét bội kiếm vào chăn, khẽ sờ cổ Trường Canh giây lát: "Ta chưa làm ngươi bị thương chứ?"

Trường Canh kinh hồn vừa hết thì một sự nghi hoặc thấp thoáng lại bỗng nhiên nảy ra, nghĩ thầm: "Y sẽ không thật sự không thấy rõ chứ?"

Nhưng lập tức lại cảm thấy không thể – An Định hầu sao lại là kẻ mù dở cho được?

Cố Quân mò được một tấm áo ngoài, khoác đại lên người: "Sao ngươi lại tới đây?"

Y vừa nói vừa muốn đứng dậy, không ngờ đứng nhanh, hơi loạng choạng, thế là lại ngồi xuống. Cố Quân hít sâu một hơi, một tay đặt trên trán, một tay vịn mép giường.

"Đừng nhúc nhích." Trường Canh vô thức đưa tay đỡ y.

Trường Canh chần chừ một chút, khom lưng nâng chân Cố Quân lên, một lần nữa đặt lên giường, rồi lại kéo chăn giúp, tránh một mớ tóc dài xõa tung ở đầu giường, lật vai đỡ y nằm xuống. Làm xong những việc này, Trường Canh xấu hổ đứng đực ra đó một lúc, vắt hết óc cũng không biết nên nói gì, đành phải gượng gạo hỏi han: "Ngươi làm sao vậy?"

Thuốc trên người Cố Quân đang phát tác, không liệu được Trường Canh đang "giận dỗi" mình sẽ đột nhiên tới thăm, chỉ đành miễn cưỡng nén cơn đau đầu và thanh âm chợt vang chợt mơ hồ bên tai.

Y định đuổi Trường Canh đi trước, liền điềm nhiên cười nói: "Khiến một tiểu bạch nhãn lang trở mặt không nhận người tức giận – làm phiền điện hạ lấy bầu rượu đến cho ta."

Theo kinh nghiệm của y, vào những lúc thế này, uống một ngụm rượu hình như có thể đỡ hơn.

Trường Canh cau mày, hồ nghi nhìn y.

Cố Quân đầu đau như búa bổ, liền thuận miệng nói dối: "Rượu thuốc Thẩm Dịch phối chế, trị đau nửa đầu."

Nghe nói thời cổ kẻ hiệp thiên tử lệnh chư hầu cũng thường xuyên bị đau nửa đầu, mọi người đều hay liên tưởng, y vừa nói như vậy, Trường Canh quả nhiên bị lừa, lấy cái bầu nhỏ treo cạnh khinh giáp tới cho y.

Cố Quân nốc một hơi hết nửa bầu, thấy sắp cạn, Trường Canh vội nắm cổ tay y, giật lấy bầu rượu: "Đủ rồi, rượu thuốc cũng không thể uống như vậy được."

Rượu mạnh vào bụng như lửa, máu toàn thân sôi trào lên, Cố Quân phun ra một hơi, quả nhiên cảm thấy trước mắt rõ hơn, nhưng có thể là uống quá nhanh nên y thấy hơi say. Hai người nhất thời không có gì để nói, tròn mắt nhìn nhau một lúc, Cố Quân không gượng nổi nữa, liền dựa đầu giường, khẽ nhắm mắt lại.

Y rõ ràng có ý tiễn khách, Trường Canh cũng biết mình nên đi rồi, nhưng dưới chân lại như mọc rễ.

Trường Canh vừa thầm phỉ nhổ mình: "Ngươi quan tâm cũng uổng phí thôi, còn không thức thời đi cho mau."

Vừa không tự chủ được đưa tay ấn huyệt vị giúp Cố Quân.

Vừa ấn vừa cảm thấy mình hèn, nhưng tay lại dừng không được.

Trán Cố Quân lạnh ngắt, trừ ban đầu nhíu mày một chút, thì không phát biểu ý kiến khác, thuận theo mặc y làm gì thì làm.

Cho đến khi Trường Canh hơi mỏi tay, thấp giọng hỏi: "Đỡ hơn chưa?"

Cố Quân mới mở mắt ra, trầm mặc nhìn Trường Canh.

Vẫn nói "Kẻ trí nghĩ đến ngàn điều vẫn có điều sơ thất, kẻ ngu nghĩ đến ngàn điều cũng được một lần", Cố Quân đời này nhờ men say, vậy mà cũng ngẫu nhiên biết nói một câu tiếng người.

Y chợt mở miệng: "Cho dù đến kinh thành rồi, cũng có nghĩa phụ che chở ngươi, không cần sợ hãi."

Trường Canh chấn động mạnh, ở trong bóng tối dưới ngọn đèn, cơ hồ run lên một cái.

Trong độ tuổi vi diệu lại trưởng thành sớm như thế này, khi trong lòng biết mình không nơi cậy nhờ, y có thể cắn răng để mình biến thành một người thành niên bình tĩnh khắc chế, nhưng sự mạnh mẽ ép ra này sẽ nhanh chóng sụp đổ trước một chút ấm áp bé nhỏ mà y hằng khao khát, để lộ sự trẻ con yếu mềm bên trong.

Cố Quân chìa một tay ra: "Nghĩa phụ sai rồi, được không?"

Y không hề biết câu này xuyên thấu tâm hồn nứt nẻ của thiếu niên kia như thế nào, bản ý cũng không chân thành lắm, bởi vì Cố Quân phần lớn thời gian không hề cho rằng mình có sai, cho dù thỉnh thoảng lương tâm lên tiếng, cũng chưa chắc biết được mình sai ở đâu.

Y chỉ nhờ sự ôn nhu và dung túng mà men say mang đến, cho Trường Canh một lối thoát.

Trường Canh nắm chặt bàn tay Cố Quân, như nắm phao cứu mạng, bả vai cứng đờ nhiều ngày đột nhiên sụp xuống, suýt nữa thì òa khóc.

Y phát hiện thì ra trước nay mình chờ chẳng qua là hai câu như thế, chỉ cần người kia ở trước mặt nói một câu "Nghĩa phụ sai rồi, không có không cần con", để y có thể cảm giác được trên đời này không còn Tú Nương ngược đãi mình, sau khi mất đi Từ bách hộ không kịp gặp mặt lần cuối, còn lưu lại một chút niệm tưởng ấm áp... Vậy thì y có thể tha thứ tất cả cho tiểu nghĩa phụ.

Từ ngày trước cho đến về sau.

Bất kể người ấy tên là Thẩm Thập Lục hay Cố Quân.

Cố Quân cảm thấy mí mắt càng lúc càng nặng, liền tựa vào đầu giường nhắm mắt dưỡng thần, khẽ thì thào: "Trường Canh, rất nhiều thứ đều sẽ thay đổi, không có ai ngay từ ban đầu đã biết chốn về của mình ở nơi nào, đôi khi không được suy nghĩ quá nhiều."

Trường Canh nhìn đối phương đăm đăm không chớp mắt, trong ánh mắt bất tri bất giác có một chút tham lam dè dặt, trong lòng bi ai thừa nhận Cố Quân nói đúng – rất nhiều thứ đều sẽ thay đổi, người sống sẽ chết, thời gian tươi đẹp sẽ tiêu tan, thân bằng cố cựu sẽ chia lìa, tình nghĩa như non cao biển sâu sẽ theo dòng nước chảy đến chân trời góc biển... Chỉ có chốn về của y đã định trước và đã biết, y sẽ biến thành một kẻ điên.

Cố Quân dịch vào trong, đưa tay vỗ vỗ bên cạnh mình: "Lên đây, ngày mai còn phải đi tiếp, giờ ngủ tạm ở chỗ ta một giấc đi."

Sau nửa đêm, Trường Canh ngủ trong lều của Cố Quân, Ô nhĩ cốt như thường lệ không chịu buông tha, ác mộng vẫn nối nhau đến, nhưng mũi y luôn quanh quẩn mùi thuốc lờn lợt, trong tiềm thức biết mình rất an toàn, thậm chí mang máng biết là đang nằm mơ, những sợ hãi và oán hận đó tựa hồ liền cách y một tầng.

Đối với Trường Canh mà nói, đây đã là giấc ngủ ngon hiếm thấy.

Đương nhiên, nếu lúc thức dậy, y không phát hiện mình đã đè tê rần một cánh tay An Định hầu, còn rúc sát vào lòng người ta nữa chứ.

Đặc biệt là tên khốn Cố Quân kia vĩnh viễn không biết thông cảm cho trái tim mẫn cảm hay thay đổi của người thiếu niên, người ta càng mất tự nhiên, y càng muốn đổ dầu vào lửa. Cố đại soái tự cho là ngủ chung giường một đêm, Trường Canh xem như đã hòa hảo với mình rồi, thế là thói cũ không chừa, chẳng những xoa cánh tay lấy người ta ra làm niềm vui buổi sáng, còn có vẻ như về sau phải giắt kẽ răng để thường xuyên lôi ra lải nhải vậy.

Dáng vẻ yếu ớt bệnh nguy kịch của người này đêm hôm trước lại là làm bộ sao?!

Thẩm Dịch sáng sớm đã trông thấy Trường Canh mặt đỏ tai hồng, nổi giận đùng đùng từ soái trướng tông cửa xông ra, thế là cả ngày lẽo đẽo đi quanh Cố Quân.

Trên đường, Thẩm Dịch phóng ngựa tới, dòm sắc mặt Cố Quân, một lời hai ý nghĩa hỏi: "Không sao rồi?"

Cố Quân như con sói già, chẳng thèm để ý nói: "Một đứa trẻ ranh, việc nhỏ như vậy, vốn đã chẳng có gì."

Thẩm Dịch tận mắt chứng kiến cái vẻ lo lắng quay vòng vòng hai ngày trước của y, không đáp nổi, chỉ có thể cười khẩy.

Cố Quân như thường lệ làm bộ không nghe thấy, từ xa thoáng nhìn bóng lưng Trường Canh, chợt nói: "Ngươi nói sau này ta để Huyền Thiết doanh lại cho y được không?"

Thẩm Dịch nói khô khốc: "Ngươi muốn hại y không được chết tử tế?"

Cố Quân "Xì" một tiếng, giống như bực vì y làm mình mất hứng.

"Ngươi còn cho Huyền Thiết doanh là thứ tốt đẹp? Ta nói với ngươi một câu thật lòng, Tử Hi, ngươi đừng chê ta nói chuyện không lọt tai," Thẩm Dịch nói, "Huyền Thiết doanh lúc ở trong tay lão Hầu gia, là quốc chi lợi khí, đến tay ngươi, liền thành 'quốc chi hung khí', lợi khí bảo quang tứ xạ, mọi người đều yêu, hung khí thì chưa chắc."

Nghe ra thoại lý hữu thoại, Cố Quân thu lại nụ cười uể oải trên mặt.

Mối quan hệ phức tạp rắc rối này, phải bắt đầu nói từ tiên đế.

Tiên đế cả đời trên chiến mã, văn trị võ công, là một nhân vật truyền kỳ bất thế xuất. Lão nhân gia một tay đẩy Đại Lương lên chỗ như mặt trời giữa trưa, khiến trong lục hợp không ai dám đụng tới, Huyền Thiết doanh và Linh Xu viện đều do tay ông sáng lập.

Tiếc thay vị tiên hoàng đế anh minh thần võ này lại có số cô độc, trong lúc tại vị cưới bốn hoàng hậu, mà không một ai sống lâu. Cả đời tổng cộng ba trai hai gái, trong đó bốn làm cho ông người đầu bạc tiễn kẻ tóc xanh, khi tiên đế băng hà, dưới gối chỉ còn lại một trưởng công chúa sớm xuất giá.

Nghe nói trưởng công chúa lúc mười sáu mười bảy cũng từng bị bệnh nặng, suýt nữa thì qua đời, may mà đã có hôn ước với An Định hầu, đại hòa thượng Hộ Quốc tự lập đèn chong cho, lại gián ngôn để công chúa sớm xuất giá xung hỉ – sau khi lấy chồng, bệnh của công chúa quả nhiên cũng chậm rãi khỏi hẳn.

Như vậy xem ra, các hoàng tử hoàng nữ yểu mạng, lại là bị tiên đế khắc chết.

Tiên đế gia cả đời khắc chết vợ con lúc lâm chung đem Huyền Thiết doanh và binh quyền quan trọng nhất để lại cho phu phụ công chúa mà ông yêu thương nhất, nhưng giang sơn Đại Lương không thể đổi họ, Hoàng đế kế tiếp đành phải nhận từ chi bên.

Năm đó kim thượng sở dĩ thuận lợi đăng cơ, trợ lực của trưởng công chúa cũng không nhỏ.

Hoàng đế Nguyên Hòa rất có tình cảm với trưởng công chúa, tận đến khi bà mất, vẫn tôn làm "cô mẫu", lại đón độc tử Cố Quân vào cung trông nom, đích thân ban tên "Tử Hi", nhiều lần nói với văn võ bá quan rằng "Tử Hi như thân đệ của trẫm", lệnh cho Thái tử lúc gặp riêng cũng phải tôn y là "hoàng thúc".

Thúc hay thẩm đều là hư danh, không quá quan trọng, quan trọng chính là binh quyền Đại Lương thuộc hệ An Định hầu ở đằng sau nam hài nho nhỏ Cố Quân năm đó.

Cựu bộ của lão Hầu gia còn đó, nếu Cố Quân ở chỗ Nguyên Hòa đế có chuyện gì không tốt, giang sơn của Hoàng thượng có thể ngồi vững hay không cũng còn phải bàn lại.

Hoàng đế Nguyên Hòa nhân lúc Cố Quân còn nhỏ, dùng mười năm làm yếu cựu bộ của An Định hầu, Huyền Thiết doanh dưới thủ đoạn mềm dẻo như thế cơ hồ không còn tồn tại. Đáng tiếc, người tính không bằng trời tính, biên phòng Tây Vực căng thẳng, ngoại địch xâm phạm, liên tiếp phái ba chủ soái, không phải già thì là thùng cơm, trong triều Đại Lương ẩn ẩn xuất hiện thế trọng văn khinh võ ca vũ thăng bình quen rồi, vậy mà chẳng có lấy một nam nhân cầm được đao binh.

Linh Xu viện trầm tịch nhiều năm đột nhiên tập thể dâng tấu thỉnh nguyện, yêu cầu xây dựng lại Huyền Thiết doanh.

Phế liệu bị Hoàng đế mài cả chục năm chỉ còn thoi thóp một hơi, rốt cuộc vẫn chưa chết hẳn, cải tử hoàn sinh trong tay Cố Quân.

Tình cảm của Cố Quân đối với Hoàng thượng rất phức tạp.

Một phương diện, sau khi lão Hầu gia và công chúa qua đời, là Hoàng thượng nuôi nấng y thành người, Hoàng đế Nguyên Hòa đã cho y sự ôn nhu mà ngay cả phụ mẫu cũng chưa từng cho.

Công chúa không phải loại phụ nhân ru rú trong nhà, mà là một nữ cân quắc hoành đao lập mã, riêng việc có thể sống đến xuất giá, không bị người cha Thiên sát cô tinh khắc chết, đã đủ thấy đây là một chân anh hùng. Cố Quân trời sinh hai người cha, không biết từ mẫu là gì, đi còn chưa vững thì đã bị đôi vợ chồng làm ăn kỳ cục kia dẫn đến chiến trường Bắc cương, ăn gió nằm sương hít cát lớn lên, một chút nuông chiều và dịu dàng, phong nhã và tư văn bình sinh được nhận, tính ra toàn đến từ Hoàng đế Nguyên Hòa.

Về phương diện khác, Nguyên Hòa đế tính tình nhu nhược, lúc trẻ thì sự nhu nhược này miễn cưỡng có thể nói là "đa tình nhân nghĩa", cao tuổi rồi thì hoàn toàn là "lẩm cẩm vô năng".

Lão nhân gia từ sáng đến tối chẳng lo cường quốc hưng bang, mở mang bờ cõi, chỉ biết lo lắng cho hoàng quyền một mẫu ba kia, không phải lộng quyền giở thuật cân bằng trong thần tử, thì là rỗi việc làm khó Cố Quân, đổi đủ trò làm các tướng sĩ phải lạnh lòng.

Một bên là bảo vệ từng li từng tí, một bên là cản tay từng li từng tí, Cố Quân bị kẹp trong hai sự "từng li từng tí" này, thà ở biên quan ăn cát cho rồi.

Thẩm Dịch ý tứ sâu xa nói: "Trăng tròn rồi khuyết, chín quá hóa nẫu. Đại soái, cổ nhân có dạy, công cao không thể chấn chủ, lân bang bốn phía đều bị ngươi đánh hết rồi, bước tiếp theo phải chăng nên tạo phản? Đương nhiên, ngươi không nghĩ như vậy, nhưng Hoàng thượng nghĩ thế nào, thì khó mà nói được."

Cố Quân hờ hững nói: "Ta phong hầu 'An Định', chính là để đánh giặc cho Đại Lương, chuyện khác không do ta quản."

Thẩm Dịch mở miệng.

Cố Quân ngắt lời: "Ta biết ngươi muốn nói gì, không cần phải nói nữa."

Hai người hợp tác nhiều năm, một ánh mắt đã đủ để hiểu ý, đoạn đối thoại này thoạt nghe rất khó hiểu – dĩ nhiên, không phải là Thẩm Dịch muốn thảo luận về đương kim Hoàng thượng với Cố Quân, lão Hoàng đế ốm đau bệnh tật, lại cao tuổi rồi, lần này gọi Cố Quân hồi cung, chắc cũng sắp về trời rồi.

Y nói đương nhiên là tân hoàng tương lai.

Không tính Trường Canh lưu lạc bên ngoài, kim thượng có hai con trai, Thái tử từ nhỏ đọc làu kinh sử, là người ổn thỏa, nhưng như đương kim Hoàng đế, hắn cũng trọng văn khinh võ, không tán thành khuếch quân sung giáp hàng loạt, cho rằng việc này ảnh hưởng đến trời cao và dân sinh.

Ngược lại nhị hoàng tử dã tâm bừng bừng, từng vào quân ngũ, một thân huyết tính muốn mở mang bờ cõi.

Đối với võ tướng bọn họ, ai ưu ai liệt căn bản không cần phải nói.

Sắc mặt Cố Quân hơi sầm đi.

Thẩm Dịch biết, nếu mình thức thời, thì nên lập tức câm miệng, lại vẫn không nhịn được nói: "Đại soái, chỉ cần một thái độ của ngươi, cho dù chỉ là ngầm ưng thuận..."

Cố Quân nhìn y một cái, ánh mắt như hai thanh cát phong nhận ngưng tụ sát ý, ngực Thẩm Dịch nghẹn lại, lập tức không thể tiếp tục.

Cố Quân ngắt từng chữ mà uy nghiêm nói: "Sau khi đến kinh, ba bộ ở ngoài cửu môn đợi lệnh, có kẻ nào muốn nhân lúc long thể Hoàng thượng không khỏe để đục nước béo cò, vô luận là ai, nhất loạt xử quyết ngay tại chỗ, nghe rõ chưa?"

Thẩm Dịch sắc mặt hơi tái đi, rất lâu mới thấp giọng đáp: "... Vâng."

Hai người trầm mặc chốc lát, thần sắc Cố Quân dần dần dịu đi, y đột nhiên nói: "Ta không nhằm vào ngươi đâu."

Thẩm Dịch miễn cưỡng nở nụ cười.

"Năm Nguyên Hòa thứ mười ba, ta sống một năm thống khổ nhất, công chúa và lão Hầu gia đều vắng mặt, ngươi cũng bị đón về Thẩm gia, ta khi đó gần như mù, tai nghe không rõ," Cố Quân thì thào, "Hôm ấy bên ngoài trời đổ tuyết to, lạnh chết đi được, ta ôm kiếm của lão Hầu gia trốn sau cửa phòng không chịu để ai tới gần. Là Hoàng thượng dẫn tam hoàng tử lặng lẽ vào viện nhà ta, đường đường cửu ngũ chi tôn, đứng dưới tuyết non nửa canh giờ, mới dỗ được ta ra. Người viết chữ trong lòng bàn tay ta, còn chỉ huy nội thị đắp hai người tuyết cho bọn ta. Tam hoàng tử... A Yến, y nhỏ hơn ta một tuổi, e lệ như một tiểu cô nương, rất hay cười, ta khốn nạn cỡ nào cũng chẳng giận..."

Cố Quân nói đến đây thì dừng lại.

Tam hoàng tử chín tuổi chết non.

Thẩm Dịch: "Hoàng thượng là một người đa tình hiếm thấy."

Tiếc thay, đa tình không làm nổi Hoàng đế tốt.

Cố Quân không tiếp tục chuyện này, ngẩng đầu nhìn nơi không xa, Trường Canh ngồi trên lưng ngựa, nghiêng đầu nói câu gì với Cát Bàn Tiểu ở trên xe, Cát Bàn Tiểu lộ ra cái đầu tròn quay ngây thơ, hi hi ha ha đáp lời. Trường Canh như cảm thấy gì, thình lình quay đầu nhìn lại, gặp ánh mắt Cố Quân, thần sắc thiếu niên chợt không được tự nhiên, đoạn y tức giận quay đi luôn.

Cố Quân nói: "Tiểu tử này ngoại hình giống bà mẹ người man như đúc, nhưng tính tình lại giống Hoàng thượng hơn, nhiều lúc ta phảng phất cảm thấy, nếu A Yến có thể bình an lớn lên, hẳn cũng là thế này đây."

Thẩm Dịch ngậm miệng, ý thức được rằng vô luận mình nói gì đều vô ích.

Trường Canh không nghe thấy Cố Quân và Thẩm Dịch nói gì, nhưng luôn cảm thấy thần sắc tựa tiếu phi tiếu kia là đang coi thường mình, quả thực như gai đâm lưng, lát sau lại không nhịn được trộm nhìn Cố Quân, phát hiện y vậy mà đã phóng ngựa tới.

Còn chưa xong sao?

Trường Canh chẳng muốn nói chuyện với y chút nào, lập tức thúc ngựa chạy đi, nào ngờ chạy hơi quá, đến ngay gần cỗ xe tù áp giải thế tử người man.

Ánh mắt thế tử Thiên Lang như ung nhọt ăn vào tủy, oán hận tận xương, Trường Canh vừa nhìn hắn liền cảm thấy trong lòng khó chịu, bèn ghìm cương, định tránh xa hắn ra.

Ai ngờ đúng lúc này, ánh mắt ăn thịt người của hắn lướt qua Trường Canh, dừng ở phía sau, đột ngột toét miệng: "Cố Quân, hàng tỉ vong hồn đang nhìn ngươi đấy."

Giọng hắn như mảnh sắt loang lổ rỉ sét cạo qua đĩa gốm, quỷ khí dày đặc, khiến người ta dựng tóc gáy, ngựa của Trường Canh bất an hí lên một tiếng, hoảng loạn bước đi.

"U linh lảng vảng không đi của tộc ta đang nhìn ngươi, tàn hài thiết giáp chôn dưới đất đang nhìn ngươi, ha ha ha ha... Thần lực vô hạn của trường sinh thiên ban cho ngươi sự xui xẻo, ngươi tất nát xác dưới đao của tộc ta, sau khi chết bị bách quỷ cắn xé vạn vạn năm không được giải thoát..."

Khuôn mặt vặn vẹo của thế tử người man và khóe miệng dính máu của Tú Nương chồng lên nhau một cách vi diệu, từ ngọn tóc đến gót chân Trường Canh như rơi vào hầm băng, y đột nhiên gầm lên một tiếng, giơ tay rút bội kiếm bên hông, muốn bằm đầu thế tử kia nát như tương.

Nhưng kiếm chưa hoàn toàn rút ra, đã bị một bàn tay dửng dưng đẩy về.

Cố Quân không biết từ khi nào đã đi bộ đến bên cạnh y, thiếu kiên nhẫn quét mắt nhìn thế tử người man ra vẻ thần bí một cái: "Thần lực vô hạn của ngài sao không bớt dùng một chút, để phù hộ quý bộ hùng bá thiên hạ, vạn thọ vô cương?"

Dứt lời, y tiện tay kéo dây cương của Trường Canh, nghiêng đầu nhìn thiếu niên sắc mặt trắng bệch mà cười nói: "Tin thật à? Ôi, họ rất giỏi hù dọa bọn trẻ con, về mặt này chí ít bỏ xa Đại Lương ta mười mấy năm đấy. Tù nhân có gì hay mà xem? Đi, qua bên kia chơi."

Trường Canh: "Nhưng hắn dám nói ngươi..."

Cố Quân chẳng hề để bụng, vô tâm vô phế cười sằng sặc, đầy vẻ sơ cuồng như mưa giông gió giật làm gì được ta.

Trường Canh nhíu mày chưa giãn ra, thoạt đầu có chút tức giận khó hiểu, dần dần, khí âm lãnh quẩn quanh bên cạnh như đều tan vào tiếng cười chẳng hề để ý của Cố Quân, thực sự liền trở nên hoang đường nực cười.

Trong lòng Trường Canh lần đầu tiên nảy ra một ý nghĩ nho nhỏ, y nghiêm túc nghĩ thầm: "Vì sao ta phải sợ chứ? Ô nhĩ cốt ép ta điên, thì ta nhất định sẽ điên sao?"

Trên con đường hành quân dài lê thê, trái tim chứa đầy sợ hãi và hoang mang của Trường Canh trong cảnh thiết giáp hối hả dần dần lắng xuống, y tựa như một gốc mạ cắm ngược, chỉ cần một chút ánh sáng, là có thể thẳng lưng lên lần nữa.

Chớp mắt đã đến đế đô.

Lúc đại môn của cửu trùng cung khuyết mở ra hai bên, dù là Huyền Ưng cao cao tại thượng, cũng phải đáp xuống đất quỳ lạy.

Cố Quân tóm gáy Trường Canh: "Đừng nghĩ nhiều, đi gặp phụ hoàng ngươi thôi."

Khi Trường Canh mơ hồ bị y đẩy đi, thật sự gặp được lão nhân trên giường bệnh kia, nhưng rất khó liên hệ cái người dáng vẻ tiều tụy đó với "Hoàng đế".

Ông ta già nua như vậy, râu tóc như một búi chỉ bạc hong gió, da mặt bủng beo, tiều tụy vô cùng, đôi môi mỏng run nhè nhẹ, trầy trật nhìn Cố Quân.

Cố Quân thoáng dừng chân không dễ phát hiện, Trường Canh nhạy bén nghe thấy y tựa hồ hít sâu một hơi, nhưng khi quay đầu lại, vẫn nhìn thấy khuôn mặt không rõ hỉ nộ.

"Bệ hạ, thần không phụ sứ mệnh," Cố Quân nói, "Đã tìm tứ điện hạ về cho người."

Ánh mắt Hoàng đế Nguyên Hòa chậm rãi chuyển hướng sang Trường Canh, Trường Canh giật mình, nhất thời lại muốn lùi bước. Y luôn cảm thấy trong ánh mắt lão nhân có một cái móc câu dài ngược dòng thời gian, không hề nhìn y, mà là xuyên qua y nhìn thấy ai đó.

Song Cố Quân ở đằng sau lại đẩy y, làm y không tự chủ được tiến hai bước.

Cố Quân thấp giọng rỉ tai y: "Quỳ xuống."

Trường Canh quy củ quỳ xuống, nhìn thấy trong đôi mắt khô khốc đục ngầu của Nguyên Hòa đế lại chảy ra hai dòng lệ già, xuôi khóe mắt chi chít nếp nhăn giàn giụa tuôn rơi, như là chảy mủ vậy.

Trường Canh nghe thấy Cố Quân nói nhỏ: "Gọi một tiếng phụ hoàng đi."

Trường Canh không gọi nổi. Trên đường, tất cả những người gặp gỡ đều lén nhìn y, từng đợt sóng ánh mắt ấy sắp làm y chết chìm, nhưng y vẫn chẳng thấy mình với vị trên long sàng kia có một sợi tóc nào tương tự nhau.

Y nghe thấy Cố Quân kề tai nói khẽ: "Bất kể chân tâm hay giả ý, ngươi cứ gọi một tiếng đi."

Trường Canh nghiêng đầu, nhìn thấy đôi mắt tiểu nghĩa phụ, đôi mắt ấy trong suốt đến lãnh liệt, không một chút nước mắt – làm bộ cũng không, có vẻ vừa xinh đẹp vừa vô tình.

Người nhìn như luôn vô tình này thở dài mà thấp giọng nói: "Coi như ta cầu ngươi."

Trong lòng Trường Canh dẫu có nhiều mâu thuẫn hơn, nhiều điều nghĩ không thông hơn, nghe câu này cũng liền thỏa hiệp, y nghĩ thầm: "Coi như hàng giả này an ủi ông ta đi vậy."

Y hạ mắt, hời hợt gọi lấy lệ: "Phụ hoàng."

Đôi mắt Hoàng đế Nguyên Hòa đột nhiên sáng bừng lên, cứ như thể gom nốt chút sinh cơ cuối cùng thành một cụm tặc quang, tựa pháo hoa nhất tịnh bừng sáng cả sảnh đường. Ông ta ngắm nghía Trường Canh rất lâu như chưa đủ, mới thều thào nói: "Ban... ban ngươi tên Mân, mong con ta hạo hạo cao lãng, vô ưu vô sầu, một đời bình an, sống lâu trăm tuổi... Ngươi có nhũ danh chứ?"

Trường Canh: "Có, là Trường Canh ạ."

Nguyên Hòa đế hơi mấp máy môi, họng bật ra tiếng "hồng hộc", nhất thời không nói thành lời.

Cố Quân đành phải tiến lên một bước, đỡ lão Hoàng đế dậy, vỗ nhẹ lưng để ông ta nhổ đàm ra. Nguyên Hòa đế nghẹn đến mức mắt trợn trắng, hổn hển đến run rẩy, thở dài thở ngắn nằm ngửa lại, cái móng gà túm lấy tay Cố Quân.

Cố Quân: "Thần đây."

Nguyên Hòa đế như cái ống bễ vỡ nói: "Huynh trưởng nó đều lớn cả rồi, chỉ có Trường Canh của trẫm, trẫm không thể nhìn thấy nó trưởng thành..."

Cố Quân như cảm nhận được điều gì, đối mắt với lão Hoàng đế, già nua và trẻ tuổi, nước mắt chưa khô và bình tĩnh, họ chỉ trao đổi ánh nhìn một chút, tựa hồ liền nhanh chóng có hứa hẹn ngầm nào đó.

Cố Quân: "Thần biết."

"Trẫm phó thác đứa trẻ này cho ngươi, Tử Hi, trẫm không còn ai khác, chỉ tin được mỗi ngươi, ngươi phải trông nom nó thay trẫm..." Tiếng Nguyên Hòa đế càng lúc càng nhỏ, lẩm bẩm lộn xộn một lúc, Cố Quân miễn cưỡng nhận ra ý ông một cách khó khăn, "Trẫm muốn cho nó một vương tước... Ngươi tìm được nó ở nơi nào?"

Cố Quân: "Bắc cương Nhạn Hồi ạ."

"Nhạn Hồi..." Nguyên Hòa đế khẽ lặp lại một lần, "Trẫm chưa từng đến đó, xa cỡ nào. Vậy thì... hạ chiếu, hạ chiếu phong hoàng tứ tử Lý Mân làm Nhạn Bắc vương, nhưng... khụ khụ... nhưng không phải bây giờ, phải chờ tới khi làm lễ đội mũ..."

Cố Quân lẳng lặng nghe, Đại Lương triều bình thường một chữ là Thân vương, thí dụ như nhị hoàng tử phong "Ngụy vương", hai chữ là Quận vương, phẩm cấp hơi thấp hơn, thông thường phong cũng đều là con cháu hoàng thất cách một tầng.

Hoàng đế Nguyên Hòa: "Không phải trẫm bạc đãi nó, chỉ là trẫm không thể che chở nó nữa, tương lai không thể để các ca ca nó sinh lòng bất mãn... Tử Hi, ngươi có biết vì sao trẫm nhất định phải chờ nó đội mũ rồi mới có thể tập vương tước không?"

Cố Quân dừng một chút rồi gật đầu.

Trường Canh không biết họ làm trò bí hiểm gì, trái tim vô cớ đập điên cuồng, giống như dự cảm được điều gì.

Nguyên Hòa đế nói: "Bởi vì trẫm muốn hạ chỉ, cho Trường Canh của trẫm làm con thừa tự của ngươi, để nó không phẩm không tước dựa vào ngươi vài năm. Tử Hi, ngươi phải tốt với nó, dù tương lai có con của chính mình, cũng đừng ghét bỏ nó, nó hơn mười tuổi rồi, chẳng phiền ngươi được mấy năm nữa, cho đến khi đội mũ, ngươi để nó ra ngoài kiến phủ, đến lúc đó lấy quy cách Quận vương... Địa phương trẫm cũng chọn sẵn rồi..."

Nói đến đây thì Hoàng đế Nguyên Hòa bị sặc ho dữ dội, Cố Quân muốn đưa tay đỡ nhưng bị lão Hoàng đế hất ra.

Lão Hoàng đế nhìn sắc mặt Trường Canh tự dưng trắng bệch, thật sự là càng nhìn càng đau lòng.

Ông nghĩ thầm, một đứa trẻ tốt như vậy, vì sao không thể ở bên cạnh mình?

Vì sao vất vả lắm mới tìm về, mà ông lại chẳng được nhìn nhiều?

Hoàng đế Nguyên Hòa hốt hoảng dời ánh nhìn khỏi Trường Canh, như một đứa trẻ yếu đuối, nói với Cố Quân: "Gió bụi đường xa mệt mỏi quá rồi, để thằng bé đi nghỉ ngơi đi, rồi trẫm lại nói mấy câu với ngươi."

Cố Quân dẫn Trường Canh ra cửa, giao cho nội thị đang hầu ở đó, kề tai y nói nhỏ: "Cứ đi nghỉ ngơi trước, đợi lát nữa ta sẽ tới tìm ngươi."

Trường Canh không lên tiếng, im lặng đi theo nội thị dẫn đường, trong lòng chẳng rõ là mùi vị gì.

Lần này y danh chính ngôn thuận thành con nuôi của Cố Quân, vốn nên là một việc tốt, nhưng chẳng hiểu sao trong lòng y lại không tài nào vui nổi.

Thế nhưng miệng vàng lời ngọc đã quyết, nơi đây không cho phép y cự tuyệt, không cho phép y phản kháng, thậm chí không cho phép y nói nhiều một câu.

Y chỉ có thể thân bất do kỷ theo nội thị cúi đầu đi khỏi tòa cung điện nồng nặc mùi thuốc và mùi chết chóc, đi vài bước, Trường Canh không tự chủ được ngoảnh lại nhìn Cố Quân, thấy Cố Quân nghiêng người quay lại. An Định hầu có khuôn mặt nghiêng đẹp như tranh vẽ, triều phục dày nặng rộng thùng thình khoác trên người, tự dưng thêm vài phần cảm giác gò bó khó nói thành lời, nhìn mà ngực đắng chát.

"Nghĩ gì vậy?" Trường Canh cười khổ nghĩ bụng, "Ngươi mấy hôm trước còn là con của bách hộ biên thùy, có một bà mẹ liều mạng ngược đãi ngươi, hạ độc cho ngươi, hôm nay lại thành con nuôi của An Định hầu, chuyện tốt thế này nằm mơ có được không?"

Y cứ thế vừa tự mình khỏa lấp, vừa bất lực với hết thảy xung quanh. Thiếu niên mười ba tuổi đi qua trường lang cung điện mờ tối, tổng cộng chín chín tám mươi mốt bước, đi đến suốt đời khó quên.

Cánh cửa nhẹ nhàng khép lại, lư hương tản hơi nước ở đầu giường bốc khói nhẹ.

Nguyên Hòa đế nói với Cố Quân đang quỳ ở đầu giường: "Trẫm nhớ, lúc nhỏ ngươi thân với A Yến nhất, tuổi tác sàn sàn, đứng bên nhau, cứ như một đôi búp bê bằng ngọc vậy."

Nhắc tới tam hoàng tử chết non, Cố Quân hơi biến sắc: "Thần rất lì lợm, kém xa tam điện hạ từ nhỏ tri thư đạt lý."

"Ngươi không lì lợm," Nguyên Hòa đế dừng một chút, rồi thấp giọng lặp lại một lần, "Không lì lợm... Nếu A Yến giống ngươi một tẹo thôi, thì làm sao có thể chết non được? Rồng sinh rồng, phượng sinh phượng, là giống gì, sẽ mọc thành cây ấy, Tử Hi à, chảy trên người ngươi mới là thiết huyết của tiên đế..."

Cố Quân: "Thần sợ hãi."

Nguyên Hòa đế khoát tay: "Hôm nay không có người ngoài, trẫm nói với ngươi vài câu thật lòng. Tử Hi, ngươi trời sinh nên mở mang bờ cõi, quần lang thấy cũng run bần bật cúi đầu, nhưng ta luôn lo lắng ngươi lệ khí quá nặng, tương lai sẽ giảm phúc."

Phố phường có lời đồn, rằng ngoại tổ Cố Quân – Vũ hoàng đế chính do sát nghiệt quá nặng, mới rơi vào cảnh chiều thê lương, con cái mất dần.

"Ngụy vương tuy tham vọng lớn, nhưng có ngươi thủ, tương lai giang sơn của Thái tử không phải lo, ta chỉ hơi lo lắng cho ngươi... Ngươi phải nghe trẫm một câu, mọi sự hăng quá hóa dở, ngươi cần tích phúc, biết tiến thoái... Lão trụ trì Hộ Quốc tự cũng coi như là nhìn ngươi lớn lên, Phật pháp vô biên, nếu rỗi rãi, ngươi nên thường đến chỗ ông ta ngồi một lúc."

Lão lừa trọc của Hộ Quốc tự có cái miệng quạ đen, từng nói Cố Quân mệnh trung đái sát, khắc lục thân, bởi thế, Cố Quân thủy chung không chịu bước vào Hộ Quốc tự một bước.

Lúc này nghe Hoàng thượng nhắc tới, Cố Quân nghĩ bụng: "Đúng rồi, quên mất lão lừa trọc đó, có cơ hội ta nhất định phải tính sổ với lão, một mồi lửa đốt trụi cái Phật đường nát lừa đời lấy tiếng kia."

Năm đó sau khi lão Hầu gia chết, Hoàng thượng cũng dùng luận điệu sát nghiệt nặng không may mắn này để làm yếu Huyền Thiết doanh. Nhưng gần đây giao của người phiên bang đi lại trên biển, thường xuyên lui tới Đại Lương, Bắc cương, Tây Vực, thậm chí Đông Hải xa vạn dặm, ở đâu không có ánh mắt như hổ rình mồi tham lam nhìn đại địa Thần Châu? (Giao tức giao long, trong truyện này thì nó là một loại thuyền)

Sát nghiệt quá nặng không may mắn, chẳng lẽ quốc tộ luân lạc, cương thổ mù mịt khói báo động, bách tính lênh đênh, xác trôi ngàn dặm, thì là dĩ hòa vi quý, vạn sự đại cát sao?

Nếu Cố đại soái đa sầu đa cảm như đại biểu huynh đại bác bắn không tới kia, vậy chúng sinh vô tri vô giác trong đại quốc mênh mông, lại phải dựa vào ai trấn thủ cương thổ đây?

Phái đám hàn lâm trong triều đi "lấy đức thu phục người" à?

Cố Quân không chỉ muốn đánh, còn muốn làm một mẻ khỏe suốt đời, tốt nhất là trực tiếp san bằng Tây Vực, đánh tới cửa nhà đám người phiên bang Tây Dương suốt ngày thèm muốn đại địa Trung Nguyên, khiến họ nghe tiếng mà sợ mất mật, không dám đến rình mò non sông tươi đẹp của người ta nữa.

Thời điểm bình định phản loạn Tây Vực, Cố Quân từng dâng tấu yêu cầu như thế, nhưng Hoàng thượng có khả năng là cảm thấy y điên rồi, một mực bác bỏ, bác bỏ cũng đành, còn dùng nhiệm vụ "tìm tứ hoàng tử về" kỳ lạ như vậy để tống y đến Bắc cương.

Đương nhiên, Hoàng thượng cũng không liệu được, ông ta giam chân Cố Quân ở Bắc cương, Cố Quân lại trói về cho mình một thế tử man tộc.

Có một số người, sao sát phạt nằm ngay trên đầu, nếu không là lương tướng mở mang bờ cõi, thì nhất định về triều hại nước hại dân.

Đế vương đa tình gần đất xa trời cùng tướng quân vô tình thanh xuân phơi phới một nằm một quỳ, ở đầu giường chật chội dốc tim gan lần cuối, vẫn không ai thuyết phục được ai.

Nguyên Hòa đế nhìn đôi mắt lạnh băng ấy, bỗng cảm thấy bi ai.

Lão Hoàng đế nghĩ, nếu năm đó không phải mình tham mộ hoàng quyền, hiện giờ phải chăng chỉ là một Vương gia nhàn tản xua chó chọi gà?

Không gặp phải nữ nhân số mệnh định sẵn ấy, có lẽ sẽ đem thâm tình một đời cho người khác, cũng chẳng cần phải thê ly tử tán ngần ấy năm.

Đế tọa chất đầy bụi gai và xương khô như thế, đại khái chỉ có loại người sát phạt quyết đoán, lãnh tình lãnh tính như An Định hầu, mới có tư cách ngồi lên thôi?

Nguyên Hòa đế thì thào gọi: "Tử Hi... Tử Hi à..."

Thần sắc tựa như đúc bằng sắt của Cố Quân thoáng dao động, mi mắt cụp xuống, bả vai kéo căng hơi mềm đi, không cứng đến chẳng hợp tình người nữa.

Nguyên Hòa đế hỏi: "Ngươi sẽ oán hận trẫm chứ?"

Cố Quân: "Thần không dám."

Nguyên Hòa đế lại hỏi: "Vậy ngươi về sau sẽ nhớ trẫm chứ?"

Cố Quân ngậm miệng.

Lão Hoàng đế không bỏ qua, nhìn y lom lom: "Sao không nói gì thế?"

Cố Quân trầm mặc một lúc, không hề thấy buồn bã, chỉ nhàn nhạt nói: "Nếu Hoàng thượng đi, Tử Hi sẽ không còn thân nhân nữa."

Ngực Hoàng đế Nguyên Hòa trong nháy mắt như bị một bàn tay bóp chặt. Ông cả đời chưa từng thấy tiểu vương bát đản này nói một câu mềm giọng, hiện giờ chỉ một câu này, liền phảng phất xóa bỏ hết ân oán và yêu ghét mà hai thế hệ chưa từng nói ra miệng, chỉ để lại dưới thời gian thấm thoắt, sự quyến luyến hời hợt trơ trọi phai màu.

Lúc này, một nội thị ở cửa dè dặt nhắc nhở: "Hoàng thượng, nên dùng thuốc rồi."

Cố Quân định thần lại, vừa ngẩng đầu lên thì lại thành hung khí hình người bễ nghễ vô song: "Hoàng thượng bảo trọng long thể, thần xin cáo lui."

Nhưng Hoàng đế Nguyên Hòa đột nhiên mở miệng gọi nhũ danh của y: "Tiểu Thập Lục!"

Cố Quân khựng lại.

Nguyên Hòa đế cật lực đưa tay mò dưới gối, lấy ra một chuỗi tràng hạt gỗ cũ kỹ: "Lại đây, đưa tay ra."

Cố Quân nhìn lão nhân thở hổn hển đeo chuỗi tràng hạt chẳng đáng mấy xu kia lên tay y, tâm tình hơi phức tạp.

"Đại biểu huynh... đang nhìn ngươi." Nguyên Hòa đế vỗ vỗ mu bàn tay y, thì thào nói.

Trong lòng Cố Quân rất đau thương, sự trấn định ngoài mặt cơ hồ không duy trì được, đành phải vội vàng cáo lui.

Ba ngày sau, đế băng.

Văn võ bá quan cùng vạn ngàn lê dân, lại lần nữa đưa tiễn một thời đại.

Kinh thành sau một trận mưa to, hơi lạnh vẫn ẩn mình bốc lên ngùn ngụt, lộ ra sự tiêu điều lạnh lẽo như sắp đóng băng sương sớm.

Trường Canh lơ mơ theo cả đám người xa lạ đưa tiễn lão Hoàng đế. Hôm đưa ma, có xe tám ngựa kéo quan tài cửu long, hai bên đại lộ dựng mười vạn kèn hơi nước, tự động tấu vang khúc nhạc tang, phun khói trắng mịt mù, bao trùm cả đế đô, trọng giáp làm rào ngăn những kẻ không phận sự, ngoài giáp trận, người xem lễ đông nghìn nghịt, có người Đại Lương, người di, người Bách Việt, người man... Thậm chí còn có người phiên bang Tây Dương đếm không xuể.

Vô số ánh mắt rình mò và suy đoán hoặc công khai hoặc âm thầm nhìn Trường Canh – hoàng tứ tử Lý Mân thân thế thành câu đố, đáng tiếc chẳng ai dám tiến lên bắt chuyện với y ngay trước mặt An Định hầu. Trường Canh bị Cố đại soái công nhiên giấu đi, mấy ngày qua trừ Thái tử và Ngụy vương mỗi người lượn hai vòng trước mặt y, thì một người ngoài y cũng chưa hề tiếp xúc.

Chờ hết thảy kết thúc, Trường Canh được đưa đến phủ An Định hầu.

Hầu phủ nhìn từ bên ngoài thật là uy phong vô cùng, cổng lớn chữ bát, treo hai cái đầu thú mặt xanh nanh vàng, miệng và mũi phun hơi nước màu trắng, ba mươi sáu bánh răng đồng thời chuyển động, then cửa nặng nề "cót két" nâng lên, lộ ra mỗi bên một thiết khôi lỗi cao to. (Khôi lỗi vốn là chỉ loại rối được giật dây, nhưng trong truyện này thì chúng là những người giả bằng sắt hoạt động nhờ động cơ hoặc những thứ đại loại vậy)

Trên bức tường phù điêu treo hai bộ giáp trụ của Huyền Thiết võ tướng, đèn măng-sông u ám, gia tướng hộ vệ ở bên, một luồng khí túc sát lạnh lẽo hất thẳng vào mặt.

Đương nhiên, đi vào mới phát hiện, ở phủ An Định hầu khí phái chỉ được mỗi cổng chính thôi.

Đình viện hầu phủ tuy sâu, cỏ cây lại hết sức thưa thớt, bề ngoài uy nghiêm đến đáng sợ, bên trong kỳ thực chỉ có mấy lão bộc ít lời, thấy Cố Quân cũng chỉ dừng chân hành lễ, không hề nói nhiều.

Phần lớn khôi lỗi và hỏa cơ trong dân gian đều sử dụng than đá, chỉ có một phần rất nhỏ dùng tử lưu kim, thường là các cự vật như đê đập lớn, khôi lỗi khai hoang, thuộc về phủ nha địa phương, về phần các vật dụng nhỏ quý giá, thì chỉ có đạt quan quý nhân phẩm cấp nhất định mới có tư cách dùng.

Đương nhiên, quy định là quy định, dân gian tuân thủ hay không lại là chuyện khác – thí dụ như Quách đại nhân Thái thú Nhạn Hồi tuyệt đối không đủ phẩm cấp, song đồ đạc dùng tử lưu kim trong nhà hắn không chỉ có một, Cố đại soái dù rằng cực kỳ đủ phẩm cấp, nhưng trong phủ lại thanh bần giản dị đến lạ thường, ngoại trừ vài thiết khôi lỗi, hầu như chẳng thấy mấy món đồ dùng tử lưu kim.

Cả hầu phủ đáng giá nhất, có lẽ chính là mấy tấm hoành do đại nho lâm một thời Mạch Sâm tiên sinh tự tay viết – nghe nói Mạch Sâm tiên sinh là lão sư vỡ lòng của An Định hầu, chắc hẳn mấy tấm hoành này cũng là hàng xin được.

Cát Bàn Tiểu và Tào Nương Tử cũng dọn đến theo Trường Canh, ba đứa trẻ nông thôn chưa thấy cảnh đời thò đầu thò cổ, Cát Bàn Tiểu trẻ con nói năng không kiêng kị: "Thập Lục thúc..."

Tào Nương Tử nhỏ giọng quát: "Đó là Hầu gia!"

"Hì hì, Hầu gia," Cát Bàn Tiểu cợt nhả sán tới, "Nhà ngài hình như không đẹp bằng nhà Quách đại nhân."

Cố Quân không để bụng cười nói: "Sao ta có thể so với Quách đại nhân được? Bọn họ trời cao Hoàng đế xa, giàu nứt đố đổ vách, đâu như ta, để tiết kiệm ít tiền, ngày lễ ngày tết toàn phải vào cung ăn chực thôi."

Câu này nghe như nói đùa, nhưng Trường Canh ở bên cạnh nghe, mơ hồ cảm thấy thoại lý hữu thoại.

Y còn chưa kịp nghĩ kỹ, Tào Nương Tử lại thì thào với Cát Bàn Tiểu: "Chẳng phải trong kịch luôn nói nhà công tử thế gia đều có vườn hoa xích đu, nha hoàn mỹ mạo à?"

Cát Bàn Tiểu giống như rất hiểu, ưỡn bụng nói: "Vườn hoa đều ở đằng sau mà, còn nữ tử nhà đại hộ bất kể chủ tớ đều không thể tùy ý xuất đầu lộ diện, để ngươi tùy tiện nhìn thấy được sao? Không biết thì đừng hỏi linh tinh."

Cố Quân cười nói: "Nhà ta không có nha hoàn, chỉ có một đám lão đầu tử và lão phụ giúp việc thôi. Không giấu gì các ngươi, người đẹp nhất hầu phủ tính ra nên là ta đây, muốn ngắm thì cứ ngắm đi."

Nói xong y còn lẳng lơ chớp chớp mắt, cười khoe hàm răng trắng.

Tào Nương Tử vội vàng thẹn thùng nhìn đi chỗ khác, Cát Bàn Tiểu không ngờ đường đường An Định hầu mà cũng dày mặt như "Thẩm Thập Lục", liền trợn mắt há mồm theo.

Cố Quân chắp tay sau lưng, mân mê chuỗi tràng hạt cũ tiên đế để lại, thong thả đi qua đình viện tiêu điều: "Mẹ ta mất từ sớm, ta lại chưa cưới vợ, một kẻ độc thân không già không nhỏ như ta, cần nhiều nha đầu xinh đẹp làm gì? Sẽ có vẻ không đứng đắn lắm."

Nghe cứ như thể y là một người đứng đắn vậy.

Tào Nương Tử không dám nhìn thẳng Cố Quân lắm – nam tử đẹp gã đều không dám nhìn, đứng đó rụt rè hỏi: "Hầu gia, người ta đều nói 'nhất nhập hầu môn thâm tự hải'..."

Cố Quân không nhịn được cười, trêu: "Sao nào, ngươi muốn chia tay Tiêu lang để gả cho ta à?"

Tào Nương Tử cả người đỏ bừng như cái đít khỉ be bé.

Trường Canh đen sì mặt: "Nghĩa phụ."

Cố Quân lúc này mới nhớ tới thân phận trưởng bối, vội vàng nghiêm trang một cách khó khăn, nặn ra vẻ hiền từ sứt sẹo, nói: "Ở chỗ ta không có quy củ gì, muốn ăn cái gì thì tự mình nói với nhà bếp, hậu viện có thư phòng và võ khố, còn có chuồng ngựa nữa, đọc sách tập võ hay cưỡi ngựa đều tùy ý, bình thường Thẩm Dịch rỗi rãi sẽ đến, nếu y bận, thì ta mời một tiên sinh khác cho các ngươi – ra ngoài chơi cũng không cần báo ta, dẫn theo thị vệ, đừng gây chuyện bên ngoài là được... Ừm, để ta nghĩ xem còn gì nữa không."

Trầm ngâm chốc lát, Cố Quân lại quay đầu nói: "A đúng rồi, còn một việc chính là trong nhà có vài lão bộc đã cao tuổi, phản ứng khó tránh khỏi hơi chậm chạm, hãy lượng thứ cho họ, đừng nổi nóng."

Y chỉ bình bình dặn dò một câu, mà lòng Trường Canh lại tự dưng mềm một chút vì sự ôn nhu hiếm thấy trong lời y nói – tuy rằng ôn nhu không phải dành riêng cho mình.

Cố Quân vỗ vỗ lưng Trường Canh: "Chỗ ta hơi quạnh quẽ, về sau cứ coi đây là nhà đi."

Một thời gian rất dài sau đó, Trường Canh không gặp Cố Quân, tân hoàng phải đăng cơ, Ngụy vương phải dọa, thế tử man tộc trói về từ Bắc cương phải xử lý, người man vô cớ bội ước xâm lấn cũng phải làm cho ra lẽ... Còn có vô số xã giao, thăm dò vân vân, không hề ít.

Trường Canh tự thấy mình cũng chăm chỉ, nhưng mỗi sáng chờ y dậy thì Cố Quân đã đi rồi, buổi tối y ngủ một giấc choàng tỉnh dậy, Cố Quân còn chưa trở về.

Chớp mắt mà mùa nóng ẩm đã hết, qua một mùa thu vội vã, liền đến mùa nhóm bếp lò.

Đêm khuya, trên con đường đá phiến trải một tầng tuyết mỏng như mí mắt, không trung hơi nổi sương trắng, tiếng vó ngựa từ cuối ngõ nhỏ lộc cộc vang lên, không bao lâu, hai thớt ngựa đen tuyền kéo một cỗ xe xuyên qua màn sương mù xuất hiện, đậu lại ngay cửa sau hầu phủ.

Xe ngựa "Phụt" một tiếng nhỏ, ba đường ống giữ ấm quanh thân xe phun ra khói trắng, cửa xe mở từ bên trong, Thẩm Dịch chui ra.

Thẩm Dịch hà một hơi khói trắng, quay đầu lại nói với người trong xe: "Ta thấy ngươi cũng đừng xuống xe nữa, cứ kêu người mở cửa chạy xe vào thẳng đi, trời lạnh lắm."

Người trong xe đáp một tiếng, chính là Cố Quân, mặt y có vẻ rất mệt mỏi, nhưng tinh thần tựa hồ khá tốt, y phân phó xa phu: "Mở cửa đi."

Xa phu chạy chậm đi. Thẩm Dịch ở tại chỗ giậm chân hỏi: "Thuốc hết tác dụng rồi à?"

Cố Quân uể oải ngân dài giọng: "Hết rồi, thịt thêm mấy tên Gia Lai Huỳnh Hoặc cũng không thành vấn đề."

Thẩm Dịch: "Hôm nay Hoàng thượng gọi ngươi vào cung nói gì? Ta nghe nói Thiên Lang bộ phái sứ đến?"

"Lão què dày mặt trình lên một tờ tấu biểu, thiếu điều quẹt cả nước mũi lên, nói muốn tăng lượng tử lưu kim tiến cống mỗi năm thêm một phần, để Hoàng thượng thương con lão trẻ người non dạ mà thả về, lão què đó còn sẵn lòng lấy thân thay thế, đích thân tới làm tù nhân." Cố Quân hưng trí không cao, miệng cũng chẳng có lời hay, "Đồ rùa đó, con cũng đẻ bảy tám đứa rồi, còn trẻ người với chả non dạ, chẳng lẽ là đất quan ngoại không tốt, mầm cũng mọc chậm hơn?"

Thẩm Dịch nhíu mày: "Ngươi không nổi cơn tam bành ngay đó chứ?"

"Ta đâu có nóng vậy? Nhưng nếu ta không nổi giận, Hộ bộ Thượng thư nghèo đến phát điên kia dám đồng ý luôn đấy." Cố Quân lạnh lùng nói, rồi ngay lập tức đổi giọng, thở dài: "Thánh hiền cả triều, đều không biết bốn chữ 'thả hổ về rừng' viết thế nào."

Trọng giáp người man mặc khi xâm chiếm Nhạn Hồi lắp đoản pháo ở trước ngực, đó là thiết kế của người Tây Dương – người Trung Nguyên trời sinh xương nhỏ hơn, dù là tướng sĩ trong quân, hầu hết cũng không cường tráng như vậy, thiết kế trọng giáp cũng coi trọng nhẹ nhàng nhanh nhẹn, thông thường trên chiến trường không chơi trò "ngực đập nát đá".

Sau lưng Huỳnh Hoặc Gia Lai không hề nghi ngờ chính là đám người Tây Dương luôn thèm thuồng Đại Lương.

Cố Quân cúi xuống nhìn lớp tuyết mỏng hơi phản quang trên mặt đất, thấp giọng nói: "Ngoài tứ cảnh đều là hổ lang."

Y rất muốn cho trường giao xuống biển, hướng về Tây Dương, đánh thẳng tới hang ổ phiên bang, nhưng chinh chiến liên tục nhiều năm, quốc khố Đại Lương sắp bị y đánh rỗng rồi, trước mắt bởi vì Cố Quân ủng lập tân hoàng thượng vị, như mưa đúng lúc trấn Ngụy vương nhân khi tiên hoàng bệnh tình nguy kịch rục rịch gây chuyện, tân hoàng mọi việc đều nể mặt y vài phần.

Nhưng nể mặt... có thể dài lâu không?

Thẩm Dịch lắc đầu: "Không nhắc việc này nữa, tứ điện hạ ở chỗ ngươi thế nào?"

"Tứ điện hạ?" Cố Quân sửng sốt, "Rất tốt."

Thẩm Dịch hỏi: "Y hiện tại làm gì mỗi ngày?"

Cố Quân cân nhắc giây lát, đáp không chắc lắm: "... Chắc chơi? Có điều ta nghe Vương thúc nói hình như y không hay ra ngoài."

Thẩm Dịch vừa nghe liền biết, Cố đại soái chăn tứ điện hạ như dê – mỗi ngày cho cỏ ăn, còn việc khác không quản, nhưng cũng không trách y được, bởi vì năm đó lão Hầu gia và công chúa cũng nuôi y như vậy.

Thẩm Dịch than thở: "Năm đó tiên đế đối xử với ngươi như thế nào, ngươi quên rồi à?"

Trên mặt Cố Quân thoáng qua vẻ xấu hổ, kỳ thực y không biết nên ở chung với Trường Canh thế nào.

Trường Canh đã qua tuổi làm nũng người lớn đòi kẹo, tính cách lại chín chắn sớm, lúc ở Nhạn Hồi tiểu trấn, thậm chí là đứa trẻ kia trông nom nghĩa phụ chẳng ra gì này nhiều hơn.

Cố Quân không thể cả ngày đi chơi với một đám trẻ con, nhưng cũng rất khó làm một trưởng bối, dẫn dắt Trường Canh.

Bởi vì y thật sự là bị ép đi cày thay trâu, còn chưa có niên kỷ và tư chất để làm một người cha tốt.

Dù rằng Cố Quân từng nói, tương lai muốn để Huyền Thiết doanh lại cho Trường Canh, nhưng dẫu sao đó cũng chỉ là một câu nói đùa, bản thân y cũng hiểu rõ, việc này là không thể. Hơn nữa, muốn xông pha ra thành tựu trong quân, phải chịu bao nhiêu gian khổ Cố Quân không thể rõ hơn, chỉ cần y còn sống một ngày, còn gánh được giang sơn Đại Lương, thì y không muốn để Trường Canh trải qua những khổ cực tương tự.

Song đồng thời, y cũng hi vọng tiểu hoàng tử giao vào tay y có thể có tiền đồ, chí ít tương lai có năng lực để tự bảo vệ mình.

Như vậy, một người phải làm sao mới có thể vừa không chịu khổ vừa có tiền đồ?

Từ xưa đến nay phụ mẫu đều đau đầu vì đáp án của câu hỏi này, càng không cần nói tới loại nghĩa phụ gà mờ như y, thế là y đành phải mặc kệ Trường Canh tự do trưởng thành.

Xa phu đã mở cửa, đốt đèn, ở bên cạnh chờ Cố Quân ra lệnh.

Thẩm Dịch nói với Cố Quân: "Trông chờ ngươi tỉ mỉ từng li từng tí, đó là yêu cầu quá cao, nhưng y gặp biến cố lớn, thân nhân bên cạnh chỉ còn lại mình ngươi, ngươi đối với y chân thật một chút đi, dù không biết nên làm gì, thường xuyên lượn qua trước mặt, viết vài mẫu chữ cho y cũng tốt."

Cố Quân lần này chắc đã nghe lọt, kiên nhẫn đáp: "Ừ."

Thẩm Dịch tháo một con ngựa khỏi xe, dắt dây cương.

Y đã lên ngựa muốn đi, đi vài bước lại không nhịn được quay đầu lải nhải: "Đại soái, ấu tử ngốc nghếch, lão phụ đau ốm lâu ngày, đều là dạy ngươi thành người, gặp phải người nào, đều là vận may."

Cố Quân thống khổ day trán: "Mẹ ơi, tên ế này lắm mồm quá, cầu xin ngươi, mau cút đi!"

Thẩm Dịch cười mắng một tiếng, rồi phóng ngựa đi.

Đã qua canh ba, Cố Quân mệt rã rời, vốn định trở về nghỉ ngơi, nhưng rốt cuộc bị những lời Thẩm Dịch nói ảnh hưởng, bất tri bất giác chuyển hướng về hậu viện.

Giờ này cả kinh thành chẳng được mấy ngọn đèn sáng, Trường Canh đã ngủ từ lâu rồi, Cố Quân không đánh thức lão bộc ở gian ngoài, rón rén vào phòng, nhờ tuyết quang ngoài cửa sổ định đưa tay kéo chăn giúp Trường Canh, thì bỗng nhiên phát hiện đứa trẻ ấy ngủ không hề yên giấc, giống như đang gặp ác mộng.

"Ở hầu phủ không quen sao?" Cố Quân nghĩ như vậy, những ngón tay lạnh ngắt nắm cổ tay Trường Canh.

Trường Canh giật mình, hít sâu một hơi bừng tỉnh lại, vẻ lo sợ nghi hoặc trong mắt chưa tan đi, ngơ ngác nhìn chằm chằm người bên giường.

Cố Quân lắc nhẹ cổ tay y, dịu giọng hỏi: "Gặp ác mộng à? Mơ thấy cái gì thế?"

Trường Canh mới đầu không lên tiếng, một lúc lâu, ánh mắt rời rạc mới dần dần có tiêu cự, y đăm đăm nhìn đôi mắt Cố Quân trong đêm khuya như cháy hai ngọn lửa, đột nhiên ôm choàng lấy thắt lưng Cố Quân.

Trên vai Cố Quân là giáp huyền thiết, mang đến cảm giác mát lạnh đầu đông, lãnh thiết dán chặt lên trán Trường Canh, phảng phất, Trường Canh như quay về đêm đại tuyết lạnh băng thấu xương ở quan ngoại, y run lên một cái, đến đây mới thoát khỏi ác mộng dây dưa, nghĩ thầm: "Ta còn sống đây."

Bánh răng của đồng hồ để bàn trong nhà "cót két" quay, chậu than đã đốt, như một cái nồi to nằm ngay giữa phòng, khói trắng bốc lên, bị ống bễ đặc chế cuốn đi, chỉ thong thả tỏa khói nóng, làm cả gian phòng ấm áp dễ chịu.

Cố Quân đột nhiên bị y ôm lấy, thoạt tiên đần ra, rồi trong lòng lập tức trỗi lên cảm giác kỳ lạ, lần đầu bị ai đó dốc hết sức dựa vào, cơ hồ có chút cảm giác nương tựa lẫn nhau.

Dáng vẻ khinh cuồng "lão tử thiên hạ vô địch" bình nhật đương nhiên là làm bộ thôi, y rất rõ mình được mấy cân, nếu An Định hầu thật sự không biết lượng sức như vậy, ra vào sa trường vài chuyến, cỏ trên mộ y chắc đã cao bằng người rồi.

Nhưng khoảnh khắc này, trong lòng Cố Quân thật sự trỗi dậy ảo giác "không có gì là mình không làm được".

Khung xương của Trường Canh đã cao lên, nhưng vẫn gầy gò như một đứa trẻ, đưa tay ôm, có thể xuyên thấu qua lớp áo lót mỏng mơ hồ chạm đến xương sườn.

Thân xương và thịt gầy tong này tươi sống mà nặng nề đè lên người, Cố Quân nghĩ bụng, y phải trông nom đứa trẻ này lớn lên, như tiên đế kỳ vọng, để thằng bé sống trong yên bình đến trăm tuổi.

Y chung quy có thể phần nào bù lại nỗi bất lực ngoài tầm tay với đối với A Yến.

Cố Quân cởi thiết giáp trên vai, treo bên cạnh, mặc nguyên áo lên giường Trường Canh, hỏi: "Nhớ mẹ à – ý ta là dì ngươi."

Trường Canh lắc đầu.

Cố Quân biết Trường Canh đối với tiên đế chẳng có thâm tình hậu nghĩa gì, chắc là nể mặt mình mới gọi một tiếng phụ hoàng, liền hỏi: "Vậy ngươi nhớ Từ huynh sao?"

Lần này Trường Canh không phủ nhận.

Từ bách hộ là người tốt đầu tiên mà nhiều năm qua y từng gặp, tuy rằng chẳng có năng lực gì, nhưng rộng lượng ôn hòa, kế phụ lấy mình làm gương, lần đầu tiên cho Trường Canh biết một người có thể bình tâm tĩnh khí mà sống như vậy.

Chỉ là Từ bách hộ quân vụ bận rộn, vắng nhà quanh năm, bấy giờ mới để Cố Quân nhân cơ hội bổ khuyết một chút chỗ trống ấy.

Thấy đối phương mặc nhận, Cố Quân đang ngửa đầu nhìn đỉnh màn lờ mờ trong lòng đột nhiên không vui lắm, buột miệng hỏi: "Từ huynh đối với ngươi tốt hơn ta?"

Trường Canh sửng sốt nhìn y, không biết chuyện rõ ràng như vậy mà sao y hỏi ra miệng được.

Lần này, Cố Quân như kỳ tích hiểu được ánh mắt ấy, tức khắc cảm thấy ngực bị một cơn gió lạnh cuốn qua, khô khan nói: "Cũng chẳng có cách nào khác, hoàng mệnh khó trái, ngươi chỉ có thể cố chịu thôi."

Trường Canh: "..."

Cố Quân bật cười, Trường Canh cảm nhận được ngực y hơi rung, trong lòng chợt sinh ra khác thường, nửa người bên trái cảm thấy khoảng cách thân mật như vậy có chút mất tự nhiên, muốn tránh xa, nửa người bên phải lại hận không thể hóa thành tờ giấy để dán sát rạt vào.

Ý nghĩ đi hay ở không chắc chắn phảng phất muốn chia đôi y.

Y đang đấu tranh tâm lý, thì căn bệnh ngứa tay của Cố Quân đã tái phát.

Tóc Trường Canh xõa ra sau lưng, bất hạnh rơi vào tay Cố Quân, Cố Quân liền bắt đầu vô thức mân mê, không mạnh tay, chỉ kéo nhẹ da đầu.

Trường Canh giật mình, nổi hết da gà, máu toàn thân từ chậm bước đổi thành chạy như điên, phảng phất có thể nghe thấy tiếng soàn soạt khi chúng lướt qua mạch máu, một luồng hơi nóng không rõ lai lịch tan vào tứ chi bách hài, thiếu chút nữa đốt xuyên da y.

Trường Canh thình lình lật người, giật lại tóc, theo bản năng vừa xấu hổ vừa giận dữ nói: "Đừng nghịch nữa!"

Cố Quân lúc nhỏ lắm tai nhiều bệnh, vóc dáng phát triển cũng chậm, mười hai mười ba tuổi còn là một đứa trẻ ranh, bởi vậy cũng chẳng coi Trường Canh là người lớn, không mảy may nhận ra có gì không ổn.

Y chẳng để ý mà thu móng vuốt tác quái lại, hai tay gối sau đầu, nói với Trường Canh: "Ta không thành thân, đương nhiên cũng không có con cái, ngay cả huynh đệ tỷ muội cũng không nốt, khó tránh khỏi chăm sóc thiếu chu đáo, rất nhiều việc nếu ngươi không nói, ta cũng chưa chắc nghĩ tới, cho nên có gì tủi thân, đừng giấu trong lòng, được không?"

Giọng y trầm thấp êm tai, đại khái là quá mệt mỏi rồi, còn có chút mơ hồ không dễ phát hiện, nhanh chóng đâm thẳng vào tai Trường Canh, khiến thiếu niên kia dựng thẳng tóc gáy, còn toát một tầng mồ hôi mỏng sau lưng.

Trường Canh trong lòng vừa căng thẳng vừa buồn bực nói thầm: "Thuận miệng tán gẫu vài câu mà thôi, mình cần chi phải như lâm đại địch thế?"

"Điện hạ ngài cũng lượng thứ nhiều hơn," Cố Quân cười nói, vỗ vỗ bên cạnh, "Nào, nằm ngay ngắn, nói ta nghe xem ban nãy mơ thấy gì."

Nhắc tới giấc mơ, dã hỏa vô danh trên người Trường Canh mới bình yên lại, y nhìn chằm chằm Cố Quân một lúc, ép mình nén xuống ý định nói thẳng ra chuyện Ô nhĩ cốt, trước tiên thử: "Thập Lục, trên đời có loại độc dược nào khiến người ta phát điên không?"

Cố Quân bất mãn nhướng mí mắt: "Thập Lục là cho gọi ai đó?"

Ngoài miệng quở một câu, nhưng cũng chẳng để bụng lắm, Cố Quân dừng một chút, đoạn nói: "Nhất định có, thế giới rộng lớn cái gì mà chẳng có, đặc biệt là các vùng phiên bang, mọc rất nhiều thảo dược mà Trung Nguyên không có, hơn nữa đời đời truyền lại rất nhiều thần nọ thần kia, có rất nhiều thủ đoạn quỷ bí mà chúng ta không hiểu."

Lòng Trường Canh chùng xuống, y nắm chặt phế đao đeo trước ngực.

Cố Quân hơi lấy làm lạ hỏi ngược: "Sao lại nói đến việc này?"

Đầu ngón tay Trường Canh lạnh ngắt, cuộc đấu tranh tâm lý chớp mắt đã kết thúc, y buồn bã nói: "Không có gì, mơ thấy một ngày kia ta biến thành kẻ điên, giết rất nhiều người."

Dứt lời, không đợi Cố Quân đánh giá, Trường Canh lại tranh nói trước: "Mơ đều là ngược, ta biết."

Y cuối cùng hạ quyết định, phải giấu kín chuyện Ô nhĩ cốt, với một bầu khí phách thiếu niên, Trường Canh không chịu thừa nhận mình có thể thua, y phải đối kháng đến cùng, tỉnh táo đến chết.

Song cho dù trong lồng ngực có dũng khí lớn như vậy, y vẫn không dám thăm dò Cố Quân sẽ nghĩ gì nếu biết việc này.

Trường Canh nghĩ, dẫu đầu mình bị ghẻ, chân mình bị lở loét, tiểu nghĩa phụ chưa chắc sẽ ghét bỏ, nhưng nếu biết mình cuối cùng sẽ biến thành một kẻ điên khùng thì sao?

Y trốn tránh theo bản năng, không muốn nghĩ sâu, chỉ hỏi: "Ngươi cũng từng gặp ác mộng chứ?"

Cố Quân buột miệng nói khoác: "Làm sao có thể?"

Nhưng vừa nói xong, Cố Quân liền nhớ Thẩm Dịch bảo mình "thật lòng với Trường Canh một chút", lại cảm thấy mình khoác lác quá tròn, vội ho một tiếng, chữa lại: "Cũng không... À thì, có đôi khi tư thế ngủ không đúng, cũng sẽ mơ mộng vớ vẩn."

Trường Canh: "Thế mơ thấy những gì?"

Cố Quân không thích bàn chuyện cảm thụ của mình, bởi vì cảm thấy nói ra quá xấu hổ, giống như cởi hết quần áo chạy khắp đường cho người ta nhìn vậy, liền đáp lấy lệ: "Linh tinh thôi, mở mắt là quên luôn – ngươi mau ngủ đi, trời sắp sáng rồi đấy."

Trường Canh không nói gì nữa.

Nhưng một lát sau, Cố Quân nghiêng đầu nhìn y, lại thấy Trường Canh mở to đôi mắt, liên tục nhìn chằm chằm mình, rốt cuộc không nhịn được đau đầu.

"Được rồi," Cố Quân thở dài, vắt hết óc hồi tưởng một chút, nói bằng giọng điệu dỗ trẻ ngủ, "Hồi nhỏ, có một lần ta mơ thấy mình bị nhốt ở một nơi giơ tay không thấy năm ngón, chung quanh không có lấy một chút động tĩnh, nhưng ta biết nơi đó có rất nhiều dã thú ăn thịt người, vì thế cứ chạy mãi – ngày đó chắc là chân không duỗi ra, vẫn nói người không duỗi chân trong mơ chạy không nhanh, ta chạy đến cuối cùng, có cảm giác chân cẳng như làm từ bông, càng gấp càng chạy không nổi."

Trường Canh truy hỏi: "Sau đó thì sao?"

Sau đó đương nhiên là sợ quá tỉnh dậy thôi, còn có thể thế nào nữa?

Nhưng Cố Quân ngoài miệng tuyệt đối không chịu thừa nhận mình từng sợ quá tỉnh dậy, liền bịa đặt sinh động như thật: "Sau đó ta chạy đến phát bực, không biết rút từ đâu ra một thanh đại khảm đao đính tơ vàng, một đao đâm chết dã thú truy đuổi, rồi thỏa mãn tỉnh dậy."

Trường Canh: "..."

Y vậy mà thật sự muốn nghe vài câu đứng đắn từ miệng họ Cố, đúng là nghĩ quá nhiều rồi.

Ai ngờ Cố Quân lại nghiêm trang hỏi: "Ngươi có biết lúc gặp ác mộng nên làm thế nào không?"

Trường Canh hơi chần chừ, một lần nữa dễ dàng tin y, nghiêm túc lắc đầu, chờ nghe cao luận.

Cố Quân nói như thật: "Ngươi sở dĩ gặp ác mộng, là vì trong nhà có tiểu quỷ dạ du trêu ghẹo, tiểu quỷ đều sợ uế vật, về sau ngươi nhớ bỏ cái bô ngay cửa, nhất định có thể đuổi chúng chạy hết."

Trường Canh: "..."

Trường Canh đặc biệt dễ coi lời nói bậy của người khác là thật, Cố Quân nhanh chóng phát hiện lạc thú trêu ghẹo y, nửa đêm cười đến có tinh thần.

Trường Canh từng ngây thơ cho rằng tiểu nghĩa phụ là tới thăm y, bây giờ mới biết, thì ra tên này chỉ muốn lấy y ra tiêu khiển thôi!

Y phẫn nộ trở mình, đưa lưng lại Cố Quân, trong bóng lưng viết hai chữ "cút mau" rất to.

Cố Quân không cút, trông mãi đến khi nhịp thở của Trường Canh dần ổn định, mới nhẹ nhàng kéo chăn giúp, đoạn đứng dậy rời đi.

Trước khi đi, Cố Quân vốn định thuận tay xách theo kiên giáp ban nãy tháo xuống, vừa thò tay lại nhớ hình như trước kia từng nghe ai đó nói, trẻ nhỏ nửa đêm dễ giật mình tỉnh giấc là do dương khí quá yếu, rước trúng thứ không sạch sẽ, dùng đồ bằng sắt đặt ở đầu giường sẽ đỡ hơn.

Những lời nói vô căn cứ trong dân gian này, trước kia Cố Quân không tin, lúc này y đột nhiên cảm thấy có lẽ chúng cũng có chút đạo lý, bằng không sao có thể truyền lưu bao nhiêu năm?

Thế là y để thiết kiên giáp lại, mặc áo đơn rời khỏi phòng ngủ của Trường Canh.

Có khả năng Cố đại soái quả thật là một kẻ quỷ kiến sầu trừ tà, Trường Canh từ giấc ngủ thứ hai thực sự không còn bị lũ yêu ma quỷ quái kia quấy rầy nữa, ngủ một giấc đến tờ mờ sáng.

Đáng tiếc, sau khi tỉnh dậy, sắc mặt Trường Canh còn khó coi hơn một đêm không ngủ.

Y sắc mặt xanh mét ngồi trên giường một lát, vén chăn gấm lên nhìn thoáng qua, liền không nhịn được thở dài não nề một tiếng, cuộn tròn mình lại, hai tay ôm đầu.

Lần thứ hai rồi.

Trường Canh rốt cuộc không cách nào tiếp tục lừa mình dối người, bởi vì lần này giấc mơ chân thật và trắng trợn... Y chân thật và trắng trợn khinh nhờn tiểu nghĩa phụ trong mơ.

Y vùi mặt vào chăn mà hét to một tiếng, ghê tởm mình đến không chỗ dung thân, hận không thể đập đầu chết luôn ở đầu giường.

Lần này, đến cả lưỡi đao hình mây lành cũng chẳng thể giúp y bình tĩnh lại.

Ngay khi thiếu niên này tâm tư rối bời, đột nhiên có tiếng gõ cửa.

Ba hồn thống khổ mà ủ dột của Trường Canh bị dọa bay hết bảy phách, phản ứng đầu tiên là hoảng loạn cuộn khăn trải giường lại trước, cắn răng thật mạnh, ép mình ổn định tâm thần, dè dặt ra mở cửa.

Không ngờ vừa mở cửa, y lại bị dọa lần thứ hai.

Chỉ thấy một thứ bằng sắt cao hơn một người đứng ngay cửa, dưới mũ giáp huyền thiết lộ ra hai con mắt tròn xoe bằng hạt đậu, trong mắt lóe màu tím bầm riêng biệt khi tử lưu kim cháy, có vẻ đặc biệt đáng sợ, đủ để đảm nhận nhân vật chính trong truyện ma đêm khuya.

Đôi mắt con bằng sắt ấy nhìn thẳng phía trước, dại ra mà lướt qua đỉnh đầu Trường Canh, dòm lom lom phía sau y, nó giơ bàn tay to như cái bát, gõ cửa phòng y hệt như chim gõ kiến, căn bản dừng không được.

Ba hồn bảy vía Trường Canh còn ở giữa không trung biểu diễn thần hồn điên đảo là gì, chưa kịp tỉnh táo lại, vừa thấy tình cảnh này thì tóc gáy cả đêm chưa thể nằm xuống lại lần nữa dựng ngược lên.

Y giật mình hít sâu một hơi, nhanh chóng lui về sau một bước, lôi bội kiếm trên cửa xuống.

Đúng lúc này, Cố Quân từ phía sau nó ló đầu ra, hưng trí bừng bừng: "Thú vị không?"

Trường Canh: "..."

Thú vị cái rắm!

"Bọn gia tướng và thị vệ không dám tùy ý động binh khí với ngươi, ta nghe Vương thúc nói hằng ngày ngươi một mình luyện kiếm trong viện, không có ai tiếp chiêu, rất là buồn tẻ," Cố Quân vừa nói vừa tùy ý khều gáy con kia, quái vật sắt đáng sợ ngoan ngoãn im lặng, đứng ngây ra tại chỗ, Cố Quân sờ cái đầu sắt to đùng, cười nói với Trường Canh, "Đem một 'khôi lỗi hầu kiếm' tới cho ngươi chơi, được không?"

Trường Canh không dám dừng ánh mắt ở Cố Quân lâu lắm, đành phải ngửa đầu ngó quái vật sắt bất động như núi kia.

Giây lát sau, y dửng dưng chỉ ngực mình: "Ta, chơi nó?"

Thật sự không phải bị nó chơi chứ?

Cố Quân đẩy khôi lỗi sắt vào tiểu viện Trường Canh ở, Trường Canh uể oải theo sau.

Người thiếu niên có tật giật mình, mặc dù giữ vững sự bình tĩnh trên mặt một cách khó khăn, y lại vẫn chỉ dám liếc trộm vào lúc Cố Quân quay người đi, nhìn vài lần liền phát hiện Cố Quân mặc đặc biệt mát mẻ.

Sáng sớm đầu đông hà hơi thành sương, vậy mà Cố Quân chỉ mặc một kiện giáp bào không cũ không mới, lúc loay hoay khôi lỗi hơi khom lưng, eo tựa hồ còn nhỏ hơn Trường Canh tưởng tượng một chút.

Rất nhanh, Trường Canh liền ý thức được mình đang nhìn chỗ không nên nhìn, liền hớt hải quay đầu đi, hỏi: "Hôm nay không ra ngoài à?"

Cố Quân: "Ừ, được nghỉ."

Trường Canh im lặng một lúc, vẫn không nhịn được nói: "Sao ngươi mặc như thế, không lạnh à?"

"Dài dòng, đừng học Thẩm Dịch, mau tới đây." Cố Quân vẫy tay gọi y, vặn quái vật sắt ngay lại, vỗ bả vai cứng ngắc của nó mà nói, "Đây là một biến chủng của thiết khôi lỗi, khác với loại giữ nhà canh gác bình thường, nó còn gọi là khôi lỗi hầu kiếm, rất nhiều con cháu thế gia kinh thành khi tập võ luyện kiếm đạo sư đầu tiên đều là nó, hồi nhỏ ta cũng từng dùng – nó biết mấy bộ kiếm thuật vỡ lòng cố định, trên người có bảy huyệt là đầu, cổ, ngực, bụng, vai, tay, chân. Nếu ngươi có thể đâm trúng bất cứ một điểm nào trong bốn điểm đầu, nó sẽ lập tức dừng lại, nhưng nếu như đụng vào bốn điểm sau, thì phải cẩn thận, cho dù đánh tới huyệt vai tay, nó còn chân cử động được, có thể đá ngươi bất cứ lúc nào. Nếu muốn khóa nó, bất cứ một huyệt nào trong vai tay và huyệt chân trúng kiếm hết mới được, thế nào, thử xem?"

Cố Quân giảng giải còn chưa dài bằng một phát rắm, dăm ba câu đã xong, lập tức tiến vào giai đoạn thực tiễn đơn giản lỗ mãng: "Cầm kiếm cho chắc vào."

Chưa dứt lời thì thiết khôi lỗi đã hành động, ánh sáng tím ở hai mắt nó bừng lên, chợt tiến lên một bước, giơ kiếm chém xuống.

Trường Canh đang không tập trung, kiếm cũng chưa rút ra, vội vã luống cuống nhảy lùi vài bước.

Nhưng khôi lỗi không cho y nghỉ ngơi, một khi bắt đầu thì lập tức đuổi đánh không tha, chớp mắt đã ép y đến góc tường.

Trường Canh không biết tránh đâu, đành phải cắn răng một cái, hai tay cầm kiếm, vung từ dưới lên. Hai thanh thiết kiếm đánh vào nhau, cổ tay Trường Canh bị chấn mạnh, trọng kiếm trực tiếp tuột tay rơi xuống đất, mồ hôi nóng vừa đi thì mồ hôi lạnh lại tới, y ngửa ra sau theo bản năng – kiếm của khôi lỗi dừng ở chỗ trên trán y một nắm tay.

Trên mũi kiếm ngưng tụ một đường ánh sáng lạnh.

Tiểu viện lặng ngắt như tờ, chỉ có tiếng Trường Canh thở hồng hộc và tiếng động lực "ù ù" trong cơ thể thiết khôi lỗi.

Cố Quân không nói tiếng nào, cũng không tiến lên hướng dẫn, ngồi vào bàn đá trong viện, lấy từ trong lòng ra một chén rượu nhỏ, tháo bầu rượu bên hông, lấy Trường Canh bị khôi lỗi đuổi chạy khắp nơi làm thức nhắm.

Trường Canh liếc thấy vị đại gia ấy thì người càng khó chịu hơn.

Một mặt, y giống một con khổng tước nhỏ mới trưởng thành, lông còn chưa mọc đủ, đã có một bầu tâm tư xòe đuôi "cho tên kia biết mặt", mặt khác, trong lòng y đầy tích tụ, vừa nhìn thấy Cố Quân liền hơi xây xẩm.

Chiến ý trong lồng ngực thiếu niên lắc lư qua lại giữa đốt bùng và tắt lửa, nhưng thiết khôi lỗi không hiểu phong tình, dưới chân phun ra hơi nước màu trắng, vô bi vô hỉ trượt đi vài thước, nghiêng người bày ra thức mở đầu, lại lần nữa chỉ kiếm tới Trường Canh.

Trường Canh gác trọng kiếm trên vai, chủ động tiến lên, vắt óc nhớ lại chiêu dùng chủy thủ đánh bay kiếm của y khi ở phủ Thái thú Nhạn Hồi của Cố Quân.

Cố Quân ngắm nghía chén rượu nho nhỏ trong tay, "Chậc" một tiếng, nhìn mà lắc đầu.

Chỉ thấy rìa hai thanh thiết kiếm kia ma sát mạnh, tia lửa tóe lên, trên chuôi kiếm một lần nữa truyền đến lực áp bách khó lòng chịu nổi, kiếm chưa đến đúng chỗ thì người đã kiệt sức, trọng kiếm lại tuột tay Trường Canh văng đi ba thước.

Khôi lỗi hầu kiếm dùng để luyện tập, sẽ không đả thương người, tử quang trong mắt chớp tắt vài cái, nó nhấc thanh kiếm trên đầu Trường Canh, lại lần nữa trượt ra, thay đổi tư thế.

Trường Canh thái dương rịn mồ hôi, lại không nhịn được một lần nữa phân tâm nhìn lén Cố Quân, ảo não nghĩ bụng: "Hôm nay y không định đi à? Có gì đáng xem đâu!"

Cố Quân nhìn kiếm của Trường Canh bị đánh bay hết lần này tới lần khác, uống xong một bầu rượu lạnh, đôi chân dài đổi trên dưới ba lượt, cực kỳ kiên nhẫn, cho đến khi khôi lỗi ra một đòn nghiêm trọng, cả người Trường Canh bay đi, y rốt cuộc mới đủng đỉnh đứng dậy.

Trường Canh ngã xuống đất trầy da đau rát, đưa tay sờ còn thấy có ít máu, nhưng y không màng lau đi, bởi vì Cố Quân đi đến bên cạnh y, khoanh tay trước ngực, nhìn thiết khôi lỗi cao lớn trước mặt.

Trường Canh vô thức cúi gằm đầu, thất bại thảm hại đến không dám nhìn người kia.

"Trong lòng ngươi hoảng, chân liền không vững," Cố Quân nói, "Nếu chân đứng không vững, kiếm pháp lợi hại hơn cũng là nước không nguồn, cây không rễ."

Trường Canh giật mình, cực nghiêm túc ngẩng đầu lên.

Cố Quân hiếm khi nghiêm trang, nhàn nhạt nói: "Đứng lên, ta dạy ngươi."

Trường Canh thoạt tiên sửng sốt, lập tức mở to hai mắt, không đợi y phản ứng, Cố Quân đã chẳng thèm phân bua xách y lên, từ sau lưng nắm tay cầm kiếm, ôm lấy y.

Trường Canh khó khăn nuốt một ngụm nước bọt, lưng căng cứng.

Cố Quân thấp giọng nói: "Hãy thả lỏng, đừng nhìn ta, nhìn kiếm của ngươi đi."

Y còn chưa dứt lời, tử quang trong mắt thiết khôi lỗi đối diện đã rực lên, nó lại lần nữa gào thét lao đến, trong bụng rung ù ù, như trống trận bay tới, vẫn là một kiếm đánh thẳng xuống đầu.

Dẫu trong huyết mạch Trường Canh thật sự ẩn sâu dã tính nào đó, cũng chỉ khi sinh tử trước mắt lòng đầy kích phẫn mới bị kích phát ra. Mà đây dù sao chỉ là luyện kiếm.

Nhất thời, y chẳng để ý nổi một chút thân mật khiến y mất tự nhiên kia, phản ứng đầu tiên vẫn là lui lại, bất cứ ai phải nhận áp lực bức người trước mặt quái vật khổng lồ đến thế đều sẽ có phản ứng như vậy.

Nhưng Cố Quân không cho phép y lui bước, Trường Canh cảm thấy cả người mình bị Cố Quân đẩy bay lên, như rối gỗ giật dây không e sợ gì mà lao tới thiết khôi lỗi kia. Cổ tay y nằm trong bàn tay như làm bằng sắt của Cố Quân, không tự chủ được đâm trọng kiếm ra, chớp mắt đánh giáp lá cà, Trường Canh cảm thấy tay cầm kiếm bị Cố Quân nghiêng một góc độ cực vi diệu, kiếm mà thiết khôi lỗi chém xuống lại bị "bẩy" lên.

Hàn thiết sượt qua người, cơ hồ cứa qua thái dương y, Trường Canh theo bản năng nhắm mắt, còn cho là mình sẽ trực tiếp đụng trúng.

Cố Quân thầm thở dài, nghĩ bụng: "Đứa trẻ này thiếu chút huyết khí, chỉ sợ không phải người cầm kiếm."

Mùi hàn thiết thoảng qua mũi Trường Canh, khuỷu tay thiết khôi lỗi hơi kẹt. Cố Quân nhấc chân đá hõm đầu gối Trường Canh, quát: "Mở mắt, cánh tay!"

Đầu gối Trường Canh mềm nhũn, chân bị ngoại lực bắn ra, mũi chân chọc thẳng vào huyệt cánh tay của khôi lỗi.

Trên máy móc "Cụp" một tiếng, cánh tay bị khóa, Trường Canh mới thở ra một nửa, ngay sau đó đã bị Cố Quân đè cong lưng.

Gió rít qua tai "Vù" một tiếng – chân khôi lỗi quét ngang tới.

Cố Quân: "Xem cho kỹ."

Y nắm chặt tay Trường Canh, kéo thiếu niên ấy trượt nửa vòng tròn sắc bén trên mặt đất, mũi kiếm sượt thẳng qua mắt cá chân thiết khôi lỗi.

Lại là một tiếng "Cụp", khôi lỗi triệt để bị đóng đinh.

Nó giữ nguyên động tác Kim kê độc lập đứng im tại chỗ, tử quang lóe lóe trong mắt, dần dần ngừng tấn công, tối đi.

Bàn tay Trường Canh toàn là mồ hôi, ngực thì phập phồng mạnh, ngay cả Cố Quân buông ra khi nào y cũng không nhận thấy.

Trong chớp mắt này, y cảm nhận được chênh lệch trời vực giữa mình và tiểu nghĩa phụ.

Cố Quân vẫn thong dong phủi bụi đất trên người y: "Lùi bước là nhân chi thường tình, nếu là đối với con người, tiến tiến thoái thoái trái lại cũng không sao, nhưng hãy nhớ, nếu đối đầu thiết khôi lỗi hoặc trọng giáp khi chưa mặc giáp trụ, tuyệt đối không thể lui. Bởi vì mấy thứ bằng sắt này đốt tử lưu kim trên chân, ngươi vừa lui sẽ bị chúng đuổi theo, khi đó tâm trí và thân thể ngươi đều hướng về phía sau, rất khó ngưng tụ lực phản kích trong thời gian ngắn, ngược lại sẽ luống cuống tay chân rơi vào tay đối phương."

Trường Canh trầm ngâm rất lâu, đột nhiên hỏi: "Ý nghĩa phụ là, nếu gặp kẻ địch mạnh hơn mình nhiều, xông lên sẽ có phần thắng cao hơn tránh lui sao?"

Cố Quân nhướng mày, hơi lấy làm lạ nói: "Hở? Sao hôm nay lại 'nghĩa phụ' rồi?"

Trường Canh cái gì cũng tốt, có mỗi điểm ngoài miệng luôn không biết lớn nhỏ là rất đáng ghét, mở miệng ngậm miệng chuyên gọi y là "Thập Lục".

Cố Quân đẻ vào ngày mười sáu tháng Giêng, nhũ danh Thập Lục này còn là do công chúa đặt, trừ công chúa và tiên đế ra, ngay cả lão Hầu gia cũng không gọi y như vậy. Tuy y không so đo lắm, nhưng từ sáng đến tối bị một đứa nhóc mở mồm ra là "Thập Lục trường Thập Lục đoản", cũng rất khó chịu.

Dựa theo kinh nghiệm, Cố Quân cảm thấy hình như chỉ có hai loại tình huống là mình có thể kiếm một tiếng "nghĩa phụ" từ tiểu tử này, một loại là mèo mù vớ chuột chết, y vô tình làm tên nhãi này cao hứng, một loại là mèo mù giẫm đuôi chó, y vô tình khiến tên nhãi này xù lông.

Trường Canh thâm sâu nhìn y một lúc, thần sắc tự dưng phức tạp, nói: "Trước kia là con không hiểu chuyện, về sau sẽ không thế nữa."

Y rốt cuộc ý thức được chỗ đáng ghét đáng khinh, vô đức cũng vô năng của mình, làm sao còn dám tiếp tục tùy hứng nữa?

Đôi khi, giữa chàng thiếu niên "tự cho là đã thành người lớn" đến thật sự thành người lớn, đại khái chỉ cách có một đêm.

Cẩu thả như Cố Quân, cũng đột nhiên mơ hồ cảm nhận được hình như Trường Canh có chỗ nào khang khác.

An Định hầu không thể suốt ngày ở nhà nghỉ ngơi được. Một ngày bôn ba lao lực của văn võ bá quan Đại Lương thông thường bắt đầu từ điểm danh buổi sáng, số ít nhân viên chức vụ nhàn hạ, giờ Thân có thể về nhà tìm mẹ, nhưng Cố Quân hiển nhiên không làm chức quan nhàn hạ.

Cho dù hạ triều, bình thường không phải Hoàng thượng tìm thì là đồng liêu kiếm, vất vả lắm mới có một ngày không công việc không chén tạc chén thù, y còn phải đến Bắc đại doanh đi một vòng, rất ít được hồi phủ trước khi mặt trời lặn.

Tóm lại, y sống cuộc sống thua cả gà chó.

Bởi vậy, muốn được Cố đại soái đích thân chỉ dạy, phải nhân thời gian sáng sớm y hoạt động gân cốt trước khi vào triều.

Trường Canh từ đó bắt đầu dậy canh năm về nửa đêm, mỗi ngày gà còn ngủ, y đã dẫn khôi lỗi hầu kiếm đến chờ trong viện của Cố Quân.

Thiếu niên phát triển nhanh vừa cao vừa gầy xách kiếm đi đằng trước, khôi lỗi hầu kiếm rầm rầm theo sau, đôi tay sắt duỗi về phía trước, tay trái treo đèn măng-sông, tay phải treo cặp lồng, hệt như dạ du thần đưa cơm vậy.

Đến chỗ Cố đại soái, lão bộc dậy sớm nhận cặp lồng, dùng lửa nhỏ hâm ở bên cạnh, Cố Quân bắt đầu buổi học sáng cho đứa con nuôi.

Thế là dạ du thần đưa cơm thành dạ du thần bị đánh, làm trâu làm ngựa, bi thảm vô cùng.

Giảng xong một bài chóng vánh như ngựa thần lướt gió, điểm tâm cũng hâm xong, hai người tự ăn phần mình, sau đó nên làm gì thì làm – Cố Quân phải ra ngoài, Trường Canh thì quay về chờ tiên sinh đến dạy học, qua giờ Ngọ, còn phải tập võ với gia tướng hầu phủ.

Cố Quân thực sự không phải là lão sư tốt, giống với Thẩm Dịch, y cũng có tật xấu nhớ gì nói nấy, thường xuyên vừa đánh xong thiết khôi lỗi thì miệng đã giảng đến cách trọng giáp bài binh bố trận, tỉ lệ phân phối trọng giáp khinh giáp như thế nào tiết kiệm tử lưu kim nhất, thậm chí ngựa Tây Vực với ngựa Trung Nguyên có gì khác nhau, cao lương ở đâu đỡ đói nhất vân vân...

Chờ đề tài trên trời dưới đất này đi hết một vòng quanh Đại Lương, Cố Quân đại khái mới hồi phục tinh thần lại, hỏi Trường Canh: "Ta lại lạc đề à? Ban đầu ta định nói gì nhỉ?"

Trường Canh: "..."

Hai người cũng chỉ đành ngồi trên chân thiết khôi lỗi, giữa tiếng bánh răng trong cơ thể quái vật sắt kia cót két quay, cùng nhau vắt óc nhớ lại xem chủ đề lạc xa vạn dặm là gì.

Mới đầu, nghe nói Cố đại soái đích thân truyền nghề, Cát Bàn Tiểu và Tào Nương Tử đều kích động không thôi, cũng vượt qua muôn vàn khó khăn, ngáp ngắn ngáp dài chạy tới nghe ké vài lần, nào ngờ từ đầu đến cuối chỉ nghe ra một điều tâm đắc – cái quái gì đây!

Cát Bàn Tiểu lén bình luận: "Ta cảm thấy còn không bằng nghe Thẩm tiên sinh đọc kinh."

"Là Thẩm tướng quân, sao mãi không nhớ vậy?" Tào Nương Tử không vui sửa lại, tự vấn lương tâm mình, giữa mỹ nam tử và lương tâm vậy mà lại chọn lương tâm, bổ sung: "Ta cũng cảm thấy thế."

Chỉ có Trường Canh không hề ý kiến ý cò, mỗi ngày có thể ở bên Cố Quân một lúc, bảo y canh trước cửa thâu đêm suốt sáng cũng được, dù sao giấc ngủ cũng là ác mộng lặp lại, không có gì đáng lưu luyến cả.

Dường như y tin rằng mình nhất định có thể trấn được Ô nhĩ cốt, tin rằng mình có thể trở thành một lưỡi đao sắc, mỗi ngày mài đi một chút dư thừa không tốt, bao gồm ý nghĩ kỳ lạ với tiểu nghĩa phụ.

Huống chi, Cố Quân chỉ là không theo thứ tự thôi, nếu thật sự nghe vào tai, điều y giảng ít nhất đều là chân thật đáng tin.

Cố Quân từ lúc còn rất nhỏ đã bị cha mẹ không biết nặng nhẹ dẫn lên chiến trường, không sống mấy năm thoải mái cẩm y ngọc thực trong cung, mười lăm tuổi lại bắt đầu theo một vị lão tướng quân đã mất Nam hạ tiễu phỉ, về sau cứ liên tục lăn lộn quân ngũ.

Bảy đại quân chủng, trừ thiết giao đi dưới nước, y còn chưa quen thuộc lắm, còn lại toàn bộ đã giao thủ, từng đánh thắng trận, cũng từng bị bất lợi rất nhiều, bởi vậy các ưu điểm liệt thế đều thuộc như lòng bàn tay.

Trường Canh nghe như đói như khát, với y mà nói thì Cố Quân tựa như một ngọn núi cao, mỗi ngày ngẩng đầu nhìn một cái, chính là tìm một phương hướng để cúi đầu tiến bước cho cả ngày, lại mỗi bước một dấu chân mà đè nén suy nghĩ không thích hợp trong lòng mình.

Nhưng bản thân Cố Quân lại không cho rằng đây là dạy dỗ.

Y chuyên môn mời tiên sinh và sư phụ võ nghệ dạy bọn Trường Canh, mỗi sáng sớm vô luận là chỉ dạy Trường Canh so chiêu với thiết khôi lỗi, hay trời nam biển bắc nói về những hiểu biết của y, Cố Quân thấy kỳ thực đều chỉ là y bớt chút thời gian đến chơi với Trường Canh thôi.

Sau thời gian dài quan sát, Cố Quân không hề cho rằng Trường Canh thích hợp đi con đường cũ của y, bởi vì Trường Canh ở trước mặt y vĩnh viễn là dáng vẻ ôn hòa khắc chế, có vài phần cố chấp, nhưng tổng thể mà nói là rất biết lí lẽ.

Cố Quân cảm thấy, sau này lớn lên Trường Canh nên là một phiên phiên quân tử, mà không phải sát tướng đến thần quỷ cũng lui tránh.

Chớp mắt một cái mà đã đến cuối năm.

Tân hoàng năm thứ nhất đăng cơ tế thiên, đổi niên hiệu thành Long An, ngay ngày hôm ấy tuyên bố đại xá thiên hạ.

Đã là thiên hạ, đương nhiên cũng bao gồm Gia Lai Huỳnh Hoặc thế tử man tộc bị cầm tù ở đế đô.

Hoàng thượng kiềm chế hơn hai tháng, dùng cách vòng vèo này để bày tỏ quan điểm của mình – điều kiện thêm một phần cống phẩm của lão Lang Vương quá hấp dẫn, hắn lại không muốn làm mất thể diện Cố Quân, vì thế việc này thương nghị một lần ép xuống một lần, tấu của Hộ bộ và An Định hầu tất cả đều ém lại, lần lữa mãi tới khi thiên tử tế thiên, cuối cùng đã thấy kết quả.

Hai hàng Ngự lâm quân tách ra hai bên, Thẩm Dịch phóng ngựa chạy thẳng đến bên cạnh Cố Quân vận khinh cừu giáp mới "Họ" một tiếng dừng lại.

Cố Quân nhìn y một cái, chậm rãi quay đầu ngựa đi về, Thẩm Dịch vội vàng đuổi theo, thấp giọng nói: "Đại soái, ta thấy Hoàng thượng lần này quyết tâm phải thả hổ về rừng rồi, làm sao đây?"

"Thiên tử tế thiên là miệng vàng lời ngọc, phát chí nguyện to lớn với ông trời, nước đổ khó hốt, ta có biện pháp gì?" Cố Quân mặt không cảm xúc nói, "Để trấn an ta, y mở miệng hứa cho Huyền Thiết doanh ba mươi chiến xa và bốn trăm cương giáp, ý chỉ đã hạ đến Linh Xu viện, y tận tình tận nghĩa đến mức này, ta còn không biết xấu hổ vì chút việc nhỏ nhặt mà mãi không thôi sao?"

Tân hoàng vừa qua tuổi nhi lập, so với tiên đế gần đất xa trời thì càng cứng rắn hơn.

Cố Quân không muốn lộng quyền, Hoàng đế cứng rắn hay không y không hề để ý, nhưng vấn đề là, chính sách của Hoàng thượng đối với biên cảnh lại còn thiển cận hơn tiên đế.

Hai người sóng vai trầm ngâm chốc lát, Cố Quân mở miệng: "Nhưng mà quốc khố rỗng tuếch cũng là sự thật, Hoàng thượng mới kế vị, ít nhiều hơi vội vã – ngươi không biết đâu, hôm qua bọn Tây Dương 'mũ cao' phái một sứ giả xấu xí tới, xì xà xì xồ cả một buổi trưa, đến bây giờ tai ta còn ong ong đây."

"..." Thẩm Dịch sửng sốt một chút mới kịp phản ứng, "Ngươi nói Giáo hoàng Tây Dương?"

Trong lòng đại đa số người dân Đại Lương, bọn Tây Dương đều không ra thể thống gì, "Giáo hoàng" kia không chịu ngoan ngoãn ở trong miếu thắp hương, cả ngày đội cái mũ cao xuất đầu lộ diện khắp nơi, chuyện gì cũng nhúng mũi vào, Hoàng đế nói chuyện ngược lại chẳng có tác dụng – không phải muốn tạo phản sao?

Cố Quân gật đầu: "Nói là muốn thông thương, hôm qua ta cùng nghe một lúc, họ muốn mở rộng con đường tơ lụa dọc cảnh nội Tây Vực thành một đại thương lộ, do song phương phái binh trấn thủ, bảo đảm thông thương qua lại, chỉ giỏi ba hoa chích chòe, ngay cả bản đồ và đồ vật tưởng tượng cũng vẽ ra, tính một khoản trên mây cho Hoàng thượng."

Thẩm Dịch cười nói: "Thông thương là chuyện tốt, ngươi nói gì thế?"

"Không nói có gì không đúng – chỉ là việc buôn bán ta không hiểu lắm," Cố Quân nói, "Nhưng ta vẫn cảm thấy, nếu người Tây Dương thông thương với ta, họ chưa chắc đã được lợi."

Đây là lời nói thật.

Hàng hóa Tây Dương từ thời Vũ Hoàng đế đã bắt đầu chảy vào Đại Lương. Những món đồ chơi như đèn lưu ly, kính chiếu ảnh mới mẻ được vài năm, đáng tiếc đều không lâu dài, bởi vì đồ Tây Dương lưu nhập tinh xảo thì tinh xảo, nhưng rất nhiều thứ đều phải dùng tử lưu kim, vừa vào Trung Nguyên đã gián tiếp hâm nóng chợ đen tử lưu kim.

Năm đó Vũ Hoàng đế cảm thấy cứ theo đà này thì quốc chẳng thành quốc, để khống chế dân gian dùng lậu tử lưu kim, ông chuẩn bị hai thủ đoạn cứng và mềm, trong vòng một ngày hạ bốn pháp lệnh, các nơi nghiêm tra việc dùng lậu tử lưu kim, bắt được là giết, toàn bộ luận xử theo tội mưu phản, không hề nhân nhượng, trước tiên dùng thủ đoạn độc đoán thít lại mệnh mạch quốc gia này.

Sau đó lệnh cho Linh Xu viện dẫn đầu, tụ tập hàng loạt Trường Tý sư dân gian, nhanh chóng tăng ca mô phỏng ra một đống hàng giả Tây công năng tương tự, nhưng lấy than đá dây cót làm động lực.

Đao cứng kẹp chết đường ra của tử lưu kim, đao mềm trực tiếp chặt đứt thị trường hàng Tây Dương – cho dù kiếm được tử lưu kim, ai mà không muốn đốt nhiên liệu rẻ hơn? Lại thêm hình Tây Dương lòe loẹt, trong mắt người Trung Nguyên ít nhiều không ưa nổi.

Hàng Tây Dương chân chính nhanh chóng bị hàng nhái thay thế, đồ của thương nhân Tây ở Trung Nguyên bán không được giá.

Ngược lại là các vật tinh xảo như tơ lụa, nghe nói ở chỗ người Tây rất được ưa chuộng.

Cố Quân nói: "Đã không có lợi, thì chưa chắc có hảo tâm."

Thẩm Dịch im lặng chốc lát: "Hoàng thượng nghĩ thế nào?"

Cố Quân nhếch môi, lộ ra nụ cười không rõ là chua hay cay, nói: "Hoàng thượng không sợ hãi gì, y cảm thấy có Huyền Thiết doanh ta trấn thủ Tây Bắc, thì Đại Lương có thể đao thương bất nhập. Đến chính ta còn không biết mình có bản lĩnh lớn nhường vậy, ngươi nói ta có đau đầu không?"

Thẩm Dịch suy tính một chút, hỏi: "Hoàng thượng nói thế ngay trước mặt ngươi?"

Cố Quân cười khổ: "Không chỉ nói trước mặt ta, còn ban cho ta một tấm hồ cừu."

Tật xấu một năm bốn mùa chỉ mặc áo đơn của Cố đại soái cả triều văn võ đều biết, chỉ có thời điểm ở quan ngoại gặp bão tuyết là y chịu mặc thêm ít quần áo, Hoàng thượng ban cho y quần áo mùa đông là có ý gì, rất khó để người ta không đa tâm.

Thẩm Dịch im lặng.

Cố Quân: "Sau Tết ta cũng nên quay về Tây Bắc rồi, Huyền Thiết doanh cứ nán lại trong Bắc đại doanh mãi, Hoàng thượng ngủ không ngon lắm đâu."

Ngàn dặm giang sơn, sơn hà cẩm tú, trong một câu của tân hoàng, ngưng tụ thành một đường, đè trên vai An Định hầu.

Họ cảm thấy y nắm giữ Huyền Thiết tam đại doanh, bách chiến bách thắng, không gì không làm được.

Vừa dựa vào y, vừa sợ hãi y.

Cố Quân nói đùa: "Ngươi nói nếu một ngày kia ta đi đời nhà ma thì phải làm thế nào?"

Thẩm Dịch biến sắc: "Nói bậy bạ gì thế, nhổ ngay!"

Cố Quân không để ý lắm: "Việc này thì có gì mà kiêng kị, sinh tử có mệnh, phú quý do trời. Cố gia ta không ai trường mệnh, chẳng những mệnh không trường, ngay cả vận con cái cũng là chồn đẻ chuột, đời sau không bằng đời trước, lão Hầu gia khi đó mỗi ngày nhìn thấy ta là thở ngắn than dài, đến đời ta thì càng là... không người nối nghiệp."

Thẩm Dịch: "Không phải còn tứ điện hạ sao?"

Cố Quân lắc đầu: "Đứa trẻ đó không phải mệnh ăn cát – chậc, đêm Giao thừa vui vẻ, hai ta nói mấy chuyện ngột ngạt này làm gì? Mau đi đặt 'hồng đầu diên' cho ta, giờ ta về đón con đây."

Nói xong y giục ngựa đi trước, bỏ Thẩm Dịch lại đằng sau.

Thẩm Dịch phẫn nộ gào lên: "Ngươi không nói sớm, toàn thành chỉ có hai mươi cỗ hồng đầu diên, hôm nay làm sao còn đặt được?"

Cố Quân: "Ngươi coi mà làm..."

Chữ "làm" bay tới, kéo theo gió Tây Bắc thổi đầy mặt Thẩm Dịch, An Định hầu kia đã rẽ bụi đi mất.

Trường Canh vốn ở trong phòng chăm chỉ đọc sách, cửa chính đột nhiên bị phá từ bên ngoài, cuồng phong cuốn tuyết thốc vào, xấp giấy Tuyên Thành y còn chưa kịp chặn trên bàn bay lả tả khắp nơi.

Tên quỷ đáng ghét quấy nhiễu sự thanh tĩnh như vậy ngoài Cố Quân ra thì không còn kẻ thứ hai, Trường Canh bất đắc dĩ quay đầu lại: "Nghĩa phụ."

Cát Bàn Tiểu và Tào Nương Tử một trái một phải như Hanh Cáp nhị tướng, theo đuôi Cố Quân, cùng vẫy tay gọi y: "Đại ca đại ca, Hầu gia nói dẫn chúng ta đi ngồi hồng đầu diên."

Trường Canh: "..."

Trường Canh trời sinh không thích ra ngoài, ưa yên tĩnh không ưa ồn ào, nhìn thấy nhiều người là phiền, trước kia lên dốc núi Tướng Quân luyện kiếm, cũng là do sân nhà mình không đủ lớn, từ lúc đến hầu phủ, thì y không còn muốn ra ngoài hít thở khí trời nữa.

Trong mắt y, ăn tết đón Giao thừa, mọi người cùng ở nhà vây quanh tiểu hỏa lò, hâm hai lạng rượu, tán gẫu vài câu chẳng tốt hơn sao?

Nhất định phải ra ngoài xơi gió ngắm người, sở thích gì vậy?

Cố Quân đã tự chủ trương lấy ngoại bào của y xuống: "Nhanh lên, đừng lề mề, Vương thúc nói từ lúc vào hầu phủ tới giờ ngươi vẫn chưa từng ra cửa, trồng nấm à?"

Vừa nghĩ đến "thịnh cảnh" biển người nghìn nghịt, muôn người đổ xô ra đường của kinh thành, Trường Canh đã nổi hết da gà, cho dù là ra ngoài cùng Cố Quân, y cũng không muốn chút nào, thế là ở nguyên tại chỗ kì kèo tìm cớ: "Nghĩa phụ, đón Giao thừa có chú trọng, phải có người ở lại giữ nhà, con... A!"

Cố Quân không thèm phân bua cuộn Trường Canh vào ngoại bào, trực tiếp coi y là một đoạn xà nhà biết kêu, vác trên vai lôi ra ngoài: "Trẻ ranh vắt mũi chưa sạch, chú trọng quá nhiều."

Tác giả: Luận chiêu tất sát để đối phó trạch nam, cuộn lại khiêng đi. =w=

Trường Canh đỏ từ da đầu đến gót chân, chín đến ngoài giòn trong mềm, thất khiếu tỏa hương, tức giận đến mức kêu cũng không nổi.

Tào Nương Tử lại hết sức hâm mộ đãi ngộ kiểu xà nhà này, chảy nước miếng háo sắc nhìn bóng lưng Cố đại soái, cắn tai Cát Bàn Tiểu nói: "Sinh thời nếu có thể để Hầu gia khiêng một lần, ta thật sự chết cũng đáng!"

Cát Bàn Tiểu hết sức có nghĩa khí, nghe vậy lập tức quẹt nước mũi, khỏe khoắn trung bình tấn, dồn khí xuống đan điền, ưỡn ngực hóp bụng nín thở, giống như sắp đi khiêng bao tải mà vỗ vỗ vai mình, thấy chết không sờn nói: "Lên đây!"

Tào Nương Tử nhìn gã giây lát, nhổ toẹt một phát, phẫn nộ chạy chậm ra khỏi cánh cửa chữ bát.

Đêm Trừ tịch, kim ngô không cấm.

Ra bên ngoài rồi, Cố Quân nhìn chung còn nhớ chừa chút thể diện cho đứa con nuôi, thả y xuống.

Trường Canh mặt trầm như nước, sải bước đi đằng trước, lưng thẳng như cột cờ, áo choàng phất phới phía sau, đã có dáng dấp của vóc người cao to, khí vũ hiên ngang tương lai.

Cố Quân quẹt mũi, đuổi theo dày mặt cười nói: "Giận rồi à?"

Trường Canh hất tay y khỏi vai mình, lạnh lùng nói: "Không dám."

Cố Quân: "Suốt ngày ru rú trong nhà, ngươi không chán à? Trẻ con..."

Trường Canh âm trầm nhìn y một cái, Cố Quân hiếm được một lần có mắt, vội sửa lại: "Người trẻ tuổi – người trẻ tuổi phải hoạt bát, ngươi mới sống mấy năm, mà đã nhìn chán hồng trần rồi à?"

Trường Canh không có gì để nói với loại nghĩa phụ hoạt bát này, đanh mặt chẳng rằng chẳng nói, một lần nữa muốn hất tay Cố Quân đang kéo y, ai ngờ vừa vặn đụng phải đầu ngón tay Cố Quân, liền giật mình vì cảm giác lạnh buốt.

Trường Canh chau mày, nắm ngược tay Cố Quân, thấy bàn tay ấy lạnh đến tái xanh, như tử thi mới đào từ dưới đất lên. Trong bụng người lại chẳng đốt lử lưu kim, mùa đông khắc nghiệt mặc áo đơn chạy khắp nơi, có thể không lạnh sao?

Đúng thật là ăn no rửng mỡ!

Trường Canh đau lòng, đau đến mức tâm hỏa cũng bùng lên theo, y vừa giận dỗi, vừa nhanh nhẹn cởi áo choàng, không thèm giải thích khoác cho Cố Quân, Cố Quân bị y kéo không thể không cúi đầu, nhưng không né tránh, dung túng mặc y cột dây cho mình, cười tủm tỉm hưởng thụ một lần hiếu kính đầy tức giận, nghĩ thầm: "Có con trai tốt thật, chờ Tiểu Trường Canh trưởng thành, ta cũng tự mình tìm người đẻ một đứa đi, nếu có thể đẻ con gái thì càng tốt."

Kinh thành đêm Trừ tịch, bắt đầu từ giờ Dậu canh ba, mỗi một khắc lại có một tiếng kèn dài, nhắc nhở mọi người bước chân năm mới đã đến gần.

Khắp thành chiêng trống pháo dây vang trời, giấy đỏ bay khắp nơi, như lũ bướm sặc sỡ, bờ sông, trên lầu, giữa đại lộ... đâu đâu cũng toàn người hai chân, Trường Canh nhìn qua liền thấy da đầu ngứa ngáy – thật sự như là toàn thiên hạ đều chen chúc trong tứ cửu thành, so với sự náo nhiệt này, chợ ở Nhạn Hồi thành mỗi năm chen người rơi xuống sông quả thực có thể nói là hoang vắng tịch mịch. (Tứ cửu thành là gọi chung bốn cổng hoàng thành gồm Thiên An môn, Địa An môn, Đông An môn, Tây An môn, và chín cổng nội thành gồm Chính Dương môn, Sùng Văn môn, Tuyên Vũ môn, Triêu Dương môn, Phụ Thành môn, Đông Trực môn, Tây Trực môn, An Định môn, Đức Thắng môn.)

Vô luận là Cố Quân bắt buộc y ra ngoài, hay Cát Bàn Tiểu và Tào Nương Tử hưng trí bừng bừng, giờ này khắc này trong mắt Trường Canh đều bất chấp lý lẽ như vậy. Y một mặt cầm bàn tay lạnh ngắt của Cố Quân, cố hết sức muốn ủ ấm một chút, một mặt còn phải lưu ý hai đứa trẻ nhà quê hết nhìn đông tới nhìn tây đừng đi lạc, cho dù chung quanh có mấy thị vệ Huyền Thiết doanh xuất quỷ nhập thần, vẫn bận bịu đến sứt đầu mẻ trán.

Có thể là có người trời sinh mệnh chuyên nhọc lòng.

Lúc này, không trung truyền xuống một âm dài vừa như ưng vừa tựa hạc, đám đông reo hò ầm ĩ.

"Hồng đầu diên!"

"Mau xem kìa, cỗ hồng đầu diên thứ nhất của năm nay bay lên rồi!"

Kinh kì trọng địa, dưới chân thiên tử, bình thường cấm không, trên cửu môn lắp vô số bạch hồng tiễn, dù là huyền ưng, nếu cả gan tiếp cận kinh thành từ trên trời, cũng chỉ có một kết cục là bị bắn rơi.

Chỉ có ngày Trừ tịch là ngoại lệ.

Trên đại lộ rộng rãi thông thẳng từ hoàng thành ra ngoài thành, đứng sừng sững cột mốc của cả Trung Nguyên – "Khởi Diên lâu".

Nghe nói những người Tây Dương từng ngồi thuyền lớn vượt trùng dương đó khi vừa đến Trung Nguyên, hai danh thắng duy nhị họ biết, một là hoàng cung, một là Khởi Diên lâu.

Khởi Diên lâu không hề là một tòa lâu, nó là do tiên đế xây dựng bằng quân phí cắt giảm vào năm Nguyên Hòa thứ hai mươi mốt, để nghênh đón khách đến từ bát phương, khí phái vô cùng, chia làm hai khu nam bắc, Bắc khu có một loạt tháp cao mái vòm, gọi là "Vân Mộng đại quán", Nam khu thì là một đài cao, có người ở sau lưng chế nhạo nói đây là "Trích Tinh đài", đương nhiên, không ai dám gọi như vậy ngay trước mặt, dân gian bình thường gọi nó là "Đình Diên đài".

Nam bắc trông nhau, lấy ý trời tròn đất vuông, cùng hoàng cung xa xa nhìn nhau.

Trừ tịch hàng năm, Đình Diên đài đều biến thành trung tâm của cả kinh thành, danh kỹ danh giác từ nam chí bắc không ai không chen nhau muốn lên hiến một khúc hát, dưới đài người vây xem đông nghìn nghịt, trên đài ngắm cảnh của Vân Mộng đại quán cũng không thiếu đạt quan quý nhân.

Mà giờ Dậu canh ba vừa qua, quanh Đình Diên đài sẽ bay lên hai mươi "hồng đầu diên".

Hồng đầu diên và cự diên biên cảnh có nguyên lý hoạt động tương tự, chẳng qua cự diên khiến vô số người man nghe tiếng đã sợ vỡ mật, hồng đầu diên thì hoàn toàn dùng trong vui chơi giải trí. Nó là một kiểu thuyền, hai đầu có khắc cá chép gấm đỏ rực, dựa vào chín chín tám mươi mốt hỏa sí để bay lên trời, thân thuyền dùng một loại dây thừng đặc biệt trong suốt như tơ nhện buộc lên Đình Diên đài.

Hỏa sí vừa đốt, hơn hai mươi cỗ hồng đầu diên đỏ rực như cá chép liền vững vàng treo giữa trời, hơi hơi lắc lư trông rất đẹp, đế đô châm rượu vào bầu trời đêm như nước.

Bên trên tầm nhìn cực tốt, có một gian nhã và một vòng lộ đài, muốn rượu hay thịt đều có thể chuyển lên theo đám dây thừng như mạng nhện, người ở trên đó, có thể nhìn thấy vạn gia đăng hỏa, cung cấm tường đỏ.

Cố Quân quen thuộc dẫn ba thiếu niên choai choai lên từ thập cấp trên con đường nhỏ cạnh Đình Diên đài, vệ binh trực đêm nhận ra y, lấy làm kinh hãi, đang định cúi đầu hành lễ, liền bị Cố Quân thoải mái xua tay ngăn: "Ta dẫn bọn trẻ lên chơi thôi, đừng đa lễ – có thấy Thẩm tướng quân không?"

Một kẻ hầu từ xa chạy tới: "Hầu gia, mời đi bên này, Thẩm tướng quân đang chờ ngài trên hồng đầu diên ạ."

Cố Quân ngoài mặt bình tĩnh gật đầu, trong lòng lại không khỏi hơi thán phục – kỳ thực y chỉ dẫn bọn Trường Canh đến góp vui, hoàn toàn không liệu được Thẩm Dịch lại tài ba đến thế, thật sự đặt được một con thuyền luôn.

Cát Bàn Tiểu nhìn chằm chằm hồng đầu diên, theo sát Cố Quân mà hỏi: "Hầu gia, chúng ta sắp lên trời à?"

Cố Quân: "Không gấp, vài chục năm nữa hẵng lên, hôm nay chúng ta lên giẫm một điểm trước thôi."

Trường Canh nghe lời cát tường đầy sáng tạo của hai tên này trong đêm Giao thừa, thật chỉ muốn rọ cả hai cái miệng lại.

Trong gian nhã trên hồng đầu diên ấm áp như mùa xuân, Cố Quân vào phòng liền cởi áo choàng vắt lên lưng ghế.

Thẩm Dịch đã kêu sẵn một bàn rượu thịt, trong gian nhã còn có mấy thiếu niên thiếu nữ mỹ mạo đứng hầu, có kẻ to gan còn không ngừng nhìn trộm Cố hầu gia.

Cố Quân đảo mắt nhìn lướt qua, thoạt tiên sửng sốt – Thẩm Dịch là một học cứu chưa già đã yếu, xem tranh Tây cũng sợ bẩn mắt, hai mươi năm như một ngày giả vờ đứng đắn, sao lại đi giữ một đám thịt non như vậy? (Học cứu có ba nghĩa, một là tên của chế độ khoa cử dưới thời Đường, hai là chỉ người đọc sách nói chung và hủ nho nói riêng, ba là từ cũ chỉ lão sư trong tư thục)

Lập tức ném tới một ánh mắt hỏi dò, Thẩm Dịch kề tai y thấp giọng nói: "Đây là Ngụy vương sau khi nghe chuyện khăng khăng muốn nhường cho ngươi."

Cố Quân nghe thế nhất thời không nói gì, trên mặt hỉ nộ khó phân.

Kẻ hầu rất có nhãn lực, lập tức tiến lên hỏi: "Hầu gia, đốt lửa chứ?"

Cố Quân dừng một chút, đoạn gật đầu: "Đốt đi – đúng rồi, kêu các huynh đệ thủ trên lộ đài vào ăn cơm tất niên, hôm nay không có người ngoài, không cần câu nệ hư lễ."

Kẻ hầu được lệnh, lập tức cung kính lui khỏi hồng đầu diên, nhảy xuống sàn lộ đài, gọi một tiếng thật dài.

Mấy tướng sĩ Huyền Thiết doanh nghe gọi tiến vào, huấn luyện nghiêm chỉnh mà nhất tề hành lễ: "Đại soái!"

Nhất thời, lãnh ý của huyền thiết trong khoảnh khắc xâm nhập thập trượng nhuyễn hồng trần, sự ám muội kỳ lạ trong gian nhã tức thì bị xua tan sạch.

Cố Quân liếc nhìn đám người hầu thức thời lui ra ngoài, trong đó một cô nàng đặc biệt vui tai vui mắt trước khi đi còn ẩn tình nhìn lén y một cái, Cố Quân liền nở nụ cười đáp lại, đồng thời tiếc nuối nghĩ bụng, y dắt theo ba đứa trẻ choai choai, trò giải trí đêm khuya sợ rằng cũng chỉ có thể dừng lại ở mắt đi mày lại thôi.

Thẩm Dịch ra vẻ đạo mạo ho một tiếng, Cố Quân điềm nhiên thu tầm mắt về, làm bộ làm tịch than phiền: "Ngụy vương cũng lớn đầu rồi, nhưng thật không ra sao."

Thẩm Dịch ngoài cười trong không cười: "Ha ha."

May mà ba thiếu niên kia bị hỏa sí sáng lên thành dải xung quanh hồng đầu diên thu hút, tất cả đều nhoài lên cửa sổ trông ra ngoài, không chú ý tới mấy người lớn âm thầm làm trò xấu xa trong phòng.

Tiếng hỏa sí nổ đùng đùng vang lên, một luồng gió ấm áp thốc vào, thổi song linh véo von reo, Trường Canh chỉ cảm thấy hụt chân, không tự chủ được vịn cửa sổ gỗ, Tào Nương Tử ở bên cạnh kêu la, hồng đầu diên rung nhè nhẹ bay lên trời.

Đúng lúc này, giờ Tuất đến, một đóa pháo hoa thình lình phóng lên từ Đình Diên đài, nổ rực giữa hai mươi chiếc hồng đầu diên, nhuộm màu vỏ quýt lên mớ tơ nhện nối nhau.

Đình Diên đài từ từ bay lên, các bánh răng bằng sắt bên dưới khớp vào nhau, một vũ nương hồng y ôm tỳ bà bắt đầu khoe giọng.

Trên trời dưới đất, phồn hoa nhất cũng chỉ đến thế mà thôi.

Thẩm Dịch mở một bình rượu bồ đào, rót cho Cố Quân một chén: "Đây là năm đầu họ tiến cống sau khi bình định phản loạn Tây Vực, bồ đào mỹ tửu chén dạ quang, rượu ngon nên phối anh hùng, nếm thử đi."

Cố Quân nhìn chằm chằm cái chén dạ quang kia chốc lát, thần sắc không khỏi nhạt đi. Y nhận chén hớp một ngụm rồi lại bỏ xuống – không phải rượu không ngon, chỉ là luôn cảm thấy có chút nhạt nhẽo.

Cố Quân: "Thôi, uống không quen thứ này, đổi rượu Hoa Điêu đi, xem ra ta chẳng phải anh hùng mà là cẩu hùng – ôi, chư vị ngồi cả đi, mặc kệ ba đứa đó, chúng ăn ở nhà rồi, cứ để chúng chơi đi."

Đang nói chuyện thì y bắt đầu cảm thấy tầm nhìn hơi mơ hồ, liền cúi đầu đưa tay bóp mũi, biết liều thuốc mấy hôm trước uống e là sắp hết tác dụng rồi.

Thời gian dược hiệu mất đi là khoảng non nửa canh giờ, bình thường y sẽ mù trước điếc sau.

Thẩm Dịch vừa thấy động tác nhỏ của y liền biết chuyện gì xảy ra: "Hầu gia?"

"Không sao," Cố Quân lắc đầu, đổi rượu, nâng chén nói với cả bàn tiệc, "Chư vị đều là dũng sĩ ngàn dặm mới tìm được một của Đại Lương ta, đi theo ta, nhưng vừa không có vinh hoa phú quý, cũng chẳng có quyền thế lợi ích, biên cương bần hàn, ngay cả lương bổng cũng ba cọc ba đồng, đều chịu ủy khuất rồi, ta kính các huynh đệ một chén trước."

Cố Quân nói xong một ngụm uống cạn, lập tức không phân bua gì, lại rót đầy một chén nữa cho mình: "Chén thứ hai kính các huynh đệ ở lại Tây Vực, năm đó ta không biết trời cao đất dày dẫn họ đi, lại không thể đưa họ về..."

Thẩm Dịch: "Đại soái, tết nhất mà, đừng nói nữa."

Cố Quân thoáng nở nụ cười, thực sự liền ngậm miệng, nâng chén dốc cạn, lại rót đầy lần nữa.

"Chén thứ ba," Cố Quân khẽ nói, "Kính hoàng thiên hậu thổ, mong chư thiên thần ma thiện đãi linh hồn đồng đội ta."

Trường Canh đứng cạnh cửa sổ, không biết từ khi nào thịnh cảnh bên ngoài đã không thể hấp dẫn y nữa, y nghiêng người nhìn Cố Quân đăm đăm không chớp mắt.

Y chưa bao giờ thấy Cố Quân cô đơn nâng chén, một hơi uống cạn, nghĩa phụ như vậy với y mà nói cơ hồ là xa lạ.

Tính ra thì Cố Quân chưa từng nổi giận trước mặt y, cũng rất ít để lộ sự mệt mỏi hay không vui, giống như luôn trêu ghẹo y, vừa dễ thân vừa dễ ghét – tựa hồ trừ mặt này ra, rất nhiều thần sắc khác đều không tiện để lộ cho y thấy.

Bởi vì y chỉ là một đứa trẻ sức vóc chưa đủ.

Trường Canh đột nhiên khao khát muốn trở nên mạnh mẽ ngay lập tức.

Lúc này, Cát Bàn Tiểu chợt quay đầu hô: "Hầu gia! Thẩm tướng quân, bọn mũi lõ dẫn một đống dã thú tới nhảy múa kìa! Mau đến xem đi!"

Cố Quân chậm chạp lấy một mảnh kính lưu ly từ trong lòng ra, đặt trên mũi, thong thả bước đến bên cạnh Trường Canh, đẩy cửa sổ híp mắt dõi nhìn phía trên Đình Diên đài.

Mảnh kính lưu ly kia gắn dây bạc, vắt nghiêng vào tai, che mất một con mắt hoa đào, sống mũi lại càng thêm thẳng, khí chất cả người đột nhiên có vẻ lãnh liệt, tỏa ra mùi của y quan cầm thú.

Trường Canh ngơ ngác nhìn y một lúc, hỏi: "Nghĩa phụ, người đeo cái gì thế?"

Cố Quân nghiêng đầu trêu y: "Đồ của bọn Tây đấy, đẹp chứ? Bên đó thịnh hành đeo cái này, để lát ta ra ngoài đi một vòng, lừa về một bà mẹ kế Tây Dương cho ngươi được không?"

Trường Canh: "..."

Một tiểu tướng sĩ Huyền Ưng bộ có ý làm dịu bầu không khí nặng nề ban nãy, thông minh nói: "Đại soái, ngài cũng không phải cha ruột mà!"

Cố Quân vô tâm vô phế cười theo.

Tiểu tướng sĩ nọ lắc lư đầu nói: "Bây giờ thế đạo thay đổi, lòng người cũng khác xưa, nữ nhân trước kia coi trọng đạo đức năng lực và tính tình của chúng ta, chúng ta đều không phải lo gì, hiện tại thì ngược lại, họ chỉ quan tâm nam nhân có tuấn tú hay không. Đại soái, các huynh đệ chúng ta ế không phải do ngoại hình xấu, mà là do sinh không gặp thời thôi."

Đặc sản của Huyền Thiết doanh chính là trai ế, vừa nghe lời này, tất cả đều ồn ào theo.

Cố Quân cười to nói: "Cút, đừng lôi cả ta vào! Ai ngoại hình xấu hả? Bản hầu đường đường là một đóa hoa của Huyền Thiết tam bộ, mỹ danh vượt trùng dương luôn rồi."

Một đám đàn ông thô lỗ trong quân sợ hãi trước sự mặt dày vô sỉ của Đại soái nhà mình, đành phải cười rộ lên, Thẩm Dịch nói lạnh tanh: "Đại soái, ngài xinh đẹp như hoa, sao cũng không cưới được vợ thế hả?"

Một câu đâm trúng chuyện thương tâm của Cố Quân, Cố đại soái đành phải ôm ngực nói: "Ta chờ giá cao mà, thứ tốt đều để áp trục, ngươi thì biết cái gì?"

Nói đến việc này, thật sự cũng không trách được Cố Quân.

Năm đó tiên đế đối với y hết sức mâu thuẫn, vừa yêu thương vừa phòng bị y, lúc nhỏ còn đỡ, mới hơi lớn lên thì hôn nhân đại sự của An Định hầu liền trở thành cái xương mắc trong họng tiên đế.

Chọn người thân phận hèn mọn, sợ người ta nói mình bạc đãi trung lương, tiên đế chẳng ăn nói được với ai, nhưng nếu chọn nhà quyền cao chức trọng, trong lòng tiên đế lại lo ngay ngáy.

Hai đường đều khó xử, chắc hẳn năm đó trong lòng tiên đế nhất định chỉ hận Cố Quân không phải là một tiểu thái giám.

Việc hôn nhân của An Định hầu lần lữa rất lâu, cuối cùng tiên đế quyết định chọn con gái Quách đại học sĩ.

Quách gia nhiều thế hệ dòng dõi thư hương, gia thế thanh quý, Quách cô nương nghe nói xinh đẹp như lan, tài danh vang khắp đế đô, cùng thái tử phi năm đó, hoàng hậu hiện tại xưng là kinh thành song thù, vừa không dính dáng tới ai, cũng không bẽ mặt Cố Quân. (Thù: người đẹp)

Nhưng cũng thật là kỳ lạ, bắt đầu từ khi đính hôn, đóa danh hoa này như thể bị phủ sương, ngày càng tiều tụy hơn, không đợi Cố Quân đánh giặc xong về kinh, Quách tiểu thư đã hương tiêu ngọc vẫn.

Nói tới thì người chết vợ nhiều vô kể, chẳng có gì đáng ngạc nhiên, huống chi chỉ là một thê tử vị hôn còn chưa xuất giá. Nhưng việc này dính tới An Định hầu, thì rất khó để người ta không liên tưởng đến ngoại tổ góa bụa cô đơn và cha mẹ mất sớm của y.

Thế là, chuyện An Định hầu khắc vợ không chân mà chạy khắp nơi.

Có thể gả cho An Định hầu cố nhiên thể diện trong ngoài đều có tất, còn không cần hầu hạ cha mẹ chồng, nhưng phúc phận bằng trời cũng phải có mệnh hưởng mới được.

Sau đó Cố Quân chạy qua chạy lại Bắc cương Tây Vực, bốn năm năm không về kinh thành, cũng chẳng còn cơ hội lo liệu. Hiện giờ tiên đế đã thẳng cẳng ra đi, đương kim Hoàng thượng tuy lớn hơn Cố Quân vài tuổi, song từ nhỏ kêu y là hoàng thúc, kém một bậc, dù cho quân thần hữu biệt, quản hôn nhân đại sự của y cũng ít nhiều không tiện lắm.

Bản thân Cố Quân cũng không có tinh lực để ý, thế là kéo dài mãi tới bây giờ.

Thẩm Dịch không chịu bỏ qua cho y: "Chờ giá cao? Đại soái muốn bán mình cho ai?"

Cố Quân ngẩng đầu lên, xuyên qua kính lưu ly, thấy Trường Canh nhìn mình chằm chằm, trên mặt còn không tự chủ được có vẻ căng thẳng, liền cho là thiếu niên kia đang lo lắng mình cưới vợ rồi không thương y nữa.

Cố Quân vỗ đầu Trường Canh trấn an: "Ta thích người thông minh ôn nhu tốt tính, yên tâm, về sau nhất định không rước sư tử Hà Đông về bắt nạt ngươi đâu."

Lời này như khoét một lỗ ngay ngực Trường Canh, ý nghĩ xằng bậy phảng phất đã bị y hàng phục được cơ hội lại chui ra gây sự, làm không đâu không ảm đạm.

Y đành phải buộc mình gượng gạo mỉm cười.

Dốc hết sức như mỗi đêm buộc mình nhắm mắt ngủ vậy.

Lúc này, trên Đình Diên đài đột nhiên đánh trống reo hò, mấy người Tây Dương dẫn hết lũ khỉ vẹt nhảy nhót trên đài xuống, khiêng một cái lồng sắt to che vải nhung lên, một thằng hề Tây Dương sắc mặt trắng bệch uốn éo dựng lên vòng lửa lớn, làm điệu bộ một lúc lâu, khiến mọi người tò mò đủ rồi, mới tháo tấm vải nhung xuống.

Trong lồng sắt kia vậy mà lại có một con hổ to.

Cát Bàn Tiểu nhô hết người ra ngoài cửa sổ, hỏi luôn mồm: "Thật hay giả vậy? Đó là hổ thật hả?"

Thằng hề tiến lên mở lồng, cầm xích dắt hổ ra.

Chẳng biết có phải do người vây xem quá nhiều hay không, con hổ kia có vẻ hơi lo nôn nóng, không ngừng có động tác giãy giụa.

Cố Quân nhíu mày, lạnh lùng nói: "Bọn Tây này thật là quá hiểu quy củ mà, tết nhất lại lôi ra súc sinh như vậy – Tiểu Giả."

Thiếu niên ban nãy nói nhiều nhất thần sắc nghiêm lại: "Vâng."

Cố Quân nói: "Tìm người canh chừng, phía dưới đông người, đừng để xảy ra nhiễu loạn gì nữa."

Tiểu Giả lĩnh mệnh đi, gã trực tiếp nhảy xuống từ lộ đài trên hồng đầu diên, bóng đen lướt qua không trung cao mấy chục trượng, để lại một luồng hơi nước nhỏ, chớp mắt đã mất tăm.

Trong tiếng người ồn ào huyên náo, con hổ nôn nóng không yên bắt đầu nhảy vòng lửa một cách không tình nguyện, vẻ mặt dữ tợn như bị bức lương vi xướng.

Trên lầu ngắm cảnh của Vân Mộng đại quán, tiếng khen ngợi sóng sau cao hơn sóng trước, có kẻ kích động liền bắt đầu rắc tiền xuống.

Xem ca múa tạp kỹ cao hứng, ném vài đồng tiền lên Đình Diên đài cũng không hề gì, rất nhiều người đều làm thế, nhưng hôm nay không biết có tên ngu đần từ đâu đến, lại đi ném vàng lá xuống.

Đám người vốn ở dưới đài xem náo nhiệt ồ lên như vỡ chợ, đua nhau la "vàng vàng".

Còn chưa kịp tranh được gì, con hổ vốn đang chui qua vòng lửa không biết thế nào mà bị triệt để chọc giận, nó gầm lên một tiếng, quay đầu lại cắn thằng hề không kịp phòng bị.

Thằng hề đương trường bị cắn đứt một cánh tay và non nửa bả vai, tru lên một tiếng thảm thiết thê lương.

Hổ dữ rống lên một tiếng, thoát khỏi khống chế, lao tới biển người dưới Khởi Diên lâu.

Người bên trong bị súc sinh kia dọa lao ra ngoài như ruồi nhặng không đầu, người bên ngoài không rõ nội tình, cũng không biết làm sao nghe nói bên trong đang tranh vàng lá, còn nhao nhao chen vào.

Hai bên xô vào nhau, không ai nhúc nhích nổi.

Có kẻ kêu "vàng", có kẻ khóc la "hổ", có kẻ ngã xuống căn bản không bò dậy nổi, tình cảnh lộn xộn khủng khiếp.

Kim ngô vệ trực đêm bị đám đông xô rối loạn, gần Khởi Diên lâu không thiếu gì đạt quan quý nhân, có những kẻ không coi tính mạng bách tính tầm thường ra gì, chỉ lo tự mình chạy thoát thân, đã chạy còn không quên sĩ diện – bắt gia bộc vẹt ra một lối cho mình.

Cố Quân nắm vai Trường Canh đẩy y ra sau, với tay tháo giỏ tên và trường cung Thẩm Dịch treo sau cửa, phân phó: "Đừng đi ra."

Tướng sĩ Huyền Thiết doanh bên cạnh bàn đều đứng dậy theo.

Thẩm Dịch nắm khuỷu tay Cố Quân, buột miệng nói: "Mắt ngươi..."

Trường Canh nhạy cảm ngẩng đầu lên, nghĩ thầm: "Mắt? Mắt làm sao?"

Cố Quân không để ý, hất tay Thẩm Dịch ra, không thèm phân bua đá bay cửa gian nhã trên hồng đầu diên.

Mấy huyền ưng trên hồng đầu diên từ trên cao nhảy xuống, bay là là sát đất, vài đóa pháo hoa bé tí nổ ra ánh sáng lạnh lẽo, có một Huyền Thiết binh giáp khác đứng ở chỗ cao, trèo lên cột đèn tín hiệu của hồng đầu diên, tay giơ đồng hống, cao giọng quát đám đông hỗn loạn: "An Định hầu ở đây, không được làm bừa!"

Câu này còn hữu dụng hơn thánh chỉ của thiên hoàng lão tử vài phần, có không ít kẻ vừa nghe thấy ba chữ "An Định hầu" liền dừng bước thôi chen lấn theo bản năng.

Tiếng hổ gầm từ xa vọng đến, mãnh hổ bị chọc giận lao ra như tia chớp, đè một thiếu niên ăn mặc kiểu tiểu tư dưới móng vuốt, Cố Quân đứng trên mũi thuyền cá chép của hồng đầu diên, dựa khung cửa gian nhã, nghiêng người kéo trường cung.

Kính lưu ly y còn đeo trên mũi, không ai đeo kính lưu ly bắn tên cả, vì thứ đó sẽ làm tầm nhìn có sai lệch, quần áo phong phanh tung bay trong luồng gió nóng của hỏa sí, cả người tùy ý khinh mạn khó tả, quả thực như nhắm mắt bắn tên vậy.

Nhưng Thẩm Dịch biết, Cố Quân hiện tại chỉ cần tháo kính lưu ly, thì ngoài một trượng cả người lẫn vật chẳng phân biệt được, căn bản không khác lắm với nhắm mắt.

Tại sao lại đúng ngay vào lúc sống còn này?

Lòng bàn tay Thẩm Dịch không tự chủ được rịn một lớp mồ hôi mỏng, cả tấm lưng đều căng cứng theo.

Đúng lúc này, Cố Quân chợt buông tay.

Mũi tên ấy tựa sao băng, xuyên thẳng qua đám dây thừng rối rắm như mạng nhện bên dưới hai mươi chiếc hồng đầu diên, cắm phập vào gáy mãnh hổ.

Lực đạo của mũi tên này không biết lớn cỡ nào, "Phập" một tiếng bắn xuyên qua cái đầu to như cái chậu của mãnh hổ, nó ngã rầm xuống đất, chẳng rên được tiếng nào, chết một cách nhanh gọn.

Cố Quân không dừng tay, lại lần nữa quay người kéo cung, trực tiếp cài mũi thứ hai, cửa gian nhã đang dựa lưng xoay một góc độ, cơ hồ chưa hề ngắm, một tên đã lại rời cung, bắn ngay trụ đài ngắm cảnh ban nãy ném vàng lá xuống.

Trên đài ngắm cảnh rộ lên tiếng la hoảng, chỉ thấy mũi tên ấy sượt da đầu một người nước ngoài, ghim mũ hắn lên cột, đuôi mũi tên còn đang rung không ngừng.

Người nọ sợ tới mức từ trên ghế ngã chổng vó xuống.

Cố Quân thu hồi trường cung, mặt không biểu cảm nói với Huyền Giáp thị vệ cầm đồng hống trên cột buồm: "Rắp tâm hại người, bắt lại chờ thẩm."

Cho đến lúc này, kẻ bị lão hổ đè mới định thần lại, phát ra một tiếng khóc thút thít khe khẽ, mọi người chung quanh định thần lại còn chưa hết hoảng, hớt hải lôi hắn ra.

Mà dưới Đình Diên đài, một bóng người nhỏ gầy không hút mắt xuyên qua đám đông, nhân loạn lên một chiếc du thuyền trên mặt hồ gần đó.

Vừa lên du thuyền, hắn liền tháo khăn trùm đầu, lại là một người Tây Dương tóc đen mắt đen, có vài phần giống người Trung Nguyên, hắn nhanh chóng được cho vào gian nhã trên thuyền, gặp kẻ vẫn đang chờ đợi.

Đó là một nam nhân ở vào độ tuổi giữa thanh niên và trung niên, vận áo trắng, khoác hồng bào hoa văn phức tạp, một cây quyền trượng kiểu dáng cổ quái dựng bên cạnh, mái tóc xoăn màu nâu không dài không ngắn buông trên vai, chải rất gọn gàng, tay đeo một cái nhẫn to long trọng.

Chính là sứ giả do Giáo hoàng phái tới.

Tay Tây Dương nhỏ thó tóc đen cung kính nửa quỳ xuống: "Giáo chủ đại nhân."

Giáo chủ hơi nghiêng người ra trước, tỏ vẻ mình đang chú ý nghe.

"Tôi chỉ sợ kết quả như ngài dự đoán," Tay tóc đen nói, "Cố và gia tộc của hắn đối với những người phương Đông này mà nói, cơ hồ có ý nghĩa tượng trưng nào đó. Chỉ cần 'Quạ Đen' bay qua bầu trời đêm, cho dù đối mặt với nguy cơ lớn hơn, dân chúng ngu xuẩn cũng sẽ mù quáng được trấn an, như lũ cừu tìm được chó chăn cừu – niềm tin không hề có lý do này khiến người ta khó lòng lý giải, dù tôi cho rằng một phần trong số họ kỳ thực ngay cả tên đầy đủ của Cố Quân cũng không biết."

Giáo chủ thần sắc không rõ trầm ngâm chốc lát: "'Hạt giống' không tạo thành thương vong."

"Hầu như không," Tóc đen cúi đầu, "An Định hầu vừa khéo ở ngay trên hồng đầu diên, trong đám đông hình như sớm có vệ binh hắn xếp vào, không biết là người của chúng ta bị tiết lộ hành tung, hay là bản thân hắn đối với việc nguy cấp có khả năng cảm ứng hơn hẳn người thường, chúng ta vừa rắc hạt thì Quạ Đen đã lập tức có phản ứng, Cố từ trên hồng đầu diên một tên bắn chết 'hạt giống', còn bắt 'kẻ gieo hạt'."

Giáo chủ dựa lên chiếc ghế điêu hoa, ngón tay vê ria mép: "Đây không phải uy tín của cá nhân hắn, mà là sự tích lũy của ba đời, người Trung Nguyên mù quáng tin theo lũ Quạ Đen này, cơ hồ hình thành một loại tín ngưỡng với gia tộc họ Cố."

Tóc đen: "Giáo hội từ rất sớm đã tham thảo, tại sao xã hội phương Đông liên tục có lỗ hổng, nhưng dân gian lại có thể giữ vững sự hòa bình thủng lỗ chỗ, tôi nghĩ loại tín ngưỡng này cũng là một trong các nguyên nhân."

Giáo chủ đứng dậy, chắp tay sau lưng thong thả bước trên thuyền hoa.

"Đây là cơ hội của chúng ta," Hắn lẩm bẩm, "Không phải chuyện xấu – ta phải viết thư cho Giáo hoàng, chúng ta có thể lập tức khởi động kế hoạch Lâu Lan."

Lúc này, trật tự dưới Khởi Diên lâu đã bước đầu ổn định, Ngự lâm quân nhanh chóng tới hỗ trợ, Cố Quân thấy không còn việc của mình, liền định giơ tay ra hiệu cho Thẩm Dịch, chuẩn bị rời khỏi – tầm mắt y đã rất mờ, thính lực cũng đang yếu đi, tiếng huyên náo xung quanh đều trở nên im lặng.

Cố Quân nói với Huyền Ưng thị vệ: "Ta có chút việc phải đi trước một bước, ngươi hãy đi theo bọn tứ điện hạ, nếu họ muốn về nhà, thì chờ bên ngoài hơi yên bình rồi đưa họ về, muốn chơi tiếp trên hồng đầu diên cũng được – không biết còn biểu diễn nữa không."

Trường Canh vội hỏi: "Nghĩa phụ, người thì sao?"

Cố Quân lúc này căn bản không nghe rõ y nói gì, chỉ vỗ vai y rồi vội vã bỏ đi.

Dưới chân truyền đến tiếng ù ù càng nặng nề, hồng đầu diên họ ngồi dừng chốc lát trên Đình Diên đài. Cố Quân và Thẩm Dịch sải bước sóng vai mà đi, đêm lạnh sương dày, Trường Canh cầm tấm áo choàng Cố Quân bỏ lại, vừa tính đuổi theo, liền bị huyền ưng bên cạnh ngăn cản.

Huyền ưng kia nói: "Điện hạ dừng bước, Đại soái ở kinh thành không mặc quần áo mùa đông, bên ngoài binh hoang mã loạn, xin ngài đừng rời khỏi thuộc hạ."

Hoài nghi trong lòng Trường Canh tăng lên – Vì sao không mặc? Với thân thể Cố Quân, rõ ràng không phải là vì không sợ lạnh.

Lại thêm câu "mắt ngươi" mà ban nãy Thẩm Dịch nóng lòng hô lên cũng làm Trường Canh như hóc xương, Trường Canh không tự chủ được nhớ tới Thẩm Thập Lục "giả mù vờ điếc" ở Nhạn Hồi trấn. Đương nhiên, tai và mắt Thẩm Thập Lục bất tiện quá nửa là để chơi xấu, nhưng Trường Canh xác định, lúc ở Nhạn Hồi trấn y thực sự có tình huống không thấy rõ, chẳng lẽ chỉ để lừa Tú Nương và đám người man ý đồ thâm nhập Bắc cương?

Người vừa nghĩ nhiều liền dễ lo âu, trong lòng Trường Canh bỗng trỗi lên sự bất an, cho đến khi huyền ưng tận chức tận trách đưa họ về hầu phủ cũng chưa mảy may dịu đi.

Trường Canh trở về phòng, lăn qua lộn lại không ngủ được, sau khi đuổi Tào Nương Tử và Cát Bàn Tiểu đi, y lén lút khoác thêm áo ngoài, chạy tới phòng Cố Quân chờ đợi.

Phòng Cố Quân rất sạch sẽ, có sự gọn gàng và ngăn nắp của người trong quân ngũ, không hề có vật bài trí dư thừa, trên bàn để mấy quyển sách, một ngọn đèn măng-sông đã cũ, trên tường treo một bức tranh chữ, viết bốn chữ "thế bất khả tị", nhìn ra được là bút tích của chính Cố Quân.

Ngoại trừ đầu giường treo một tấm hồ cừu mới tinh, phòng ngủ của An Định hầu thanh bần đến cơ hồ bủn xỉn.

Trường Canh đợi một lúc, bất tri bất giác gục lên chiếc bàn con mà ngủ thiếp đi, đè lên ngực, nhanh chóng mơ mộng lung tung.

Trong cơn mơ màng, Cố Quân dường như đứng trước mặt đưa lưng lại, Trường Canh trong mộng không còn ràng buộc, láo xược hơn trong hiện thực không ít, thân mật kéo y từ sau lưng: "Nghĩa phụ."

Cố Quân chậm rãi quay đầu lại, nhưng trong đôi hốc mắt trống rỗng, hai dòng máu như nước mắt xuôi hai má chảy dài: "Gọi ta à?"

Trường Canh hét to một tiếng choàng tỉnh dậy, bị gió lạnh ngoài cửa thốc vào, ngơ ngác nhìn người từ bên ngoài đi vào.

Cố Quân không liệu được y lại ở trong phòng mình, vội với tay đóng cửa, hỏi: "Sao ngươi lại ở đây?"

Giọng Cố Quân hơi khàn khàn, sắc mặt cũng rất khó coi.

Nháy mắt nhìn thấy Cố Quân, hơi lạnh trong ngực Trường Canh rốt cuộc nặng nề phun ra, nhất thời thực ảo khó phân, cơ hồ có cảm giác mừng như điên khi mất rồi còn được lại.

Cố Quân vịn cửa đứng đó một lúc lâu, chịu đựng một đợt chóng mặt, yếu ớt vẫy tay gọi Trường Canh: "Lại đây đỡ ta đi – ngày mai còn phải dẫn ngươi vào cung chúc tết Hoàng thượng, coi chừng dậy không nổi."

Trường Canh đỡ khuỷu tay dìu y đến bên giường: "Nghĩa phụ, người làm sao vậy?"

"Trên đường về bị họ kéo đến Bắc đại doanh, hơi quá chén." Cố Quân giày cũng chẳng buồn cởi, ngửa mặt nằm lăn ra giường, y vừa uống thuốc xong, trong đầu còn kêu ong ong, mệt mỏi nói, "Về nghỉ sớm đi."

Trường Canh cau mày – trên người Cố Quân quả thật có mùi rượu, nhưng không hề nồng nặc, hơn nữa nói chuyện rõ ràng, chẳng giống uống say chút nào.

Song không đợi y hỏi lại, Cố Quân đã chẳng còn lên tiếng, giống như vừa chạm gối đã ngủ luôn.

Trường Canh đành phải tự mình cởi giày tất cho y, kéo chăn lại đắp giúp, luôn cảm thấy hơi lạnh trên người Cố Quân ủ ấm không nổi, liền đốt lò sưởi hơi nước trong phòng rực hơn, dựa cột giường lẳng lặng ngắm nhìn khuôn mặt Cố Quân khi ngủ.

"Ta không nghĩ ngợi lung tung." Y tự nhủ câu này ba lần, kế đó như một động vật nhỏ nơm nớp lo sợ, hơi đến gần Cố Quân, tựa hồ muốn ngửi thử mùi trên người đối phương, rồi lại không tự chủ được nín thở.

Ngày hôm sau, Trường Canh cảm thấy mình mới vừa nhắm mắt lại, ngay cả ác mộng cũng chưa hoàn chỉnh, đã bị Cố Quân dựng dậy, giày vò một phen, sau đó lờ đờ theo Cố đại soái vào cung, chúc tết Hoàng đế Long An huynh trưởng trên danh nghĩa.

Trên đường, Cố Quân nói: "Hoàng thượng đối xử với ngươi thế nào cũng không cần quá để ý, năm đó thái hậu tại thế có chút lục đục với quý phi, nhưng đều là chuyện từ đời trước, không liên quan đến ngươi... Hừ, xui quá!"

Trường Canh lơ đãng đáp, nghe y chửi nhỏ một câu, mới ngẩng đầu lên, chỉ thấy đối diện Cố Quân có một chiếc xa giá.

Chính là xa giá của Hộ Quốc tự.

Hoàng thất Đại Lương sùng tín Phật giáo, ngay cả ngoại tổ sát phạt quyết đoán của Cố Quân cũng không ngoại lệ. Đặc biệt tân hoàng hiện tại Thái tử năm đó, mỗi khi rỗi rãi là lại tham thiền thanh đàm với các đại hòa thượng.

Nhưng nói đến Cố Quân bình sinh ghét nhất, kỳ thực không phải người di tứ phương, mà là đám đầu trọc này.

Đặc biệt là lão lừa trọc trụ trì Hộ Quốc tự, không biết tạo khẩu nghiệp là gì, có cái miệng quạ đen chết tiệt, từ nhỏ đã quả quyết Cố Quân tương lai lớn lên sẽ khắc lục thân. (Lục thân gồm cha, mẹ, anh, em, vợ, con)

An Định hầu đến nay vẫn đem nguyên do mình phải ế giận lây sang các hòa thượng của Hộ Quốc tự.

Nội thị của Hoàng đế Long An Lý Phong thấy y liền vội chạy chậm tới.

Hắn cao lớn thô kệch, cao xấp xỉ Cố đại soái, lại to gấp ba Đại soái, trời sinh đôi bàn chân bé teo chỉ dài bốn tấc, cất đôi chân nhỏ, như cây vạn tuế lá to lay động trong cuồng phong, hết sức thướt tha.

Tay này họ Chúc, người khác trước mặt gọi Chúc công công, sau lưng đều gọi hắn là Chúc Chân Nhỏ.

Chúc Chân Nhỏ danh tiếng không tốt, nuôi hai đứa "con nuôi" tô son trát phấn ở ngoài cung, không biết là để làm gì.

Đại Lương do vận tải biển mở sớm, dân phong không bảo thủ như tiền triều, mấy việc đáng xấu hổ trong đạt quan quý nhân nói cũng không hết, thế nên việc này vốn cũng chẳng hề gì. Chỉ là, nếu tên thái giám chân nhỏ này không dung túng con nuôi cậy danh hắn vơ vét tiền của, thì càng tốt hơn.

Chúc Chân Nhỏ cười nịnh nọt tiến đến trước mặt Cố Quân: "Hầu gia và tứ điện hạ đến rồi? Hoàng thượng đang thanh đàm với Liễu Si trụ trì của Hộ Quốc tự, nói là nếu hai vị đến thì cứ đi thẳng vào, Liễu Si trụ trì cũng rất lâu rồi chưa gặp ngài – ồ, khéo quá, các đại sư ra rồi!"

Đang nói chuyện thì hai hòa thượng một trước một sau từ bên trong đi ra.

Người đằng trước Cố Quân biết, có khuôn mặt hạch đào nhăn nheo, vẻ mặt sầu khổ, giống như cả đời chưa từng được ăn no, chính là Liễu Si hòa thượng trụ trì Hộ Quốc tự.

Tầm mắt Cố Quân không cầm được dừng ở người phía sau, đó cũng là một hòa thượng, tầm hai ba mươi tuổi, vận áo cà sa trắng như tuyết, mặt mày như họa, đôi giày nhà sư sạch sẽ giẫm trên con đường nhỏ của hoàng thành, phảng phất như tiên nhân đạp tuyết mà đến.

Dù Cố Quân ghét đầu trọc, trong nháy mắt ấy, vẫn không tự chủ được nhớ tới cao tăng truyền thế đã đến Thiên Trúc của tiền triều.

Hòa thượng trẻ tuổi ấy như nhận thấy điều gì, ngẩng đầu đối lại ánh mắt Cố Quân, đôi mắt hắn trong veo, bên trong như có một biển sao mênh mông u tĩnh, khiến người ta nhìn một cái là có thể chìm trong đó.

Hòa thượng trẻ tuổi chắp tay, từ xa chào Cố Quân.

Cố Quân như vừa tỉnh mộng dời ánh mắt, nghĩ bụng: "Tự dưng mình nhìn chằm chằm một tên đầu trọc làm gì?"

Y cũng không thèm để ý người ta, hết sức vô lễ nhìn đi chỗ khác, hỏi Chúc Chân Nhỏ: "Tên tiểu bạch kiểm mà lão lừa trọc dẫn đến là ai vậy?"

Chúc Chân Nhỏ nhìn y lớn lên từ bé, biết tính tình y, vội nói: "Đó là sư đệ của trụ trì, Liễu Nhiên đại sư, vân du hải ngoại mới về."

Cố Quân thầm nghĩ: "Pháp danh chó má gì vậy, vừa nghe đã thấy xui xẻo."

Ai ngờ y không thèm gặp người ta, người ta lại khăng khăng muốn đến trước mắt y.

Liễu Si phương trượng dẫn sư đệ tiểu bạch kiểm tới, chắp tay thi lễ với Cố Quân, cười ra một đóa long trảo cúc nở rộ: "Nhiều năm không gặp, Hầu gia phong thái vẫn như xưa, thật sự là may mắn của giang sơn Đại Lương ta." (Long trảo cúc – Aloe Arborescens Mill là 1 loại cây gần giống lô hội)

Cố Quân nhìn khuôn mặt xấu xí của ông ta mà đau dạ dày, nghĩ bụng: "Không phải sao, còn chưa bị ông rủa chết đâu."

Đương nhiên, thân là An Định hầu, y không tiện bốc đồng mà gây sự vô cớ, ít nhất ngoài mặt phải đàng hoàng, lập tức chỉ hơi gật đầu với thần sắc thản nhiên: "Nhờ phúc đại sư."

Hòa thượng mặt trắng mi thanh mục tú Liễu Nhiên kia cũng chào theo, lại chỉ cười dịu dàng không lên tiếng, Cố Quân không nhịn được nhìn hắn một cái.

Liễu Si giải thích: "Hầu gia đừng trách, sư đệ ta tuy ngộ tính rất tốt, tinh nghiên Phật pháp, nhưng đáng tiếc trời sinh là người tu bế khẩu thiền."

Cố Quân sửng sốt, Liễu Nhiên này vậy mà là một người câm.

Liễu Nhiên hòa thượng tiến lên một bước, chìa hai tay tới Cố Quân. Hòa thượng này trắng đến cơ hồ lóa mắt, khiến mắt mi càng đen hơn, tựa một khúc gỗ cháy thành than nằm ngang trên nền tuyết, nếu không phải là một hòa thượng, tất có mái tóc dài đen như nét mực, lại thêm môi hồng răng trắng, quả thực như một yêu vật làm bằng sứ trắng vậy.

Cố Quân hơi nhíu mày, nghĩ bụng: "Tính làm gì đây, khai quang cho ta hả?"

Liễu Si hòa thượng nói: "Hầu gia gánh vác sự an ổn của biên cương, ít ngày nữa chắc hẳn lại phải rời kinh, sư đệ muốn cầu phúc chúc an cho ngài."

Cố Quân mỉm cười: "Làm phiền đại sư, nhưng không cần đâu – ta chưa từng đọc kinh ngày nào, cũng chưa từng thắp một nén nhang, không đi quấy rầy Phật tổ lão nhân gia đâu."

Liễu Si: "A di đà Phật, Phật pháp vô biên, phổ độ chúng sinh, Hầu gia nói thế là sai rồi."

Cố Quân nghe thấy bốn chữ "A di đà Phật" thì đã rất muốn đánh người, kiên nhẫn đã đến cực hạn, không còn muốn nói nhảm với họ nữa, vẻ mặt thản nhiên bỏ lại một câu: "Hoàng thượng còn đang chờ, ta không trì hoãn thêm nữa, ngày khác sẽ bái phỏng đại sư, xin lỗi không hầu được."

Nói xong y liền lôi Trường Canh theo Chúc Chân Nhỏ đi vào cung điện, Trường Canh vô tình quay đầu lại nhìn thoáng qua, thấy Liễu Nhiên hòa thượng kia chẳng mảy may bị ảnh hưởng bởi thái độ của Cố Quân, vẫn thành kính như quỳ dưới Phật tổ tọa, miệng lẩm bẩm không tiếng, phảng phất muốn không phân bua gì mà gán số mệnh cầu được lên Cố Quân đang càng lúc càng xa.

Tin hay không do ngươi, độ hay không do ta.

Trường Canh đang thất thần, tay đột nhiên bị người ta kéo một cái, Cố Quân thấp giọng nói vẻ không vui: "Hòa thượng có gì đẹp mà nhìn, nhìn nhiều mù mắt đấy."

Trường Canh ngoan ngoãn vâng lời thu tầm mắt lại, hỏi Cố Quân: "Nghĩa phụ, vị đại sư kia nói người còn phải rời kinh, là thật ạ?"

Cố Quân: "Ừm."

Trường Canh truy hỏi: "Khi nào?"

"Chưa rõ," Cố Quân nói, "Phải xem ý Hoàng thượng – nếu ta đi rồi, trong hầu phủ ngươi lớn nhất, ngươi định đoạt, có chuyện gì không hiểu, cứ trao đổi với Vương thúc."

Chuyện ngoan ngoãn học hành, chuyên tâm tập võ nọ kia, Cố Quân không dặn, bởi vì tại phương diện này, Trường Canh thật sự tự giác đến mức kẻ làm trưởng bối y đây cũng cảm thấy xấu hổ.

Trường Canh nghe thế lập tức ngẩn ra, một lúc lâu mới khó khăn hỏi: "Nghĩa phụ không định dẫn con đi à?"

"Hả?" Cố Quân không hiểu gì hết, nói, "Dẫn ngươi đi làm gì?"

Trường Canh khựng bước.

Trước hôm nay, Trường Canh chưa bao giờ nghĩ đến còn có việc này.

Từ Nhạn Hồi đến kinh thành, Cố Quân vẫn luôn dẫn y theo bên cạnh, Trường Canh căn bản không ý thức được, một khi tiểu nghĩa phụ lại lần nữa lĩnh binh lên Tây Bắc, hai người sẽ cách nhau quá nửa non sông Trung Nguyên.

Chỉ chớp mắt, trong lòng Trường Canh chợt hiểu ra, đột nhiên liên tưởng đến một chuỗi việc – trong mắt nghĩa phụ, sợ rằng mình cũng chỉ là một đứa trẻ văn không thành võ không tựu, tướng sĩ đến biên cương đeo đao đeo thương mặc áo giáp, chứ ai lại dẫn theo một gia quyến liên lụy?

Tương lai Cố Quân đến biên cương Tây Bắc, nếu bên kia bình an vô sự, có lẽ còn có thể một năm về kinh báo cáo một lần, nếu hơi mất yên ổn, thì chưa biết chắc phải ở đó đến bao giờ, hiện giờ mình tính tròn đã mười bốn tuổi rồi, thời gian thiếu niên trước khi đội mũ còn mấy năm đâu?

Đến lúc đó y sẽ phải rời khỏi vòng tay che chở của An Định hầu, một mình dọn khỏi hầu phủ. Y sẽ có một hư danh lạ lùng, sống trong kinh thành trống vắng...

Nghĩa phụ rồi cũng sẽ phải cưới vợ sinh con, đến lúc đó, người còn nhớ tới gánh nặng nhỏ năm ấy ném lại hầu phủ nuôi thả không?

Họ gọi nhau là phụ tử, nhưng thì ra duyên phận tựa như bấc đèn cũ chỉ còn dài một tấc, vừa đốt liền cháy hết, chỉ có y mãi đắm chìm trong giấc mộng địa cửu thiên trường.

Vừa nghĩ thế, cả hoàng cung như đều biến thành một hầm băng khổng lồ, đông trọn y ở bên trong.

Cố Quân thấy y đột nhiên dừng lại, liền quay đầu nghi hoặc nhìn y.

Trường Canh nhất thời hơi hoảng hốt buột miệng nói: "Con cũng muốn theo người đến biên cương, con có thể tòng quân!"

Cố Quân nghĩ bụng: "Đừng lộn xộn nữa, bứng ngươi ra ngoài dạo một vòng cũng khó như vậy, thì tòng quân cái gì chứ?"

Nhưng qua non nửa năm, y đại khái đã tìm được một chút bí quyết làm trưởng bối, không hề đả kích Trường Canh ngay trước mặt, chỉ cười cổ vũ với vẻ giả bộ quá mức, trông hơi khoa trương: "Tốt lắm, tương lai làm lính cho ta đi tiểu điện hạ."

Trường Canh: "..."

Hiển nhiên, Cố Quân tìm được chính là bí quyết làm trưởng bối của một đứa bé bốn tuổi, muộn mất mười năm.

Một bầu quyến luyến tuyệt vọng của Trường Canh bị đối phương nhẹ tênh đẩy về, hoàn toàn không coi là thật.

Thế là thiếu niên im lặng, không đấu tranh một cách vô vị nữa, nhìn chằm chằm bóng lưng cao to của Cố Quân, giống như nhìn một cánh cửa chật hẹp cả đời không qua được.

Hoàng đế Long An Lý Phong là huynh trưởng trên danh nghĩa của Trường Canh, nhưng trên tướng mạo, không nhìn ra hai người có một chút quan hệ huyết thống, Hoàng thượng trông giống tiên đế hơn.

Tính ra thì đây là lần thứ hai Trường Canh gặp hắn, so với lần trước binh hoang mã loạn, lần này thấy rõ hơn, tân hoàng vừa qua tuổi nhi lập, chính là độ tuổi đẹp nhất trong cuộc đời một nam nhân, có diện mạo đoan chính, dù không phải là Hoàng đế, chỉ nhìn tướng mạo thì cả đời cũng chẳng thất bại được.

Trường Canh rất cẩn thận, đặc biệt là sau khi đến kinh thành, càng giỏi thăm dò lời nói sắc mặt. Cố Quân ít đề cập, song Thẩm tiên sinh không kiêng kị nhiều như thế, cũng âm thầm phàn nàn về Hoàng thượng, rất dễ khiến người ta liên tưởng đến một hình tượng cay độc hẹp hòi, nhưng kỳ thực không phải vậy.

Cố Quân còn chưa bước chân vào, Hoàng đế Long An đã phân phó nội thị bên cạnh đi lấy chậu than, miệng còn nói: "Ta đã bảo với họ là hoàng thúc nhất định đến sớm mà, mau vào đây cho ấm, nhìn người là ta thấy lạnh."

Hoàng đế Long An gọi y là "hoàng thúc", kỳ thực không hợp lễ phép lắm, bởi vì Cố Quân dù sao cũng không mang họ Lý, năm đó tiên đế yêu thương, lúc riêng tư tùy tiện nói một chút rồi thôi, Hoàng thượng lại giữ nguyên thói quen thân mật từ khi còn nhỏ này.

Ở trước mặt Cố Quân hắn không hề xưng trẫm, trong nhiệt tình mang theo chút thân mật tùy ý, không như đối đãi thần tử, trái lại như là một người nhà vậy.

"Tiểu Trường Canh cũng tới đây," Lý Phong nhìn Trường Canh, than thở, "Người thiếu niên đúng thật là thay đổi mỗi ngày, lần trước gặp còn chưa cao thế đâu – Ta mới kế vị, luôn nơm nớp lo sợ, mấy tháng này sứt đầu mẻ trán, cũng không chú ý đến ngươi, lại đây để hoàng huynh nhìn kỹ xem nào."

Trường Canh vốn đã chuẩn bị sẵn sàng không được chào đón, ngờ đâu Hoàng thượng giấu kín sự "không chào đón" như thế, đến mức y hoàn toàn không cảm nhận được.

Hoàng thành đế đô này, ân thù đều che giấu, thoạt nhìn ai cũng hòa thuận vui vẻ.

Cố Quân và Hoàng thượng tùy ý tán gẫu vài câu, thỉnh thoảng hồi ức thời thơ ấu một chút, Hoàng đế Long An liền chuyển sang "tiền lì xì" chuẩn bị cho Trường Canh.

Trường Canh là một dã hài tử lớn lên ở Nhạn Hồi trấn, chưa từng tiếp xúc với nhân tình thế cố, cũng chưa từng thấy cảnh đời, chỉ biết "vô công không nhận lộc", nghe Chúc Chân Nhỏ báo từng việc, cơ hồ hơi bất an, hoài nghi Cố Quân sáng sớm lôi y dậy dẫn vào cung, chính là để tìm Hoàng thượng thu tô!

Hoàng đế Long An vui vẻ hòa nhã hỏi tiến độ đọc sách tập võ của Trường Canh, lại nói: "Ngươi là hậu nhân Lý gia ta, sau này cần phải chăm chỉ, có bản lĩnh, để tương lai phân ưu cho hoàng huynh – Trường Canh sau này muốn làm gì?"

Trường Canh nhìn Cố Quân một cái, nói: "Tương lai nguyện làm thân vệ của Đại soái, theo hầu bên cạnh, mở mang bờ cõi cho Hoàng thượng."

Hoàng đế Long An cười to, thoạt nhìn long tâm rất vui, liên tục khen Trường Canh có chí khí.

Cố Quân ở bên bưng trà lên uống cho trơn họng, không nói xen, chỉ cười, cười đến tít cả mắt, ấm áp vô cùng.

"Ai hầu hạ ai?" Trong lòng y bất đắc dĩ nghĩ.

Vừa bất đắc dĩ, y lại vừa cảm thấy xuôi tai, sảng khoái từ tai vào lòng, ngay cả vận xui từ tay hòa thượng ban nãy cũng bị quét sạch.

Hoàng đế Long An lại nói như đùa: "Nói thì như vậy, nhưng các tướng sĩ biên cương rất khổ, nghĩa phụ ngươi nào nỡ để ngươi đi chịu tội?"

Cố Quân biết Hoàng thượng đang vòng vo cảnh cáo mình, hết sức tinh mắt tiếp lời: "Nếu thần dám đưa tiểu hoàng tử lên sa trường, Hoàng thượng làm huynh trưởng là người đầu tiên không tha cho thần."

Hoàng đế Long An vừa lòng, vẫy tay gọi Chúc Chân Nhỏ: "Sứ giả của Giáo hoàng Tây Dương lần trước tặng một cái đồng hồ to, còn to hơn cả giả sơn ở ngự hoa viên, y như một căn lầu nhỏ, mỗi nửa canh giờ bên trong sẽ có lũ rối ra biểu diễn ca múa, náo nhiệt lắm, ngươi dẫn Trường Canh đi xem cho biết, trẫm và hoàng thúc tán gẫu vài câu."

Trường Canh biết họ có chính sự cần bàn, lập tức thức thời đi theo Chúc Chân Nhỏ.

Chúc Chân Nhỏ hết sức ân cần với tứ điện hạ có tri thức hiểu lễ nghĩa, thân thế phức tạp này, dẫn y đến thẳng noãn các.

"Noãn các" là một hoa viên khép kín, bên ngoài lót gạch lưu ly màu sắc sặc sỡ, nơi thông gió đều lắp lò sưởi hơi nước, bên trong bốn mùa như xuân, hoa rộ như gấm.

Cái đồng hồ mà Hoàng đế Long An nói kê ngay chính giữa, như một cái kính chiếu ảnh giữa vùng sơn dã.

Trường Canh cảm khái một chút về sự khéo léo của thợ Tây Dương, nhưng giống với đa số người Trung Nguyên, y cũng không thể thích mấy cái tranh vẽ đậm màu đó, mới lạ qua đi, nhanh chóng mất hứng thú, ánh mắt dừng ở một góc noãn các – nơi đó có người, chính là Liễu Nhiên hòa thượng ban nãy gặp gỡ trên đường.

Liễu Nhiên không nói được, nhẹ nhàng giơ tay ra dấu, tiểu sa di bên cạnh lập tức tiến lên chào, nói: "Tứ điện hạ, Chúc công công, tôi và sư thúc nhờ Thánh thượng ân điển, ở lại ngự hoa viên ngắm cảnh, trên đường gặp Ngụy vương, sư phụ đi nói chuyện với Ngụy vương, chúng tôi chờ người ở đây, hi vọng không làm mất nhã hứng của tứ điện hạ."

Trường Canh nho nhã lễ độ nói: "Quấy rầy đại sư rồi."

Liễu Nhiên lại ra hiệu, bất kể hắn làm gì đều có một loại tiên khí như mây bay nước chảy, làm cho người ta không hề cảm thấy sự mất tự nhiên của nhà sư câm này. Tiểu sa di giải thích: "Sư thúc nói người nhìn thấy tứ điện hạ liền cảm thấy hợp ý, bảo ngài nếu sau này rỗi rãi, thì đến Hộ Quốc tự ngồi một lúc, nhất định sẽ lấy trà ngon thết đãi."

Trường Canh khách khí nói: "Đương nhiên rồi."

Liễu Nhiên hòa thượng chìa tay ra cho Trường Canh, Trường Canh không rõ nguyên nhân, do dự một chút rồi đưa tay ra.

Liễu Nhiên liền viết vào lòng bàn tay y: "Điện hạ tin ngã Phật hay không?"

Trường Canh không ghét hòa thượng như Cố Quân, khí chất xuất thế thanh tĩnh trên người những tăng nhân này làm cho y vừa gặp liền sinh hảo cảm.

Nhưng y cũng không hề tín ngưỡng, bởi vì không có khái niệm, không biết, nên không nói đến tin hay không.

Trường Canh không muốn làm mất mặt Liễu Nhiên ngay ở đây, thế nên chỉ cười.

Liễu Nhiên lập tức sáng tỏ, không lấy làm giận, ngược lại lộ ra một chút tươi cười, viết từng chữ trong lòng bàn tay Trường Canh: "Không biết khổ đau, không tin thần phật, hạnh thay, đại thiện." (Ở đây tác giả chơi chữ, liễu nhiên có nghĩa là sáng tỏ)

Trường Canh sửng sốt. Thiếu niên nhìn vào đôi mắt như bao trùm vạn vật của hòa thượng câm, đột nhiên cảm thấy căn bệnh trầm kha trong lòng mình bị đối phương nhìn thấu; nhất thời, Ô nhĩ cốt, Tú Nương, xuất thân thật giả khó phân, ý nghĩ xằng bậy khó lòng mở miệng, tất cả đều như nước chảy lướt qua trong lòng y, bị tám chữ "không biết khổ đau, không tin thần phật" kia một mũi tên đâm xuyên.

Liễu Nhiên chắp tay thi lễ, toan rời đi.

Trường Canh đột nhiên gọi giật lại: "Đại sư, sau này ta sẽ đến Hộ Quốc tự bái hội."

Liễu Nhiên cười cười, dẫn tiểu sa di ung dung bước đi.

Chính lúc này, đồng hồ trong noãn các đổ chuông, tiếng nhạc nhẹ nhàng vang lên, Trường Canh quay đầu lại, thấy đồng hồ mở ra mười hai cánh cửa nhỏ, chui ra mười hai con rối gỗ be bé, con kéo đàn, con khiêu vũ, còn có con cất giọng ca vang, hoan hoan hỉ hỉ hát hết một khúc, cúi mình chào, rồi lại quay người trở về trong cánh cửa.

Náo nhiệt đều đã kết thúc.

Sau hôm nay, Cố Quân sống những ngày còn đi sớm về khuya hơn hôm trước – ý của Hoàng đế Long An là phái y thay mặt Đại Lương, ký kết hiệp ước thông thương với sứ giả của Giáo hoàng Tây Dương, hiện tại mở một khu chợ ở biên cảnh Tây Vực, nếu thuận lợi thì lại mở rộng thương lộ hơn.

Cứ thế, y lập tức phải chuẩn bị khởi hành. Cố Quân một ngày phải mấy bận chạy qua chạy lại giữa kinh thành và Bắc đại doanh, trước khi đi còn phải giải quyết chuyện Hộ bộ, dõi chặt lượng tử lưu kim phân cho quân đội năm nay, bận tối mày tối mặt.

Ngày mười sáu tháng Giêng, Cố Quân và Thẩm Dịch như thường lệ về muộn. Đã quyết định hôm sau sẽ rời kinh, hai người có một số việc phải thương lượng, liền cùng nhau trở về hầu phủ.

Thẩm Dịch: "Sao Hoàng thượng giao cả Gia Lai Huỳnh Hoặc cho chúng ta áp giải, không sợ chúng ta nửa đường trộm làm thịt thế tử mọi rợ kia?"

Cố Quân cười khổ nói: "Hoàng thượng bác bỏ tấu chương năm nay tăng lượng tử lưu kim phân phối của ta, nói là Linh Xu viện học lén được một loại khôi lỗi mới từ người Tây, có thể trồng trọt thay con người, thần kỳ vô cùng, sản lượng có thể tăng thêm một nửa, năm nay tính phổ biến ở Giang Nam trước – Tử lưu kim lại thêm một chỗ dùng, thật sự không chia được nữa, ta có thể nói gì đây? Huyền Thiết doanh còn có thể tranh lợi với dân sao? Hoàng thượng lại nói, Huyền Thiết doanh là quốc chi lợi khí, dù thiếu ai cũng không thể thiếu chúng ta, thế nên cho chúng ta một phần mà người man cống thêm, ngươi nói ta còn dám động vào thế tử người man không?"

Ý của Hoàng đế Long An rất rõ ràng – Gia Lai thế tử rụng một sợi tóc, thì đám quái vật bằng sắt của Huyền Thiết doanh khỏi dùng tử lưu kim nữa, Cố Quân ngươi tự đẩy đi.

Thẩm Dịch nghĩ một chút, không biết nói gì, đành phải tức đến phì cười.

Hai người lướt qua thiết khôi lỗi trông cửa hầu phủ, Thẩm Dịch hỏi: "Đúng rồi, chuyện ngươi ngày mai phải rời kinh, đã nói với tứ điện hạ chưa?"

Cố Quân sờ sờ mũi.

Thẩm Dịch: "Sao?"

Cố Quân hạ giọng, rỉ tai y: "Ta nói với y là ta đi Hương Sơn với Hoàng thượng, tối mai không về, lát nữa lỡ như gặp y, nhớ đừng làm lộ."

Thẩm Dịch trầm mặc giây lát, cảm khái: "... Đại soái, ngươi thực sự gan lắm!"

Cố Quân cũng khổ não lắm, từ khi y vô tình để lộ chuyện mình có thể phải về biên cương, Trường Canh khác thường hẳn, trước kia luyện võ chăm chỉ, hiện tại thành liều mạng, hôm trước còn làm cổ tay chấn thương, sưng như cái màn thầu, buổi chiều lại bất chấp tất cả mà đi bắn tên, dọa sư phụ dạy võ nghệ phải ngày ngày tìm Cố Quân tạ tội.

Cố Quân cảm thấy Trường Canh hơi dính mình quá, phụ tử nhà người ta cũng buồn nôn như vậy sao?

Áo bông quá ấm, làm y vã mồ hôi, thật sự là một gánh nặng thoải mái.

Hai người sóng vai đi vào hầu phủ, vừa vào cửa, lại phát hiện giờ này mà hầu phủ còn đèn đuốc sáng trưng, chưa ai đi ngủ cả.

Một tiểu nha đầu xinh như hoa từ bên trong lao ra như pháo, quay đầu lại gọi: "Đại ca đại ca, Hầu gia về rồi!"

Cố Quân sửng sốt nghĩ bụng: "Hầu phủ từ khi nào có cô nương rồi, chẳng lẽ gốc liễu đại thụ ngoài cổng đã thành tinh?"

Nhìn kỹ mới phát hiện "tiểu nha đầu" lại là Tào Nương Tử, gã ăn vận lộng lẫy như một tiểu nương tử, còn là một tiểu nương tử chuẩn bị hoan hỉ đón Tết.

Cố Quân buồn bực nói: "Các ngươi làm gì thế?"

"Trường Canh đại ca nói hôm nay là thọ thần Hầu gia, đặc ý dặn mọi người chờ ngài về đấy." Tào Nương Tử nói, "Thẩm tướng quân cũng đến, vừa vặn có thể cùng nhau ăn mì."

Thẩm Dịch nghe vậy đồng ý ngay: "Được, tới sớm không bằng tới đúng lúc!"

Nói xong ý tứ sâu xa nhìn Cố Quân, khéo léo dùng ánh mắt bày tỏ ý kiến – tên lừa đảo này, có áy náy không?

Thọ thần của lão nhân làm lớn, gọi là mừng thọ, sinh nhật của hài tử náo nhiệt, là lại thêm một tuổi không dễ dàng, cha mẹ thở phào nhẹ nhõm.

Cố Quân không già cũng chẳng nhỏ, bà không thương cậu không yêu, nếu y vừa vặn ở nhà, lão quản gia còn có thể nhớ sắp xếp một chút giúp y, nhưng phần lớn thời gian y đều đi vắng, chính bản thân cũng bận đến quên cả ngày mười sáu tháng Giêng.

Thực ra thì cũng chẳng có gì đáng chúc mừng cả, phố phường chú trọng "nương nương mùng một quan mười lăm", tức là nữ sinh mùng một nam sinh mười lăm đều tốt, y vốn có thể đẻ vào đêm Nguyên tịch đại phú đại quý, lại nằm trong bụng mẹ thêm mấy canh giờ, đủ thấy là mệnh xấu trời sinh.

Tào Nương Tử chẳng những tự chải chuốt, còn cùng bọn Trường Canh lôi cả khôi lỗi hầu kiếm ra giày vò một phen.

Họ tô hai cái má hồng mộc mạc cho dạ du thần kia, không biết kiếm đâu ra mấy mảnh tơ lụa cũ rích, trói gô cánh tay sắt của nó lại.

Khôi lỗi hầu kiếm đèn hoa rực rỡ bưng một bát mì trong tay, ngơ ngác cùng Cố Quân nhìn nhau, trên khuôn mặt đen sì giống như có sự tủi thân không nói ra được.

Cố Quân thấp giọng mắng: "Quân khốn nạn, khôi lỗi hầu kiếm để các ngươi giỡn như vậy hả?"

Cát Bàn Tiểu xông lên chia công lao: "Hầu gia, má hồng là nha đầu dỏm tô, lửa nấu mì là ta nhóm, trứng gà trong mì là đại ca đập đấy!"

Cố Quân nhất thời lại có chút câu nệ, chỉ cảm thấy hầu phủ quạnh quẽ nhiều năm thoáng cái náo nhiệt đến mức y cũng có phần không nhận ra.

Trường Canh: "Nghĩa phụ, ăn mì xong rồi hẵng vào cửa."

Cố Quân: "Được."

Y bưng bát lên, nhìn Trường Canh một cái, cố ý vớt trứng gà ra ăn trước, miếng đầu tiên đã cắn trúng vỏ trứng cứng ngắc, nhưng y không làm ầm lên, nhai nát nuốt luôn cả vỏ, như là tám đời chưa ăn cơm, chẳng mấy chốc đã đánh sạch một bát mì, nước cũng húp hết.

Từ xưa ôn nhu hương là mộ anh hùng, Cố Quân mọi lần rời kinh đô không vướng bận, chỉ có lần này lòng đầy phiền muộn.

Khả năng là vì mỗi lần đều là "về" biên cương, chỉ có lần này là xa nhà.

Tiếc thay, đừng nói sự phiền muộn ôn nhu này, dẫu ruột gan đứt từng khúc, cũng đừng hòng giữ chân được An Định hầu.

Ngày hôm sau, Cố Quân như không có việc gì mà chuẩn bị ra ngoài, rốt cuộc không chào Trường Canh, một mình đến Bắc đại doanh, ngoảnh lại thoáng nhìn về hướng kinh thành.

Đáng tiếc, từ nơi xa như vậy, y chỉ có thể thấp thoáng trông thấy mỗi Khởi Diên lâu.

Thẩm Dịch đi đến bên cạnh y, hỏi: "Đại soái, lương tâm lên tiếng rồi à?"

Cố Quân thở dài: "Lần sau trở về không chừng lại không nhận ta nữa, ôi, cái danh nghĩa phụ này luôn lung lay chực đổ... Đi thôi."

Huyền Thiết doanh xuất phát, tác phong nghiêm túc, phảng phất như lốc xoáy màu đen nghiền qua không lưu tình chút nào, mọi người đều không kìm được tránh xa.

Họ phải áp giải thế tử tộc Thiên Lang lên phương Bắc, rồi lại đến thẳng Tây biên, tiễu sát sa phỉ ở Tây Vực, cam đoan con đường tơ lụa có thể an toàn thông suốt.

Ngày thứ hai sau khi họ đi, Trường Canh như thường lệ dậy sớm, nhớ Cố Quân không ở nhà, lại vẫn không nhịn được dắt thiết khôi lỗi đến khoảng sân không một bóng người, một mình luyện kiếm so chiêu với nó, lại một mình ăn bữa sáng.

Trước khi đi, y ngẩng đầu lên, nhìn thấy hoa mai trong viện đã nở.

Hôm trước mới đổ tuyết, trên cánh hoa đọng một lớp sương lóng lánh, Trường Canh càng nhìn càng cảm thấy thích, liền không nhịn được bẻ hai cành, ý nghĩ đầu tiên của y vĩnh viễn là giữ lại cho Cố Quân, dù biết nghĩa phụ trong dăm ba hôm chưa chắc sẽ về, vẫn cẩn thận phẩy sương trên đầu cành, muốn tìm bình hoa bỏ vào phòng Cố Quân.

Đáng tiếc, phòng Cố Quân rộng như vậy mà so với mặt còn sạch sẽ hơn, y tìm một vòng, nhưng ngay cả bình rượu có thể cắm hoa cũng không thấy.

Trường Canh đẩy cửa sổ ra, gọi lão quản gia: "Vương bá, có bình hoa không?"

Quản gia đáp một tiếng đi tìm, Trường Canh liền cầm hai cành hoa mai ở trong phòng Cố Quân nhìn ngang ngó dọc.

Đột nhiên, ánh mắt y dừng ở đầu giường Cố Quân, thoáng sửng sốt – không thấy tấm hồ cừu giúp cả gian phòng ngủ đều có vẻ đáng giá hơn.

Lúc này, Vương bá cầm bình hoa sứ men xanh đi đến, cười nói với Trường Canh: "Tứ điện hạ, ngài xem cái này được không? Để đâu thì thích hợp?"

Trường Canh nhìn chằm chằm đầu giường trống không, hỏi: "Vương bá, tấm hồ cừu của Hầu gia sao cất sớm vậy?"

Khóe mắt Vương bá hơi giật nhẹ, có chút mất tự nhiên đáp: "Không phải Hầu gia ra ngoài với Hoàng thượng sao, chắc là mang đi rồi."

Lòng Trường Canh từ từ chùng xuống.

Đêm Trừ tịch, huyền ưng đi theo Cố Quân từng cho y biết – Đại soái ở kinh thành chưa từng mặc quần áo mùa đông, chỉ có xuất quan gặp bão tuyết mới thỉnh thoảng lấy ra.

Hôm Trừ tịch y đã cảm thấy hơi kỳ lạ, Cố Quân đã không mặc quần áo mùa đông, thì vì sao phải treo một tấm hồ cừu ở bên ngoài? Chuẩn bị dùng làm gì? Nhưng khi đó nhốn nháo lộn xộn, y lại bị ác mộng quấy rầy, đầu óc không tỉnh táo lắm, không hề suy nghĩ cẩn thận.

Trường Canh chợt quay đầu lại, giọng khô khốc như dây cung kéo căng: "Vương bá, nghĩa phụ rốt cuộc đi đâu rồi? Ông đừng thấy ta không thích ra ngoài mà gạt, ta cũng biết Hương Sơn còn chưa xa bằng Bắc đại doanh đâu."

Vương bá giơ bình hoa, chân tay luống cuống đứng đó.

Cố Quân làm chưởng quầy phủi tay đi sạch sẽ, mặc kệ tất cả, lão quản gia ngay từ đầu đã đoán được sớm muộn cũng có vụ này, nhưng không ngờ lại nhanh như vậy.

Trường Canh hít sâu một hơi, thấp giọng hỏi: "Y đã khởi hành rời kinh đến biên cương rồi sao? Đi đâu? Phía Bắc hay phía Tây?"

Lão quản gia xấu hổ cười xòa: "Việc quân vụ, lão nô cũng không hiểu... Điện hạ, tôi thấy Hầu gia cũng là không muốn để ngài bận tâm..."

Trường Canh "Rắc" một tiếng bẻ gãy cành hoa trong tay, ngắt từng chữ nói: "Không phải y sợ ta bận tâm, mà là sợ ta dù chết dù sống nhất định đòi đi theo thôi."

Lão quản gia ngậm miệng.

Trường Canh tuy trên danh nghĩa là con nuôi của Cố Quân, nhưng dù không ai chào đón, chung quy vẫn mang họ Lý, tương lai tốt xấu gì cũng là một Quận vương. Lão quản gia đau đầu vô cùng, cảm thấy chủ nhân không phúc hậu nhà mình lâm trận lùi bước, ném củ khoai lang phỏng tay này cho mình, chuẩn bị sẵn sàng bị trút giận.

Nhưng đợi rất lâu mà Trường Canh không nói tiếng nào.

Những om sòm kêu gào tích tụ ra đều dồn nén trong lòng Trường Canh.

Không chỉ là vì Cố Quân đột nhiên không từ mà biệt, dù sao thì y bị Cố Quân lừa đâu chỉ một lần, sớm đã thành quen, đáng lý nên bình tĩnh.

Nhưng lần này, những bất an và nôn nóng từ khi vào kinh vẫn chất chứa trong lòng rốt cuộc kiềm chế không được, vỡ đê xô ra.

Trong lòng Trường Canh kỳ thực sáng như gương, y luôn biết rõ, sự tồn tại của mình với ai cũng là dư thừa, y vô tình bị cuốn vào, định trước là một quân cờ râu ria, sẽ như thân ở dưới con sông ngầm nơi Nhạn Hồi trấn, thân bất do kỷ bị cuốn đi.

Y lại bị sự yên vui của cảnh thái bình giả tạo những ngày qua che mắt, sinh ra lòng tham, muốn bắt lấy một chút gì đó, lừa mình dối người, cự tuyệt suy nghĩ chuyện về sau.

"Ngươi muốn gì đây?" Trường Canh để tay lên ngực tự hỏi, "Nghĩ nhiều quá rồi."

Nhưng mặc cho trong lòng kinh đào hãi lãng, đối mặt với lão quản gia tóc bạc da mồi, Trường Canh lại không nói gì cả.

Lão quản gia nơm nớp lo sợ hỏi: "Điện hạ..."

Trường Canh im lặng lấy bình hoa trong tay ông, cẩn thận cắt sửa nhành hoa bị y bẻ gãy, cắm và đặt trên bàn Cố Quân, thấp giọng nói: "Làm phiền."

Nói xong, y liền quay người đi ra ngoài.

Trường Canh rời khỏi phòng Cố Quân liền không nhịn được chạy đi, khôi lỗi hầu kiếm cũng bị bỏ lại.

Cát Bàn Tiểu cầm trong tay một cái hộp tử lưu kim không biết tháo từ đâu, đang đi ra ngoài, sượt qua người Trường Canh, buồn bực nói: "Ôi, đại ca..."

Trường Canh tựa hồ không nghe thấy, chạy vù qua như một cơn gió, lao vào phòng mình, trở tay khóa cửa lại.

Có một điểm Cố Quân thích nhất ở y, Trường Canh là người nhân nghĩa trời sinh, dù phẫn nộ vô cùng, y cũng không cách nào trút vào kẻ vô can, về phương diện này, Tú Nương không thể không có công, sự ngược đãi mười mấy năm như một ngày của bà ta đã luyện thành sự nhẫn nại kinh người cho y.

Đồng thời, Ô nhĩ cốt từ nhỏ chôn giấu trong thân thể thiếu niên cũng như một gốc thực vật cần tưới độc, dần dần nở ra đóa hoa dữ tợn.

Trường Canh bắt đầu không thở nổi, ngực như bị cự thạch đè lên, toàn thân căng như một cục sắt rỉ, chân không tự chủ được run rẩy.

Tai y vang ong ong, y hoảng sợ phát hiện từng đợt cảm xúc bạo ngược xa lạ từ ngực cuồn cuộn lao ra khắp nơi, vô tình siết tay thành tiếng, lần đầu tiên tỉnh táo nếm trải cảm giác bị bóng đè.

Trường Canh cảm nhận được rõ nét, trong lòng mình như có một bàn tay vô hình, đang cứng nhắc xóa hết tất cả tình cảm ấm áp.

Mới đầu, Trường Canh ý thức rõ ràng, kinh hồn táng đảm nghĩ: "Đây là Ô nhĩ cốt ư? Ta làm sao rồi?"

Rất nhanh, ngay cả hoảng sợ cũng biến mất, ý thức trở nên mơ hồ, y bắt đầu không rõ mình đang ở nơi nào, trong đầu ngàn vạn tầng suy nghĩ như thủy triều lên xuống thất thường, sát ý mông lung vô cớ sinh ra.

Y lúc thì nghĩ Cố Quân đi rồi, không cần y nữa, lúc lại phảng phất nhìn thấy Cố Quân đứng ở trước mặt, khuôn mặt không cảm xúc trào phúng sự vô năng vô lực của y.

Tất cả cảm xúc tiêu cực trong lòng Trường Canh bị Ô nhĩ cốt phát tác tăng lên trăm ngàn lần.

Giờ khắc này, Cố Quân giống như không còn là tiểu nghĩa phụ y cẩn thận nâng niu trong lòng, mà là một cừu nhân y vô cùng oán hận, gấp rút muốn bắt lấy, hung tợn làm nhục.

Trường Canh nắm chặt tàn đao đeo trước ngực, ngón tay bị tàn đao đã mài bằng góc cạnh thít ra vết máu.

Chút đau đớn rõ nét dị thường trong sự chết lặng vô hạn này đã thức tỉnh Trường Canh, y theo bản năng tìm được một đường ra, mười ngón cắm chặt vào thịt, để lại một chuỗi vết thương máu thịt bầy nhầy trên cánh tay mình.

Chờ đến khi Ô nhĩ cốt phát tác dần dần dừng lại, thì mặt trời đã ngả về Tây.

Quần áo Trường Canh ướt sũng mồ hôi lạnh, trên tay chỗ nào cũng đầm đìa máu tươi, y kiệt sức dựa vào cạnh cửa, nhìn chung đã lĩnh giáo uy lực của Ô nhĩ cốt, mới biết suy nghĩ cho rằng Ô nhĩ cốt chính là thứ gây ác mộng trước kia ngây thơ đến mức nào.

Lần này Tú Nương không thủ hạ lưu tình với y.

Đám người lão quản gia thấy y rất lâu không ra, gõ cửa cũng không đáp, đã sớm lo lắng vô cùng, quanh quẩn mãi bên ngoài, cách một hồi sẽ gọi y một tiếng.

Chút nhân khí này giúp Trường Canh dễ chịu hơn, mí mắt y chớp nhẹ, một giọt mồ hôi lạnh từ trên trán lăn xuống, rơi lên hàng mi, trĩu nặng làm y suýt nữa không mở nổi mắt: "Ta không sao, để ta yên một lúc đi."

"Đã một ngày rồi ngài chưa ăn gì," Lão quản gia nói, "Nếu Hầu gia ở đây, nhất định không đành lòng nhìn thấy điện hạ giày vò thân thể mình như vậy đâu – cho dù uống bát cháo cũng được, hay là lão nô bưng vào cho ngài nhé?"

Cả thể xác lẫn linh hồn Trường Canh đều mệt lử, nghe nhắc tới Cố Quân, liền im lặng đọc thầm tên y hai lần, cố xốc lại tinh thần nói: "Không sao đâu Vương bá, nếu đói, buổi tối ta sẽ tự tìm thức ăn khuya, không cần quan tâm đến ta."

Lão quản gia nghe y nói tuy nhỏ nhưng mạch lạc lý lẽ, cũng không tiện khuyên nữa, đành phải quay người khoát tay gọi lão bộc hầu hạ Trường Canh cùng Tào Nương Tử và Cát Bàn Tiểu đang thò đầu dòm, tất cả vừa đi vừa ngoảnh lại mấy bận.

Trường Canh ngồi dựa cửa, vừa ngẩng đầu liền nhìn thấy kiên giáp Cố Quân treo ở đầu giường.

Thứ đó đen sì lạnh băng, dáng vẻ bất cận nhân tình, nhưng là nguyên chủ để lại cho y hòng xua tan ác mộng.

Không biết ngồi bao lâu, chậu than trong phòng mới dần dần làm ấm thân thể lạnh lẽo, Trường Canh đã có chút sức lực, liền bò dậy dọn dẹp lại mình, thay quần áo mới, tìm được thuốc trị ngoại thương ngày nọ luyện kiếm bị thương sư phụ cho, rửa sạch vết thương cẩn thận thoa lên, tháo kiên giáp của Cố Quân xuống ôm vào lòng, ngửa mặt ngã vật lên giường.

Y không khóc.

Có thể là không còn sức lực, cũng có thể là do vừa chảy máu.

Đã chọn đường chảy máu, thì thông thường chẳng chảy nổi nước mắt, bởi vì một người chỉ có tí tẹo nước, dù sao cũng phải nghiêng về một phương.

Trường Canh mới giao thủ một lần với kẻ địch định trước phải dây dưa cả đời, thua không còn manh giáp, cũng được biết về sự cường đại của đối phương.

Nhưng kỳ lạ là y không hề sợ hãi, như lúc ở Nhạn Hồi trấn một mình đối mặt với người man mặc trọng giáp trong phòng Tú Nương vậy.

Y luôn có thái độ ôn hòa, nhưng đừng hòng có thứ gì khuất phục được y.

A... Trừ Cố Quân ra.

Trường Canh uể oải nghĩ thầm: "Ta hận Cố Quân chết đi được."

Sau đó y thử đeo kiên giáp của Cố Quân. Y chưa từng mặc giáp trụ, cũng không biết có vừa hay không, chỉ cảm thấy thứ này đè trên người còn nặng hơn y tưởng tượng, y khoác giáp trụ cắm đầu ngủ, trong mộng còn có ngàn vạn tầng gian nan hiểm trở chờ đợi y.

Ngày hôm sau, Trường Canh tuyên bố, y phải ra ngoài một chuyến.

Cả hầu phủ đều kinh ngạc – cảnh tượng đêm Trừ tịch tứ điện hạ bị Cố đại soái khiêng ra khỏi cửa còn mồn một trước mắt.

Cố Quân vốn nói là: "Kéo dài dăm ba hôm, đến lúc đó dù sao chúng ta cũng qua bảy đại quan đến Bắc cương rồi, y không có chỗ đuổi theo, cũng sẽ ngoan ngoãn thôi."

Nhưng còn chưa qua dăm ba hôm, lão quản gia chỉ sợ Trường Canh muốn mình chuẩn bị ngựa để đuổi theo, vội vàng thận trọng nói: "Điện hạ, Huyền Thiết doanh không như quân đội bình thường, họ đi rất nhanh, thần tuấn ngàn dặm cũng đuổi không kịp, thêm nữa trong quân không cho người không quân tịch ở lại, đây là quy củ lão Hầu gia truyền xuống, ngài xem..."

Trường Canh bình tĩnh trả lời: "Vương bá, ta không muốn đuổi theo gây phiền, ta không phải là trẻ con chưa hiểu chuyện."

Lão quản gia: "Thế ngài là..."

Trường Canh: "Ta muốn đến Hộ Quốc tự bái phỏng Liễu Nhiên đại sư, hôm trước đã hẹn với người ta rồi."

Sắc mặt lão quản gia lại lần nữa một lời khó nói hết.

Mai kia Đại soái về phủ, nếu phát hiện lúc ngài vắng nhà, tiểu điện hạ lại phản quốc thông địch đến miếu hòa thượng...

Lão quản gia quả thực không dám tưởng tượng sắc mặt Cố Quân – thế có khác nào cắm sừng đâu?

Nhưng trước mắt nhiệm vụ hàng đầu là dỗ dành nghĩa tử của Hầu gia vui một chút, lão quản gia không có cách nào, đành phải cắn răng đồng ý, như lâm đại địch điểm một loạt gia tướng hộ tống Trường Canh đến Hộ Quốc tự.

Hùng dũng như tới gây sự vậy.

Liễu Nhiên hòa thượng đã pha trà, thấy Trường Canh cũng không hề ngạc nhiên, giống như sớm đoán được y sẽ đến, vui vẻ mời y ngồi xuống, rót một chén trà cho y, lại bảo tiểu sa di lấy giấy bút và chậu than dùng để hóa vàng tới, dáng vẻ như muốn bàn luận lâu.

Chẳng qua mới hơn nửa tháng không gặp, Liễu Nhiên hòa thượng phát hiện vẻ hoang mang và lo lắng trên mặt mày thiếu niên trước mắt đều đã không thấy đâu, cả người mang đến sự trầm tĩnh và kiên định có vài phần buồn bực, như con sâu hóa bướm thoát khỏi lớp kén đầu tiên.

Trường Canh cảm ơn, nhận trà uống một ngụm, suýt nữa thì sặc.

Hòa thượng này lần trước nói lấy trà ngon thết đãi, hóa ra chỉ là lời khách sáo thôi, pha cho y một chén không biết là thứ gì, đắng đến tê cả lưỡi, chẳng có tí mùi trà nào.

Trường Canh: "Cái gì đây?"

Liễu Nhiên hòa thượng cười tươi viết: "Khổ đinh, hoạt huyết sáng mắt, trừ phiền trợ miên." (Trà khổ đinh hay qua lô còn gọi là trà đắng)

Trường Canh: "Đó không phải là qua lô sao? Ta từng uống ở hầu phủ rồi, hình như..."

Vị không có buồn nôn như thế này.

Liễu Nhiên: "Đó là lá nhỏ, đây là qua lô lá to."

Lá to nghe hơi lợi hại, Trường Canh vừa định khen vài câu, liền thấy hòa thượng kia thành thật viết: "Lá to rẻ hơn."

Trường Canh: "..."

Y ngắm nghía bát trà của hòa thượng, bát là loại tốt, rửa cũng rất sạch, đáng tiếc dùng quá lâu, khó tránh khỏi va chạm, đã bị mẻ vài cái.

Liễu Nhiên hòa thượng: "Tăng xá thô lậu, điện hạ thứ lỗi."

Cả kinh thành đều để lại cho y một ấn tượng ngợp trong vàng son, giống như mọi người đều rất giàu, khắp thành toàn là trò tiêu khiển xa xỉ, người Tây Dương nói gạch trải ở đế đô Đại Lương được dát vàng, kỳ thực không khoa trương lắm.

Nhưng chẳng hiểu vì sao, mấy kẻ Trường Canh biết đều là quỷ nghèo, Thẩm Dịch không cần phải nói, trời sinh khuôn mặt khổ qua khốn cùng của nhiều thế hệ bần nông, rồi còn Cố đại soái, tọa ủng một hầu phủ to đùng, nhưng chỉ là cái xác rỗng, sáng sớm mùng một đã vội vã dẫn Trường Canh vào cung tìm Hoàng thượng đòi tiền, hiện giờ lại thêm một Liễu Nhiên hòa thượng dùng bát mẻ.

Trường Canh nói: "Hộ Quốc tự đèn nhang thịnh vượng, đại sư lại an trong thanh bần, quả nhiên là người xuất thế tu hành."

Liễu Nhiên cười cười, viết: "Hòa thượng vào nam ra bắc, nghèo túng đã quen, thất lễ với quý nhân rồi."

Trường Canh hỏi: "Ta nghe nói đại sư còn từng ngồi thiết giao đến phiên bang Tây Dương, là để tuyên truyền Phật pháp sao?"

Liễu Nhiên: "Ta tài sơ học thiển, không dám bắt chước cao tăng vân du thời cổ, đi xa chỉ để xem thế giới tứ phương, xem con người thôi."

Trường Canh lại ngậm một ngụm khổ đinh, càng thưởng thức càng đắng, không hề thấy vị ngọt, đành phải thất vọng nuốt xuống: "Ta từ nhỏ lớn lên ở tiểu trấn biên thùy, chưa từng rời khỏi mảnh đất một mẫu ba của tiểu trấn, đến kinh thành, lại ít ra khỏi hầu phủ, có phải là quá an phận trong một góc không? Nhưng ta luôn cảm thấy hỉ nộ ai lạc trên đời này đại để là giống nhau, nhìn người khác rồi, vẫn chẳng có chỗ đặt mình."

Liễu Nhiên: "Lòng có một góc, thì phiền não bằng căn phòng chỉ có thể chen trong một góc, lòng có tứ phương thiên địa, phiền não như núi cũng chẳng qua là giọt nước trong biển cả."

Trường Canh nghe vậy, sửng sốt hồi lâu, nhìn Liễu Nhiên hòa thượng từ từ nhét tờ giấy đã viết chữ vào chậu than đốt sạch.

"Đại sư, ngày đó ngài nói với ta, 'không biết khổ đau, không tin thần phật', hiện giờ ta đã biết khổ đau, đến xin thần phật chỉ dạy, liệu có thể nhờ ngài chỉ điểm bến mê hay không?"

Trong minh minh, có lẽ có thần linh không biết tên nào đó nhắc nhở Cố đại soái đang xa tận cuối trời, cho y biết con trai y sắp bị một con lừa trọc dụ đi rồi, tóm lại sau khi Huyền Thiết doanh xuất phát một tháng, Cố Quân lúc viết tấu cho Hoàng thượng, vậy mà còn nhớ thuận tiện cho Trường Canh một phong thư nhà.

Nét chữ quen thuộc Trường Canh từng nhiều lần phỏng theo lưu loát viết mấy trang, thoạt tiên ngôn từ khẩn thiết nhận lỗi, sau đó lại lấy lý lẽ thuyết phục, tình cảm lay chuyển, khai rõ nguyên nhân mình không từ mà biệt, cuối cùng thẳng thắn bày tỏ nỗi nhớ nhung, hơn nữa hứa hẹn, nếu Tây Bắc bình an vô sự, cuối năm y nhất định về hầu phủ đón Tết.

Trường Canh xem từ đầu đến cuối, mỉm cười bỏ sang một bên, bởi vì dùng đầu ngón chân mà nghĩ cũng biết, phong thư này nhất định không phải xuất từ tay An Định hầu.

Mấy lời buồn nôn như "biệt ly ngàn dặm, cả đêm trằn trọc", "ăn nhiều mặc ấm, chớ lo cho ta" gì đó, căn bản không thể nảy mầm trong cái đầu đất của Cố Quân được, sự dông dài giữa những hàng chữ vừa nhìn đã biết là Thẩm Dịch viết thay.

Nghĩa phụ khốn nạn cùng lắm là chép lại thôi.

Thế nhưng Trường Canh bi ai phát hiện, trong lòng hiểu rõ như vậy, song vừa nghĩ đến những chữ này thật sự chảy ra từ ngòi bút trong tay Cố Quân, y vẫn không nhịn được khắc mỗi một chữ vào mắt.

Đáng tiếc, Cố Quân đã nuốt lời.

Cố Quân tự biết thẹn, lần này tống cổ Thẩm Dịch tùy tiện thay mặt y hứa hẹn, tự mình cầm đao, viết một phong thư dài lê thê cho Trường Canh. Trường Canh xem xong giận đến bật cười, tuy cảm thấy phong thư nhà này còn rất chân thành – nhưng Cố Quân thật sự không có thiên phú dỗ dành ai, rõ ràng là đang đổ dầu vào lửa mà.

Cố đại soái thoạt tiên tam chỉ vô lư kể một đống việc vặt y tự cho là thú vị, hạ bút ngàn câu, lạc đề vạn dặm, đến cuối cùng mới dùng bốn chữ "quân vụ bận rộn" sáo rỗng để khái quát nguyên nhân y không thể về kinh.

Trường Canh không quan tâm bọ cạp ở đại mạc nướng ăn ngon thế nào, nhưng y trước sau tìm mấy lần, thủy chung không tìm ra một câu y quan tâm nhất – Cố Quân năm nay không về, vậy khi nào thì về được?

Nhưng sau "quân vụ bận rộn" chẳng còn gì nữa, chỉ kèm thêm một danh mục quà tặng dài thườn thượt mà thôi.

Có thể là Cố Quân cảm thấy xin lỗi trên ngôn ngữ không đủ chân thành, bèn dùng hành động để bày tỏ – y chở hết những món đồ tốt kiếm được trong năm nay về hầu phủ, toàn bộ cho Trường Canh cả, châu quang bảo khí, đầu thừa đuôi thẹo, vân vân và vân vân.

Hôm ấy, Trường Canh mười lăm tuổi nhốt mình trong phòng, cùng một thanh đoản đao Lâu Lan do Cố Quân tặng, chịu đựng một lần Ô Nhĩ Cốt phát tác, tiếp đó có một quyết định – y không muốn ở lại hầu phủ như một kẻ bỏ đi, không muốn theo lão phu tử và sư phụ dè dặt học văn chương và võ nghệ trên giấy, y muốn tự mình đi thăm thú thế giới bên ngoài.

Mùng một Tết, Trường Canh một mình theo Chúc Chân Nhỏ đến từ trong cung đi chúc tết Hoàng thượng cho có lệ.

Sau đó y ở lại hầu phủ đến ngày mười sáu tháng Giêng, bảo nhà bếp nấu một bát mì trường thọ, bưng về phòng một mình ăn hết, và rồi bình tĩnh tuyên bố một quyết định khiến hầu phủ trên dưới ồ lên.

Trường Canh nói: "Ta định đến Hộ Quốc tự ở một thời gian."

Nói xong, y nhìn lão quản gia vẻ mặt xanh mét, lại bổ sung: "Vương bá yên tâm, ta không xuất gia, chỉ muốn theo Liễu Nhiên đại sư tu hành một thời gian, tiện thể cầu phúc cho nghĩa phụ luôn."

Lão quản gia: "..."

Ông còn có thể nói gì đây? Đành phải chuẩn bị tiền nhang đèn, nén cơn đau ngực, phái người đưa bọn Trường Canh, Cát Bàn Tiểu và Tào Nương Tử đến Hộ Quốc tự.

Năm này, lão quản gia hầu phủ cảm thấy đại môn sâm nghiêm uy vũ nhà mình không chừng là bị vu cổ man di gì đó nguyền rủa rồi, vào cửa này, bất kể là đứa trẻ nhà đẻ hay nhận từ bên ngoài, đứa nào cũng khó đối phó hết. Lão quản gia đến nay còn nhớ rõ dáng vẻ hoảng sợ của Cố Quân lúc nhỏ, y giống như một chú sói con từng bị tổn thương, không phân trắng đen cừu thị mọi người xung quanh.

Vị kia chẳng dễ dàng gì trưởng thành trong mấp mô, có thể đỉnh môn lập hộ rồi.

Lại tới một vị càng khó đoán hơn.

Cố Quân đi rồi, Trường Canh liền suốt ngày chạy tới Hộ Quốc tự.

Thích chơi với ai không được mà suốt ngày chui vào chùa? Tứ điện hạ Lý Mân thật sự không ra cửa thì thôi, vừa ra khỏi cửa là mục đích không tầm thường.

Lão quản gia trăm mối lo, mỗi ngày đều lo lắng Trường Canh muốn quy y.

Nhưng ông biết, thiếu niên mười lăm mười sáu tuổi là không nghe người già khuyên nhất, huống chi Trường Canh không phải do ông nuôi nấng lớn lên, lão quản gia không dám can thiệp quá nhiều, đành phải chạy đi xúi bẩy Tào Nương Tử và Cát Bàn Tiểu.

Tào Nương Tử vừa nghe đã trợn rớt hết phấn son trên mí mắt, nổi giận nói: "Cái gì? Con lừa trọc kia muốn dụ dỗ Trường Canh đại ca của cháu xuất gia?"

Nam tử ngoại hình đoan chính trên thế gian như lông phượng sừng lân, Đại soái nói đi là đi, đến bây giờ ngay cả bóng cũng chẳng thấy đâu, bên cạnh gã chỉ còn lại Trường Canh. Trường Canh tới tuổi này rồi, còn hữu kinh vô hiểm không có dấu hiệu xấu đi, là không dễ dàng biết mấy, vậy mà còn có nguy cơ biến thành đầu trọc, Tào Nương Tử lập tức thành minh hữu của lão quản gia.

Ngày hôm sau, gã đặc ý thay nam trang, mặt dày mày dạn nhất định đòi theo Trường Canh đi chiêm ngưỡng phật môn thánh địa, trước khi đi xắn tay áo làm thủ thế chí tại tất đắc với đôi thiết khôi lỗi ở cửa.

Thiết khôi lỗi không thông nhân tính, đờ đẫn nhìn chằm chằm bóng lưng uốn éo lạ lùng như xà tinh của gã.

Thế nhưng, đêm ấy từ Hộ Quốc tự trở về, Tào Nương Tử liền không nhắc tới chuyện "bắt yêu tăng kia hiện hình" nữa, đồng thời từ đây nghĩa vô phản cố gia nhập đội ngũ mỗi ngày tham ngộ Phật pháp – lý do không ngoài "yêu tăng" kia quá tuấn tú.

Đại soái tuy cũng tuấn tú, đáng tiếc quá có tính công kích, không thể im lặng ngồi đó mặc người ta thưởng thức. Liễu Nhiên đại sư thì khác, Tào Nương Tử cho rằng hắn quả thực chính là một đóa ưu bát la đi giữa chốn nhân gian, nếu để vào chậu cảnh, nhất định có thể lưu danh muôn đời, nhìn hắn thêm một cái có thể vui vẻ thoải mái mấy ngày liền.

Lão quản gia không biết Liễu Nhiên hòa thượng bỏ thuốc gì cho hai tên này, đành phải tìm đến Cát Bàn Tiểu.

Cát Bàn Tiểu việc nghĩa không thể chối từ, cũng đi theo.

Vài ngày sau, Cát Bàn Tiểu cũng phản chiến nốt.

Bởi vì Liễu Nhiên hòa thượng chẳng những chỉ biết đọc kinh, còn hết sức tinh thông nhiều loại hỏa cơ và khôi lỗi sử dụng tử lưu kim hiện có, Cát Bàn Tiểu thậm chí từng gặp người của Linh Xu viện ở chỗ hắn.

Cát Bàn Tiểu nằm mơ cũng muốn lái cự diên lên trời không nói hai lời trực tiếp quỳ mọp dưới đài sen của hòa thượng.

Năm này qua đi, lão quản gia kỳ thực cũng quen với việc bọn Trường Canh suốt ngày chạy vào miếu hòa thượng, mới đầu không hề để tâm lắm.

Nào ngờ tứ điện hạ tốt không học đi học cái xấu, vừa đến Hộ Quốc tự thì hôm sau đã noi theo Cố Quân, chơi trò kim thiền thoát xác, không từ mà biệt.

Y trước đó dặn dò thị vệ đi theo, mình phải cùng Liễu Nhiên đại sư đóng cửa thanh tu một thời gian, bảo những kẻ không liên quan không được quấy rầy, thị vệ đương nhiên cũng không dám quấy rầy thật, chỉ canh ngoài cửa.

Đêm ấy, Trường Canh liền dẫn theo hai tên lâu la ăn cây táo rào cây sung, theo Liễu Nhiên đại sư đi Giang Nam du ngoạn.

Chờ qua vài ngày bọn thị vệ nhận thấy bất thường đi tìm người, thì trong thiền phòng chỉ còn lại một lá thư nhẹ tênh.

Lão quản gia khóc không ra nước mắt, đành phải vừa nhờ người tấu lên Hoàng thượng, vừa phái người truyền tin cho Cố Quân.

Hoàng thượng nghe chuyện rất rộng lượng, thứ nhất hắn cũng chẳng quan tâm đệ đệ hời này lắm, thứ hai hắn sùng tín Phật giáo, mù quáng tín nhiệm Liễu Nhiên hòa thượng, nghe nói Trường Canh đi theo du lịch, còn sinh ra vài phần hâm mộ – chỉ hận mình bị tục vật trói buộc, không thể đi theo hưởng sái cao tăng.

Bên phía Cố Quân càng là ngoài tầm tay với, không trông chờ được, nghe nói Tây Vực sa phỉ quá nhiều, y cả ngày không biết truy đuổi sa phỉ đến nơi nào, tín sứ cho dù đã đến Tây Lương quan, nếu muốn lập tức tìm được Cố soái, cũng hoàn toàn cần nhờ vận may.

Liễu Nhiên tuy là một cao tăng nhưng rất ít giảng kinh, cũng chưa từng nói những Phật pháp và kệ ngữ khó hiểu đó, phần lớn thời gian đều là mặt đối mặt bút đàm một số kiến thức dân gian, là một hòa thượng, hắn có vẻ không tu hành đàng hoàng, thậm chí có chút quá nhập thế. Hắn thậm chí hết sức đại nghịch bất đạo nói vài chuyện thời sự, nhưng thường là viết xong đốt luôn. (Các bài thơ của Phật gọi là kệ)

Hơn nửa tháng sau, trong một quán trà nho nhỏ ở Giang Nam, ba thiếu niên cùng một hòa thượng ngồi quanh một bàn.

Giang Nam đã bắt đầu cày bừa vụ xuân, nhưng phóng tầm mắt trông đi, trên đồng ruộng lại không thấy mấy người làm việc, vài ba lão nông đội mũ, vô công rồi nghề từ đằng xa nhìn thiết khôi lỗi lao động.

Không như khôi lỗi hầu kiếm và thủ vệ hầu phủ toàn là sát khí, thiết khôi lỗi trồng trọt trong hạnh hoa yên vũ này không hề hình người, chúng như một chiếc xe nhỏ, đi qua đi lại ngoài đồng, đội cái đầu trâu đẽo bằng gỗ, có vẻ hết sức ngây thơ.

Đây là đợt khôi lỗi trồng trọt đầu tiên triều đình phát xuống, làm thử ở vùng Nam Kinh trước.

Cát Bàn Tiểu lúc còn ở Nhạn Hồi tiểu trấn đã có hứng thú không bình thường với mớ đồng nát trong tay Thẩm Dịch, nhìn chúng mà hai mắt tỏa sáng.

Liễu Nhiên gõ bàn, kéo sự chú ý của bọn Trường Canh tới, sau một năm, bọn Trường Canh đã có thể hiểu thủ ngữ của hắn, hòa thượng cũng không cần viết từng chữ từng câu nữa.

"Khôi lỗi cày cấy phổ biến ở Giang Nam ta từng thấy ở Tây Dương rồi, một khôi lỗi có thể dễ dàng lo liệu một mẫu đất, tuy vẫn cần đốt một ít tử lưu kim, nhưng qua vài lần thay đổi, than đá đã đủ cho phần lớn động lực, như thế phí tổn sẽ rất thấp, nghe nói một khôi lỗi còn tiết kiệm hơn đèn chong."

Cát Bàn Tiểu: "Thế đương nhiên là tốt, sau này chẳng phải cày cấy làm việc đều không cần thức khuya dậy sớm nữa?"

Thiết khôi lỗi thử nghiệm là triều đình phát cho Nam Kinh, các lão gia hương thân đều tự đăng ký rồi lĩnh đi, phụ trách việc bảo dưỡng về sau. Điền hộ muốn tự trồng trọt thì tự trồng, không muốn thì nhường mảnh đất mình thuê cho khôi lỗi, năm sau đến mùa thu hoạch thêm một phần địa tô, trả cho lượng tử lưu kim và than đá khôi lỗi dùng.

Năm đầu rất ít người làm, do phải thêm một phần tiền tô, nhưng năm thứ hai đã mở rộng – lão bách tính đã nhận ra, thứ này quả thật dùng tốt hơn người, dù tăng tô thì số lương thực còn lại trong tay vẫn nhiều hơn trước kia, còn khỏi cần thức khuya dậy sớm vất vả làm việc, chuyện tốt như thế ai mà không chịu?

Bấy giờ mới có thịnh cảnh đồng ruộng Giang Nam không thấy bóng người.

Liễu Nhiên chỉ cười không nói.

Trường Canh bỗng nhiên nói: "Ta trái lại cảm thấy chưa chắc là việc tốt – nếu thiết khôi lỗi có thể hoàn toàn thay thế người, thì còn cần người làm gì? Đất điền hộ thuê cũng là của hương thân lão gia, mấy năm đầu lão gia niệm tình cũ, bằng lòng nuôi những nhàn hán này, nhưng có thể nuôi họ bao nhiêu năm đây?"

Cát Bàn Tiểu si mê các loại hỏa cơ, ngày nghĩ gì đêm mơ đó, lập tức tiếp lời: "Họ có thể lưu lại làm trường tý sư!"

Tào Nương Tử: "Việc này ta biết, trong một Nhạn Hồi thành tất cả cương giáp thủ quân cộng lại, chỉ cần hai trường tý sư là đủ rồi, khi đó họ cũng chỉ thỉnh thoảng bận quá, mới đi tìm Thẩm tiên... Thẩm tướng quân, không dùng nhiều trường tý sư như vậy đâu."

Cát Bàn Tiểu: "Họ có thể đi tìm việc khác mà làm, thí dụ như..."

Thí dụ như cái gì, gã nhất thời không nói được, cuộc sống của nhà đồ tể năm đó dù sao cũng thoải mái, trong mắt Cát Bàn Tiểu thì trừ trồng trọt ra, trên đời còn khối việc để làm.

Tào Nương Tử khó khăn kéo tầm nhìn khỏi mặt Liễu Nhiên, hỏi: "Như vậy, nếu mọi người đều không tìm được việc để làm, hoặc là đại đa số không tìm được việc để làm, họ sẽ tạo phản chứ?"

Liễu Nhiên hạ mắt nhìn gã, mặt Tào Nương Tử thoáng cái chín luôn.

Liễu Nhiên ra dấu: "Mấy năm nay thì chưa."

Ba thiếu niên trầm mặc một hồi, Trường Canh hỏi: "Là vì nghĩa phụ ta à?"

Liễu Nhiên mỉm cười nhìn y một cái.

"Ta nhớ đêm Trừ tịch năm trước, con hổ của người Tây Dương chạy ra, cả con đường loạn hết lên, nhìn thấy nghĩa phụ ta mới chịu yên." Trường Canh dừng một chút, nói, "Sau đó nghe người ta nói, lân cận Khởi Diên lâu người đông nghìn nghịt, nếu không phải nghĩa phụ ổn định dòng người, dù là giẫm cũng có thể giẫm chết rất nhiều người."

Liễu Nhiên ra dấu: "Ta một mình dẫn điện hạ ra ngoài, đã đắc tội to với An Định hầu, mai kia sự việc bại lộ, mong điện hạ ở dưới đao Hầu gia giữ cho hòa thượng một cái mạng nhỏ."

Cát Bàn Tiểu và Tào Nương Tử đều bật cười, cho rằng Liễu Nhiên hòa thượng đang nói đùa – dù sao thì trong ấn tượng của họ, Cố Quân luôn vui vẻ hòa nhã.

Liễu Nhiên hơi cười khổ, nhảy qua đề tài này, tiếp tục ra dấu: "Dân gian đến nay có truyền thuyết lão Hầu gia dùng Huyền Thiết ba mươi người đã khiến Bắc Lang cúi đầu, đều nói Huyền Thiết doanh là thần binh thần tướng, có thể lên trời xuống đất, đao thương bất nhập, có Huyền Thiết doanh cây xà chắc này trấn giữ, bọn bạo đồ phạm thượng tác loạn ở dân gian tuy có, nhưng thủy chung khó thành quy mô."

Trường Canh ngồi thẳng dậy: "Nhưng ta nghe nói, nếu muốn dỡ nhà, chuyện đầu tiên chính là đập xà."

Liễu Nhiên nhìn thiếu niên trước mặt, nếu Cố Quân trở về, có lẽ sẽ không nhận ra Trường Canh, chỉ trong một năm ngắn ngủi mà y đã cao vọt lên mấy tấc, nét trẻ con trên mặt đã mất sạch.

Thiếu niên đêm Trừ tịch năm đó ra ngoài một chuyến cũng phải ngứa ngáy da đầu, hiện giờ lại ngồi ở quán trà vùng nông thôn Giang Nam, cùng hòa thượng tán chuyện dân sinh.

Liễu Nhiên: "Điện hạ không cần bận tâm, những việc này, trong lòng Hầu gia đã sớm biết rõ."

Trường Canh nhớ tới bức "thế bất khả tị" trong phòng Cố Quân, hơi ngẩn người, nỗi nhớ mong bỗng trỗi lên trong lòng như vỡ đê, y lặng lẽ ngồi đó chốc lát, mặc nhớ nhung dâng trào, đoạn cười khổ bưng chén trà giữa bàn lên một ngụm uống cạn.

Mà Cố Quân đang được Trường Canh nhớ nhung lúc này còn ở giữa đại mạc mờ mịt vùng Tây Vực, giằng co với bọn sa phỉ quy mô lớn nhất ở địa phương hơn một tháng rồi.

Tây Lương quan từ lâu đã không còn sự tiêu điều năm đó. Từ sau khi Đại Lương và Giáo hoàng ký Hiệp ước Tây Lương quan, cả tuyến Tây Lương quan quả thực thành một mảnh phong thủy bảo địa tụ tài, thương nhân và du khách nhanh chóng tụ lại, dân cư mấy trấn tăng vọt, người Tây Dương, người Trung Nguyên và người của tiểu quốc dọc tuyến Tây Vực hỗn cư, cơ hồ phải trong ngươi có ta, trong ta có ngươi.

Lâu Lan ở ngay lối vào con đường tơ lụa bởi vậy càng thành yếu địa thông thương, nhanh chóng từ một tiểu quốc chưa có tiếng tăm biến thành vùng đất trù phú.

Người Lâu Lan nhiệt tình vui vẻ, an cư lạc nghiệp, không thích kiếm chuyện, năm đó Tây Vực phản loạn cũng không liên quan tới người ta, quan hệ với Đại Lương vẫn hết sức hữu hảo, Hoàng thượng liền đặc ý đặt lối vào con đường tơ lụa ở nơi này.

"Đại soái, bên phía Tiểu Giả đã hạ được lũ giặc cỏ đó, ra tay chứ?"

Cố Quân: "Thế còn chờ gì nữa? Bắt tên đầu sỏ, buổi tối chúng ta đến chỗ Lâu Lan vương tử ăn chực!"

Nói xong, y ấn nhẹ mí mắt.

Thẩm Dịch: "Có phải là mắt ngươi lại..."

"Không," Cố Quân làu bàu một câu, "Mí mắt cứ giật suốt, có thể..."

Y chưa dứt lời thì một thân vệ đột nhiên đi tới, lấy từ trong lòng ra một phong thư: "Đại soái!"

Cố Quân: "Ồ, ở đâu vậy?"

Thân vệ: "Thư nhà từ hầu phủ, đưa đến Tây Lương quan, gia nhân mãi không tìm được ngài, mới nhờ người Lâu Lan đưa tới."

Không chừng là Trường Canh hồi âm.

Cố Quân nghĩ vậy, thuận tay mở ra xem, rất chờ mong.

Sau đó Thẩm Dịch liền nhìn thấy Cố Quân biến sắc.

Thẩm Dịch: "Sao vậy?"

"Tên lừa trọc Liễu Nhiên này, tốt nhất đừng rơi vào tay ta." Cố Quân âm trầm nói, đoạn y chắp tay sau lưng đi vài vòng trong soái trướng như ruồi không đầu, một cước đạp lật bàn, "Điều cho ta mấy huyền ưng, Quý Bình, việc bên này ngươi tạm thời lo thay ta."

Thẩm Dịch: "Cái gì?"

Cố Quân: "Ta phải đi Giang Nam một chuyến."

Thẩm Dịch la lên một tiếng: "Ôi... Á, cằm rớt trúng chân, đau chết ta rồi – Ngươi điên à? Chủ soái thủ quân Tây Bắc tự tiện bỏ đến Giang Nam, ngươi muốn tìm chết hay muốn tạo phản hả!"

Cố Quân bình tĩnh trả lời: "Hôm nay đánh hang ổ của lũ bọ cạp, ít nhất phải được thái bình trong dăm ba tháng, với cước trình của Huyền ưng, một hai ngày là có thể đến Giang Nam, tìm được người là ta về thôi, không nán lại lâu đâu."

Thẩm Dịch dồn khí xuống đan điền, bắt đầu chuẩn bị cho trường thiên đại luận thao thao bất tuyệt, song chưa kịp nói ra thì Cố Quân đã thụi ngay vào bụng.

Thẩm Dịch "Á" một tiếng cong lưng như tôm: "Ta còn chưa nói gì mà!"

Cố Quân: "Phải phòng trước chứ."

Đêm ấy, mười ba huyền kỵ nhất cử tróc nã đầu lĩnh sa phỉ cùng lũ tay chân đọ sức đã lâu ẩn sâu trong đại mạc, Cố Quân nghe báo, phân phó một câu "giam giữ", sau đó không kịp nghỉ ngơi, đi ngay trong đêm.

Ban Nga Đa vương tử Lâu Lan đã chuẩn bị sẵn rượu thịt, đang chờ tẩy trần cho Huyền Thiết doanh, vừa đến lại nhìn thấy Cố Quân tâm trạng bực bội thay huyền ưng giáp.

Lâu Lan quốc nằm ở trọng địa lối vào con đường tơ lụa, là con của sa mạc, cũng hết sức thống hận sa phỉ hoành hành, dần dà, họ thành người dẫn đường tốt nhất cho Huyền Thiết doanh tung hoành sa mạc tiễu phỉ, song phương quan hệ khá tốt.

Người Lâu Lan giỏi ca múa, đặc biệt thích mỹ tửu, cả nam nhân lẫn nữ nhân đều là tửu quỷ, vương tử là tửu quỷ trong tửu quỷ.

Cố đại soái binh pháp khó lường hay võ nghệ siêu quần, với hắn mà nói đều không đáng kích động, duy chỉ tửu lượng dùng rượu mạnh giải khát của Cố Quân, Ban Nga Đa tán thưởng không thôi. Hắn tự phong mình là "bạn nhậu" của Cố đại soái, làm hết sức tận chức tận trách.

Ban Nga Đa dùng nhịp điệu như xướng du trên sa mạc ngân nga hỏi Cố Quân: "Cố đại soái, sao hôm nay đi nhanh như mây cuối trời vậy, muốn đi truy tìm cô nương như tịch dương à?"

Thẩm Dịch: "..."

Cô nương như tịch dương là cô nương gì? Vừa đỏ vừa tròn hả?

Cố Quân: "Ta đi chém người."

"Ồ!" Ban Nga Đa xách hai vò rượu thoáng sửng sốt, đoạn buồn bực nói, "Vừa chém xong lại chém nữa hả?"

"Chẳng lẽ ăn sáng xong thì ngươi sẽ không ăn tối nữa?" Cố Quân đằng đằng sát khí quát, "Tránh ra!"

Mấy huyền ưng như bóng tối bay vút tới, mũi chân điểm nhẹ mặt đất, hạ xuống phía sau Cố Quân, chớp mắt liền như gió xoáy cuốn qua, vô tung vô ảnh, chỉ còn lại làn khói trắng vấn vít, thành một đường cong đẹp đẽ trên không trung.

Ban Nga Đa nhìn theo bóng lưng y, đầy sùng kính hỏi Thẩm Dịch: "Đại soái một ngày phải chém người ba lượt cơ à?"

Thẩm Dịch vẫy tay ra hiệu cho hắn đưa tai lại, thì thào: "Nhi tử bị người ta dụ dỗ bỏ trốn."

Ban Nga Đa cẩu hùng ôm tim: "A! Thế nhất định là một cô nương như trăng rằm rồi!"

Thẩm Dịch: "... Không, hắn chỉ có cái gáy như trăng rằm thôi."

Để lại Ban Nga Đa vương tử buồn bực sờ gáy mình, Thẩm Dịch tâm sự nặng nề quay về, đi hai bước thì y đột nhiên biến sắc – gay rồi, Cố Quân đi gấp gáp như vậy, rốt cuộc có mang thuốc theo không?

Giang Nam dùng một cơn mưa bụi không ướt áo nghênh đón Cố Quân gió cát đường xa, y nghỉ ngơi chốc lát, rồi trực tiếp dẫn người giết đến phủ của Án sát Ứng Thiên Diêu Trấn.

Theo thân phận của Cố Quân, vốn không nên có giao tình gì với quan địa phương Giang Nam, trong đây liên quan đến vài chuyện từ ngày xưa.

Cố Quân mười lăm tuổi lần đầu tiên tùy quân tiễu phỉ, cứu mấy kẻ xúi quẩy bị hãn phỉ bắt – Diêu Trấn năm đó bị người hãm hại bãi quan về nhà chính là một trong số này, sau đó Diêu Trấn có chút thủ đoạn, có thể khởi phục, nhậm chức Án sát Ứng Thiên, xem như là quân tử chi giao với Cố hầu gia, đạm đạm, không liên quan đến lợi ích, nhưng vẫn liên hệ suốt.

Diêu đại nhân hôm nay vừa vặn được nghỉ, ngủ đến khi mặt trời lên cao ba sào còn chưa chịu dậy, chợt nghe gia bộc tới báo, giật nảy cả người.

Diêu Trấn: "Hắn nói hắn là ai?"

Gia bộc nói: "Hắn nói hắn họ Cố, Cố Tử Hi."

"Cố Tử Hi," Diêu Trấn lau ghèn ở khóe mắt, nói vẻ thành khẩn, "An Định hầu Cố Tử Hi? Ta còn là thủ phụ đương triều đây – hạng lừa đảo này mà ngươi cũng tin, đuổi đi!"

Gia bộc vâng dạ, dợm bước tính đi.

"Từ từ!" Diêu Trấn ôm chăn ngồi dậy, cân nhắc giây lát, "... Khoan đã, để ta đi xem thử."

Hắn phúc chí tâm linh, không biết cớ làm sao mà bỗng nhiên cảm thấy tự tiện bỏ việc có lẽ thật sự là chuyện Cố Quân làm được.

Lúc này, Liễu Nhiên hòa thượng vừa vặn đang ở phủ Ứng Thiên còn chưa biết đại họa sắp sửa giáng xuống đầu mình.

Hòa thượng này ki bo ra thiện ý.

Một đại tử hắn phải bẻ làm đôi mà tiêu, có gian miếu đổ ở tạm thì tuyệt không ở khách điếm, từ sáng đến tối ăn rau ăn dưa, muốn ăn ngon một bữa thì phải dựa vào hóa duyên – tục gọi là xin cơm. (Đại tử là một loại tiền ngày xưa bằng 2 đồng tiền thường)

Bản thân không tiêu, cũng quyết không cho bọn Trường Canh tiêu, may mà ba thiếu niên choai choai này đều chịu khổ được, có thể theo hắn bữa đói bữa no lang bạt kỳ hồ.

Liễu Nhiên đi cực kỳ tùy tính, đôi khi dẫn bọn Trường Canh đi khắp hang cùng ngõ hẻm giữa phố phường, đôi khi men theo đồng ruộng mà đi bộ không mục đích, hóa duyên không lựa chọn, từng đến nhà hương thân thiện nhân, cũng từng qua nhà điền hộ tầm thường, gặp đâu xin đó.

Có một lần đến nhà một cụ già góa vợ không con, thấy người ta thật sự đói rã họng, chẳng những không xin cơm, ngược lại còn cho ít tiền bạc.

"Thịnh thế an khang cũng có người chết đói chết cóng, thịnh thế bấp bênh cũng có vinh hoa phú quý," Liễu Nhiên xuyên qua khu chợ trên tiểu trấn, ra dấu nói với bọn Trường Canh, "Hai chữ 'thế đạo' đáng lý nên chia làm hai, 'đạo' là lòng người hướng về, 'thế' chính là một hạt gạo dưới vạn gia đăng hỏa, một hòn gạch trong vạn dặm thành quách."

Trường Canh: "Đại sư lẽ ra phải là người xuất thế, nhưng nói đến 'thế' cũng rõ ràng đâu ra đấy."

Trường Canh cơ hồ còn cao hơn Liễu Nhiên hòa thượng, giọng đã hoàn toàn mất đi sự trong trẻo của thiếu niên, có một chút trầm thấp, nói chuyện không nhanh không chậm, có vẻ rất vững vàng.

Y vốn thích thanh tĩnh, ngày trước vừa thấy đám đông là toàn thân khó chịu, tiếp xúc với người xa lạ vĩnh viễn đều cảm thấy không quen, không biết nên nói gì, nhưng lúc này bất tri bất giác đã tu luyện ra bản lĩnh đi đến đâu cũng như dạo chơi sân vắng vậy.

Có thể là vì y có ý định đập nồi dìm thuyền, một chút không tình nguyện cỏn con, tự nhiên liền biến thành việc nhỏ.

Liễu Nhiên cười cười, thản nhiên ra dấu: "Hòa thượng nếu không biết thế đạo, còn mặt mũi nào tự xưng đang ở thế ngoại?"

Liễu Nhiên hòa thượng có khuôn mặt rất có thể dọa người, rửa sạch như cao tăng xuất trần, vài ngày không tắm như cao tăng lịch kiếp, đầu trọc ánh chiếu Phật quang chói lọi, trong mắt vĩnh viễn chứa một đầm nước chuẩn bị phổ độ chúng sinh – nếu hắn đối với vật ngoài thân là anh tiền vuông hào phóng hơn một chút, bọn Trường Canh thật sự muốn thừa nhận hắn là một cao tăng từ đầu đến chân.

Bỗng nhiên, Tào Nương Tử cắt ngang cao tăng, hạ giọng nói: "Đừng nói chuyện thiền cơ nữa, Trường Canh đại ca, huynh không phát hiện có rất nhiều người đang nhìn chúng ta?"

Mấy người bọn họ – có hòa thượng, có công tử trẻ tuổi hào hoa phong nhã, có con của nhà giàu mới nổi bụng phệ, còn có một tiểu nha đầu tuy xinh đẹp, nhưng trông cứ kỳ kỳ thế nào ấy, đi chung vốn hết sức nổi bật, đã sớm bị dòm ngó chỉ trỏ quen rồi, ngay cả Trường Canh cũng không còn mẫn cảm với ánh mắt người qua đường nữa.

Nhưng lần này, vòng vây xem họ lọt vào tựa hồ hơi quá.

Người ven đường thấy họ, nhao nhao dừng chân nhìn ngó, chẳng những nhìn ngó, còn chỉ trỏ họ mà thậm thụt trao đổi.

Cát Bàn Tiểu thì thào: "Ta luôn cảm thấy phải xảy ra chuyện gì đó."

Trường Canh: "Ngươi nói đúng."

Là người cao nhất trong cả bốn, Trường Canh đã lướt qua đầu mọi người, nhìn thấy trên cổng thành không xa dán một tờ bố cáo – trên bố cáo vẽ một hình người rất giống, là một hòa thượng đầu trọc mi thanh mục tú, dưới viết: kẻ này giả mạo cao tăng Hộ Quốc tự, lừa đảo bịp bợm, không từ bất cứ việc xấu nào, hèn hạ vô cùng, đặc biệt truy nã, nếu có ai báo án, thưởng mười lượng bạc ròng.

"Liễu Nhiên đại sư," Trường Canh nói, "Ngươi đáng giá mười lượng bạc ròng đó."

Liễu Nhiên đại sư đứng đơ thành một pho tượng đá mỹ tăng nhân hoạt sắc sinh hương.

"Chắc là nghĩa phụ ta nhận được thư của Vương bá, phái người tới gây chuyện với ngươi rồi." Trường Canh liếc đám người bắt đầu ùa đến mười lượng bạc, nói với Liễu Nhiên, "Xin lỗi, chúng ta nên đi trước đi."

Liễu Nhiên mau chóng ra dấu: "A di đà Phật, tứ điện hạ đừng quên lời hứa trong quán trà."

Sau đó hòa thượng này vắt giò lên cổ mà chạy, đúng thật là tĩnh như tượng đá, động như gió giật.

Lão bách tính trong chợ chờ bắt mười lượng bạc vừa thấy đả thảo kinh xà, liền nhao nhao dẹp hết thận trọng, gào ầm lên "dâm tăng" "tên lừa đảo" nọ kia, từ bốn phương tám hướng vây công tới.

Cát Bàn Tiểu: "Ngày trước cha ta lên núi săn thỏ cũng làm như vậy đấy."

Trường Canh và Tào Nương Tử cùng nhìn gã.

Cát Bàn Tiểu: "Cầm gậy gộc kêu gào, phải dọa thỏ sợ đến mức chạy bừa không chọn đường, nó sẽ tự lao đầu vào lưới – A, thật đó."

Liễu Nhiên đại sư cơ trí hơn thỏ, không hề đâm đầu chạy bừa, hắn sớm đã nhìn rõ kết cấu của khu chợ, luồn trái lách phải, cả người biến thành một cái bóng, không biết là cân nhắc lộ tuyến thế nào, qua lại vài lần đã khiến đoàn người từ bốn phương tám hướng đuổi theo hắn hợp thành một dòng, rất thành thạo.

Lúc này, không xa đó truyền đến tiếng ồn ào "Tránh ra", nhìn lại thấy là một đội quan binh chạy đến, chắc là được mật báo đến bắt người.

Trường Canh nghĩ bụng: "Quả nhiên là Cố Quân tìm người làm."

Trong lòng y vừa hơi an ủi, vừa hơi mất vui.

An ủi chính là, Cố Quân dù ở tận Tây Bắc, rốt cuộc không chịu để y tự sinh tự diệt, tuy thủ đoạn hơi độc, nhưng trong lòng vẫn lo cho y.

Đồng thời y lại cảm thấy là mình liên lụy Liễu Nhiên đại sư – hơn nữa, người đó ngay cả Tết cũng không thèm về hầu phủ, hiện tại thò tay dài thế làm gì?

Tào Nương Tử túm tay áo y: "Đại ca, làm thế nào đây?"

Trường Canh định thần lại khỏi mối suy nghĩ phức tạp khó phân, thoáng trầm ngâm, lập tức cho tay vào bọc hành lý, móc ra một nắm bạc vụn, nhắm chuẩn phương hướng, rồi tung ra như thiên nữ tán hoa: "Đón tiền này!"

May mà Liễu Nhiên đại sư chỉ lo chạy, bằng không nhất định phải đau lòng đến mọc tóc ra luôn –

Những người đang đuổi theo hòa thượng bị bạc đập vào đầu, đương trường đần ra, theo bản năng muốn nhặt, những kẻ khác nghe nói có hiện ngân, tức thì bỏ qua vật ngang giá đã chạy trốn, nhao nhao quay lại nhặt bạc xịn, nhất thời chặn kín đường của quan binh đằng sau, Liễu Nhiên hòa thượng đã không thấy bóng dáng.

Trường Canh nở nụ cười: "Chúng ta cũng đi thôi."

Nói xong, y dẫn đầu chui ra khỏi đám đông, chuẩn bị thần không biết quỷ không hay rời khỏi vùng đất thị phi này, nhưng chưa kịp đi, thì một tràng tiếng vó ngựa đột nhiên vọng đến từ bên kia con phố hẹp, nghe như vừa vặn phải chặn họ lại.

Phóng ngựa giữa phố xá náo nhiệt, không phải đến gây sự, thì là bắt người.

Cát Bàn Tiểu đề nghị: "Đại ca, chúng ta đi đường nhỏ đi."

"Không," Tào Nương Tử thẫn thờ nói, "Chúng ta nên ngoan ngoãn đợi đi."

Tiếng vó ngựa tới gần chuẩn xác dừng lại ở cổng chợ, chỉ thấy mấy hán tử xuất thân quân ngũ xuống ngựa nghiêm túc đứng thành một hàng, chính giữa có một... người dẫu hóa thành tro Trường Canh cũng nhận ra –

Trường Canh ngây ra, Cố đại soái lại từ Tây Bắc đích thân chạy tới bắt người.

Dọc đường Cố Quân đã nghĩ kỹ, y phải lột da rút gân Liễu Nhiên trước, rồi lại xách cổ Trường Canh về đét mông một trận.

Cây nhỏ không uốn không thẳng, y cảm thấy mình trước kia đã quá nuông chiều đứa trẻ này, học theo tiên đế quả nhiên không hữu dụng, làm cha phải noi theo cách của lão Hầu gia mặt đen mới được.

Nhưng một bầu lửa giận phừng phừng, trong nháy mắt y nhìn thấy Trường Canh, đột nhiên liền tắt ngóm.

Cố Quân ngồi trên ngựa, suýt nữa không nhận ra Trường Canh.

Nam hài mười mấy tuổi mỗi ngày một khác, lúc ở Nhạn Hồi trấn, Trường Canh luôn ở ngay trong tầm mắt, mỗi ngày lớn dần đều không rõ, chỉ có thể nhờ quần ngày càng ngắn để biết y đang cao lên, đột nhiên xa cách hơn một năm, biến hóa tích lũy tháng ngày của Trường Canh bỗng khiến một thiếu niên trở nên khác hẳn.

Y đã đuổi kịp Cố Quân cao gầy, cơ thể vốn hơi gầy không biết từ khi nào đã có dáng dấp của một người lớn, vẻ khó tin chỉ thoáng qua trên mặt, liền bị sự bình tĩnh không biến sắc gần đây học được che đi.

Cố Quân mặc ngựa bước tại chỗ chốc lát, mặt không biểu cảm nghĩ: "Không đánh được nữa rồi."

Không phải đánh không được, mà là Trường Canh đã thành một người lớn, còn dùng thủ đoạn giáo huấn trẻ con, sẽ là làm nhục chứ không phải giáo huấn.

Năm qua năm, đối với Cố Quân mà nói cũng chẳng có gì khác biệt, đều là vội vã trôi đi, chớ hề thú vị.

Khoảnh khắc này, y lại đột nhiên muộn màng cảm nhận được sự vô tình của thời gian, y chẳng qua để lỡ một chớp mắt, mà Tiểu Trường Canh của y đã vội vã trưởng thành, đoạn thời gian y bỏ lỡ, về sau vĩnh viễn không bù lại được nữa.

Cố Quân rốt cuộc ý thức được, Trường Canh đã từ mười lăm lên mười sáu, qua ba bốn năm nữa là sẽ phải dọn đến phủ Nhạn Bắc vương, rời khỏi vòng tay y che chở. Ba bốn năm là khái niệm gì đây? Có thể cũng chỉ đủ để y quay về kinh thành một chuyến, vậy giữa họ chẳng lẽ chỉ còn lại "duyên gặp mặt một lần" sao?

Cách một năm, Cố đại soái lòng to bằng cái đấu này cuối cùng đã phản ứng được.

Y xuống ngựa, trực tiếp đi đến trước mặt Trường Canh, sầm mặt nói: "Đi theo ta."

Trường Canh cứ chằm chằm nhìn mặt y, một tấc cũng không nỡ rời, trên cổ Cố Quân còn có một vết thương nhạt, đến từ sa mạc Tây Bắc, vẫn chưa kịp khỏi hẳn. Trường Canh khó khăn tìm lại được tiếng nói: "Nghĩa phụ, sao người lại đến đây?"

Cố Quân lạnh lùng hừ một tiếng, chẳng rằng chẳng nói đi trước về hướng ngoài chợ.

"Nói chuyện cũng khác hẳn." Y buồn bã mất mát mà nghĩ thầm.

Quan binh đi theo chạy chầm chậm đến, hăm hở nói với Cố Quân: "Đại soái, hòa thượng kia chạy rồi, còn truy không?"

"Truy," Cố Quân đáp ứng luôn, "Truy nã toàn thành, cho dù nhảy xuống biển cũng vớt về cho ta!"

Quan binh: "Vâng!"

Tào Nương Tử ở phía sau trộm kéo tay áo Cát Bàn Tiểu, Cát Bàn Tiểu thè lưỡi, cảm thấy trong việc này họ là Bồ Tát bùn qua sông, chính mình còn khó giữ, đành phải lực bất tòng tâm lắc đầu, hi vọng Liễu Nhiên đại sư tự cầu nhiều phúc.

Bọn Trường Canh theo Cố Quân đi một mạch đến phủ Diêu đại nhân Án sát Ứng Thiên, Diêu đại nhân sớm chuẩn bị sẵn sàng vuốt mông ngựa, dẫn người ra cửa nghênh đón: "Tứ điện hạ quang lâm hàn xá, thật là vẻ vang cho kẻ hèn này! Mời vào mời vào, thần đã sắp sẵn rượu ngon thức ngon, chuẩn bị tẩy trần cho điện hạ."

Chưa dứt lời, Cố Quân đã trưng khuôn mặt Diêm vương, khóe mắt chân mày đều viết rõ một câu – tẩy trần cái đếch gì, cho chết đói luôn đi.

Suốt đêm ấy, Cố Quân không nghĩ ra phải nói chuyện thế nào với Trường Canh, đành phải ở trong phòng mình nốc ừng ực từng chén rượu Lâu Lan mang theo, một lát sau, lại có người gõ cửa.

Cố Quân: "Vào đi."

Trường Canh nhẹ nhàng mở cửa đi vào: "Nghĩa phụ."

Cố Quân không lên tiếng, trên mặt hỉ nộ khó phân.

Trường Canh với tay đóng cửa, hơi cúi đầu, giống như nhìn Cố Quân lâu rất mất sức.

Trường Canh: "Nghĩa phụ, con rất nhớ người."

Cố Quân trầm mặc giây lát, rốt cuộc thở dài: "Lại đây, ta xem nào."

Trường Canh ngoan ngoãn đi tới, trên người Cố Quân thoang thoảng mùi rượu xa lạ, hơi ngọt, dường như là rượu Tây Vực, trên vai đeo giáp cứng sắt lạnh quanh năm không tháo. Trường Canh vốn tưởng rằng mình có thể khắc chế, ngờ đâu đã đánh giá cao bản thân – tựa như y cũng không liệu được Cố Quân lại đích thân đến Giang Nam tìm y vậy.

Y âm thầm hít sâu một hơi, tự tiện tiến tới ôm Cố Quân.

Trong nháy mắt, Cố Quân chẳng còn giận nổi nữa.

Y đưa tay đón lấy Trường Canh, thuận thế vỗ vỗ lưng Trường Canh, cằm cọ bả vai đối phương, cảm thấy cánh tay kia đã không còn là một bộ xương trống rỗng không thật nữa.

Cố Quân cũng rất muốn thẳng thắn nói một câu "Ta cũng nhớ ngươi", nhưng y từng này tuổi rồi mà chưa từng nói thế bao giờ, câu này lên lên xuống xuống trong lòng, cuối cùng vẫn sợ hãi, lâm trận bỏ chạy về bụng.

Y chỉ nhàn nhạt cười nói: "Lớn tướng rồi mà còn làm nũng."

Trường Canh nhắm mắt lại, trong lòng biết không được vô lễ nữa, tình cảm không thể tự kiềm chế, nhưng tứ chi thân thể thì có.

Y biết điều buông Cố Quân ra, bình tĩnh đứng bên cạnh, dằn ngọn lửa rừng không nhìn thấy đang lan tràn trong lòng. Y biết mình muốn quá nhiều, nhiều đến vô lý, thậm chí vì vậy mà sinh ra đủ loại oán phẫn, và chúng đều thật đáng ghét, thế nên chẳng mảy may dám để lộ.

Trường Canh hít sâu một hơi, hỏi: "Sao nghĩa phụ lại đến Giang Nam?"

Cố Quân lườm một cái, nói vẻ không vui: "Còn mặt mũi mà hỏi, không phải đều là do ngươi à?"

Trường Canh không dám nhìn y nhiều, hơi cúi đầu.

Nhưng Cố Quân chỉ cho là mình nặng lời, những lời răn dạy đã ra đến đầu lưỡi lại bị chính y vội vàng ngậm vào. Y co ngón cái vào lòng bàn tay, bẻ qua bẻ lại từng đốt. Cảm giác mệt mỏi khi bôn ba ngàn dặm lúc này mới ùa lên, y kiềm chế sự mỏi mệt thình lình kéo đến này, đắn đo mấy lần, sau cùng cố hết sức bình tĩnh ôn hòa mà nói với Trường Canh: "Ngồi xuống, nói với ta vì sao cùng con lừa... khụ."

Cố Quân ý thức được kêu "con lừa trọc" trước mặt Trường Canh hình như không thích hợp lắm, mà "đại sư" thì y tuyệt đối không gọi nổi, thế là kẹt lại.

Trường Canh: "Liễu Nhiên đại sư muốn xuôi phương Nam du lịch, là con tự chủ trương khăng khăng đòi đi theo, nghĩa phụ nếu vì vậy mà gây phiền toái cho y, thì lòng con cũng rất áy náy."

Cố Quân: "..."

Trường Canh quá giỏi ăn nói, vừa biết giải vây cho con lừa trọc kia, vừa biết làm sao để không khiến y phát hỏa, một câu nói rõ trong ngoài khác nhau, khiến Cố Quân cũng suýt nữa "áy náy" theo. Y lần thứ hai thầm giật mình, bây giờ chẳng qua mới một năm, đứa trẻ trước kia nói chuyện thẳng tuột như chày gỗ từ đâu học được trò này nhỉ?

"Lúc bằng tuổi con, nghĩa phụ đã Nam hạ bình định phỉ loạn, con thì vẫn văn không thành võ không tựu, thế nên con muốn rời khỏi hầu phủ đi thăm thú thế giới bên ngoài," Trường Canh trộm nhìn Cố Quân một cái, phát hiện trong đôi mắt ấy lại có tơ máu, lập tức không nói nổi nữa, sự áy náy tràn lòng từ ngực dâng lên họng, lí nhí, "... Chỉ là thủ đoạn bốc đồng, còn khiến nghĩa phụ bôn ba, con sai rồi, người phạt con đi."

Cố Quân trầm mặc một lúc, chợt nói: "Ta lần đầu tiên tùy quân xuất chinh, kỳ thực là Đỗ lão tướng quân liên hợp cựu chúng của lão Hầu gia, cưỡng cầu tiên đế."

Trường Canh ngẩng phắt đầu lên.

Cố Quân không hề là người khiêm tốn, rượu vào cũng thường xuyên khoác lác, mấy chuyện bốc phét như "che mắt bịt tai cũng có thể hạ hai mươi thiết khôi lỗi trong nửa nén nhang" y đều từng nói. Nhưng nghĩ kỹ lại thì, y thiếu niên thành danh, nắm giữ ấn soái Tây chinh, trùng chỉnh Huyền Thiết doanh, một chuỗi lịch sử huy hoàng, rõ ràng việc nào nói ra cũng đủ khoe nửa đời, mà Cố Quân lại chưa bao giờ nhắc tới.

Cố Quân lại lấy ra một cái chén, rót một chén rượu hơi chua cho Trường Canh: "Đây là rượu của người Lâu Lan, ngươi cũng lớn rồi, có thể nếm vài hớp."

Trường Canh uống một ngụm, chẳng thưởng thức ra vị gì, liền bỏ xuống. Y với Cố Quân rất lâu không gặp nhau, gặp một lần máu đã chảy lộn xộn rồi, thật sự không cần phải thêm rượu nữa.

Cố Quân: "Ta khi đó chẳng hiểu cái gì, đi theo chỉ làm rối thêm, lại thiếu niên khinh cuồng, không chịu khiêm tốn thừa nhận. Trên đường tiễu phỉ, một lần nọ ta hấp tấp liều lĩnh một mình hành động gây ra họa lớn, một chiến dịch nhỏ mất hơn ba mươi trọng giáp phải đổ cả đống vàng bạc vào, còn liên lụy Đỗ lão tướng quân trọng thương... Ngươi có nghe nói về Đỗ Trường Đức tướng quân chưa?"

Trường Canh từng nghe Liễu Nhiên kể, hòa thượng kia thuộc như lòng bàn tay về văn võ bá quan triều trước triều này, chỉ sợ còn thuộc hơn cả chân kinh của Phật tổ.

Mười mấy năm trước phu phụ lão An Định hầu lần lượt mắc bệnh qua đời, Cố Quân còn nhỏ, là Đỗ lão tướng quân chu toàn giữa biên cương và triều đình, một mình chèo chống đại cục, đáng tiếc sau đó vết thương cũ tái phát, chết trên đường viễn chinh Tây Bắc, bấy giờ mới để Cố Quân lúc ấy chẳng qua mười bảy tuổi làm Thống soái Tây chinh.

Cố Quân: "Nếu không phải do lần đó, lão nhân gia vốn có thể khỏe mạnh tráng kiện, không đến mức vì một trận phong hàn mà tái phát vết thương cũ. Năm ấy Nam hạ tiễu phỉ khải hoàn về triều, lão nhân gia dâng tấu báo lên triều đình, không nhắc một chữ đến sai lầm của ta, chỉ toàn khoe công, để ta ở lại trong quân."

Cố Quân nói đến đây thì dừng lại một chút.

Y bỗng cảm thấy hơi khó tin, dọc đường toàn nghĩ đến sau khi bắt Trường Canh phải giáo huấn thế nào, từ văn đấu cân nhắc đến võ đấu, ai ngờ tự dưng biến thành ngồi xuống khai báo chuyện cũ năm xưa mất mặt của mình.

Y vốn tưởng rằng mình sẽ giữ kín như bưng những chuyện đó, nhưng hiện giờ giở ra xem, đột nhiên cũng có thể thản nhiên đối mặt.

Quả thực vượt ngoài tầm lý giải của y với bản thân.

Có lẽ Thẩm Dịch nói đúng, con thơ và cha già, quả thật đều là trọng trách nặng trĩu, có thể đè người ta cúi đầu, nhìn rõ chính mình.

"Sở dĩ ta ở trên vị trí này, không phải vì ta lợi hại hơn ai, mà là vì ta họ Cố," Cố Quân nhìn Trường Canh nói, "Đôi khi, xuất thân của ngươi quyết định ngươi phải làm gì, không thể làm gì."

Đây là lần đầu tiên Cố Quân giải thích cho Trường Canh nguyên do mình không thể dẫn y đi Tây Bắc, tuy rằng hết sức khó hiểu.

Trường Canh nhìn y chăm chú.

Cố Quân đắn đo một chút, lại nói: "Nhưng nếu ngươi thật sự đã suy nghĩ rõ mình nên đi con đường thế nào, thì cũng không cần băn khoăn quá nhiều, chỉ cần ta còn sống, ta luôn có đủ sức lực để quét sạch những chướng ngại không nên có giúp ngươi."

Trường Canh vốn tưởng rằng mình đi theo Liễu Nhiên hòa thượng đã luyện được cái miệng gặp ai cũng dám mở ra nói chuyện, nhưng hiện giờ mới phát hiện, "ai" này, vẫn phải loại trừ Cố Quân ra, khi đối mặt với Cố Quân, y biến thành ăn nói vụng về vô cùng.

Y vẫn cho rằng mình là gánh nặng tiên đế ném cho Cố Quân, là kẻ tham lam thèm nhỏ dãi thế giới không thuộc về mình, nhưng thì ra không phải vậy.

Trường Canh thầm nghĩ, không thể còn ai đối xử với y như Cố Quân.

Đúng lúc này, ngoài cửa đột nhiên hiện lên một bóng người: "Đại soái."

Cố Quân định thần lại, khoát tay nói với Trường Canh: "Nghỉ sớm một chút, đi theo hòa thượng kia ăn không ngon ngủ không yên – A, hay ngươi muốn ở lại ngủ với ta?"

Trường Canh: "..."

Trong đầu y "Đùng" một tiếng nở hoa, lập tức đỏ mặt tới mang tai.

Cố Quân cười nói: "Còn biết xấu hổ rồi cơ đấy, trước kia mơ thấy ác mộng sợ phát khóc, không phải đều là ta ru ngươi ngủ à?"

Trường Canh thật sự không biết nên đối mặt với phỉ báng thẳng thừng này thế nào – chủ yếu là Cố Quân nói thẳng thắn vô tư như thực sự có vậy!

Thiếu niên ban nãy còn thiệt xán sinh hoa rốt cuộc tịt ngòi, như bước trên mây mà chạy khỏi phòng Cố Quân.

Sau khi Trường Canh đi khỏi, Cố Quân mới vẫy tay gọi người ngoài cửa: "Vào đi."

Một tướng sĩ mặc huyền ưng giáp lập tức theo lời tiến vào.

Huyền ưng nói: "Thuộc hạ phụng mệnh đuổi bắt vị tăng nhân kia..."

Liễu Nhiên lén dụ dỗ tiểu hoàng tử xuất kinh, dù rằng việc này quả thật rất quá đáng, nhưng hiện tại đã tìm được người rồi, Cố Quân cũng không tiện đắc tội nặng với Hộ Quốc tự, huống chi ban nãy Trường Canh còn nói giúp.

Cố Quân: "Thôi, nói một tiếng với Trọng Trạch, triệt lệnh truy nã đi, cứ bảo là một hiểu lầm, hôm khác ta mời vị Liễu Nhiên đại sư kia ăn một bữa cơm chay."

"Trọng Trạch" chính là tên tự của Diêu Trấn Diêu đại nhân – tuy y nói thế, nhưng chỉ cần Liễu Nhiên có đầu óc, tất không dám tới dự tiệc, Cố Quân nắm chắc khiến hắn nhìn khuôn mặt mình thì ngay cả nước cũng uống không nổi.

Huyền ưng nọ thấp giọng nói: "Thuộc hạ vô năng, còn chưa phát hiện tung tích vị cao tăng kia, nhưng chập tối hôm nay thấy ông ta lên một con đò, bèn theo quan binh lên lục soát, lại phát hiện việc này."

Nói đoạn hắn lấy một cái túi vải nhỏ cất trong lòng, mở ra phát hiện là một mảnh vải, trên dính chút bột phấn màu vàng.

Cố Quân nhận lấy nhìn qua liền nhíu mày.

Thứ này y rất quen, tên là "toái tâm", là một loại khoáng thạch sinh ra làm bạn với tử lưu kim, nghiền thành bột bỏ vào tử lưu kim theo tỉ lệ nhất định, có thể phòng ngừa vận chuyển đường dài tử lưu kim bất ngờ bốc cháy, khi sử dụng dùng công nghệ đặc thù lọc ra là được, rất thuận tiện.

Nhưng bình thường triều đình vận chuyển tử lưu kim, không phải dùng cự diên chở trên trời thì là đi quan đạo, do trú quân các nơi phái binh hộ tống, một con đò hòa thượng cũng có thể lên tùy tiện, sao lại có thứ này được?

Cố Quân: "Ngươi không làm lớn chuyện chứ?"

Huyền ưng: "Đại soái yên tâm."

Cố Quân đứng dậy, bước tại chỗ hai bước: "Vậy thì, lệnh truy nã không được triệt, cứ tuyên bố với bên ngoài là ta nhất định phải bắt được hòa thượng kia, mấy huynh đệ giúp ta theo dõi con đò đó, xem nó đến từ đâu, đi về đâu..."

Cố Quân nói đến đây thì chợt dừng lại, y ngạc nhiên phát hiện tầm mắt mình bắt đầu mờ dần, trên người huyền ưng đứng cách không xa có một hư ảnh không đậm không nhạt.

"Hỏng rồi," Cố Quân không biến sắc nghĩ, "Đi quá nhanh, không mang thuốc."

Chẳng trách mang máng cảm thấy hình như đã quên chuyện gì, cái thùng cơm Thẩm Dịch cũng không chịu nhắc nhở y.

Huyền ưng: "Đại soái?"

Cố Quân điềm nhiên tiếp tục: "Nếu có thể, tốt nhất biết được chủ thuyền là ai, đặc biệt chú ý bình nhật ai hay qua lại với họ."

Huyền ưng không nghi ngờ gì: "Vâng."

"Từ từ, còn nữa," Cố Quân gọi hắn lại, "Nếu tìm được hòa thượng kia, dẫn hắn tới gặp ta."

Huyền ưng lập tức lĩnh mệnh mà đi.

Đuổi huyền ưng này đi rồi, Cố Quân vặn đèn măng-sông trên bàn sáng lên, im lặng ngồi xuống.

Giang Nam không sản xuất tử lưu kim, nếu mấy con đò đó thật sự có vấn đề, thì lai lịch không ngoài hai đường – hoặc là ở Giang Nam có quan viên bán lậu, hoặc là đến từ hải ngoại.

Nếu là đường trước thì còn dễ nói, Giang Nam phú thứ, trời cao Hoàng đế xa, họ nhân lúc nơi đây phổ biến khôi lỗi trồng trọt mà lén lút ăn bớt thôi, việc này tự có Án sát Đốc sát xử lý, không tới phiên y tự ra tay.

Nhưng nếu là giả thiết sau, chỉ sợ là phức tạp rồi.

Đại Lương bảy đại quân chủng đều không yếu, đặc biệt "giáp" và "ưng" là hai nhánh lợi hại nhất, do ba đời Linh Xu viện dốc hết tâm huyết gầy dựng nên, chỉ xét trang bị, cũng tuyệt đối không thua kém người Tây Dương giỏi món này.

Độc mỗi "giao" là không ổn.

"Giao" của Đại Lương tuy là dùng trong thủy chiến, nhưng bình thường chỉ phòng thủ trên biển, cực ít rời bến, không thể so với thuyền lớn buồm to lướt gió rẽ sóng của người Tây Dương.

Ngày trước cũng thế – năm đó khi thương lộ trên biển nối liền đông tây nam bắc, trên tuyến duyên hải, đậu lại bến cảng cơ hồ toàn là thuyền phương Tây. Khi đó Vũ đế cầm quyền, Đại Lương tài đại khí thô, căn bản chẳng cần thông thương hằng ngày với man di Tây Dương, đều là người Tây Dương chạy tới đào vàng.

Khi đó, cái gọi là "thông thương", là người ta đưa hàng tới tận cửa, bên này mới hạ mình mở bến cảng, miễn cưỡng giữ lại mấy món linh tinh, thưởng cho họ ít tiền tiêu vặt.

Cho đến tiên đế và đương kim Hoàng đế, tuy nhìn thấy lợi nhuận của thông thương hải vận, đều rất nhiệt tình, nhưng do tuyến Tây Bắc liên tục mất ổn định, việc phòng vệ trên biển của "cự giao nhập hải" thủy chung bị gác lại, không phải không có tiền, thì là không đủ tử lưu kim.

Nếu trên con đò ấy thật sự có kẻ lén buôn bán tử lưu kim, như vậy vô cùng có khả năng uy hiếp đến phòng vệ tuyến Đông Hải.

Rồi còn Liễu Nhiên hòa thượng, dẫn họ đến con đò ấy, rốt cuộc là vô tình, hay ủ mưu đã lâu?

Chỉ một lúc mà mắt Cố Quân đã càng mờ, y sờ ngực, tìm được kính lưu ly, đeo tạm lên mũi, như vậy ít nhất một con mắt có thể hơi nhìn rõ.

Cố Quân cười khổ một tiếng, nghĩ bụng: "Giờ phải làm sao đây?"

Trường Canh chân không chạm đất trốn về phòng mình, tim đập vẫn chưa ổn định, vừa đẩy cửa đã nhìn thấy một hòa thượng trắng toát, chưa kịp bình tĩnh đã lại lần nữa căng thẳng, vội vàng đóng cửa, hạ giọng nói: "Liễu Nhiên đại sư, sao ngươi lại ở đây?"

Liễu Nhiên cười tủm tỉm chắp tay – A di đà Phật, bần tăng chỗ nào chả vào được.

Hòa thượng này chắc là từng luyện chiêu lai vô ảnh khứ vô tung, hết sức xuất quỷ nhập thần, ngay cả phủ Án sát cũng có thể ra vào bất cứ lúc nào, thật sự là một thần nhân.

Hòa thượng ra dấu nói với Trường Canh: "Có lẽ An Định hầu lần này đại khái có thể tha cho ta rồi, điện hạ không cần lo lắng."

Trường Canh không có lo lắng cho hắn, tâm tư sáng tỏ, nghĩ qua liền ngộ ra, hỏi: "Ngươi cố ý lợi dụng ta để dụ y tới à? Phủ Ứng Thiên rốt cuộc có cái gì?"

Liễu Nhiên nhìn y tán thưởng, chậm rãi giơ hai tay làm thủ ngữ: "Đông Hải giao yêu sắp hóa rồng, hòa thượng đặc biệt dẫn đến đại thiên kiếp."

Hắn định ám chỉ điều gì? Ngụy vương muốn tạo phản sao?

Hay là có chuyện gì khác?

Nhất thời, mấy ý nghĩ lướt qua trong lòng Trường Canh, trước kia y chỉ biết hòa thượng này nhập thế, nhưng không ngờ hắn nhập thế sâu đến vậy, trong ánh mắt không tự chủ được có chút nhìn kỹ và phòng bị.

Song không đợi y hỏi nhiều, Liễu Nhiên đã làm thủ thế đuổi theo, quen đường quen lối nhảy qua cửa sổ, Trường Canh chần chừ một chút, rồi tháo bội kiếm đi theo.

Khi Trường Canh đuổi theo Liễu Nhiên hòa thượng ra ngoài thành, đêm đã khuya, xung quanh chẳng còn âm thanh gì, tiếng xe gỗ nhỏ điểm canh trong thành cũng mơ hồ đi xa. Thế là y dừng chân, mở miệng gọi người phía trước: "Liễu Nhiên đại sư, chậm một chút."

Liễu Nhiên dừng bước.

Trường Canh nói chuyện chậm rãi, thái độ cũng không thấy chút gì là giận dữ, ôn hòa hữu lễ, như ngày trước im lặng uống trà khổ đinh trong thiền phòng vậy.

Chỉ có bàn tay đã dời lên chuôi kiếm, tùy thời tuốt kiếm ra, là có thể đâm hòa thượng kia thành một xiên thịt.

Trường Canh: "Những ngày qua thường cùng đại sư thanh đàm, ta được lợi không ít, cũng biết đại sư lo nghĩ cho thiên hạ, không phải người an phận trong thiền viện đàm phật luận đạo – xuất thân lai lịch của ta, có thể đại sư đã nghe nói qua. Hầu gia tung hoành ngàn dặm, là danh tướng một thời, nhưng bất luận gia quốc giang sơn đặt y trên vị trí nào, với ta mà nói, y cũng chỉ là thân nhân nương tựa lẫn nhau. Ta là một tiểu nhân vật, không có bổn sự gì, thiết trong tay miễn cưỡng đủ sống yên mà thôi, không lo nghĩ được đại sự, trong lòng chỉ có một hầu phủ to bằng bàn tay và vài người, mong rằng đại sư lượng giải."

Liễu Nhiên: "..."

Trường Canh bình thường nói chuyện với Cố Quân thế nào hắn không biết, song với người ngoài, là "lời ba phần, hàm súc mười phần". Liễu Nhiên vốn cho là mình đã lĩnh giáo rồi, nhưng hắn vẫn tuyệt đối không ngờ được, trên đời có thể có người đem lời đằng đằng sát khí "giao tình thì giao tình, dám động tới Cố Quân, ta sẽ đâm chết ngươi" nói ra ôn hòa đến thế.

Liễu Nhiên cúi đầu nhìn đôi giày nhà sư chạy suốt một ngày đã không nhận ra màu, thăm dò: "Điện hạ dòng dõi thiên hoàng, lòng dạ nhân hậu, nên có một phen thiên địa, không cần tự coi nhẹ mình."

Trường Canh thần sắc thản nhiên, không bị lay chuyển: "Nam nhi sinh ra trên thế gian, nếu ngay cả một mẫu ba quanh mình cũng không coi chừng được, thì cần gì phóng tầm mắt xa như vậy?"

Liễu Nhiên hơi cười khổ, biết y không dễ lừa, đành phải vung tay thề thốt: "Cố soái là rường cột của xã tắc, kéo một sợi tóc tất động toàn thân, hòa thượng sao dám mảy may có tâm làm loạn?"

Trường Canh vẫn đặt tay trên chuôi kiếm: "Nhưng đại sư quả thật có ý định dụ nghĩa phụ ta đến nơi đây."

Liễu Nhiên nghiêm túc: "Mời điện hạ đi theo ta."

Trường Canh nhìn hắn chằm chằm chốc lát, một lần nữa cầm bội kiếm lên, mỉm cười nói: "Vậy thì làm phiền đại sư dẫn đường giải mối nghi hoặc."

Giải không được vẫn phải đâm chết ngươi.

Liễu Nhiên hòa thượng cởi tăng bào, lật ngược mặt trong ra, chỉ thấy bạch tăng bào như để tang kia lại có tới hai mặt, bên trong là màu đen, khoác lên người và trùm lên đầu, hòa thượng liền tan vào bóng tối.

Trường Canh: "..."

Trong lòng y không tự chủ được nảy ra một nghi vấn – dọc đường họ từ kinh thành dạo chơi đến Giang Nam, hình như quả thật chưa từng thấy Liễu Nhiên thay quần áo bao giờ, vậy bên trong tăng bào này rốt cuộc vốn là vải đen, hay là hắn chẳng bao giờ chịu giặt, mặc đen một mặt liền lật lại mặc tiếp?

Vừa nghĩ thế, Trường Canh liền tái phát bệnh sạch sẽ, cơ hồ không cách nào sóng vai đồng hành với cao tăng nữa!

Liễu Nhiên mặc "y phục dạ hành" dẫn Trường Canh đi giữa Giang Nam cầu nhỏ nước chảy quanh co chằng chịt, nhanh chóng đến bến tàu vận chuyển nội địa.

Con đường giữa hải vận và kênh đào nội địa Đại Lương từ mười năm trước đã thông suốt, hai tuyến song song, thuyền qua lại rất nhanh và tiện, từng thành toàn cho vùng đất phồn hoa ven sông, nhưng mấy năm gần đây do thuế má quá nặng mà có vẻ hơi tiêu điều.

Song lạc đà gầy còn to hơn ngựa, lúc này đêm đã khuya, mà trên bến tàu vẫn có thương thuyền và thuyền công hối hả ngược xuôi.

Liễu Nhiên khoát tay ngăn bước chân Trường Canh, ra dấu: "Phía trước đã có tai mắt của Huyền Thiết doanh, không được tiếp cận nữa."

Trường Canh liếc mắt nhìn hắn, lấy thiên lý nhãn ra nhìn mặt nước.

Trên bến tàu gió êm sóng lặng, thuyền công và phu khuân vác đi qua đi lại, bên bờ có một số tướng sĩ điều từ trú quân Giang Nam đang kiểm tra hàng hóa, y không nhìn thấy người của Huyền Thiết doanh, cũng không thấy mặt nước có gì dị thường.

Trường Canh lúc này không tin Liễu Nhiên lắm, không hề hỏi thẳng, tự mình im lặng quan sát – thuyền công đang chất hàng lên, hàng hóa thống nhất đựng bằng rương gỗ mỏng, trước khi lên thuyền phải mở nắp rương ra, đặt trên băng chuyền chuyển động bằng bánh răng, để trú quân thủ vệ kiểm tra, rồi lại chuyển đến đầu kia, có mấy thuyền công đang chờ ở đó, lần lượt khiêng rương đã niêm phong lên thuyền.

Mấy hôm trước đi qua, nghe bách tính địa phương chuyện phiếm nhắc tới, bến tàu vận chuyển đường biển và đường sông đối với thương thuyền bình thường không tra nghiêm lắm, do Giang Nam gần đây bắt đầu phổ biến khôi lỗi trồng trọt, triều đình cấp xuống một số lượng lớn tử lưu kim, đề phòng có kẻ gian mua đi bán lại, mới làm chặt hơn.

Rương kiểm hàng vừa mở ra, cách xa trăm trượng, Trường Canh cũng không nhịn được nhăn mũi: "Mùi gì vậy?"

Liễu Nhiên ở bên cạnh viết lên cây: "Hương nén."

Trường Canh sửng sốt: "Cái gì?"

Liễu Nhiên ra dấu: "Điện hạ ở suốt trong phủ An Định hầu, huân hương dùng chắc hẳn đều là ngự ban, chưa từng thấy hàng rẻ mà bình dân bách tính dùng. Đây là đem một đống hương liệu đầu thừa đuôi thẹo ép thành dạng mỡ hoặc cao, mùi cực kỳ nồng, mua về phải thêm ba lớp hộp mới không mất mùi, mỗi lần chỉ cần lấy ra một ít, dùng nước ấm hòa tan, là có thể dùng mấy tháng liền. Một hộp hương nén chỉ to bằng ngón cái, dùng tới chín mười năm cũng không thành vấn đề, chỉ tốn một xâu tiền thôi."

Hương nén quá đặc, thơm đến mức độ nhất định, lại biến thành tanh hôi, Trường Canh ngửi mà đau cả đầu, không màng sửa lại hiểu lầm của hòa thượng – hầu phủ chưa từng dùng huân hương, quần áo giặt xong chỉ có mùi bồ kết thôi.

Trường Canh giơ thiên lý nhãn, bỗng thấy trên thương thuyền kia có thân hình một nam nhân lướt qua, phục sức ăn vận đều khác người Trung Nguyên, nhớ tới kiến thức hải ngoại Liễu Nhiên từng giảng cho, liền hỏi: "Hình như ta đã nhìn thấy một người Đông Doanh mà đại sư từng nói, vậy đây là thương thuyền đưa đến Đông Doanh... Người Đông Doanh cần nhiều hương nén như vậy làm gì, đem về nhà nấu ăn à?"

Liễu Nhiên nhìn y tán thưởng.

Rương gỗ đựng đầy hương nén uốn lượn như một con rồng, bốn năm chiếc thuyền lớn ẩn trong đêm tối chờ ở đó, so với thương thuyền vận chuyển thủy sản tươi còn đồ sộ hơn.

Nếu một hộp hương nén có thể dùng tới chín mười năm, sao còn có người mua nhiều đến vậy?

Đừng nói quần đảo Đông Doanh to bằng bàn tay, dù là dân gian Đại Lương cũng chưa chắc mua hết được mấy con thuyền này.

Trú quân ở bến tàu bị ngộp đến giàn giụa nước mắt, cầm khăn tay bịt mũi, ra sức giục thuyền công khiêng hòm nhanh lên, con chó vốn hỗ trợ kiểm tra bên cạnh sớm đã nằm bẹp dúm vì ngộp.

Trường Canh thấp giọng hỏi: "Thỉnh giáo đại sư, chó bên cạnh trú quân là tra cái gì vậy?"

"Đó là 'chó đốc sát'," Liễu Nhiên nói, "Tử lưu kim có vị đắng nhạt, người ngửi không thấy, nhưng chó lại rất thính, tử lưu kim là việc lớn, thời kỳ Vũ đế hạ mệnh lệnh chết chấn chỉnh chợ đen tử lưu kim, chó đốc sát lập công lớn, đến nay vẫn còn dùng."

Chó đốc sát mắt trắng dã vì mùi hương nén chất lượng kém nồng nặc, đừng nói là tử lưu kim, ngay cả khúc xương chắc hẳn cũng ngửi không ra.

Trường Canh: "Cho nên đại sư hoài nghi đội thuyền Đông Doanh này có mục đích đen tối, mới dẫn nghĩa phụ ta đến tra?"

Liễu Nhiên còn chưa kịp gật đầu, Trường Canh đã lập tức ép hỏi: "Vậy xin hỏi đại sư, sao ngươi biết Hầu gia nhà ta sẽ đích thân đến? Hơn nữa đây vốn nên là chuyện của trú quân phủ Ứng Thiên và Giang Nam, y lại trốn việc mà đến, sao ngươi dám chắc y nhất định sẽ nhúng tay? Vì sao ngươi không đi tìm Tuần phủ Ứng Thiên, không đi tìm Án sát Đốc sát đại nhân, mà nhất định phải bỏ gần cầu xa, hao tổn tâm cơ dẫn y từ Tây Bắc tới?"

Liễu Nhiên: "..."

Hắn vốn nghĩ, thiếu niên này lần đầu một mình xa nhà, đã đụng phải âm mưu lớn như vậy, trong lúc kinh hãi, rất dễ dàng lơ là chuyện khác – nhưng hắn không ngờ, Trường Canh lại không hề hoảng sợ, từ đầu đến cuối chỉ nhíu mày một cái, hơn nữa nhất định phải hỏi cho rõ ngọn nguồn.

Hòa thượng không nhịn được nghĩ tới đồn đãi năm đó khi Cố Quân từ Nhạn Hồi tiểu trấn dẫn đứa trẻ này về – có người nói man tộc làm loạn ở Nhạn Hồi trấn, là do dưỡng mẫu của tứ điện hạ một tay thúc đẩy, tứ điện hạ đại nghĩa diệt thân, mới giúp Huyền Thiết doanh có chuẩn bị, một lưới bắt hết đám người man.

Nhưng Trường Canh khi đó mới mấy tuổi? Cùng lắm là mười hai mười ba thôi...

Liễu Nhiên chợt rất muốn hỏi một câu, rằng "lúc Nhạn Hồi nhiễu loạn, ngươi có giết người chưa", giây lát sau lại nuốt xuống, bởi vì cảm thấy không cần thiết.

Trường Canh lẳng lặng nhìn hắn, trong đêm trăng, Liễu Nhiên trông thấy hai bóng đen nhạt từ đôi mắt y.

Hắn sớm biết ở Trường Canh có sự thông minh và trưởng thành sớm đặc biệt, còn cho rằng đó là sự mẫn cảm do lúc bé thân phận thay đổi bất ngờ, ăn nhờ ở đậu chốn kinh thành mà sinh ra, mãi đến lúc này, hòa thượng mới thình lình ý thức được, chỉ e trong mắt thiếu niên này từng nhìn thấy góc tối mà người khác không ai hay biết.

Hắn thậm chí hoài nghi, ngay cả Cố Quân cũng không biết.

Thái độ của Liễu Nhiên thận trọng hẳn, đắn đo giây lát, mới chậm rãi ra dấu: "Ta biết y sẽ đến, ta cũng biết chỉ cần y đến rồi, thì nhất định sẽ nhúng tay. Việc này liên lụy rất rộng, một phủ Ứng Thiên nho nhỏ không thể giải quyết – có một số việc, trong lòng Hầu gia hẳn cũng hiểu ngầm như chúng ta."

Trường Canh híp mắt, nhạy bén chú ý tới hắn nói "chúng ta".

Đúng lúc này, phía sau bỗng có tiếng gió vang lên, Liễu Nhiên còn chưa kịp phản ứng, bội kiếm như trang sức bên hông Trường Canh đã rút ra cái keng, đây là phản ứng bản năng sau vô số lần so chiêu với thiết khôi lỗi.

Bội kiếm sáng loáng như tuyết đập vào cát phong nhận huyền thiết, Trường Canh nhận ra người đến là huyền ưng, cả hai đồng thời triệt binh khí lui lại.

Huyền ưng thuận thế quỳ một gối xuống: "Kinh nhiễu điện hạ rồi – Hầu gia bảo thuộc hạ dẫn điện hạ và đại sư trở về."

Đuôi lông mày Trường Canh vừa hạ xuống khẽ nhướng lên, làm sao Cố Quân biết y và Liễu Nhiên lén đến đây?

"Hiểu ngầm" mà Liễu Nhiên hòa thượng nói là gì?

Liễu Nhiên lại không hề giật mình, biết điều tháo cái khăn trùm đầu buồn cười xuống, bảo tướng trang nghiêm chắp tay hành lễ, vô thanh thắng hữu thanh biểu đạt "vậy thì xin quấy rầy".

Sáng sớm hôm sau, một huyền ưng đến gõ cửa.

Huyền ưng kia nói: "Liễu Nhiên đại sư phải tiếp tục du lịch, Đại soái cũng phải về gấp Tây Bắc, nhờ thuộc hạ hộ tống điện hạ quay về hầu phủ, xin điện hạ chỉ thị, lúc nào thích hợp và thuận tiện để xuất phát."

Nếu không phải đêm hôm trước nhìn thấy mấy tốp thương thuyền Đông Doanh quỷ dị ở bến đò sông đào, Trường Canh cảm thấy mình sẽ tin.

Không đợi y mở miệng, đối diện có người gõ nhẹ lan can gỗ của hành lang.

Huyền ưng quay đầu lại, thấy ông sư câm hành tung quỷ bí kia không biết đứng đó từ khi nào. Liễu Nhiên dùng thủ ngữ bảo Trường Canh "chờ một chút", chỉnh lại áo mũ, trực tiếp đẩy cửa phòng Cố Quân.

Huyền ưng và Trường Canh cùng há hốc mồm – hòa thượng kia vậy mà không gõ cửa!

Nếu không phải cả hầu phủ đều biết Cố Quân ghét đầu trọc, Trường Canh cơ hồ hoài nghi hai người này quan hệ không vừa.

Có lẽ là sợ bị đánh bay ra, Liễu Nhiên đẩy cửa xong không hề trực tiếp vào phòng, chỉ chắp tay chào người bên trong.

Cố Quân vậy mà không nổi nóng, giọng nói hơi mất kiên nhẫn từ trong phòng truyền ra: "Đại sư có điều gì chỉ giáo?"

Liễu Nhiên ra dấu: "Đại soái, ưng non không hề là lớn lên trong lồng vàng, huống chi lần này ngài đang cần mấy thị tòng để tránh tai mắt của người ta, thì tại sao không dẫn điện hạ theo? Tiên đế lưu lại vị Nhạn Bắc quận vương cho điện hạ, qua một hai năm nữa, y cũng phải lên triều đường rồi."

Cố Quân lạnh lùng trả lời: "Đại sư không khỏi quản quá nhiều rồi."

Lúc này, Liễu Nhiên tiến lên một bước, đột nhiên bước qua bậc cửa, ở chỗ người khác không nhìn thấy, hắn tựa hồ làm thủ thế gì đó với Cố Quân.

Cố Quân trong phòng đột nhiên trầm mặc.

Trường Canh nghe Tào Nương Tử ở sau lưng nhỏ giọng hỏi: "Ý gì thế? Đại soái định dẫn chúng ta đi đâu?"

Tim y chợt đập như điên. Trong lòng Trường Canh biết rõ, với tính tình Cố Quân, sẽ tuyệt đối không chịu dẫn y đi, y vốn cũng cho rằng mình sẽ phải lựa chọn giữa "lén bám theo, tự tiện hành động" và "ngoan ngoãn về kinh, không để người ấy nhọc lòng", chưa bao giờ trông mong Cố Quân lại chịu dẫn mình đi cùng.

Lần này chợt dấy lên sự mong đợi, lòng bàn tay đã rịn mồ hôi.

Lúc giằng co với người man y cũng chưa từng căng thẳng như vậy.

Một lúc lâu, y nghe thấy Cố Quân thở dài: "Theo thì theo, nhưng không được phép rời khỏi ta, cứ làm như trước đó đã nói."

Cát Bàn Tiểu và Tào Nương Tử căn bản không biết phải đi làm gì lập tức reo hò, Trường Canh cúi đầu ho nhẹ một tiếng, dằn nụ cười ngây ngô nơi khóe môi xuống, đồng thời, lại một nghi vấn nảy lên trong lòng – Liễu Nhiên đã nói gì với Cố Quân?

Trên đời lại còn có người thuyết phục được nghĩa phụ y sao?

Không bao lâu, một cỗ xe ngựa cà tàng liền đi về hướng ngoại thành.

Đánh xe là một hòa thượng, trong xe là một công tử "văn nhược" dẫn theo hai tiểu tư và một nha hoàn, mấy huyền ưng đi theo Cố Quân đã không thấy bóng dáng.

Trường Canh lại không nhịn được nhìn Cố Quân. Y đã tháo hết giáp trụ, thay trường bào cao cổ tay rộng, che mất vết thương trên cổ, tóc không búi, phong lưu bất kham mà xõa xuống, như một sự trào phúng với kẻ trọc đầu đánh xe, mắt bịt một mảnh vải đen.

Không nhìn thấy nửa trên khuôn mặt y, Trường Canh ảo não phát hiện, sự chú ý của mình luôn không tự chủ được đảo quanh đôi môi tái nhợt của tiểu nghĩa phụ, đành phải mắt nhìn mũi mũi nhìn miệng thu tầm nhìn về.

Cát Bàn Tiểu không nhịn được lên tiếng: "Hầu gia, vì sao ngài phải giả thành như thế?"

Cố Quân hơi nghiêng đầu về hướng gã, chỉ chỉ tai mình, nghiêm túc nói: "Ta điếc, đừng nói chuyện với ta.

Cát Bàn Tiểu: "..."

Điếc đến thật bá đạo.

Không biết là chủ ý dở hơi của tên nào, Cố Quân định lấy thân phận hương sư trà trộn lên mấy chiếc thuyền chở hương nén kia. Dân gian có một số người theo nghề hương cho rằng ngũ cảm sẽ làm hỏng khứu giác, liền làm người ta mù điếc từ nhỏ, để họ sống nhờ vào khứu giác, hương sư bồi dưỡng như vậy là cấp cao nhất, dân gian tôn xưng là "hương tiên sinh", một khi xuất sư, thiên kim khó cầu.

Cố Quân che mắt, đóng giả kẻ điếc, từ khi ra ngoài đã bắt đầu là dáng vẻ này, còn yêu cầu người khác không được nói với y, diễn rất tập trung.

Đi đến bến tàu, đã có người tiếp ứng ở đó, Trường Canh vén màn xe, thấy một nam tử trung niên mập lùn cười rất hòa khí hướng về phía xe ngựa nói: "Trương tiên sinh đến hơi muộn, trên đường có việc trì hoãn sao?"

Chẳng hiểu Cố Quân thần không biết quỷ không hay dùng danh hào của ai, Trường Canh nghĩ bụng, hương sư chân chính đại khái đã bị huyền ưng giữa đường bắt mất rồi. Y thần sắc không thay đổi, chắp tay nói: "Xin lỗi, tiên sinh nhà ta tai mắt bất tiện."

Nam tử trung niên nọ sửng sốt, Cố Quân vỗ cánh tay Trường Canh, đưa tay để y đỡ.

Trường Canh vội đỡ y, đồng thời trong lòng nghi hoặc nhủ thầm: "Cho dù là giả vờ, mắt y cũng che rồi, sao hành động không thấy mảy may bất tiện vậy?"

Trước khi vỗ Trường Canh, ngay cả động tác sờ soạng cũng không có, điểm dừng chuẩn xác, trái lại như là y đã mù quen rồi.

Song mối nghi hoặc này chỉ thoáng qua, lúc xuống xe Cố Quân hơi khom lưng, cơ hồ phải dựa vào khuỷu tay Trường Canh, y đột nhiên bỏ giáp trụ, lúc này nhìn lại hơi gầy, Trường Canh có ảo giác như mình đưa tay là có thể ôm trọn cả người y vậy.

Điều này làm miệng lưỡi Trường Canh đột nhiên khô khốc, sự minh mẫn một câu bức sát một câu khi chất vấn Liễu Nhiên không còn sót lại chút nào, chỉ duy trì sự trấn định ngoài mặt một cách khó khăn, vừa tâm viên ý mã, vừa như cái xác không hồn đỡ Cố Quân đi đến trước mặt người trung niên nọ.

Trên mặt người trung niên kia nhanh chóng thoáng qua nét nghi hoặc và đề phòng, hắn chắp tay nói: "Thứ cho tại hạ không biết các hạ lại là 'hương tiên sinh', chúng ta làm ăn nhỏ, bán toàn là hương nén mấy văn tiền một hộp, nào mời được ngài..."

Hắn còn chưa dứt lời, mấy hán tử ăn mặc kiểu thuyền công nhao nhao quay đầu lại, mỗi kẻ mắt lộ ra tinh quang, huyệt thái dương hơi lồi lên, nhìn qua là biết, đám này căn bản không phải thuyền công gì.

Trường Canh hơi cúi đầu, chỉ làm như không nhìn thấy, tiến lên một bước, khéo léo che Cố Quân ở sau lưng, viết vào lòng bàn tay y: "Tiên sinh, người ta hỏi lai lịch của chúng ta kìa."

Cố Quân mặt không đổi sắc, trấn định lấy một bao thư từ trong lòng đưa cho Trường Canh.

Trong bao không có thư, chỉ có vỏ, bay ra mùi hương lành lạnh, dường như là hỗn hợp của trầm hương và giáng hương.

Đêm hôm trước, huyền ưng lục ra ba phong thư trên người hương sư bắt được, đây là một trong số đó, và ba phong có mùi không giống nhau. Hương sư kia khá cứng xương, nghiêm hình bức cung kiểu nào cũng không chịu khai – đương nhiên, trong thời gian ngắn, cho dù hắn khai, Cố Quân chưa chắc đã dám tin.

Trong ba phong thư, phong duy nhất Cố Quân có thể nói rõ xuất xứ, chính là phong này.

Tương truyền hương này là do hôn quân tiền triều mù quáng tin vào tà ma ngoại đạo, lệnh cho cung nhân chế ra thứ trợ thăng tiên, gọi là "ngự hoàng hương", lạnh mà không thanh, ung dung hoa quý, ở chỗ tiên đế từng lén dự trữ một chút, có một năm tâm huyết dâng trào dùng một ít, mùi quả thật khác với huân hương thường dùng trong cung.

Tiên đế lén cho y biết, thứ này tuy dễ nghe, nhưng còn gọi là "vong quốc hương", lén dùng một lần thì thôi, chứ để các Ngự sử biết lại ầm lên, nhất thiết không thể lộ ra.

Nhiều năm trôi qua, Cố Quân vẫn còn khắc sâu ấn tượng với "vong quốc hương" này.

Trường Canh mới hơi căng thẳng, Cố Quân liền lập tức nhận ra, không đợi y viết chữ vào tay mình, đã bắt đầu tự hỏi khả năng ném phong thư này ra lừa được lớn đến mức nào.

Cố Quân suy tính một chút, thầm nghĩ: "Lấy một trong ba, được, độ chắc ăn còn rất lớn, không được thì binh đến tướng chắn, nước đến đất chặn."

Vạn hạnh, "độ chắc ăn" này chỉ có mình y nắm trong lòng, những người khác chỉ có thể nhìn thấy y ngoài mặt chắc chắn cực kỳ, đành phải bình tĩnh theo.

Người trung niên hơi thay đổi thần sắc, nhận phong thư, để dưới mũi ngửi vài lần, vẻ mặt thay đổi khó lường.

Trường Canh nghĩ bụng: "Phải động thủ sao?"

Nhưng Cố Quân ung dung vỗ vỗ mu bàn tay căng lên của y.

Người trung niên nọ lại ngẩng đầu nhìn Cố Quân, vẻ mặt nghiêm túc hơn không ít, nói: "Tại hạ Địch Tụng, chính là tổng bả đầu của số thương thuyền này, không biết tiên sinh từ đâu mà đến, muốn đi về đâu?"

Đây là tiếng lóng, Trường Canh viết rõ một năm một mười trong lòng bàn tay Cố Quân.

Cố Quân lần đầu tiên mở miệng, nói: "Đến từ trên mặt đất, đi tới Hao Lý."

Nam tử trung niên tự xưng Địch Tụng kia dường như giật mình, do dự giây lát, giọng hơi yếu đi: "Vậy... vậy thì làm phiền hương tiên sinh, mời."

Cố Quân đứng đó không nhúc nhích, điếc tròn vai vô cùng, cho tới khi Trường Canh kéo nhẹ một cái, y mới mặt không biểu cảm để Trường Canh dắt đi, rõ ràng là một "hương tiên sinh" mất hết ngũ cảm, tính tình cổ quái.

Nhờ cổ tay áo rộng thùng thình của Cố Quân che lấp, Trường Canh viết vào lòng bàn tay y: "Sao nghĩa phụ biết tiếng lóng của họ?"

Thật ra thì đây là đối thoại giữa hai thuyền viên mà huyền ưng đêm hôm trước phụng mệnh giám thị thương thuyền đã nghe lén được, không phân lớn nhỏ báo hết cho y, kỳ thực Cố Quân căn bản không biết nó có ý nghĩa gì, mà vẫn lừa gạt người ta.

Y hệt như một con sói, khoác lác với Trường Canh: "Chuyện gì ta chẳng biết."

Trường Canh: "..."

Đoàn người thuận lợi lên thương thuyền Đông Doanh, mấy người Đông Doanh nhao nhao thò đầu ra, tò mò dòm ngó hương tiên sinh trong truyền thuyết.

Đông Doanh bị Đại Lương ảnh hưởng, văn hóa thần phật thịnh hành, không ít kẻ thấy một hòa thượng theo sau Cố Quân, liền rối rít lộ diện chào hỏi.

Trường Canh bình tĩnh đánh giá những người Đông Doanh này – số lượng so với y tưởng tượng còn nhiều hơn, lấy danh nghĩa hộ tống thương thuyền, trên người đều trang bị trường đao, có vài kẻ còn giắt thiết oản khấu với phi tiêu kiểu dáng cổ quái trên cổ tay và ống quần. Lại gần có thể ngửi được mùi máu tươi thoang thoảng trên người họ.

Đột nhiên phía sau có kẻ quát to một tiếng, một người Đông Doanh mang mặt nạ thần không biết quỷ không hay hạ xuống phía sau Cố Quân, không nói hai lời, vung loan đao chém tới lưng y.

Trường Canh phản ứng cực nhanh, kiếm chưa ra khỏi vỏ, đã chặn loan đao của đối phương.

Người Đông Doanh the thé kêu một tiếng kì lạ, thân thể nhỏ gầy uốn thành một độ cong cổ quái, cả người như con rắn không xương, loan đao trong tay hóa thành lưỡi rắn tà môn, liên tiếp xuất bảy đao về hướng Trường Canh, đồng thời, vai trái của hắn đột nhiên nở hoa, một mũi phi tiêu Đông Doanh bất ngờ phóng thẳng về hướng Cố Quân.

Mà Cố Quân kia không biết là diễn kịch phải diễn đến cùng hay là muốn thế nào, lại đứng tại chỗ chớ hề nhúc nhích, như là không hề hay biết!

Dưới tình thế cấp bách, vỏ và thân kiếm trong tay Trường Canh chia làm hai, y ném mạnh vỏ kiếm ra, đánh bay phi tiêu khi nó cơ hồ sượt ngực Cố Quân.

Trường Canh không phải lần đầu so chiêu với người ta, cũng không phải lần đầu hiểm tượng hoàn sinh, lại là lần đầu có kẻ suýt nữa đả thương tiểu nghĩa phụ ngay trước mặt y, chỉ tích tắc trong mắt y hiện lên một tầng đỏ nhạt, Ô Nhĩ Cốt trên người đột nhiên rục rịch.

Y khẽ quát một tiếng, cổ tay chợt chúi xuống, dùng chiêu thức bình thường đối phó khôi lỗi hầu kiếm, loan đao trong tay người Đông Doanh rung mạnh, cơ hồ bị đè cong, không chờ đối phương triệt đao, Trường Canh đã đá vào thắt lưng hắn.

Nghe nói để tiện bề vượt nóc băng tường ẩn nấp ám sát, thân thể một số người Đông Doanh nhỏ gầy hơn bình thường, nam nhân như rắn này chắc là nhân tài kiệt xuất trong số đó, tuy rằng quả nhiên linh hoạt quỷ quyệt, nhưng cũng thật sự không chịu được đòn, bị Trường Canh đá suýt lòi cả ruột, không cầm nổi loan đao nữa, lảo đảo tránh đi.

Thế nhưng Trường Canh không định buông tha, mũi chân khều loan đao dưới đất, ghim trước mặt hắn ta, trường kiếm trong tay xoay một vòng, muốn chém người Đông Doanh kia làm đôi.

Việc này chỉ diễn ra trong tích tắc, chung quanh cả địch lẫn hữu, chưa ai kịp phản ứng, đã thấy Trường Canh động tác mau lẹ muốn ra đòn sát thủ, ba tiếng "dừng tay" đồng thời vang lên.

Mấy thanh trường đao Đông Dương đồng thời từ bốn phía giơ tới, ba chân bốn cẳng cản kiếm phong bễ nghễ vô song của Trường Canh.

Liễu Nhiên hòa thượng há hốc mồm đứng nhìn lúc này mới kịp lau mồ hôi – Trường Canh đêm hôm trước uy hiếp đâm chết hắn lại là thật.

Trường Canh thấp giọng nói: "Tránh ra!"

Địch Tụng vội chạy tới, luôn mồm nói: "Hiểu lầm hiểu lầm, đều là hiểu lầm thôi. Vị Thượng Xuyên tiên sinh này mới đến Đại Lương, chưa hiểu quy củ lắm, thấy tiểu huynh đệ đeo đao, liền muốn đùa giỡn một chút, tiểu huynh đệ đại nhân đại lượng, đừng chấp nhặt."

Trường Canh đôi mắt hơi phiếm đỏ nhìn chằm chằm xà nam sợ hãi lui ra sau người ta, gằn hai chữ: "Đùa giỡn?"

Địch Tụng cười làm lành, quay sang Cố Quân đứng ngoài như không có việc gì: "Trương tiên sinh..."

Nhìn khuôn mặt vô cảm của vị ấy, hắn lại nhớ ra hương sư cấp cao nhất đều không nhìn thấy cũng chẳng nghe thấy, đành phải tiến lên một bước, muốn vỗ cánh tay Cố Quân.

Còn chưa đụng trúng thì phía sau đột nhiên có một đạo lệ phong kéo tới, may mà Địch Tụng phản ứng nhanh, nếu không từ cổ tay trở xuống sẽ khó giữ.

Trường Canh: "Đừng đụng vào y!"

Địch Tụng: "..."

Trong nhóm người này, một kẻ không nghe thấy, một kẻ không thể nói, một đôi trẻ choai choai đứng cạnh nhau như trống cơm và chày gỗ, chỉ một người có thể thay mặt họ nói chuyện, thì vỏ của thanh hung khí trong tay còn chưa nhặt lên.

Bầu không khí nhất thời căng thẳng hẳn.

Lúc này, Cố Quân rốt cuộc mở miệng: "Còn đứng đây làm gì? Đừng để lỡ thời gian xuất phát thuyền."

Cuộc xung đột kinh tâm động phách vừa rồi, dường như y hoàn toàn không cảm nhận được.

Địch Tụng vội hòa giải: "Đúng thế đúng thế, đều là người một nhà..."

Hắn còn chưa dứt lời, Cố Quân đã không coi ai ra gì mà giơ một tay lên, Trường Canh dừng một chút, đoạn dùng mũi kiếm khều vỏ kiếm dưới đất, tra kiếm vào, tiến lên đỡ tay Cố Quân mà dẫn đi.

Liễu Nhiên hòa thượng đành phải đoạn hậu, hắn hòa khí chắp tay một lần với đám người Đông Doanh hoảng sợ xung quanh, lại không biết lấy từ đâu ra mớ phật châu gỗ cũ rích, bên ngoài phật châu có một lớp sơn đỏ sậm, đóng giả đàn hương đỏ, lớp sơn lâu năm đã bị hòa thượng xoay rớt, thành một chuỗi đàn hương đỏ loang lổ.

Tiếu hòa thượng mặt trắng đồng dạng quần áo loang lổ cười tươi rói, im lặng tụng kinh, vừa siêu độ những người trước mắt, vừa xua Cát Bàn Tiểu và Tào Nương Tử đuổi theo.

Lúc này, những người Đông Doanh gặp gỡ dọc đường đều như lâm đại địch nhìn theo bóng lưng họ, nhất thời không còn ai dám tới chào hỏi.

Trường Canh thần kinh căng thẳng đưa Cố Quân đến thẳng gian phòng mà thương thuyền đặc biệt chuẩn bị cho hương sư, cẩn thận nhìn thoáng qua bên ngoài, mới đóng cửa quay lại: "Nghĩa..."

Cố Quân quay người lại, giơ một ngón tay lên miệng.

Với thính lực của Cố Quân lúc này, trừ phi hét vào tai y, nếu không căn bản chẳng nghe rõ cái gì.

Xung quanh yên tĩnh đến mức chỉ còn lại tiếng thầm thì khe khẽ, nhưng y có thể thông qua dòng khí kéo theo khi Trường Canh đóng cửa cấp tốc quay người lại để phán đoán đứa trẻ kia có thể muốn nói chuyện với mình, vội vã ngăn lại trước.

Thứ thuốc đặc biệt của Cố Quân là do một vị cao nhân dân gian mà cựu bộ của lão Hầu gia không biết tìm đâu ra kê cho lúc hơn mười tuổi, trước đó y vẫn phải chịu đựng tai mắt mù điếc bất tiện.

Lão Hầu gia nửa đời thiết huyết, nghiêm với chính mình, so với bản thân càng nghiêm hơn chính là nhi tử, căn bản không biết hai chữ "cưng chiều" viết thế nào, bất kể Cố Quân nhìn thấy hay không, bất kể trong lòng y có cảm giác gì, công phu nên luyện phải luyện, thiết khôi lỗi cũng tuyệt đối không vì tai mắt y bất tiện mà nể tình một chút. Đó không phải là khôi lỗi hầu kiếm như loại y cho Trường Canh chơi – khôi lỗi hầu kiếm tuy trông đáng sợ, nhưng được đặc biệt điều chỉnh qua, so chiêu với con người đều dừng đúng lúc, đao kiếm trong tay không đả thương ai.

Thiết khôi lỗi chân chính mà động thủ thì chính là một đám súc sinh bằng sắt không có tình người, đâu thèm để ý gì?

Y phải thông qua tầm nhìn và thính lực yếu ớt cùng gió nhẹ lưu động xung quanh để quần nhau với nó, mà vô luận Cố Quân tuổi nhỏ cố gắng thế nào, y vĩnh viễn đều không theo kịp yêu cầu của lão Hầu gia, mỗi lần vừa có thể thích ứng một loại tốc độ và sức mạnh, sẽ lập tức bị nâng lên.

Lão Hầu gia nói là: "Hoặc là ngươi tự mình đứng dậy, hoặc là ngươi tìm xà nhà mà treo cổ, Cố gia thà tuyệt hậu, cũng không giữ lại phế vật."

Câu này tựa như một cây đinh thép lạnh lẽo, đóng vào xương cốt từ khi Cố Quân còn rất nhỏ, cả đời không cách nào nhổ ra, cho đến khi lão Hầu gia qua đời, Cố Quân vào cung, y cũng không dám thả lỏng một ngày.

Loại cảm quan trình độ cao nhất nhiều năm mài giũa ra này luôn có thể giúp y che đậy một phần trong vài trường hợp, đây cũng là nguyên nhân chưa cóng đến mức phàm thai nhục thể không chịu nổi thì y không mặc áo ấm.

Bởi vì hồ cừu nặng nề và áo bông dày cộp sẽ ảnh hưởng đến cảm giác của y.

Cố Quân quờ quạng chốc lát, viết vào lòng bàn tay Trường Canh: "Mới giao thủ với ngươi là một Ninja Đông Doanh, những người đó bản lĩnh trộm cắp rất khá, coi chừng tai vách mạch rừng."

Trường Canh cúi đầu, không nhịn được nắm lấy bàn tay đầy các vết chai mỏng của Cố Quân, kế đó y thở ra một hơi lệ khí thật dài dâng trào không ngớt ở ngực, lắc đầu tự giễu – Cố Quân vĩnh viễn trấn định, sợ chết khiếp vĩnh viễn là y.

Cố Quân rất đỗi buồn bực, không biết đang yên đang lành y thở dài cái gì, nghiêng đầu "nhìn" y, nhướng một bên mày.

Trường Canh nhân đối phương đang che mắt, càn rỡ nhìn chăm chăm.

Cố Quân lần theo cánh tay y sờ đến đầu, vỗ về đầu y.

Trường Canh nhắm mắt, suýt nữa muốn cọ tay người kia, nhịn xuống một cách khó khăn.

Y lấy tay Cố Quân xuống, viết: "Lần đầu đi theo nghĩa phụ gặp tình cảnh này, trong lòng có chút bất an, có hơi sợ."

Sợ nhất chính là chớp mắt người Đông Doanh kia ném phi tiêu tới ngực Cố Quân.

Cố Quân dường như nhớ tới điều gì, bỗng nở nụ cười.

Trường Canh: "Người cười gì?"

"Ta quá phóng túng ngươi rồi," Cố Quân rồng bay phượng múa viết vào lòng bàn tay y, "Năm đó nếu ta dám nói một chữ 'sợ' trước mặt cha ta, thì nhất định phải ăn gậy."

Trường Canh im lặng: "Vậy tại sao người chưa từng dùng gậy đánh con?"

Chẳng những chưa từng đánh, ngay cả nghiêm giọng nổi giận cũng hiếm thấy, vĩnh viễn chẳng mắng quá ba câu.

Ban đầu khi y đối mặt với khôi lỗi hầu kiếm lòng có sợ hãi, thích ứng chưa được, Cố Quân cũng chưa từng lộ ra quá nhiều thất vọng hay thiếu kiên nhẫn. Cách hơn một năm, Trường Canh nhớ lại, cảm thấy đó không hề là ánh mắt một tiền bối nghiêm khắc dạy hậu bối, mà giống đang cười tít mắt xem một đứa trẻ vụng về chơi đùa hơn.

Cố Quân lại viết: "Người Đông Doanh động thủ rất phiền toái, mánh khóe rất nhiều, nhưng cao thủ chân chính không nhiều lắm. Phi tiêu của hắn thế tới rào rạt, kỳ thực quỹ tích là cong, chỉ để thử xem ta có phải mù thật hay không. Người Đông Doanh trên thuyền này cũng không có gì đáng sợ, điều ta lo lắng chính là mục đích của họ."

Thương thuyền phải từ thông lộ giữa đường biển và đường sông chậm rãi rời đất liền, nhập hải về Đông, đưa hàng hóa về bản thổ Đông Doanh, trên đường qua mấy trạm kiểm tra.

Trên thuyền hương liệu phải có hương sư đi theo, để thời điểm qua trạm kiểm tra nộp lên hàng mẫu đã kiểm nghiệm, cho nên vô luận mục đích chân chính của mấy thương thuyền này là gì, chung quy phải có một hương sư để che đậy.

Thuyền đi hơn chục ngày, Cát Bàn Tiểu lén lút chui vào phòng Cố Quân: "Hầu... Trương tiên sinh, Trường Canh đại ca."

Nói xong, gã nhìn thấy băng mắt trên mặt Cố hầu gia, lại lẩm bẩm: "Quên mất y bị điếc."

Nói đoạn gã bắt đầu móc đồ nghề từ trong lòng ra, trước là hai cái la bàn, kế là một cái hộp không ngừng bốc khói trắng ra, tiểu bàn tử này hết sức thần kỳ, bụng như co giãn được, co vào có thể nhét rất nhiều thứ vào lòng, lấy đồ ra... cũng không thấy "gầy" đi.

Trường Canh: "Đây là cái gì? Bên trong còn đốt gì nữa vậy?"

Cát Bàn Tiểu cười nói: "Hì hì, tử lưu kim đó."

Trường Canh giật mình hỏi: "Ngươi không thấy nóng à?"

Cát Bàn Tiểu phanh áo ra, chỉ thấy trước ngực gã có một tấm màu tối, dùng cách nhiệt ở chỗ trọng giáp lắp đoản pháo, bị gã cắt thành hình cái yếm. Cát Bàn Tiểu không biết xấu hổ vỗ vỗ bụng: "Yếm sắt!"

Cố Quân tháo khăn che mắt, đeo kính lưu ly, sán lại cẩn thận xem xét kiệt tác của Cát Bàn Tiểu, trong lòng hết sức bái phục, cảm thấy mấy đứa con nít quỷ này bình thường ngoài chơi ra thì chẳng biết cái chó gì, nhưng lúc trước nhỏ như vậy đã quyết đoán rời Nhạn Hồi tiểu trấn theo Trường Canh lên kinh thành, trong bụng tuy chưa lắm mưu mô, song khẳng định rất lắm cách.

Cát Bàn Tiểu học thủ ngữ của Liễu Nhiên hòa thượng ra dấu nói: "Ai quy định chỉ có nữ mới được mặc yếm?"

Cố Quân bật ngón cái – nói đúng lắm!

Trường Canh: "..."

Trên bàn hai cái la bàn đối diện nhau xoay loạn xà ngầu, Cát Bàn Tiểu ra hiệu bảo hai người xem, dùng tay gõ nhẹ bàn, đưa ba ngón ra dấu – la bàn chí ít loạn ba ngày rồi.

Cố Quân thường xuyên đi ra ngoài, nhìn qua là hiểu, thầy phong thủy bình thường đi xa đều mang hai cái la bàn, nếu một trong hai mất hiệu lực, xem cái kia có thể biết là la bàn hỏng hay khu vực đó có vấn đề. Trên biển hoặc trong sa mạc thường xuyên có một số nơi có thể khiến la bàn mất hiệu lực, thuyền buôn và thuyền đánh cá bình thường đều tránh đi, mà đám người Đông Doanh này chẳng những không tránh né, còn cố ý đi vào, tuyến đường không hề nghi ngờ là đã lệch khỏi mục đích định trước.

"Đến từ mặt đất, đi tới Hao Lý", "Hao Lý" này rốt cuộc ám chỉ cái gì?

Cát Bàn Tiểu: "May mà ta còn mang theo thứ này."

Nói xong gã mở cái hộp nhỏ liên tục bốc khói trắng kia, chỉ thấy bên trong là một vật nho nhỏ cực tinh xảo, chính giữa có bánh xe be bé chuyển động nhanh chóng, liền với một trục, bên ngoài có vài vòng tròn vàng rực, góc khắc chữ "linh" theo kiểu chữ Triện, lại là xuất phẩm của Linh Xu viện.

"Đây là mẫu Linh Xu viện cho, lúc xoay thì trục này vĩnh viễn chỉ một phương hướng," Cát Bàn Tiểu đưa tay chỉ, "Chính là cái này – nó chuẩn hơn la bàn, nhưng hao tử lưu kim, thành phẩm chưa ra mà nghe nói đã bị bên trên bác bỏ, ta với đại sư lén làm một cái, trước lúc đi đã lấy một bát tử lưu kim trên khôi lỗi hầu kiếm của đại ca."

Cố Quân cẩn thận đưa tay bưng nó lên, vật này làm quá khéo léo, y chỉ sợ mình mạnh tay làm hỏng: "Thứ này nếu để Thẩm Dịch nhìn thấy, đủ để y lấy thân báo đáp đấy."

Trường Canh nghe câu này mà ngực phát ngộp.

Cát Bàn Tiểu lại không biết kiếm từ đâu ra một tấm bản đồ da dê, nhăn nhúm trải lên bàn, đầu ngón tay ngắn tũn múa may bên trên một lúc lâu, cuối cùng dừng ở một điểm.

"Theo phương hướng này, ta và Liễu Nhiên đại sư suy đoán, chúng ta sẽ lập tức đến nơi này."

Đó là một dải tiểu đảo Đông Hải, bản đồ vẽ không rõ lắm, như một chuỗi các điểm mực tùy tiện vẩy lên vậy.

Bản đồ cả Đại Lương đều nằm trong lòng Cố Quân, nhưng y không hề nhớ có nơi nào như vậy, trên thương thuyền ngay cả một ngọn đèn măng-sông ra dáng cũng chẳng có, trong phòng ánh đèn tù mù, dù có kính lưu ly thì nhìn cũng rất khó khăn, y hơi nhíu mày, định mở đèn sáng lên.

Cát Bàn Tiểu: "Đây là bản đồ Liễu Nhiên đại sư cho ta, trên bản đồ của Binh bộ không có vùng này, đại khái đều là mấy tiểu đảo không ở được, xung quanh không phải nước xiết thì là đá ngầm, dân gian còn có không ít truyền thuyết ma quỷ, ngay đến dân bản địa cũng không biết là ở đây có đảo."

Nơi này rời xa lục địa, bơi không đến, không ngồi thuyền thì chỉ có thể dựa vào bay.

Mà "diên" đi chậm, còn rất ỷ lại la bàn, nếu quanh tiểu đảo từ trường hỗn loạn, chúng không thể tới được – huống chi nơi đây về hướng Đông cơ bản là địa bàn của người Đông Doanh, "diên" hoặc "giao" của Đại Lương nếu vô duyên vô cớ vòng quanh đó, ít nhiều có vẻ hơi khiêu khích. Mà việc bảo dưỡng "ưng" là yêu cầu rất cao đối với hộ giáp sư, duy trì không dễ, tuyến Đông Hải yên bình đã quen, không hề trang bị quân chủng này.

Trường Canh không nhịn được hỏi: "Nếu bản đồ của Binh bộ cũng không có, thế tấm của Liễu Nhiên đại sư là kiếm từ đâu ra?"

Cát Bàn Tiểu nghiêm túc trả lời: "Ông ấy nói đây là do hôn quân tiền triều thích ngọc trai Đông Hải, ngư dân bất lực với việc cống nạp hàng năm, bèn lập một đội cảm tử tìm ngọc, đi bậy đi bạ đến nơi này, rồi vẽ ra nó."

Trường Canh: "..."

Liễu Nhiên hòa thượng bịa chuyện lừa gạt tiểu tử ngốc đúng là lấy lệ mà.

Cát Bàn Tiểu quay sang Cố Quân, ra dấu hỏi: "Hầu gia, làm thế nào đây?"

Cố Quân chưa kịp trả lời thì cả thân thuyền đột nhiên rung mạnh. Cố Quân đỡ ngọn đèn suýt nữa đổ xuống, đưa mắt ra hiệu cho Cát Bàn Tiểu cất hết mấy thứ trên bàn.

Cát Bàn Tiểu lập tức thông minh hít sâu một hơi, ưỡn ngực hóp bụng lại, nhanh nhẹn nhét hết đống đầu thừa đuôi thẹo này vào.

Trường Canh cầm bội kiếm trên bàn: "Để con ra ngoài xem thử."

Cát Bàn Tiểu: "Chờ với, đệ cũng muốn đi!"

Hai người một trước một sau đi ra ngoài. Cố Quân tháo kính lưu ly để xuống, dụi đôi mắt mỏi mệt.

Vị trí của dải đảo nhỏ ấy cực kỳ vi diệu, vượt qua chư đảo Đông Doanh, cũng không nối với Đại Lương, chỉ thẳng phủ Tế Nam, nếu trù tính kỹ càng, bức sát kinh kì trọng địa cũng không thành vấn đề.

Chỉ là hải quân Đại Lương cho dù yếu hơn, thì người Đông Di tí tẹo cũng chẳng lung lay được. Đông Hải cho tới nay chưa phát hiện quặng tử lưu kim, Đại Lương cực nghiêm trong việc xuất khẩu tử lưu kim, ở mặt này như thiết công kê không chịu nhổ một sợi lông, người Đông Doanh cần dùng tử lưu kim số lượng lớn, thì phải mua giá cao từ chỗ người Tây Dương, hoặc nghĩ mọi cách kiếm từ chợ đen Đại Lương.

Mà chợ đen...

Phỉ nếu không cấu kết với quan, tất không dễ lâu dài.

Chợ đen tử lưu kim trong Đại Lương mà ba đời Hoàng đế đều ghét cay ghét đắng hệt như con sâu trăm chân chết không cứng xác, phong thanh hơi thả lỏng là lập tức có thể khơi lại đống tro tàn, dùng đầu ngón chân mà nghĩ cũng biết nhất định không phải toàn hạng vong mạng dân gian đi buôn bán, sau lưng tất có bóng dáng của thế lực các phương.

Chưa nói đến người khác, chỉ riêng tay Cố Quân đã tuyệt đối không sạch sẽ, nếu không chỉ dựa vào chút xíu tử lưu kim triều đình cấp mỗi năm, đừng nói là Huyền Ưng Huyền Giáp Huyền Kỵ, ngay cả gia tước hắc cẩu dạ hổ tử cũng nuôi không nổi.

Buôn lậu tử lưu kim quy mô lớn như vậy, lai lịch của kẻ đứng sau tất nhiên không nhỏ.

Lúc này, cửa gỗ khoang thuyền đột nhiên bị đẩy ra, Liễu Nhiên hòa thượng tiên khí mờ ảo đi vào, rất tự nhiên chắp tay chào Cố Quân, đoạn với tay đóng cửa.

Cố Quân: "..."

Y đành phải đeo lại kính lưu ly vừa tháo xuống để tiếp khách.

Cố Quân mãi không nghĩ ra, Liễu Nhiên rốt cuộc dựa vào đâu mà cho rằng hắn sẽ không bị đánh?

Bởi vì tự thấy ngoại hình không tệ sao?

Liễu Nhiên tắm trong ánh mắt lạnh lùng của Cố Quân, chẳng chút để ý cúi đầu tìm ghế ngồi, sấn tới trước mặt Cố Quân ra dấu: "Khoảng đêm hôm nay hẳn có thể đến Hao Lý rồi, tới lúc đó hòa thượng sẽ mặc cho Đại soái sai sử."

Cố Quân: "Không khách khí – vậy ngươi biết làm gì? Vật chiếu sáng thì ta không thiếu." (1)

Liễu Nhiên: "..."

Cố Quân ngồi hơi thẳng hơn, trong đôi mắt cái gì cũng không thấy rõ, đao phong còn đó: "Ta trước kia thực sự không liệu được, tay của 'Lâm Uyên' đã thò đến tận Hộ Quốc tự. Đại sư, chi bằng chúng ta nói thẳng đi, các ngươi xen vào việc này, rốt cuộc muốn làm gì?"

Liễu Nhiên dần dần thu lại nụ cười chuyên dùng khi hóa duyên trên mặt, thay bằng sự thương xót như cao tăng: "'Lâm Uyên các' không hề có ác ý."

Cố Quân tựa tiếu phi tiếu nói: "Nếu không, ngươi cho là vì sao mình còn sống?"

Tương truyền tiền triều sưu cao thế nặng, quốc quân mê muội vô năng, dẫn đến suy thoái, các nơi quần hùng nổi lên.

Mà Thái Tổ Hoàng đế sở dĩ nổi trội lên, một phần rất lớn là vì Lâm Uyên các thần bí năm đó lựa chọn ông. Lâm Uyên các từ đạt quan quý nhân đến dân lao động bình thường, không đâu không bao, chiêu nạp vô số kỳ nhân. Khi Đại Lương mới kiến quốc, Thái Tổ Hoàng đế niệm công lớn, muốn sắc phong Lâm Uyên các, các chủ lúc ấy một mực từ chối, từ đó ẩn nấp giang hồ, khiến tổ chức khổng lồ này lại lần nữa trầm tịch đến nay.

Cố Quân: "Lâm Uyên các thịnh thế lặn sâu, loạn thế trồi lên – toàn nói Huyền Thiết doanh là quạ đen, nhưng ta thấy các hạ mới thật sự là quạ đen."

Liễu Nhiên hạ mắt, như một Phật Đà tuấn mỹ từ bi vi hoài: "Hầu gia biết lai lịch của ta, nhưng không ngăn cản ta tiếp cận tứ điện hạ."

Cố Quân im lặng nhìn hắn.

Liễu Nhiên: "Hòa thượng cả gan phỏng đoán, những âu lo trong lòng Đại soái, không hẹn mà giống với chúng ta."

Thuyền đi ổn định, ngọn đèn trên bàn bập bùng, Cố Quân thu lại địch ý, xõa mái tóc dài ngồi bên bàn, ấn đường hằn một vết nhăn như có như không, như là đem tất cả đứng đắn bình thường giẫm dưới chân ra trưng hết lên mặt một lần.

Hai người nhìn nhau không nói gì, trao đổi chỉ có thủ ngữ nhanh chóng, nhưng cũng không hề gặp chướng ngại.

Liễu Nhiên: "Tử lưu kim cháy quá mạnh, ngọn lửa này dập không được, không ai có thể ngăn cản, Đại soái từng nghĩ tới đường lui chưa?"

Kế đó, không đợi Cố Quân trả lời, hắn liền tiếp tục: "Mọi người nói An Định hầu là một võ phu chỉ biết đánh nhau, chỉ là một cây đao trong tay Hoàng thượng, nhưng ta thấy chưa chắc đâu. Nếu không thì vì sao Đại soái đến nay chưa lấy vợ? Chẳng lẽ thật sự do sư huynh ta rủa?"

Cố Quân dường như thoáng nở nụ cười, cất kính lưu ly, một lần nữa đeo băng bịt mắt, không muốn trao đổi với Liễu Nhiên nữa.

Xong xuôi, y dùng thủ ngữ nói: "Cố gia không có đường lui, nếu thực sự có một ngày như vậy, Cố mỗ đành phải lấy thân làm nhiên liệu, tuẫn táng cho giang sơn của ngoại tổ gia – đúng rồi, lần sau gặp vị thần y từng chữa mắt cho ta, hãy vấn an giúp."

Kể từ khi bát tử lưu kim đầu tiên trên đời này được đào lên, đã định trước là nhân gian không được thái bình nữa.

Rồi có một ngày, nông dân siêng năng hơn cũng sẽ bại trước thiết khôi lỗi đi lại không nghỉ trên đồng ruộng, cao thủ tuyệt đại hơn cũng khó mà ngăn cản một phát pháo quét sạch thiên quân của trọng giáp, mọi người chắc chắn đều gặp phải một đợt bấp bênh chưa từng có bao giờ, mới có thể tìm lại vị trí của mình, hoặc cực phú cực quý, hoặc cực ti cực vi.

Mà kẻ bại trên lôi đài đốt tử lưu kim, sẽ không còn ngày cựa mình dậy –

Việc này lớn từ giữa quốc gia, nhỏ đến tam giáo cửu lưu, đều là giống nhau.

Khi mọi người bắt đầu ý thức được điểm này, loạn thế không thể trốn tránh nhất định sẽ đến, chỉ xem ngày đó là sớm hay muộn mà thôi. Đây là sự mạch lạc của thời đại, dẫu ngươi là anh hùng vô địch, hay vương hầu khanh tướng, cũng chẳng cách nào ngăn cản.

Cố Quân nói xong câu cuối cùng, liền trở nên thong dong, không để ý tới Liễu Nhiên hòa thượng nữa, chắp tay sau lưng đi ra khỏi khoang thuyền, định xem tình hình bên ngoài thế nào, mà có thể khiến Liễu Nhiên hòa thượng cũng như lâm đại địch chạy tới tỏ lòng trung.

Y vừa đứng trên boong tàu, đã nghe trong gió biển thổi đến một thứ mùi lạ, giống như thứ gì đó đang cháy. Cố Quân đứng ở cửa, cẩn thận phân biệt mùi vị trong gió, lập tức ý thức được, đó là mùi lạ khi đốt tử lưu kim lẫn tạp chất.

"Thương thuyền" chậm rãi đi qua vùng biển cạn cạnh tiểu đảo, hai bên là hai hàng "trường giao" chỉnh tề, chiến thuyền sáng như tuyết xếp thành một hàng, đạn dược đầy đủ, thương thuyền chở lậu tử lưu kim xếp đội mà đi, tựa những chiếc xe lương thảo qua lại như thoi trong thiên quân vạn mã không hút mắt chút nào.

Cố Quân tuy không nhìn thấy, nhưng đã từ bầu không khí chợt căng thẳng đoán được tình cảnh xung quanh.

Trận trượng thế này, đừng nói số huyền ưng còm cõi y mang đến, cho dù là thủy sư Giang Nam, cũng chưa chắc đối kháng được.

Lúc này, một người quen thuộc tiến lại gần, im lặng chìa tay chạm y.

Trừ Trường Canh ra thì chẳng ai làm vậy, muốn đỡ thì đỡ, không đỡ thì thôi, không có lắm bước như thế.

Cố Quân cảm thấy Trường Canh khi đứng trước mình giống như luôn có chút căng thẳng một cách kỳ lạ, luôn phải cực kỳ thấp điệu mà biểu thị sự tồn tại của mình trước, sau đó trừ phi Cố Quân đưa tay cho đỡ, nếu không y sẽ đi theo đuôi, tuyệt không thò tay.

"Ngu ngốc," Cố Quân vịn cánh tay Trường Canh chìa ra, buồn bực nghĩ bụng, "Với ta mà căng thẳng cái gì, thiên hạ còn người cha nào hiền từ hơn ta sao?"

Trường Canh nhanh chóng viết trên tay y: "Nơi này chí ít có trên trăm chiến thuyền lớn, con không chắc có phải hải giao hay không..."

"Phải," Cố Quân trả lời, "Nghe ra rồi, là mùi tử lưu kim."

Trường Canh: "..."

Không phải Liễu Nhiên hòa thượng nói người không ngửi được mùi tử lưu kim, chỉ có chó đốc sát mới làm được sao?

Khả năng này của tiểu nghĩa phụ... kỳ thực không cần đâu.

Cố Quân thầm thở dài, trong lòng không khỏi oán giận lẩm bẩm: "Đều do đại ca bại gia cạy cửa(2) của ngươi, nhất định phải đuổi ta đến tận Tây Bắc mới yên tâm, lần này thì hay rồi, ba ba trong hồ sen ở hậu hoa viên thành tinh, muốn gây sóng gió! Đáng!"

Chạng vạng, Liễu Nhiên hòa thượng lại thay "y phục dạ hành" chạy đi tìm Cố Quân, Cố Quân đeo kính lưu ly, hai tai chỉ có thể nghe thấy tiếng động lớn trong vòng hai thước, một con mắt có thể nhờ kính miễn cưỡng nhìn thấy trong phòng có ai, "binh" bên cạnh có một hòa thượng câm, một nha đầu dỏm, một thằng nhóc béo, và một nhi tử làm nũng rất có nghề.

Bên ngoài là đoàn chiến hạm hải giao súng ống sẵn sàng và võ sĩ lẫn tư binh Đông Dương vô số kể.

Nhưng chẳng ai căng thẳng, bởi vì Cố Quân ở đây, một mình y có thể thay mặt thiên quân vạn mã.

"Đừng vờ ngớ ngẩn," Cố Quân nói với Liễu Nhiên, "'Hao Lý' này nhất định có người của các ngươi, bằng không ngươi đâu đến mức trăm phương ngàn kế như vậy? Mau khai ra, chúng ta hiện giờ là châu chấu trên một sợi dây thừng rồi."

Liễu Nhiên im lặng niệm một câu Phật hiệu, lấy tràng hạt "đàn hương" đã tróc sơn đưa qua. Lúc giơ tay nhận Cố Quân đột nhiên không nhịn được nhăn mũi, cái mũi mẫn cảm dị thường nhạy bén bắt được mùi thiu.

Cố Quân ngửa ra sau, đối đãi hòa thượng chưa bao giờ khách khí, nói thẳng toẹt: "Trời ơi, đại sư, bao lâu rồi ngài chưa tắm rửa vậy? Sắp lên mốc rồi đấy."

Ba thiếu niên lập tức đồng thời lui ba bước có dư.

Trường Canh quả thực chẳng còn sức đâu đi nhớ lại hình tượng của Liễu Nhiên hòa thượng khi lần đầu gặp gỡ trong cung. Liễu Nhiên đại sư lúc ấy để gặp thánh cũng đủ thành tâm, vậy mà lại tắm gội sạch sẽ như đóa sen trắng nhỏ bước ra khỏi nước.

Cố Quân mặt lạnh tanh, thực sự bực mình vô cùng. Tai mắt y bất tiện, hòa thượng là người câm, mũi y cực thính, hòa thượng lại không thích tắm rửa – quả nhiên, lừa trọc thiên hạ không con nào không xung khắc với y.

Một trăm lẻ tám viên phật châu, trừ đi cách châu, phật châu cách mỗi hai viên có thể bẻ ra, bên trong là một cái dấu chạm nổi, tổng cộng ba mươi sáu dấu, mỗi một dấu đều đại biểu cho một người của Lâm Uyên các.

Cố Quân trầm mặc một lúc: "Lâm Uyên các đã dốc tổ mà ra?"

Liễu Nhiên chỉ cười không nói gì.

Trường Canh nhíu mày, mở miệng hỏi: "Lâm Uyên các là gì?"

Y đột nhiên mở miệng nói chuyện, Cố Quân bất ngờ không nghe rõ, cho đến khi nhìn thấy Liễu Nhiên hòa thượng ra dấu với Trường Canh, mới đoán ra đối thoại của hai người họ, lập tức ngắt lời: "Là một đám miệng quạ đen rất giỏi làm trò – được rồi đừng giải thích nữa, làm sao liên lạc được những người này?"

Liễu Nhiên: "Những người khác không rõ lắm, nhưng ta biết một người trong đó là nhạc sư của thống lĩnh đội thuyền, chỉ cần liên lạc với nàng ta trước là được, hòa thượng có thể làm khuyển mã."

Cố Quân nghĩ bụng: "Quân chính phái Tây Bắc chúng ta ngay cả một con dế biết hát cũng không có, vậy mà trong đám quân đội nuôi tư binh này lại có cả nhạc sư, thiên lý ở đâu hả?"

Trường Canh nói: "Nhất thiết phải cẩn thận, người Đông Doanh nghi ngờ chúng ta, đã mấy lần ta cảm nhận được kẻ mặt mì sợi kia ở ngay bên cạnh."

Có Trường Canh làm đầu, Cát Bàn Tiểu cũng bắt đầu nói chuyện: "Hầu gia, khi nào người của chúng ta đến?"

Cố Quân trầm ổn ngồi tại chỗ, trưng ra vẻ cao thâm khó lường của quân thần Đại Lương – kỳ thực lại không nghe thấy, đang cố gắng đoán khẩu hình của Cát Bàn Tiểu, nhưng không có thủ ngữ, chỉ khẩu hình y nhìn không rõ lắm.

Liễu Nhiên vội ra mặt giúp đỡ, ra dấu: "Phải kiên nhẫn chờ, thủy quân Giang Nam mà hành động, thì rất dễ đả thảo kinh xà..."

Cố Quân thông qua hắn, lập tức nhận ra Cát Bàn Tiểu đang nói đến hậu viện, bụng nghĩ: "Huyền ưng ta mang đến một tay cũng đếm đủ, thùng cơm Diêu Trấn mỗi ngày phải ngủ năm canh giờ chưa biết có dùng được không, quét tước chiến trường thì còn tạm được."

Vừa nghĩ thế, y vừa cắt ngang Liễu Nhiên đại sư lần nữa, nói khoác không ngượng: "Thủy quân quy mô như vậy không phải một hai ngày mà xong, ta hoài nghi là trong triều có kẻ mật mưu tạo phản, tóm đám phế liệu này không phải mục đích, bắt được người kia mới là quan trọng nhất."

Liễu Nhiên đại sư hảo tâm giúp đỡ lại bị cắt ngang hai lần tốt tính ngồi đối diện Cố Quân mà mỉm cười, như một đóa ưu bát la không tắm rửa.

Tào Nương Tử chợt ho một tiếng, gã nãy giờ không nói gì, từ khi thấy cách ăn mặc tóc tai bù xù này của Cố Quân, gã liền có phần khó mở miệng, quỷ xui thần khiến làm lợi cho kẻ điếc kia.

Tào Nương Tử cẩn thận ra dấu: "Ta cũng có thể làm chân sai vặt."

Cố Quân đại khái nắm được đứa trẻ này suốt ngày chỉ biết dại trai, công phu luyện hết sức lơ là kém cỏi, phủ quyết ngay: "Không được, tiếp tục giả tiểu nha hoàn đi."

Tào Nương Tử dè dặt nói: "Ta biết hóa trang thành người Đông Doanh."

Cố Quân nhướng mày.

Tào Nương Tử vội giải thích: "Ta biết, ta ngay cả nam nhân cũng từng giả rồi."

Cố Quân: "..."

Y hơi nhô người ra trước, chân thành hỏi: "Thiếu niên, ngươi có biết mình vốn là nam không?"

Tào Nương Tử thoáng cái đỏ bừng mặt, ba hồn bảy vía đều quanh quẩn trên dây kéo thuyền, căn bản chẳng để ý y nói gì.

Bả vai Cố Quân đột nhiên bị vặn mạnh ra sau, Trường Canh lần này không sợ đụng y nữa, vẻ mặt nghiêm túc đứng đằng sau, mặt trầm như nước, trông y hệt lão học cứu Thẩm Dịch kia.

Cố Quân ho khan một tiếng, theo tay Trường Canh dựa ra sau, trang trọng nói: "Thế cũng không được, ngươi đâu biết tiếng Đông Doanh."

Tào Nương Tử mở miệng nói một câu, ở đây trừ Cố Quân không nghe thấy, những người khác đều hết sức bất ngờ – gã nói một câu rất phức tạp, xen lẫn mấy từ Đông Doanh không biết ý nghĩa, còn lại là tiếng phổ thông Đại Lương lơ lớ. Người Đông Doanh trên thương thuyền thường niên chạy quanh bờ biển Đại Lương, đều biết nói tiếng phổ thông, chỉ là giọng điệu cổ quái, thỉnh thoảng xen cả tiếng bản thổ của chính họ, Tào Nương Tử vậy mà học giống y hệt.

Tào Nương Tử nói xong thấy mọi người đều nhìn mình, tức thì không thể bình tĩnh, cúi đầu bưng kín mặt.

Trường Canh kinh ngạc hỏi: "Học ở đâu vậy?"

Tào Nương Tử lí nhí trả lời: "Nghe hai người Đông Doanh mỗi ngày đưa cơm cho chúng ta nói."

Bằng sự lý giải của Trường Canh với gã, phần sau khỏi cần hỏi tiếp, nhất định là có một kẻ ngoại hình không tệ.

Thế là đêm ấy, một "thiếu niên Đông Doanh" mảnh khảnh thần không biết quỷ không hay lên tiểu đảo.

Nơi này người Đông Doanh thật sự quá nhiều, sắc trời lại muộn, không ai lưu ý đến gã, gã nhìn hạm đội hải giao ngang dọc mà rùng mình, co cẳng chạy.

Cùng lúc đó, một vị khách không mời đến tìm bọn Cố Quân.

Trường Canh hé cửa ra, thấy Địch Tụng ở bên ngoài cười tươi rói nói: "Tướng quân nghe nói trên thương thuyền chúng ta có hương tiên sinh đại giá quang lâm, đặc ý bảo ta đến mời ngài đi dự tiệc."

Cho bạn nào chưa biết: cái đầu trọc bóng loáng của hòa thượng thường được ví với mấy vật chiếu sáng như mặt trăng, bóng đèn.

Từ này dùng chỉ sự keo kiệt, xuất phát từ điển cố. Thời cổ có một tài chủ yêu tiền như mạng, lên chùa thắp hương nhìn thấy cửa chùa quét phấn vàng cũng muốn cạy cửa mang đi.

Trường Canh bình tĩnh trả lời: "Chờ chút."

Nói xong, y mặt không biểu cảm đóng cánh cửa gỗ, dựa lưng lên đó, hít một hơi thật sâu, cố gắng trấn định lại, ra dấu nói với Cố Quân: "Nghĩa phụ, đầu lĩnh phản quân muốn gặp người, làm thế nào đây?"

Cát Bàn Tiểu sợ hết hồn, vô thức nín thở, chỉ chốc lát đã biến mặt mình thành quả cà.

Phản ứng của Cố Quân lại rất kỳ lạ.

Trường Canh thấy y hơi sửng sốt, sau đó lại nở nụ cười, vẫn là nụ cười như nắm chắc thắng lợi, hiểu ngầm với ai đó.

"Đúng thật là mới buồn ngủ đã có người tặng gối mà," An Định hầu chỉ sợ thiên hạ không loạn kia nói, "Rất nhiều năm rồi ta chưa được gặp thủ lĩnh phản quân sống."

Cát Bàn Tiểu rất dễ lừa, thấy Cố Quân không để tâm, lập tức không hề cảnh giác mà thả lỏng theo, giống như sắp gặp kì trân hi thế chứ chẳng phải thủ lĩnh phản quân vậy!

Trường Canh lại không chịu nghe y nói bậy, sắc mặt căng thẳng vô cùng, đủ loại nghi ngờ tích tụ trong lòng nhiều ngày liền nhất thời chui ra hết, lại ra dấu hỏi: "Thủy quân Giang Nam và Huyền Thiết doanh ở đâu?"

Lúc này, mù như Cố Quân, cũng nhìn thấy màu xanh xám trên mặt Trường Canh.

Tuy Trường Canh không rõ lắm "Lâm Uyên các" rốt cuộc là gì, nhưng khúc mắc giữa Cố đại soái và Hộ Quốc tự ai ai cũng biết, việc khác không nói, nếu trên tay Cố Quân có người, cần chi dẫn Liễu Nhiên hòa thượng theo cho chướng mắt?

Lần trước ở Nhạn Hồi, là có mật chỉ của Hoàng thượng, lần này Cố Quân chạy đến Giang Nam thuần túy là tự tiện bỏ việc, bên cạnh có mấy huyền ưng thị vệ là tốt lắm rồi, binh ở đâu ra?

Và ban nãy nữa, vì sao mỗi lần trước khi nói chuyện Cố Quân đều dừng giây lát, mới thất lễ tùy tiện mở miệng cắt ngang Liễu Nhiên?

Giống như chuyên môn kiếm chuyện với Liễu Nhiên vậy. Tuy trong âm thầm Cố Quân có chút đáng ghét, nhưng trên chính sự tuyệt đối không nên gây sự vớ vẩn.

Chớp mắt, trong lòng Trường Canh thậm chí lướt qua một phỏng đoán đáng sợ: Cố Quân liệu có phải là làm bộ, y thật sự nghe không rõ họ nói chuyện, nhìn thủ ngữ của Liễu Nhiên mới suy đoán ra người khác nói gì?

Ý nghĩ này lóe lên, Trường Canh thoạt tiên cảm thấy không thể tưởng tượng, đủ các việc nhỏ nhặt cổ quái mấy ngày qua đều hiện lên trong lòng.

Đầu tiên, Cố Quân không hề là người trầm mặc kiệm lời, nhưng mấy ngày nay, vô luận họ ở riêng hay tụ lại một chỗ, Cố Quân chưa từng "nói" chuyện với y, mọi trao đổi cần thiết cơ hồ đều thông qua thủ ngữ, người Đông Doanh dọc đường đều đề phòng nghiêm ngặt như vậy sao? Đúng rồi, trừ phi hòa thượng bất luận thế nào đều chỉ có thể dùng thủ ngữ có mặt.

Thứ hai, Cố Quân lấy thân phận hương sư trà trộn lên thương thuyền, thiên hạ hương sư bất nhập lưu cả đống, vì sao y lại phải ngụy trang thành một "hương tiên sinh"? Nghĩ kỹ lại thì, việc này chẳng những không có tác dụng gì tốt, còn tăng thêm không ít phiền toái, cực dễ bại lộ, Trường Canh không tin Cố Quân chỉ là vì tôi luyện kỹ năng biểu diễn.

Thứ ba là một chi tiết nhỏ, Liễu Nhiên hòa thượng vào phòng Cố Quân không gõ cửa – là hòa thượng kia to gan lớn mật không biết lễ phép... hay là Liễu Nhiên biết gõ cũng vô dụng?

Những điểm đáng ngờ này vốn Trường Canh nên nghĩ đến từ sớm, nhưng Cố soái tọa trấn trung quân lâu, có khí chất khó mà tả rõ, làm cho người ta tự dưng liền tin tưởng mọi sự y đều nắm trong tay, những người khác chỉ cần mặc y sai sử là được, bất tri bất giác liền lơ là rất nhiều chỗ không tự nhiên.

Cát Bàn Tiểu phát hiện thần sắc Trường Canh khác thường, không rõ nguyên do, nhìn người này lại ngó người kia.

Địch Tụng bên ngoài lại gõ nhẹ cửa, cao giọng nói: "Tướng quân nhà ta đang chờ, xin Trương tiên sinh hãy mau lên."

Cố Quân vỗ vỗ vai Trường Canh, kề tai thấp giọng nói: "Huyền Thiết doanh ở đây, không cần sợ."

Nói xong, y lấy miếng vải đen che mắt đưa cho Trường Canh, ra hiệu bảo bịt giúp mình.

Trường Canh nhận mảnh vải, thần sắc không rõ ràng chốc lát, đoạn che lên mắt Cố Quân.

Ở chỗ Cố Quân không nhìn thấy, Trường Canh trước tiên lắc đầu với Cát Bàn Tiểu.

Cát Bàn Tiểu còn chưa kịp ngộ ra ý của y là gì, thì thấy Trường Canh hướng về phía mình nói không to không nhỏ: "Nghĩa phụ, người còn như vậy, là con không nhận người nữa đâu."

Cát Bàn Tiểu trợn tròn mắt: "Hả?"

Cố Quân mỉm cười, vẫy tay với hướng Cát Bàn Tiểu: "Hai ngươi đừng tán dóc nữa, đi theo ta, lát nữa không được rời khỏi ta, đến mở mang kiến thức cũng không tệ đâu."

Cát Bàn Tiểu lại lần nữa đần thối ra vì đối thoại râu ông nọ cắm cằm bà kia.

Lòng Trường Canh thì chùng xuống – y thật sự không nghe thấy, y chỉ nhờ vào cách nào đó biết mình đang nói chuyện với Cát Bàn Tiểu, vậy mắt y phải chăng cũng...

Nhưng mấy ngày hôm trước rõ ràng còn ổn mà.

Không đợi y nghĩ kỹ, Cố Quân đã dẫn đầu đẩy cửa đi ra ngoài.

Tim Trường Canh hụt một nhịp, gần như kích động đuổi theo đỡ, lúc này y đã chẳng màng ngượng ngùng không quen, căng thẳng dùng một tay nắm cánh tay Cố Quân, tay kia thì vòng qua lưng, kinh hồn táng đảm ôm hờ người nọ.

Cố Quân tưởng biến cố thình lình xảy ra khiến Trường Canh bất an, ung dung vỗ ngược cánh tay Trường Canh.

Trường Canh: "..."

Xét theo thủ đoạn của Cố Quân với người mình cũng hư hư thực thực, y đã phân không rõ tiểu nghĩa phụ thật sự thoải mái, hay chỉ làm bộ không sợ hãi gì.

Địch Tụng chờ ở cửa thấy Trường Canh và Cát Bàn Tiểu đi theo Cố Quân, liền cười nói: "Mời Trương tiên sinh đi bên này. Ồ, vị đại sư và cô nương kia không ở đây sao?"

"Cô nương không hợp thủy thổ, đại sư ở lại chăm sóc rồi," Trường Canh nhìn lướt Địch Tụng một cái, toàn bộ tinh lực tập trung vào Cố Quân, còn phải bớt thời gian trong bông chêm kim mỉm cười nói, "Sao vậy, tướng quân muốn chúng ta đến đông đủ, để lão nhân gia kiểm tra à?"

Địch Tụng khách khí nói: "Công tử nói gì thế."

Đây vốn là mấy tiểu đảo hoang vắng, rải rác trên mặt nước Đông Hải như cứt dê, hòn lớn nhất đại khái một ngày có thể đi một vòng trên đảo, nhỏ một chút thì đại khái chỉ có một mẫu vuông, chiến hạm hải giao đậu la liệt, giữa có xích sắt bốc khói trắng lắc lư nối liền, bốn phương thông suốt, nhìn từ xa như một tòa thành nổi trên mặt biển vậy.

Trường Canh vừa đi, vừa vẽ khái quát đôi chút những điều tai nghe mắt thấy vào lòng bàn tay Cố Quân. Đồng thời, trong lòng thiếu niên không nhịn được trỗi lên nghi vấn – dải tiểu đảo này vị trí quả thật kín đáo, chở lén ít tử lưu kim đến nơi đây, chỉ sợ đích xác là không dễ bị phát hiện, nhưng ở đây đã sắp dựng thành tiên sơn Bồng Lai rồi, thủy quân Giang Nam chết hết rồi sao?

Hay là trong thủy quân Giang Nam căn bản có người của họ?

Y đang nghĩ ngợi lung tung, thì Địch Tụng dẫn đường đột nhiên dừng lại.

Một đám người trông như vũ nữ gót sen nhẹ nhàng đi qua trước mặt, họ đi trên xích sắt đu đưa, như chân không chạm đất, trong khói trắng mờ ảo, hệt một nhóm tiên tử vậy.

Nữ tử bạch y dẫn đầu ôm một cây đàn trong lòng, thấy Địch Tụng thì dừng lại vén áo chào. Nàng không thể nói là rất xinh đẹp, ngũ quan bình thường, như phủ một tầng sa, toàn thân không mảy may có chỗ nào gai mắt, thoạt nhìn rất thoải mái, nhưng vừa quay mặt đi, lại có phần không nhớ nổi nàng trông thế nào.

Địch Tụng: "Không dám, mời Trần cô nương đi trước, đừng để tướng quân đợi lâu."

Nữ nhân cũng không chối từ, gật đầu thăm hỏi, ôm đàn cúi chào, nhanh nhẹn đi qua, mùi an thần hương phả vào mặt.

Trường Canh nhìn thấy khóe môi Cố Quân hơi cong lên, như là cười.

Cùng lúc đó, thiếu niên Đông Doanh do Tào Nương Tử đóng giả chạy lên một con thuyền nhỏ không hề hút mắt, thủ vệ đang ngủ, Tào Nương Tử chắp tay sau lưng, cầm một cây thiết bổng, tiến lại gần.

Vóc dáng gã ta nhỏ gầy, tay chân dường như cũng nhanh nhẹn hơn người khác một chút, tới gần thủ vệ kia, đối phương cũng chưa có phản ứng, Tào Nương Tử nhờ ánh trăng trên biển ngó kẻ đang há mồm ngáy, thấy nước miếng chảy tới tận cổ, liền yên tâm, nghĩ bụng: "Khó coi quá!"

Một đợt sóng biển dịu dàng lướt qua, thuyền hơi rung, thủ vệ trở mình, suýt nữa ngã khỏi ghế, chép miệng tỉnh dậy, lúc này mới giật mình phát giác bên cạnh có người. Thủ vệ kia ngồi dậy, nhìn thấy một thiếu niên Đông Doanh không rõ nam nữ đứng trước mặt, giòn giã dùng tiếng Đông Doanh chào hắn.

Thủ vệ liền thả lỏng, dụi mắt, đang định nhìn người trước mắt cho rõ, Tào Nương Tử đã vung gậy đập vào gáy hắn.

Thủ vệ chẳng rên được tiếng nào ngã sấp xuống.

Kẻ hành hung vỗ vỗ ngực, luôn miệng nói: "Làm ta sợ muốn chết, làm ta sợ muốn chết."

Tào Nương Tử vẻ mặt hoảng sợ, tay lại không chậm trễ, thuần thục lấy một xâu chìa khóa treo trên hông thủ vệ, quay người chui vào khoang thuyền. Nơi đó quả nhiên như lời người chỉ gã tới nơi này nói, có một phòng giam, nhốt hai ba mươi người dáng vẻ như công tượng. Tào Nương Tử mới lộ diện, bên trong đã truyền đến một tiếng hô nhỏ như chim sợ cành cong: "Có giặc Oa!"

"Suỵt-" Tào Nương Tử thấp giọng chụp cái mũ cao lên đầu mình, "Ta không phải người Đông Doanh, ta là được An Định hầu Cố đại soái dẫn đến bình phản loạn, thả các vị ra ngoài trước."

Đêm dần khuya, trên ba quang nơi mặt biển bốc hơi lên một tầng sương mù mỏng.

Liễu Nhiên và một hắc y nhân tay chân nhanh nhẹn chui vào một khoang thuyền, bên trong chỉnh tề xếp mấy chục bộ cương giáp.

Liễu Nhiên xách một cái túi, lấy một cái lọ bên trong, quay người ném cho đồng bạn, hai người nhìn nhau, đồng thời bắt đầu phun mực của con mực lên cương giáp.

Địch Tụng dẫn bọn Cố Quân lên một hải giao không có gì là đặc biệt.

Dây cáp còn chưa đi hết, đã loáng thoáng nghe thấy tiếng cười và tiếng nhạc trong khoang thuyền, ngay nháy mắt Địch Tụng bước lên sàn thuyền, dị biến chợt sinh ra.

Trong góc đột nhiên truyền ra một tiếng gầm hết sức quen thuộc với Trường Canh, tiếp đó, khói trắng phụt lên, một thiết khôi lỗi nấp trong bóng tối chợt bước ra, vung đao chém Cố Quân.

Ngay cả Địch Tụng cũng bất ngờ không kịp chuẩn bị, lập tức sợ quá kêu to một tiếng, ngồi phịch xuống đất.

Trường Canh theo phản xạ muốn rút kiếm, lại bất ngờ bị người đẩy một phát, xô kiếm quay về.

Ngay sau đó, trong lòng Trường Canh trống rỗng, Cố Quân tai mắt bất tiện lại từ sau đao của thiết khôi lỗi lật người qua, thân hình gần như thoải mái, mũi chân thảnh thơi điểm nhẹ đầu vai quái vật, chỉ một thoáng, ánh đao sáng loáng trong tay thiết khôi lỗi chiếu một đường dài nhỏ trên mặt y.

Đồng tử Trường Canh co lại – chậm đã, không phải y bịt mắt và không nghe thấy sao?

Ánh đao kia giây lát mất đi, ngay sau đó, Cố Quân biến mất ở phía sau thiết khôi lỗi, tiếng kêu thảm thiết đột ngột vang lên giữa bầu trời đêm, lại bỗng ngừng bặt luôn.

Địch Tụng run rẩy.

Động tác của thiết khôi lỗi lên cơn dừng giữa không trung, tiếp đó, thi thể một người Đông Doanh bị ném tới. Trường bào của Cố Quân tung bay trong gió biển, y đứng trên boong tàu, cầm yêu đao của người Đông Doanh kia, lấy một tấm khăn tay lau lau với vẻ ghét bỏ, sau đó hơi ngẩng đầu, không coi ai ra gì mà chìa một tay ra.

Trường Canh yết hầu khẽ nhúc nhích, tim đập như nổi trống, lập tức tiến lên đỡ y.

Cố Quân mở miệng: "Nếu đây là thành ý của tướng quân, chúng ta thật sự không đến cũng thế."

Địch Tụng lau mồ hôi ròng ròng xuống má, đang định mở miệng thì lại bị Cố Quân chặn luôn.

"Không cần giải thích," Cố Quân nhàn nhạt nói, "Kẻ điếc không nghe thấy."

Dứt lời y quay người muốn đi, đúng lúc này, cửa khoang thuyền ca múa vang trời đột nhiên mở ra.

Hai hàng tư binh sóng vai đi ra, chừa lại một lối, Trường Canh quay đầu lại, thấy trong khoang thuyền có một nam tử trung niên mặt trắng không râu, hắn nhìn chằm chằm bóng lưng Cố Quân mà cao giọng nói: "Trương tiên sinh dừng bước!"

Cố Quân mắt điếc tai ngơ, Trường Canh viết lên lòng bàn tay y: "Tặc thủ ra rồi."

Cố Quân nghĩ thầm: "Nhi tử à, hắn không phải tặc thủ."

Người trung niên kia đứng dậy, chắp tay nói: "Tại hạ nghe đại danh Trương tiên sinh từ lâu, cẩu Hoàng đế kia có nhân tài như vậy lại không biết dùng, đúng thật là vận số đã hết."

Cát Bàn Tiểu càng nghe càng hồ đồ, nghĩ bụng: "Trương tiên sinh không phải tên giả Hầu gia tùy tiện lấy à? Nghe danh đã lâu ở đâu? Lời khách khí này thật giả dối."

Cố Quân không kiêng dè, nghiêng đầu hỏi Trường Canh: "Hắn nói gì thế?"

"Nói kính đại danh người đã lâu, Hoàng đế không dùng người là tìm đường chết." Trường Canh viết ngắn gọn, trong tích tắc, y đã xâu chuỗi tiền căn hậu quả.

Đúng rồi, Cố Quân ban đầu chỉ giả làm một hương sư trà trộn lên thương thuyền.

Hương sư giống với những thuyền công và hộ vệ Đông Doanh đó, tuy cũng cần người mình, nhưng dù sao cũng là một tiểu nhân vật, vì sao tặc thủ chỉ đích danh muốn gặp y?

Hoặc là thân phận họ bại lộ, hoặc chính là người của hòa thượng thông qua phương pháp nào đó, tạo một thân phận giả cho Cố Quân!

Lập tức, Trường Canh nhớ tới nụ cười mỉm sau khi thoáng sửng sốt của Cố Quân lúc nghe thấy tặc thủ muốn gặp y, trong lòng lại mất vui – y biết từ khi đó rồi sao?

Cách một năm, lúc nhìn Cố Quân y không còn cần ngẩng đầu, thiết oản khấu đặc chế cho thiếu niên dĩ nhiên đã không đeo được nữa, y thậm chí cảm thấy Cố Quân không mặc giáp trụ một tay là ôm được.

Nhưng khoảng cách dài lê thê đuổi kiểu nào cũng không kịp đó lại lần nữa trỗi lên trong lòng thiếu niên.

Cố Quân không quay đầu lại, lãnh đạm gật đầu.

Người trung niên chắp tay nói: "Vừa rồi tuy là mọi rợ Đông Doanh không hiểu lễ phép, nhưng mỗ và Trương tiên sinh vốn không quen biết, lại thấy tôn giá tai mắt bất tiện, mỗ tuy sớm đã nhận được thư tiến cử, không tránh khỏi còn chưa biết chỗ cao minh của cao nhân, ha ha, lần này xem như được mở mang kiến thức – Khinh Nhứ, mau rót rượu cho Trương tiên sinh, tạ tội thay ta."

Trường Canh ngắn gọn truyền lại câu nói nhảm của người trung niên kia cho Cố Quân, còn chưa viết xong đã thấy một người trong bàn tiệc đứng dậy, là nữ nhân bạch y vừa nãy gặp gỡ trên đường.

Nàng rót một bát rượu với khuôn mặt không cảm xúc – không phải một ly, mà là một bát.

Nữ nhân khoan thai đi tới, cũng không nói gì, trực tiếp đưa đến trước mặt Cố Quân.

An thần hương vừa rồi ngửi thấy cùng gió biển hất vào mặt, nàng tuy chỉ là hạng con hát, nhưng dung sắc cử chỉ không có mị thái, ngược lại có chút lãnh ý hờ hững.

Cố Quân nhận rượu từ tay nữ nhân, tựa hồ cúi đầu ngửi một chút.

Sau đó trên mặt y xuất hiện nụ cười mỉm đầu tiên, đoạn y thấp giọng cảm ơn, Trường Canh chưa kịp ngăn cản, thì Cố Quân đã bưng bát uống cạn.

Nữ nhân theo quy củ nhìn xuống, hơi khom người lui ra một bên, người trung niên thấy thế cười to nói: "Trương tiên sinh thật thống khoái, ta rất thích người thẳng thắn như vậy."

Trường Canh lập tức nôn nóng, nắm tay Cố Quân, viết: "Có độc thì phải làm thế nào?"

Cố Quân nhất thời còn tưởng là tặc thủ không mắt kia hỏi, bình tĩnh trả lời: "Muốn độc chết một hương tiên sinh mắt mù tai điếc, e rằng các hạ phải mất công tìm chút dược không vị."

Trường Canh: "..."

May mà thái độ ban đầu của Cố Quân đã hết sức ngạo mạn, câu này tuy nghe hơi thẳng tuột, nhưng cũng không có vẻ đặc biệt khác thường.

Đồng thời, y càng xác định, Cố Quân thực sự không nghe thấy, không giả vờ chút nào.

Người trung niên nói: "Mau mời, xin mời ngồi."

Lúc này Trường Canh không còn dám làm trò, một năm một mười truyền đạt cho Cố Quân.

Đoàn người đi vào khoang thuyền, cô nương lạnh nhạt kia bắt đầu gảy đàn.

Người trung niên: "Vạn hạnh hôn quân kia thất đức, để chúng ta có thể tụ tập anh hùng thiên hạ, quả thật là may mắn cả đời."

Cố Quân cười khẩy nói: "Ta lại không cảm thấy sống chung một nhà với bọn giặc Oa có gì may mắn."

Mỗi một lời của y đều chêm gai, sự châm chọc khiêu khích này tự dưng sinh ra một chút khí thế ngoại cao nhân.

Người trung niên không lấy làm giận, hiển nhiên là vì tạo phản, bất cứ giá nào muốn gặp hết quái thai thiên hạ, cười nói: "Kẻ thành đại sự không câu nệ tiểu tiết, tiên sinh nói như vậy thì hơi bất công rồi. Từ khi Vũ Hoàng đế mở rộng hải vận tới nay, bao nhiêu đồ của dân man di đổ vào Đại Lương ta, chỉ riêng đám khôi lỗi trồng trọt cấp xuống Giang Nam đã có bóng ngoại lai phía sau, chỉ cần có thể thành sự, quan tâm làm gì hắn là người Nhật Bản hay người Tây Dương?"

Hắn đang nói liền cảm khái, liệt ra đủ loại tệ nạn dân gian từ thời Nguyên Hòa tới nay. Trường Canh và Cát Bàn Tiểu bình thường tiếp xúc không phải hòa thượng Hộ Quốc tự thần bí thì là đại nho đương thời hầu phủ dùng số tiền lớn mời đến, chợt nghe luận điệu đâu ra đấy này, chỉ cảm thấy hết sức mới mẻ – không một câu nào chịu được nghiền ngẫm, thật sự là toàn lời nhảm nhí, chẳng hiểu gì sất.

Cố Quân không lên tiếng, chỉ cười khẩy.

Ngồi đâu chừng một nén nhang, y giống như đột nhiên mất hết kiên nhẫn, ngắt lời người trung niên, nói: "Trương mỗ thành tâm đến gia nhập, đại nhân lại tìm một khôi lỗi học vẹt đến tiếp lấy lệ, thật khiến người ta thất vọng."

Người trung niên kia biến sắc.

Cố Quân không nói hai lời, kéo Trường Canh đứng dậy: "Đã thế, chúng ta nên đi thôi."

Người trung niên gọi: "Dừng bước! Trương tiên sinh dừng bước!"

Cố Quân mắt điếc tai ngơ.

Đúng lúc này, vệ binh ở cửa đột nhiên tách ra hai bên, một nam tử cao gầy mặc áo khoác dài sải bước đi vào, cất cao giọng nói: "Trương tiên sinh, ngươi thấy Hoàng mỗ đủ tư cách nói chuyện với ngươi chưa?"

Người trung niên nhanh nhẹn đi đến bên cạnh nam tử cao gầy kia, nói với Cố Quân: "Đây là Hoàng Kiều Hoàng đại nhân nhà ta, việc này lớn, cần kiểm tra rõ thân phận tiên sinh, vạn mong tiên sinh thứ lỗi."

Trường Canh nhíu mày, luôn cảm thấy hai chữ "Hoàng Kiều" hơi quen tai, đang định viết chữ vào lòng bàn tay Cố Quân, lại bị Cố Quân nắm nhẹ ngón tay.

Cố Quân vừa nãy còn điếc đặc không biết làm thế nào mà lại nghe thấy câu này của Địch Tụng.

"Hoàng đại nhân." Cố Quân thấp giọng nói, "Giang Nam thủy lục Đề đốc, tòng nhị phẩm... Thực khiến ta giật nảy mình."

Nói xong y chậm rãi tháo mảnh vải che trên mặt, đôi mắt như hàn tinh, nào có vẻ gì là mù?

Y rút tay ra khỏi tay Trường Canh, khoát tay với thiếu niên vẻ mặt lo lắng kia, không mấy nghiêm túc cười nói: "Ôi, Hoàng đại nhân, năm đó khi ta đi theo làm tùy tùng cho Đỗ lão tướng quân, ngươi còn là một tham tướng, từ biệt nhiều năm, còn nhớ ta chứ?"

Tào Nương Tử thử tới cái chìa khóa thứ sáu mới mở được cửa lao: "Mau, mau ra đây."

Người bị giam bên trong đã thành chim sợ cành cong, vừa thấy gậy trong tay gã liền hoảng sợ lùi hết lại.

Một lão nhân hoa giáp cầm đầu trong phòng giam run rẩy chắp tay nói: "Tiểu tướng quân, chúng ta chỉ là trường tý sư bị phản quân bắt đến, không phải theo họ tạo phản, tiểu tướng quân nhất định phải báo cho Cố hầu gia biết." (Hoa giáp là khoảng sáu mươi)

Tào Nương Tử vội đưa thiết côn ra sau lưng, nói: "Đại nhân nhà ta đều biết mà, còn có việc cần dựa vào chư vị giúp đỡ đây."

Thế là trên con thuyền nhỏ chẳng hề nổi bật này, một nhóm trường tý sư chân trần nhếch nhác dìu nhau nối đuôi ra khỏi phòng giam, nhao nhao nhảy xuống biển, bơi đi bốn phương tám hướng. Tiếng bước chân chấn động sàn tàu, thủ vệ rầm rì muốn tỉnh, lại bị một gậy ngay vào mặt.

Tào Nương Tử làm xong vụ này, xoa thắt lưng cúi đầu nhìn thủ vệ kia, chỉ cảm thấy không thể tưởng tượng nổi – mỹ nam té xỉu tất nhiên như núi ngọc đổ, ta thấy còn thương, còn xú nam té xỉu tại sao đều phải trợn trắng mắt vậy?

Gã lắc đầu làu bàu: "Thật vô lý."

Sau đó bịt mũi kéo tên này vào phòng giam, khóa cái "Cụp", đại công cáo thành, cũng bỏ chạy luôn.

Lúc này trong khoang thuyền chủ hạm, Cố Quân chỉ có hai thiếu niên bên cạnh bình tĩnh chắp tay đứng đó, tựa tiếu phi tiếu nhìn đám tư binh nai nịt gọn gàng trước mặt.

Khí chất của một người mười lăm mười sáu tuổi mới ra đời, và trải hết sa trường đao kiếm mài giũa, sẽ khác nhau một trời một vực, mới nhìn có thể chưa nhận ra, nhưng chỉ cần không phá tướng, ngũ quan lại không thay đổi lắm.

Hoàng Kiều nghe Cố Quân mở miệng liền kinh nghi chưa chắc, nhìn kỹ y một lúc lâu, bỗng nhiên rùng mình, lùi phắt lại một bước: "Ngươi, ngươi là..."

Cố Quân cầm thanh đao võ sĩ Đông Doanh vừa nãy tùy tiện đoạt lấy, hờ hững thảy thảy, dùng mảnh vải bịt mắt buộc mái tóc xõa tung, cười nói: "Khó được, xem ra Hoàng đề đốc nhận ra tại hạ rồi."

Hoàng Kiều mới rồi còn khí vũ hiên ngang chiêu hiền đãi sĩ, chỉ chớp mắt đã như trúng tà, run rẩy không khống chế nổi: "Cố, Cố..."

Cố Quân đáp một tiếng: "Ừm, Cố Quân, lâu lắm không gặp."

Y chưa dứt lời đã nghe cái "keng", lại là trong số tư binh có kẻ không cầm được binh khí, sợ đến tuột tay. Trong khoang thuyền lặng ngắt như tờ, chỉ có bạch y nữ đánh đàn trong một góc giống như hoàn toàn không nghe thấy, đàn trên tay không loạn một âm, khúc ngư chu Giang Nam hát trong trường hợp này có vẻ đặc biệt chối tai.

"Không thể nào!" Người trung niên ban nãy nói năng bừa bãi bật thốt lên, "An Định hầu tiễu phỉ ở Tây Bắc, làm sao..."

"Tạo phản phải đọc sách nhiều vào," Cố Quân ngữ trọng tâm trường nhìn hắn nói, "Đông Hải chưa từng nuôi 'ưng', nhưng ngươi dù sao cũng nên nghe qua chứ?"

Y chưa dứt lời, ngoài khoang thuyền đột nhiên vang lên tiếng kêu thảm thiết, có người vội vã cầm đèn đi soi, chỉ thấy hai ba bóng đen tựa quỷ mị qua lại như thoi bên ngoài, lướt qua chủ hạm, nhạn qua nhổ lông, hạ đất tất giết một người.

"Huyền ưng! Là huyền ưng!"

"Không... Không thể nào! Câm miệng!" Hoàng Kiều quát, "Đông Hải sao lại có Huyền Thiết doanh, có An Định hầu được! Không thể nào! Bắn tên! Dùng bạch hồng tiễn bắn đám giả thần giả quỷ này xuống!"

"Đại nhân cẩn thận!"

Huyền ưng lướt qua đỉnh đầu hắn, tên bắn như mưa, kẻ muốn đi khởi động bạch hồng tiễn bị cung tên đuổi theo phải ôm đầu chạy như chuột.

Bốn bề hỗn loạn, cô nương đánh đàn trong góc lại bình chân như vại, đưa tay gảy dây đàn, tằng tằng đổi thành Thập diện mai phục, vô cùng hợp cảnh.

Hoàng Kiều trợn trừng mắt: "Cố Quân ở đây thì có thể làm gì? Ta không tin hắn có thể dẫn cả Huyền Thiết doanh ở tít đại mạc đến theo! Làm thịt hắn, xem cẩu Hoàng đế kia còn dựa vào ai? Lên!"

Một đám binh sĩ rút binh khí cái "Soạt", đằng đằng sát khí nhìn bức ba người bị vây.

Cát Bàn Tiểu sửng sốt, trong tiếng nhạc che lấp kéo Trường Canh: "Đại ca, nói đúng lắm! Làm thế nào đây?"

Trường Canh chưa kịp trả lời, Cố Quân đã cốc cái đầu lưa thưa tóc của Cát Bàn Tiểu, thản nhiên cười nói: "Không sai, bên cạnh ta chỉ có mấy thị vệ huyền ưng này, Hoàng đề đốc có đảm có thức, nói rất hay!"

Cát Bàn Tiểu chớp chớp mắt: "Đại ca, không đúng, Hầu gia rất vững vàng mà."

Trường Canh: "..."

Một loạt tiểu binh rút binh khí ra, ngươi tiến một bước ta lui một bước, xếp thành hình gợn sóng, một hồi thủy triều lên một hồi thủy triều xuống, không ai dám xông tới.

Cát Bàn Tiểu đần thối ra, thầm nghĩ: "Y rốt cuộc có người hay không?"

Trường Canh tuy không dám tự phụ thông minh, nhưng bình thường luôn nghĩ nhiều hơn Cát Bàn Tiểu một chút, không ngờ lúc này cũng mơ hồ dữ dội như gã ta, nghĩ bụng: "Y rốt cuộc có điếc hay không?"

Cố đại soái khó hiểu như bát quái mê hồn trận cười khanh khách đi tới chỗ Hoàng Kiều, căn bản không nhìn đám binh lính tiến tiến lui lui xung quanh: "Nếu ta nhớ không lầm, Hoàng đề đốc sư thừa Thường Tri Lộc, hình như là cữu công của Ngụy vương? Sao, năm đó tiên đế băng hà, Ngụy vương sử dụng Ngự lâm quân không thành, hiện giờ lại muốn đi thủy lộ à?"

Trường Canh chợt nhớ ra, năm đó Cố Quân dẫn y về kinh thành, là dẫn non nửa Huyền Thiết doanh theo, trực tiếp để Huyền Thiết doanh ở ngoài kinh, kiếm chỉ kinh thành, khi hai người vội vã chạy vào cung, gặp Ngụy vương và Thái tử – cũng chính là Hoàng thượng hiện tại cùng quỳ ngoài điện của tiên đế, Cố Quân còn dừng lại chào hỏi.

Hiện giờ mới nghĩ ra, cuộc chào hỏi đó thật sự có ý tứ sâu xa vô cùng.

Thì ra Ngụy vương khi đó đã muốn tạo phản, chỉ là bị Cố Quân chạy về kinh trấn lại sao?

Hoàng Kiều nghe thế như bị sét đánh, tức khắc cho rằng âm mưu của mình đã bại lộ.

Như vậy là Hoàng thượng đã sớm phát hiện dị tâm của Ngụy vương, phía kinh thành lộ chân tướng, hay vùng Lưỡng Giang trong số người mình có phản đồ – đều đã không quan trọng, hắn chỉ biết là, Cố Quân đã đến, thì hắn chết chắc rồi.

Đương nhiên, có đánh chết Hoàng Kiều cũng không ngờ đến, Cố Quân đơn giản là mang máng có chút ấn tượng với sư thừa của vài võ tướng trong triều, thuận miệng lừa bịp thôi.

Cát Bàn Tiểu trợn mắt há mồm nghĩ: "Cái gì, thì ra Hầu gia sớm biết Ngụy vương muốn tạo phản!"

Trường Canh đặt tay lên bội kiếm bên hông.

Hoàng Kiều biết mình chết đến nơi rồi, đành phải liều mạng, lập tức hét lớn một tiếng, mặt mày dữ tợn lao tới Cố Quân.

Trong một góc khoang thuyền, mấy thiết khôi lỗi vốn dùng làm trang trí đồng thời gầm lên, giơ lợi khí trong tay.

Trường Canh chợt lướt qua phía sau Cố Quân, tranh trước Cố Quân ra tay đè kiếm của Hoàng Kiều, trầm giọng nói: "Lĩnh giáo võ nghệ của đại nhân."

Chủ tướng đã làm gương cho binh sĩ, tiểu binh phía sau dù sợ hơn cũng không thể lùi bước, tức khắc ùa hết lên, lao vào khoang thuyền nho nhỏ.

Cát Bàn Tiểu cuống quýt lục lọi hết người, không tìm được cái gì có thể bảo mệnh, vội vàng theo sát Cố Quân.

Cố Quân cầm ngang thanh đao Đông Doanh, thân đao nhỏ hẹp chém ngang, tùy tay đẩy bay một thanh đao chém tới, cười nói: "Suỵt, chư vị không nghe thấy sao?"

Công phu giả thần giả quỷ của y so với công phu thực sự trên tay còn xuất thần nhập hóa hơn, mọi người không cầm được lòng lắng tai nghe.

Trường kiếm trong tay Trường Canh lướt qua giữa lưỡi đao của Hoàng Kiều, rít lên chói tai, "Vù" một tiếng, thiếu niên kia mặt không biểu cảm bay lên đạp hông Hoàng Kiều một phát, Hoàng Kiều rú lên thảm thiết, ngã lăn xuống chân một thiết khôi lỗi.

Thiết quái vật bất phân địch ta, gặp người là chém, Hoàng Kiều trốn rất chật vật.

Trong khoang thuyền tiếng đàn vang rõ – nữ nhân kia không biết nghĩ thế nào, từ Thập diện mai phục lại đổi thành Phượng cầu hoàng.

Bên ngoài sóng biển thấp thoáng, huyền ưng gào thét bay qua, dần dần, mọi người đều biến sắc.

Họ nghe thấy tiếng la hét, tiếng huýt sáo và chiêng trống!

Tựa như có thiên quân vạn mã từ bốn phương tám hướng vây tới.

Trong lòng Hoàng Kiều rất lo lắng, khoảnh khắc ấy, hắn không tự chủ được nhớ tới truyền thuyết đáng sợ về Huyền Thiết doanh –

Năm đó nơi Bắc cương quan ngoại, bão tuyết mù trời, thảo nguyên ăn thịt người cò bay thẳng cánh, sói và dê cùng run bần bật, cuồng phong cuốn âm binh tới, họ mặc thiết giáp đen sì, sau lưng sương trắng mịt mù, rẽ gió mà đến, thần quỷ kinh sợ...

Lúc này, đột nhiên, ánh sáng của hàng dải hải giao trong đêm đen dần dần tối đi, càng lúc càng nhiều chiến hạm động lực bị tắt, chỗ tối như có một quái vật không gì cản nổi, đang nuốt chửng từng hải giao không sức đánh trả, trên thuyền binh tướng và võ sĩ Đông Doanh cùng hỗn loạn, không trung đột nhiên nổ bùng một đóa pháo hoa khổng lồ, chiếu sáng nửa bầu trời, có kẻ tinh mắt giật mình la lên: "Huyền Thiết doanh!"

Trong tàn quang pháo hoa, một đội tướng sĩ trọng giáp đen sì hùng dũng lên thuyền, người cầm đầu quay đầu lại, ánh mắt như điện.

Trường Canh chợt nhảy lên, từ trên cao chém xuống Hoàng Kiều. Cát Bàn Tiểu mắt xoay láo liên, móc từ trong lòng ra quả cầu sắt to bằng viên thuốc, ném tới chân Hoàng Kiều: "Đại ca, đệ giúp huynh một tay!"

Quả cầu sắt như biết tự tăng tốc, "Vút" một tiếng lao đến chân Hoàng Kiều, Hoàng đề đốc tức khắc loạn nhịp bước, cản lung tung mấy kiếm, bị Trường Canh đâm cổ tay một nhát, thét lên một tiếng ngã xuống đất.

Mà quả cầu sắt nho nhỏ kia bay thẳng ra khỏi đám đông, nhảy ra boong tàu, rít gào bay lên, nổ bung rực rỡ trên không.

Trường Canh trở tay cắm vỏ kiếm đang cầm vào ngực khôi lỗi đến gần y, thoắt xoay thoắt đè, thiết khôi lỗi đương trường phát ra vài tiếng cọt kẹt rồi bất động luôn.

Trường Canh: "Nghĩa phụ, tặc thủ đã bị khống chế."

Cố Quân cười to nói: "Tặc thủ còn ở trong triều mà."

Nói xong, y không coi ai ra gì mà đi ra ngoài khoang thuyền, vậy mà chẳng ai dám cản.

Trên boong thuyền huyền ưng lượn vòng, Cố Quân lấy từ trong lòng ra một tấm thiết bài bằng bàn tay, ném lên trên, một huyền ưng đón lấy, đứng trên cột buồm cao tít, tháo đồng hống trên hải giao, lên giọng nói: "Thủ lĩnh phản quân đã bị bắt, Huyền Thiết hổ phù ở đây, tướng sĩ thủy quân Giang Nam, nếu thấy lệnh này bỏ tối theo sáng, chuyện cũ sẽ bỏ qua, kẻ trái lệnh xử trảm ngay tại chỗ!"

Huyền Thiết hổ phù là Vũ hoàng đế ban cho An Định hầu, thời khắc nguy cấp có thể hiệu lệnh bảy đại quân chủng thiên hạ, tổng cộng ba tấm, một trong tay Cố Quân, triều đình bảo quản một, còn một trong tay Hoàng thượng.

Hơn ba mươi trường tý sư bị nhốt lặn xuống nước chặt đứt quá nửa động lực của hải giao, chẳng ai liên hệ được với ai. Tư binh trong phản quân có quá nửa đều là thủy quân Hoàng Kiều mang đến, số ít là quân không chính quy trưng tới, nghe huyền ưng kêu gọi đầu hàng, tức thì hỗn loạn, có kẻ ngoan cố chống cự, có người đương trường trở giáo, càng nhiều hơn là không biết làm gì, bị người Đông Doanh sợ hãi công kích, tự dưng liền đánh nhau với người mình.

Chủ hạm đèn đuốc sáng trưng, Trường Canh đẩy Hoàng Kiều bị trói gô ra, phản quân trên chủ hạm thấy đại thế đã mất, lũ lượt ném vũ khí.

Cô nương nhạc sư vô tâm vô phế kia còn đang đánh đàn, đổi không biết bao nhiêu khúc, tất cả đều đàn rất hay.

Mặt Cố Quân dưới ánh sáng mờ nhạt có vẻ bình tĩnh không gợn sóng, Trường Canh mê hoặc nhìn y, trong lòng lúc thì muốn y khẳng định từng gặp rất nhiều trường hợp như vậy, lúc lại không nhịn được nghi hoặc số Huyền Thiết binh đó từ đâu đến.

Hai ba huyền ưng tiện ẩn nấp, Huyền Thiết binh cũng nấp được sao?

Hơn nữa, làm sao y đưa được Huyền Thiết binh từ đại mạc Tây Bắc đến?

Ban nãy y rốt cuộc giả điếc hay giả không điếc?

Nhất thời, ngay cả Trường Canh cũng không nhịn được cảm thấy, Cố Quân từ rất sớm đã biết Ngụy vương để ý thủy quân Đông Hải, chỉ chờ thuyền pháo đầy đủ, sẽ một mẻ hốt gọn.

Xa xa vẳng đến tiếng ù ù quen thuộc, Diêu Trấn rốt cuộc điều động thủy quân Giang Nam, cự giao rời bến, một trường diên đã lộ ra hình dáng trên không trung.

Cố Quân cùng huyền ưng trên trời trao đổi toàn dựa vào thủ thế đơn giản, một huyền ưng cầm Huyền Thiết hổ phù lĩnh mệnh bay lên trường diên, tiếp quản thủy quân Diêu Trấn dẫn đến.

Hoàng Kiều nhắm chặt mắt – đại thế đã mất.

Tiếng nhạc mãi chưa dứt rốt cuộc ngừng lại, bạch y nữ cầm sư ôm đàn không chút hoang mang ra khỏi khoang thuyền, thoáng nhìn Hoàng Kiều bị trói gô.

Hoàng Kiều dữ tợn trừng nàng ta, khàn khàn la: "Trần Khinh Nhứ, ngay cả ngươi cũng muốn phản bội ta sao?"

Khinh Nhứ nhìn hắn một cái khó hiểu, mặt không biểu cảm đi qua bên cạnh hắn. Mặt nàng như một tấm họa bì, lúc kính rượu không cảm xúc, đánh đàn không cảm xúc, nghe thấy chém giết không cảm xúc, bị chất vấn vẫn không cảm xúc.

Nàng chân thành đi đến trước mặt Cố Quân, mở miệng nói: "Hầu gia."

Cố Quân vội thu lại vẻ ngạo mạn như bắt được nhị ngũ bát vừa nãy: "Đa tạ cô nương giúp đỡ, không biết cô nương và Trần Trác lão tiên sinh là..." (Trong trò mạt chược thì nhị ngũ bát là tướng, bắt được quân này thường vênh váo)

Trần Trác chính là lão thần y nhiều năm trước kê đơn cho y.

"Đó là gia gia ta," Trần Khinh Nhứ ẩn ý nói, "Trên biển gió to, tốt nhất là Hầu gia vào trong khoang thuyền ngồi một lúc đi."

Cố Quân nghe ra nàng đến để nhắc nhở tác dụng phụ đau đầu như búa bổ của thứ thuốc kia, lập tức cười khẽ, không lên tiếng.

Khinh Nhứ thấy y không nghe, cũng không thừa lời, chỉ vén váy nói: "Mong thịnh thế thái bình an khang, chư quân sống lâu trăm tuổi."

Cố Quân lại lần nữa nói: "Đa tạ!"

Trần Khinh Nhứ quay người rời thuyền, khả năng là khảy đàn mệt rồi, chẳng thèm nhìn đám phản quân đang loạn đả.

Cát Bàn Tiểu: "Ôi, đầu kia sợi dây có rất nhiều người đang đánh nhau loạn xạ, tỷ tỷ đó làm sao đi qua được?"

Cố Quân chau mày, vừa toan gọi nàng lại, liền thấy trên dây cáp lao ra một người Đông Doanh, há miệng phun ám tiễn trong miệng.

Huyền ưng trên cao lập tức chỉ mũi tên qua, người Đông Doanh liền ngã xuống biển, Trần Khinh Nhứ bước chân nhẹ nhàng, như múa theo tiết tấu đu đưa của dây cáp, ám tiễn của người Đông Doanh bắn xuống xích sắt "keng" một tiếng, lướt qua nàng, nàng chẳng thèm ngước lên, vẫn lơ lửng đi như nữ quỷ.

Cát Bàn Tiểu: "..."

Quả nhiên quái thai thiên hạ, toàn ra từ Lâm Uyên các.

Lúc cự diên và giao long đến, phản quân đã tự loạn gần hết, huyền ưng canh phạm nhân trên chủ hạm, quân chính quy bắt đầu thu thập tàn cục.

Một huyền giáp binh lúc này mới xông lên chủ hạm, mặt nạ bảo hộ bật lên, Trường Canh sửng sốt phát hiện, người này lại là Liễu Nhiên đại sư.

Liễu Nhiên đại sư hình như dùng trọng giáp còn chưa quen bằng đám người Bắc man tập kích Nhạn Hồi tiểu trấn, tuy dưới sự trợ giúp của máy móc có được sức mạnh vô cùng, nhưng đi lại khập khiễng, động lực khống chế không được, cứ nhảy lên như một con thỏ to anh dũng vụng về, miễn cưỡng ôm cột buồm đứng lại, suýt nữa trực tiếp quỳ xuống.

Nhìn kỹ thì thấy "huyền giáp" trên người hắn lại hơi phai màu, lộ ra màu kim loại trắng bệch bên trong, người còn thoảng mùi tanh.

Tức là "Huyền Thiết doanh" ban nãy dọa vỡ mật phản quân chính là loại hàng này!

Thế tiếng kêu là từ đâu ra? Kỹ thuật miệng à?

Trường Canh không biến sắc mà nghiến răng, cảm giác lại bị Cố Quân lừa rồi.

Liễu Nhiên hòa thượng cố gắng giơ hai cánh tay máy, muốn dùng thủ ngữ nói vài câu, ngặt nỗi tay máy khống chế không tốt, mười ngón tay bẻ không ra, như rong biển thong thả rung, chẳng ai hiểu gì.

Hắn ra dấu đến vã mồ hôi, ở trong trọng giáp ra sức giãy giụa.

Cát Bàn Tiểu ngơ ngác nói: "Hầu gia, hình như đại sư có quân tình khẩn cấp."

Cố Quân hơi quay đầu nhìn thoáng qua, nói: "Không sao, tên đần đó không ra được, ngươi từ bên ngoài tháo giáp giúp hắn đi."

Cát Bàn Tiểu: "..."

Hòa thượng bị nhốt trong trọng giáp, vô tội nhìn gã, Cát Bàn Tiểu hít sâu một hơi: "Không phải đại sư tinh thông các loại cương giáp hỏa cơ à!"

Hòa thượng không thể nói, cũng chẳng dùng nổi thủ ngữ, đành phải dùng đôi mắt linh động dị thường cố gắng truyền đạt một ý: tinh thông không phải là biết mặc, người xuất gia đâu phải dùng để lên chiến trường.

Cát Bàn Tiểu đành phải cùng Trường Canh tháo trọng giáp từ bên ngoài, Liễu Nhiên đại sư từ trong trọng giáp lăn ra, chưa kịp chỉnh trang lại, đã liền đi tới trước mặt Cố Quân, nghiêm túc ra dấu: "Đại soái, thủy quân Giang Nam đã đến, Diêu đại nhân đã ở trên diên, vô luận thế nào, ngài vào khoang thuyền nghỉ ngơi một chút đi."

Trường Canh sửng sốt, từ câu này cảm nhận được điều gì đó, quay đầu nhìn Cố Quân điềm nhiên như không.

Cố Quân cũng chẳng khăng khăng ở lại, đáp một tiếng, ngắm nghía thanh đao Đông Doanh nửa đường lấy được mà chậm rãi quay về, Trường Canh hấp tấp theo sau. Đúng lúc này, kẻ người Đông Doanh như con rắn kia lén lút nấp vào bóng tối trên boong tàu mà tiến lại gần, tụ trung ty trong thiết tụ khẩu lóe ra ánh sáng nhạt.

Xà nam nở nụ cười vặn vẹo, nhắm chuẩn nháy mắt Cố Quân sắp đi vào khoang thuyền, đôi thiết tụ khẩu đồng thời bật, sáu mũi tụ trung ty bắn về phía Cố Quân.

Huyền ưng gào thét lao xuống.

Trường Canh giật nảy mình, theo bản năng lao lên muốn bảo vệ y, nhưng gió biển bị lợi khí cắt đã trước một bước truyền lên người Cố Quân.

Y ôm Trường Canh, kéo tránh đi vài bước, đao Đông Doanh trong tay bắn ra, ba thanh tụ trung ty đồng thời đập trúng thân đao, trực tiếp khiến đao gãy làm ba đoạn, Cố Quân chuyển tay vung lên, ống tay áo tung bay, ôm Trường Canh nhanh nhẹn lăn đi, tụ trung ty đánh tung mảnh vải đen buộc tóc, xà nam bị huyền ưng trên cao một tên bắn chết.

Cố Quân không hề để ý khúc nhạc đệm này, y vỗ vỗ Trường Canh, hờ hững nói: "Cá lọt lưới, không sao."

Nói đoạn, y vịn vai Trường Canh muốn đứng dậy, ai ngờ chân lại lảo đảo.

Trường Canh hồn phi phách tán đỡ y, vô tình sờ trúng lưng, phát hiện y phục của Cố Quân như mới vớt dưới nước lên, sau lưng đã ướt sũng mồ hôi lạnh.

Cố Quân cố gắng để nhịp thở thật ổn định, nhưng đến cuối cùng thân thể luôn không tự chủ được run rẩy, ban nãy y đứng như cột buồm nên không ai nhận ra, lúc này Trường Canh ôm y, cảm giác được loại đau đớn dữ dội nào đó sắp bùng khỏi cơ thể.

Cố Quân khẽ thở hổn hển một lát, ấn đường nhíu lại không dễ phát hiện, nở nụ cười tùy tiện với Trường Canh, nói dối không chớp mắt mà phỉ báng: "Được rồi, một người Đông Doanh mà thôi, để ta vuốt lông cho ngươi, không phải sợ – đừng ôm ta chặt thế."

Trường Canh: "..."

Thật sự vừa đau lòng vừa muốn đánh chết y.

Cố Quân chống mũi trường đao Đông Doanh, một lần nữa đứng dậy, mạch máu màu xanh lộ rõ từng đường trên mu bàn tay nhợt nhạt, cơ hồ muốn nứt da. Trong bát rượu Trần Khinh Nhứ bưng cho y có bỏ loại thuốc y thường uống, Cố Quân vừa ngửi đã nhận ra, y băn khoăn một chút giữa "điếc mù" và "đầu muốn vỡ ra, nhưng có thể nhìn thấy", nhanh chóng chọn cái thứ hai.

Kỳ thực không uống cũng chẳng có vấn đề gì lớn, dù sao thì Cố Quân trước đó cũng không biết "nhạc sư" của Lâm Uyên các vừa khéo là cháu gái Trần thần y, nhưng khi bát thuốc kia bưng đến trước mặt, y rốt cuộc không thể vượt qua ham muốn khống chế trong xương cốt.

Cố Quân thừa nhận Thẩm Dịch đúng, cũng biết một ngày kia y sẽ phải chung sống hòa bình với thân thể tàn khuyết này, nhưng biết là một chuyện, nhất thời vẫn chưa làm được.

Cho dù y biết mình không dựa vào thị lực và thính lực cũng có thể sống ổn chẳng có trở ngại gì. Cho dù trong lòng y hiểu, bất cứ một loại ốm đau nào, một khi đã quen, sẽ không tính là ốm đau nữa.

Nhưng lão Hầu gia vì việc này mà tước đoạt thời thơ ấu và thiếu niên vô ưu vô lự của y, có lẽ tuy thời gian qua đi cảnh vật đổi thay, rốt cuộc vẫn khó nhịn được.

Việc này tạm thời không có biện pháp, khó nhịn cũng chỉ đành chậm rãi nhịn, chờ thời gian giải đáp hết thảy – kỳ thực mấy năm nay mấp mô sống cùng Trường Canh, oán khí trong lòng Cố Quân với đời trước đã phai nhạt không ít, tuy y nhất định sẽ không nghiêm khắc với Trường Canh như lão Hầu gia, nhưng cũng dần dần có thể hiểu được tấm lòng người làm cha của lão Hầu gia.

Sự tiêu trừ của tất cả thù oán trên thế gian này, đại để vừa dựa vào quên lãng, vừa dựa vào lấy tâm so tâm.

Trường Canh nghiến răng nghiến lợi nói: "Không."

Y chẳng những không buông tay, đôi tay ôm Cố Quân còn siết thật chặt, dù chết dù sống cũng phải dính lấy Cố Quân, gần như cưỡng ép, dính Cố Quân mà vào khoang thuyền.

Cố Quân ngạc nhiên nói: "Sao ngươi lại phát minh ra một cách làm nũng mới rồi?"

Trường Canh gằn từng chữ giễu ngược: "Bị người Đông Doanh hù chết đấy."

Cố Quân: "..."

Trường Canh nhủ thầm với lòng: "Bình tĩnh, bình tĩnh nào."

Y vừa im lặng cố gắng bình tĩnh lại, vừa đỡ Cố Quân ngồi xuống ghế của tay phỉ thủ ban nãy, điều chỉnh một tư thế tương đối thoải mái cho Cố Quân dựa.

Trường Canh cau mày ngắm nghía sắc mặt Cố Quân một chút, hạ giọng hỏi thầm bên tai: "Nghĩa phụ, người khó chịu ở chỗ nào?"

Cố Quân biết không thể giấu được, nghĩ một chút, quyết đoán lựa chọn cách chơi xấu, ngoắc tay gọi Trường Canh.

Trường Canh thần sắc ngưng trọng tiến lại gần.

Cố Quân thì thào: "Kinh nguyệt không đều, bị đau bụng."

Trường Canh mới đầu chưa kịp phản ứng: "Cái gì?"

Hỏi xong y mới ngộ ra, mặt thiếu niên thoắt cái đỏ bừng lên, không biết là xấu hổ hay tức giận.

Cố Quân đau đầu như búa bổ, chỉ hận không thể đâm vào tường, lại thấy Trường Canh mặt mỏng đến đáng yêu, vừa chịu đựng vừa cười, tiêu khiển lẫn giảm đau đều không để lỡ.

Trong mắt Trường Canh cơ hồ phun ra lửa, phẫn nộ trừng y.

Cố Quân rất giỏi tiết tấu "đùa giỡn một chút phải sờ đầu", lập tức lại ho một tiếng, nghiêm mặt nói: "Buổi tối chưa kịp ăn gì, lại uống một bát rượu lạnh của Trần cô nương, nên dạ dày hơi đau, không sao đâu."

Câu này thoạt nghe khá có lý, nhưng thường niên trong quân ngũ, ai mà không bữa đói bữa no?

Loại đặc biệt da dày thịt chắc như Cố đại soái, sao lại không biết xấu hổ làm bộ yếu ớt?

Sự cố gắng để bình tâm tĩnh khí của Trường Canh vừa rồi hoàn toàn hóa thành bọt nước, y tức muốn bốc khói, buột miệng nói: "Cố Thập Lục, ngươi..."

"Ngươi" cả buổi mà không nghĩ ra nên mắng thế nào.

Cố Quân chợt nở nụ cười, giơ tay vỗ vỗ đầu Trường Canh: "Sao, lớn rồi, biết thương nghĩa phụ rồi? Không thương uổng đâu."

Bàn tay y như màn trời, lửa giận ngùn ngụt trong lòng Trường Canh cứ thế bị dập tắt ngấm, chớp mắt chỉ còn lại một chút khói nhẹ chẳng đáng kể, tắt vừa vô lực vừa bất đắc dĩ.

Trường Canh nghĩ thầm: "Trời mới thương ngươi, miệng không được một câu nói thật, ta cần gì phải nhọc lòng không đâu? Dù sao thì cũng chẳng chết nổi."

Thế nhưng sắc mặt khó coi của Cố Quân đâm thẳng vào làm mắt y đau nhói, Trường Canh quản được mình nói gì nghĩ gì, lại quản không được sự nôn nóng trong lòng.

Y giận dỗi một hồi, rồi thầm thở dài, quay người vòng qua cái ghế lớn đầy khí thế kia, hai tay ấn huyệt thái dương cho Cố Quân, bắt đầu xoa rất chuyên nghiệp, vẻ mặt trầm như nước do mới cãi nhau. Trường Canh thấy bả vai Cố Quân thả lỏng, thường không phải là ngực bụng bị đau, tứ chi cũng hoạt động như thường, chắc hẳn một chút vết thương ngoài da trên cánh tay và chân cũng chưa tới mức làm y đau đến thế, nghĩ tới nghĩ lui, đại khái vẫn là đau đầu – Trường Canh nhớ rõ trên đường từ Nhạn Hồi trấn về kinh thành cũng từng bị một lần rồi.

Vừa ấn, y vừa không nhịn được châm chọc một câu: "Nghĩa phụ lần trước còn nói với con là người bị đau nửa đầu, hôm nay quên rồi à?"

Cố Quân: "..."

Y quả thật quên mất, đời này nói dối nhiều vô kể, nếu mỗi điều đều nhớ rõ, chắc trong đầu cũng chẳng còn chỗ chứa cái khác.

Trường Canh: "Hửm?"

Cố Quân: "Đau đầu thì cũng có, không phải là cúc cung tận tụy vì Đại Lương đến đa sầu đa bệnh sao, ôi!"

Y nói mà không đỏ mặt chút nào, Trường Canh bái phục, hoàn toàn hết nói nổi.

Cố Quân nói xong liền dùng đến tuyệt chiêu "nằm xuống là ngủ", nhắm mắt hưởng thụ sự hầu hạ của Trường Canh, chỉ tiếc việc bên ngoài vẫn chưa xong, y phải thời khắc giữ lại một tai, không dám thật sự ngủ say.

Trường Canh mới đầu chuyên tâm ấn huyệt vị, ấn một hồi, ánh mắt liền không tự chủ được chuyển sang mặt Cố Quân.

Đối với người đã nhìn quen mà nói, kỳ thực đẹp hay xấu đều chẳng khác mấy, ngay cả tiểu bạch kiểm yêu dị của hòa thượng, lượn lờ trước mắt thời gian dài, y cũng cảm thấy không khác gì Vương bá hầu phủ – A, Vương bá còn ưa sạch sẽ hơn tay hòa thượng kia.

Chỉ có Cố Quân là ngoại lệ.

Mái tóc Cố Quân bị người Đông Doanh làm tung chưa kịp buộc lại, như hoa rơi nước chảy xõa ra đầy vai. Trường Canh ngắm y rất lâu, các loại mộng cảnh kìm nén thật sâu trong ký ức không tự chủ được trỗi lên trong lòng, nếu y không khắc chế, những ký ức đó sẽ còn được một tấc muốn tiến một thước, kích khởi một chút ảo tưởng kéo dài. Mỗi khi đến lúc này, y đều như đối kháng Ô Nhĩ Cốt, cưỡng ép cắt ngang mạch suy nghĩ, lôi mớ kinh văn vô nghĩa Liễu Nhiên dạy ra lặp đi lặp lại dưới đáy lòng, như dùng một hòn đá mài đao mà mài qua mài lại tim mình vậy.

Nhưng không biết vì sao mà chiêu này đột nhiên hết tác dụng. Có thể là toàn bộ tự chủ của Trường Canh đều dùng trên việc kiềm chế lửa giận vừa rồi, thế là mạch suy nghĩ lập tức như ngựa thả cương.

Ô Nhĩ Cốt rục rịch trong thân thể bện cho y một ảo tưởng không cách nào tả nổi.

Y phảng phất nhìn thấy mình khom lưng, hôn trán, ấn đường, mũi Cố Quân... chần chừ dời đến môi, đôi môi ấy nhất định sẽ không mềm lắm, cũng không ngọt lắm, chắc còn là đắng, như mùi thuốc vĩnh viễn không xua đi trên người Cố Quân, hoặc thoang thoảng mùi rượu. Trường Canh còn rất muốn cắn một phát, ý nghĩ này vừa sinh ra, thì môi răng y lập tức như có vị máu tươi hơi ngòn ngọt, làm toàn thân run rẩy. Trường Canh run lên, rồi y chợt định thần lại, phát hiện mình đang si dại đứng ở sau ghế của Cố Quân, đầu lưỡi đã bị mình cắn rách.

Ngay sau đó, Trường Canh ý thức được ngón tay mình còn ở cạnh tai Cố Quân, tức khắc rụt phắt lại như bị phỏng.

Y đứng đờ ra giây lát, hơi thở bất ổn mà gọi khẽ: "Nghĩa phụ?"

Cố Quân đang ngủ say, không mở mắt, cũng không nhìn thấy huyết quang trong mắt Trường Canh chưa rút đi.

Trường Canh nhìn y một cái thâm sâu, cầm bội kiếm lên, rảo bước chạy ra khoang thuyền.

Ngoài khoang thuyền gió biển phần phật, huyền ưng quanh quẩn ở gần chủ hạm để hộ vệ, thủy quân Giang Nam chính quy bên dưới trong sự chỉ huy của Diêu Trấn dọn dẹp gọn gàng chiến cục. Người Đông Doanh như cây đổ bầy khỉ tan nhảy luôn xuống biển, chuẩn bị ngồi thuyền nhỏ hoặc bơi đi, tứ phía hải giao đã giăng sẵn lưới dưới nước, không bao lâu đã bắt cả đống cá tự chui đầu vào.

Hoàng Kiều bị dẫn đến trước mặt Diêu Trấn, Diêu Trấn vẻ mặt suy tư, đang ở cách không xa khom lưng nói gì đó với hắn.

Những việc hối hả này lọt hết vào mắt Trường Canh, tất cả không đi vào lòng, hơi nóng trên người trên mặt chậm rãi tiêu tan trong gió biển.

Sự lạnh lẽo âm u trên biển như ung nhọt ăn vào tủy lén lút chui vào xương y, lạnh đến buốt da buốt thịt, Trường Canh mặt hướng về biển rộng, thầm mắng mình: "Ngươi là đồ súc sinh."

Y nghĩ, mình không thể ở lại hầu phủ hay bên cạnh Cố Quân nữa.

Hai ngày sau, tại phủ Diêu đại nhân.

Hoa đào trong viện đã nở, hơi nước thoảng theo mùi thơm hất vào mặt, Cố Quân ngồi trước cửa sổ, cắn hạt dưa chờ Diêu Trấn viết tấu chương – sợ kinh thành sinh biến, tấu chương khẩn cấp sớm đã đưa về kinh thành.

Kinh thành phong tỏa tin tức, nhưng các phương đều có tai mắt riêng, đã truyền ra đôi câu vài lời, nói Hoàng thượng tức giận, lệnh cho Ngự lâm quân vây bắt Ngụy vương, Ngụy vương tính nhân đêm trốn khỏi kinh thành, đi đến Đức Thắng môn thì bị đuổi kịp, cụ thể xử trí thế nào thì chẳng ai hay biết.

Trước mắt Giang Nam hết thảy đã kết thúc, phải trình thêm một bản tấu, để tấu rõ tiền căn hậu quả cho Hoàng thượng.

Diêu Trấn vẻ mặt thiếu ngủ gác bút: "Hầu gia, ngài xem việc này phải tính thế nào?"

Cố Quân thờ ơ trả lời: "Cứ nói Án sát đại nhân phát hiện trên biển có bất thường, ngầm phái người điều tra cẩn thận, nhân khi phản quân chưa thành hình, nhất cử tỏa bại âm mưu của chúng."

Diêu Trấn: "Không không, ta là một thư sinh, lên giao say giao, lên diên say diên, nôn mửa suốt dọc đường, nào có tài đức gì? Đương nhiên là Hầu gia một mình xông vào trận địa địch, ngăn cơn sóng dữ."

Cố Quân cười nói: "Hầu gia? An Định hầu ở tận Tây Bắc, chẳng lẽ y biết thuật phi thiên độn địa? Ta trái lại nghe nói Diêu đại nhân lâm trận cơ trí, lệnh cho binh tướng thủ hạ mặc hắc giáp, chấn nhiếp phản quân, khiến chúng tự loạn, thủ đoạn như vậy thật khiến người ta bội phục."

Diêu Trấn nói luôn không nghĩ ngợi gì: "Ta không làm, ngài đừng hại ta."

Diêu đại nhân năm nay ba mươi sáu, chính là tuổi trẻ trung khỏe mạnh nhất của một nam nhân, nuôi hai chòm râu dê đầy sức sống, trời sinh khuôn mặt khôn ngoan tháo vát; người này nửa đời sĩ đồ nhấp nhô, bám riết vùng đất gạo cá ê hề không đi, không hề có công tích chi, có tuyệt kỹ ngủ suốt một ngày một đêm không dậy.

Mọi người đại khái đều đã quên, năm Nguyên Hòa thứ mười hai, Lâm Mạch Sâm lão sư của Cố Quân còn tại thế, chính là quan chủ khảo lần thi hội ấy, gặp văn chương của Diêu Trấn, không khỏi đập bàn khen ngợi, trình lên Hoàng đế Nguyên Hòa, ngự bút thân phong Trạng nguyên lang.

Cố Quân ý tứ sâu xa nói: "Bình phản loạn Đông Hải, tiêu trừ một trận đại chiến có thể nguy hiểm cho kinh kỳ trọng địa, công lao lớn nhường ấy ngươi không cần sao? Tương lai xuất tướng nhập tướng ở ngay trong tầm tay rồi Diêu đại nhân à."

Diêu Trấn cười khổ nói: "Có năng lực cỡ nào thì ăn bát cơm cỡ ấy, hạ quan vô tài vô đức, nằm trong một góc thoải mái dưỡng lão là được, nào có bản lĩnh thừa phong hóa vân? Hầu gia tha cho hạ quan đi."

Cố Quân: "Ta còn muốn báo lên Hoàng thượng, phái ngươi tới Tây Bắc làm giám quân đây."

Diêu Trấn ôm đầu chắp tay: "Hạ quan trên có mẹ già tám mươi, dưới có ấu tử gào khóc đòi ăn, cầu xin anh hùng tha cho cái mạng chó này, xem nhà ta có thứ gì tốt, ngài cứ việc lấy hết đi."

Cố Quân: "..."

"Hay là thế này đi Hầu gia, việc này xảy ra ở chỗ chúng ta, Chu đại nhân Tổng đốc Lưỡng Giang nhất định không né được, để ta đi thương lượng với lão nhân gia." Diêu Trấn cười xòa nói, thấy sắc mặt Cố Quân tựa hồ không tốt lắm, lại vội bổ sung một câu, "Đúng rồi, còn có tiểu điện hạ, tiểu điện hạ du lịch Giang Nam, tình cờ nhìn thấy phản quân bắt trường tý sư dân gian, gặp chuyện bất bình, một mình lẻn vào, nội ứng ngoại hợp với quân ta, tự tay bắt được phỉ thủ, ngài thấy như thế có được không?"

Lời này vừa ra khỏi miệng, Cố Quân liền không lên tiếng nữa.

Đối với xuất thân của Trường Canh, đương kim Hoàng thượng tuy không tiện nói rõ, nhưng nhất định có khúc mắc trong lòng. Hiện tại chuyện này không khéo dính dáng đến Ngụy vương, Hoàng thượng tất nhiên lạnh lòng, nhìn lại thấy ấu đệ vẫn không chào đón này cờ xí rõ ràng đứng bên hắn, chưa biết chừng chịu bỏ qua ân oán đời trước.

Trường Canh đã sắp đến tuổi phong vương, nếu có thể được Hoàng thượng ưu ái, con đường tương lai có lẽ sẽ dễ đi hơn.

Cố Quân cân nhắc giây lát, tức giận trừng Diêu Trấn một cái – người này quả thật cực kỳ có tài, nếu không cũng khó mà duy trì tình hữu nghị lâu bền với An Định hầu chỉ có duyên gặp mặt một lần, nhưng không cầu tiến cũng là thật, toàn bộ truy cầu chính là ăn no ngủ khì, dồn hết thông minh tài trí vào đút lót nịnh nọt.

Diêu Trấn cười hì hì hỏi lại: "Hầu gia, ngài thấy như thế có được không?"

Cố Quân chẳng thèm để ý đến hắn, trợn mắt phất áo bỏ đi.

Y chuẩn bị lặng lẽ rời khỏi Giang Nam, trong chuyện này, Lâm Uyên các và Huyền Thiết doanh đều tham dự, nhưng đều không tiện lộ diện, làm sao vo cho tròn, phải nhờ hết vào bút của Diêu Trấn.

Lúc Cố Quân đẩy cửa ra, thấy Trường Canh đang vót sáo trúc trong viện, Cát Bàn Tiểu Tào Nương Tử và hai tiểu nữ nhi của Diêu đại nhân đều vây quanh y. Trường Canh khéo tay lại ôn hòa kiên nhẫn, vót cho mỗi người một cây, trông rất khá, hai tiểu nha đầu đều chưa đầy mười tuổi, chạy quanh y nhảy nhót reo hò.

Cố Quân nhìn thấy Trường Canh liền cảm thấy tâm tình rất tốt, tuy chưa bao giờ nói ra, y vẫn hi vọng Trường Canh có thể thành một người nhạy bén nhưng thông minh không quá lộ ra, nhân nghĩa lại không thiếu quyết đoán, không yếu đuối như phụ thân, cũng không cực đoan như mẫu thân.

Sự trưởng thành của Trường Canh hoàn toàn không mưu mà hợp với suy nghĩ của y.

Ngay cả ngoại hình cũng chọn ưu điểm của cha mẹ để kế thừa.

Y đi tới, rút một cây sáo mới thành hình trong tay Trường Canh, cười nói: "Có phần của ta không?"

Nụ cười thả lỏng trên mặt khựng lại, Trường Canh lấy lại cây sáo, đưa cho tiểu nữ hài đang đứng hóng bên cạnh, miệng nói: "Đồ chơi để dỗ trẻ con, xấu xí lắm, nghĩa phụ đừng giễu cợt."

Cố Quân: "..."

Y im lặng nhìn chằm chằm cây sáo trong tay cô bé, nghĩ thầm: "Ta cũng muốn."

Đứa trẻ chưa cao bằng chân Cố Quân giấu tay ra sau lưng, hung hãn ngửa đầu nhìn Cố đại soái, không sợ gì hết.

Trường Canh bỏ đồ trong tay xuống, ra hiệu cho bọn Cát Bàn Tiểu dẫn hai tiểu nha đầu đi chơi, mình thì đi theo Cố Quân, lòng chùng xuống, hỏi: "Nghĩa phụ phải về Tây Vực rồi ạ?"

Cố Quân: "Ừ, ngươi thay ta hồi kinh gặp thánh, nên nói thế nào thì Trọng Trạch sẽ dạy, không cần lo lắng."

Trường Canh im lặng gật đầu.

"Lần này ngươi đã lập công, Hoàng thượng có khả năng sẽ phong thưởng," Cố Quân nói, "Có thể sẽ để ngươi vào triều nghe chính sự sớm, nếu ngươi đề cập, chưa biết chừng y còn cho ngươi đến Tây Bắc tìm ta."

Năm nay gặp lại, Trường Canh đã là một người lớn lâm nguy không loạn, vẻ trẻ con năm ngoái không còn sót lại chút nào, Cố Quân cũng buông lỏng suy nghĩ kiên quyết không dẫn y đi Tây Bắc, trước mắt nhân Tây Bắc còn miễn cưỡng xem như thái bình, Cố Quân thầm nghĩ, cũng có thể dẫn Trường Canh đi mở mang kiến thức, dù sao thì cũng chẳng cần y làm gì, tương lai về triều còn có thể tính là vốn của y.

Lúc Cố Quân đi vắng, Trường Canh từng một lòng một dạ muốn theo đến Tây Bắc, Cố Quân vốn cho rằng rốt cuộc được như mong muốn, ít nhất y sẽ mừng khôn xiết một lần.

Ngờ đâu Trường Canh đứng khựng lại, im lặng chốc lát, đoạn nói: "Nghĩa phụ, con không muốn đến Tây Vực nữa."

Việc này hoàn toàn không giống với kỳ vọng, Cố Quân sửng sốt, buột miệng hỏi luôn: "Vì sao?"

Trường Canh đáp rất có lý: "Tây Vực có Huyền Thiết doanh của nghĩa phụ tọa trấn, con đến cũng chỉ thêm rối, còn phải phiền người phí tâm tư cho con một chút quân công giả dối, không có ý nghĩa gì."

Tuy trên đại thể Cố Quân nghĩ như vậy, nhưng Trường Canh vạch thẳng ra trước mặt, y vẫn có cảm giác như bị hắt nước lạnh, miễn cưỡng giữ nguyên sắc mặt không thay đổi, nói: "Thế... cũng tốt thôi, về kinh vào triều nghe chính sự cũng được, lão sư của ta có một số môn sinh, ngươi đi làm quen trước một chút cũng..."

Trường Canh: "Thế không phải cũng giống nhau sao?"

Trong khi nói chuyện, y ngẩng đầu thoáng nhìn đoạn cuối của một hành lang nhỏ, Giang Nam diễm dương chiếu nghiêng xuống, hoa xuân rực rỡ khắp vườn. Nhưng nghe hạ nhân Diêu phủ nói, tuy rằng nhìn xán lạn, thực ra kỳ hoa nở cũng chỉ mươi bữa nửa tháng, chẳng bao lâu là tàn, đây còn là nở trong vườn, chứ nếu nở ở rừng núi hoang vắng hiếm ai tới, lặng lẽ nở rộ, lại lặng lẽ điêu linh, sinh tử như một chớp mắt, bên cạnh chẳng qua mấy con dã cầm si thú, lại có ai biết được?

Hoa là như thế, rất nhiều yêu ghét vô vị trong lòng người đại để cũng là như thế.

Trường Canh: "Nghĩa phụ, bên cạnh Liễu Nhiên đại sư có rất nhiều kỳ nhân, con muốn cùng họ vân du tứ phương, nhất định sẽ không trễ nải việc đọc sách và luyện công..."

Không phải là nói nhảm à?

Còn chưa nói hết thì Cố Quân đã sầm mặt ngắt lời: "Không được."

Trường Canh nghiêng người, im lặng nhìn y.

Trong ánh mắt thiếu niên ngược sáng ẩn chứa thứ gì đó khó nói rõ, trước kia Cố Quân chưa bao giờ lưu ý, lúc này chợt thấy, lại hơi kinh hồn táng đảm. Y lập tức ý thức được ngữ khí của mình hơi cứng nhắc, thần sắc thoáng dịu đi, nói: "Ngươi đi chơi thì không có vấn đề gì, chờ trở về kinh rồi, kêu Vương bá điều mấy thị vệ hầu phủ cùng ngươi đi quanh một chút, nhưng có một điểm, là không được phép đến nơi không có trạm dịch của triều đình, mỗi khi đến một trạm dịch đều phải gửi phong thư báo bình an cho ta."

Trường Canh nhàn nhạt nói: "Dọc đường cẩm y ngọc thực cho mất mặt à? Thế còn không bằng rỗi rãi đến Hộ Quốc tự thắp nhang với các phu nhân tiểu thư, còn bớt bạc người ăn ngựa mỏi."

Cố Quân: "..."

Tiểu tử này vậy mà biết tranh luận rồi!

Còn nhất phái ưu nhã thong dong ngầm châm chọc!

Tâm tình tốt đẹp của Cố Quân do xuân sắc Giang Nam đột nhiên không còn sót lại chút nào, y nghĩ bụng: "Sao còn nói không thông, chiều quá muốn leo lên đầu luôn hả?"

Ngữ khí y bắt đầu có chút mất kiên nhẫn: "Giang hồ đường xa, lòng người hiểm ác, có gì vui đâu? Hòa thượng kia vai không thể gánh tay chẳng thể vác, trừ bỏ chạy thì chỉ biết ăn xin, ngươi đi theo hắn vạn nhất trên đường có chuyện gì, ta làm sao ăn nói với tiên đế?"

"A," Trường Canh hờ hững nghĩ, "Quả nhiên là vì ăn nói với tiên đế, tiên đế dưới cửu tuyền nếu nghe nói ta là tiểu tạp chủng không biết Tú Nương kiếm đâu ra để xáo trộn huyết thống hoàng gia, khéo tức đến mức phải hoàn dương bóp chết ta."

Cứ nhìn Cố Quân thêm một cái, là y cảm thấy tim như bị dao cắt một lần, tội nghiệt nặng nề một lần, hận không thể lập tức bỏ trốn. Nhưng người kia lại giữ chặt không cho y đi.

Trường Canh không biết phải làm gì với Cố Quân, có lần trong lòng còn vô duyên vô cớ sinh ra một phen oán độc dai dẳng, nhưng nhanh chóng định thần lại.

Trường Canh thu tầm mắt khỏi người Cố Quân, bình tĩnh nói: "Mấy hôm trước nghĩa phụ còn nói với con, chỉ cần là đường con tự mình nghĩ kỹ muốn chọn thì đều được, mà giờ đã nuốt lời nhanh đến thế?"

Cố Quân rất giận: "Ta bảo ngươi tự mình nghĩ kỹ, ngươi như vầy là nghĩ kỹ rồi hả?"

Trường Canh nghiêm túc: "Con quả thật nghĩ như vậy."

"Không được, nghĩ lại lần nữa! Nghĩ kỹ rồi thì tìm ta nói." Cố Quân không muốn mắng y ở bên ngoài, liền tức giận phất tay áo, quay người bỏ đi.

Trường Canh nhìn theo bóng lưng Cố Quân, phủi cánh hoa dính trên người, nghe thấy phía sau có tiếng bước chân, chẳng cần quay đầu đã nhận ra là ai đến, nói: "Để Liễu Nhiên đại sư chê cười rồi."

Liễu Nhiên hòa thượng mới đầu không dám ra đây, thập thò cả buổi, thấy Cố Quân đi rồi, mới yên tâm lộ diện, dùng thủ ngữ nói: "Hầu gia có ý tốt."

Trường Canh cúi đầu nhìn đôi tay mình, tay đã hơi chai, chỉ là còn chưa trải qua thử thách của vết thương.

Y hờ hững nói: "Ta không muốn ỷ lại lòng tốt của y để làm một phế vật mọi việc đều dựa dẫm vào y."

"Hòa thượng cảm thấy điện hạ hơi cực đoan," Liễu Nhiên ra dấu, "Cho dù là thánh nhân, lúc còn nhỏ, hầu hết cũng trưởng thành dưới sự chở che của phụ mẫu bề trên, với tiêu chuẩn của điện hạ, chẳng phải thiên hạ toàn phế vật sao? Đại tài trưởng thành muộn, cần phải bớt kiêu ngạo xốc nổi."

Trường Canh không đáp, hiển nhiên là không nghe.

Liễu Nhiên hòa thượng lại nói: "Ta thấy điện hạ thần sắc phiền muộn, là độc đã ăn vào tận xương."

Trường Canh giật nảy mình, cho rằng hắn đã biết chuyện Ô Nhĩ Cốt.

Lại thấy Liễu Nhiên hòa thượng tiếp tục: "Trong lòng người đều có độc, có nặng có nhẹ, điện hạ tuổi này, vốn không nên phát tác triệt để như vậy, ngài suy nghĩ quá nhiều rồi."

Trường Canh cười khổ nói: "Ngươi biết cái gì?"

Y luôn cảm thấy hết thảy xung quanh mình – vương tước, hư danh, đều là Tú Nương trộm cho, rồi có một ngày sẽ có người nhận ra y không xứng với mấy thứ này, khiến y lộ ra chân tướng, khiến y mất đi tất cả.

Nơm nớp lo sợ như vậy quen rồi, Trường Canh thủy chung cảm thấy mình ở kinh thành là một người ngoài cuộc.

Cố Quân đứng trên góc độ của tứ điện hạ trù tính tiền đồ cho y, mà trong lòng y một chút cảm giác chân thật cũng không có.

Mỗi ngày soi gương đều biết mình là con "địa long" dưới bùn, người ta lại cứ muốn trồng sừng cắm vảy cho y, hao hết tâm cơ trang trí y thành chân long, không ngờ trang trí nhiều hơn cũng chẳng ra cái gì, y thủy chung là con giun đất không ngoi lên được.

Đã thế, chi bằng cứ tránh xa một chút, để tương lai khỏi khó xử.

Chỉ có một Cố Quân, hỉ nộ ai lạc mang đến cho y đều khắc cốt minh tâm, không mảy may giả dối, y không cách nào lừa mình dối người nhẹ nhàng buông xuống, chỉ là thường xuyên cảm thấy mình không xứng.

Trường Canh không tự oán tự trách quá lâu, nhanh chóng định thần lại, hỏi: "Đúng rồi, đại sư, ta vẫn luôn muốn hỏi ngài, tiểu nghĩa phụ của ta rốt cuộc có chứng bệnh gì? Lần đó đến Đông Hải y rất bất thường, nhưng lại không chịu cho ta biết."

Hòa thượng lật đật lắc đầu: "A di đà Phật, hòa thượng không dám nói đâu."

Trường Canh nhíu mày: "Chính y sính cường thì thôi, ngươi còn giúp y?"

"Hầu gia há là người sính cường vô vị?" Liễu Nhiên cười nói, "Việc này nếu bản thân y không muốn đề cập, không phải là sợ người khác biết nhược điểm của y, đại khái bởi vì đây là vảy ngược trên người và độc trong lòng y – ai dám chạm vào vảy ngược của An Định hầu? Điện hạ tha cho cái mạng nhỏ của ta đi."

Trường Canh suy tư nhíu mày.

Cố Quân chẳng dễ gì trốn khỏi đại mạc cát vàng mấy hôm, vốn định thưởng thức phong cảnh Giang Nam, ra ngoài cưỡi ngựa, du hồ, ngắm vài mỹ nhân, trước khi đi phải chơi cho đủ, kết quả là bị hai câu của Trường Canh làm mất cả hứng, ru rú trong phòng không chịu ra ngoài, bởi vì y nhìn Trường Canh cũng giận, nhìn Diêu Trấn cũng giận, nhìn Liễu Nhiên càng tức muốn bốc khói.

Hai đứa con nít quỷ của Diêu gia còn không chịu yên, đua nhau thổi sáo trúc, mười dặm tám thôn đều nghe thấy, y như một đôi sáo om sòm vậy.

Cố Quân vừa nghe âm thanh chẳng thành điệu ấy, liền nhớ đến cảnh Trường Canh rút sáo khỏi tay mình, càng tức giận hơn – ngày xưa không phải có thứ gì cũng cho nghĩa phụ trước à? Sao nói thay đổi là thay đổi luôn vậy?

Thương thay duyên phận của phụ mẫu thiên hạ với con cái thoạt nhìn huyết mạch tương liên, nhưng thì ra đều không thể dài lâu.

Huống chi không phải ruột thịt, ngay cả huyết mạch tương liên cũng chẳng có.

Chập tối, một huyền ưng đáp xuống sân: "Đại soái, Thẩm tướng quân gửi thư."

Cố Quân nén cơn giận, nhận thư xem, chỉ thấy Thẩm Dịch ngắn gọn hẳn so với cách viết thư dài dòng mọi khi, chỉ ba chữ – gấp, về ngay.

Thẩm Dịch từ Linh Xu viện ra đây xuất sinh nhập tử với y, có trận thế nào chưa từng gặp? Không có việc tuyệt đối sẽ không viết thư khẩn giục cho người ta ghét.

Huyền ưng: "Đại soái, ngài xem..."

Cố Quân: "Biết rồi, không cần hồi âm, ngày mai chúng ta sẽ khởi hành."

Bên phía Trường Canh căn bản còn chưa xong, Cố Quân vốn định lơ y vài hôm rồi nói tiếp, nhưng Thẩm Dịch thúc giục, không có cách nào khác, đành phải đi hai vòng trong phòng rồi đứng dậy sang tìm.

Trường Canh đang luyện kiếm trong viện, Cố Quân đứng xem một lát, đột nhiên với tay rút bội kiếm của huyền ưng, huyền ưng chưa tháo giáp, trọng kiếm bản to như bàn tay người trưởng thành, bị y cầm nhẹ không như chổi lông gà: "Cẩn thận này."

Lời còn chưa dứt, một kiếm đã lia ngang tới, Trường Canh vững vàng đỡ được, lại không lui một bước.

"Có tiến bộ," Cố Quân thầm nghĩ, "Tay cũng có chút sức lực rồi."

Y hất lên, nhờ lực của kiếm trong tay tung người lên, đại khai đại hợp một kiếm như trăng tròn.

Trường Canh không dám đón chiêu, chân dịch liền mấy bước, lại không trừ được lực của nhát kiếm này, trọng kiếm cồng kềnh trong tay Cố Quân như linh xà thè lưỡi, chớp mắt đã đâm ra ba nhát, Trường Canh hoành kiếm chắn, người đã lui tới góc, nghiêng người nhảy lên xà nhà, xoay tròn trên không, giẫm một chân lên trọng kiếm của Cố Quân.

Cố Quân khen hay một tiếng, chợt buông chuôi kiếm, Trường Canh hụt chân, hơi lảo đảo, Cố Quân giơ tay bắt lại chuôi kiếm, nhẹ nhàng đè xuống ngay vai thiếu niên vẫn chưa đứng vững, huyền thiết kiếm quang làm y nổi da gà.

Cố Quân bật cười, dùng trọng kiếm vỗ vai Trường Canh, đoạn ném kiếm cho huyền ưng phía sau: "Không tệ, công phu chưa từng lười biếng."

Trường Canh hoạt động cổ tay ẩn ẩn tê rần: "So với nghĩa phụ còn kém xa lắm."

Cố Quân nói không biết ngượng: "Ừ, đúng là còn kém xa lắm."

Trường Canh: "..."

Trong tình huống bình thường không phải nên khiêm tốn trước rồi chân thành dạy vài câu à? Sao y còn thuận thế khoe khoang! Có nghĩa phụ nào thiếu khiêm tốn như vậy không?

Cố Quân: "Nếu ngươi đến đại doanh Tây Bắc, ta có thể đích thân dạy ngươi."

Quả nhiên vẫn là vì việc này, Trường Canh không nhịn được bật cười.

Kể cũng lạ kỳ, đôi khi, một người thật sự muốn có được thứ gì đó, nóng vội khát cầu dốc hết mưu kế cũng chẳng được, bỗng nhiên cảm thấy không muốn nữa, thì thứ kia ngược lại dây dưa tìm tới cửa.

Trường Canh khéo léo từ chối: "Lúc ở hầu phủ, con từng hỏi sư phụ, nghĩa phụ hồi nhỏ luyện kiếm tập võ cũng là ở hầu phủ, vì sao có thể lợi hại như vậy, sư phụ bảo rằng, công phu vững chắc, chủ yếu xem mình chịu bỏ bao nhiêu công sức, công phu lợi hại, chủ yếu là tình huống sinh tử trên chiến trường nhiều rồi, chứ ai dạy cũng thế thôi."

Nụ cười của Cố Quân biến mất.

Trường Canh: "Nghĩa phụ, con đã nghĩ kỹ rồi, vẫn muốn ra ngoài xem thiên địa."

Cố Quân nhíu mày nói: "Thiên địa ở kinh thành và biên cương không phải thiên địa à? Ngươi còn muốn thấy cái gì, Đại Lương chứa không nổi ngươi nữa? Ngươi còn muốn tới Tây Dương hay sao?"

Thấy lại sắp cãi nhau, huyền ưng ở phía sau không dám hó hé tiếng nào, sát thủ không trung cao lớn ôm trọng kiếm, vờ như mình là một đống than quên dọn.

Trường Canh không lên tiếng, chỉ nhìn thật sâu vào mắt Cố Quân, trong tích tắc, y rất muốn đem chuyện kìm nén trong lòng dốc ra như nôn mửa, sau đó nhịn xuống – y thử tưởng tượng phản ứng mà Cố Quân có thể có, cảm thấy mình chắc là không chịu nổi.

Cố Quân: "Ngươi không cần phải nói nữa, ta không muốn biết mấy ý nghĩ vớ vẩn đó của ngươi là từ đâu ra, ngày mai cứ đuổi tên hòa thượng kia cút đi, ngươi ngoan ngoãn quay về kinh thành, đã không muốn đi Tây Bắc, vậy thì ở nhà, khỏi đi đâu hết!"

Trường Canh rất muốn hét lớn một tiếng với Cố Quân: "Hầu phủ không phải nhà của ta."

Nhưng lời này ra đến môi, lại bị y cắn làm đôi nuốt xuống, theo bản năng sợ nói ra làm Cố Quân thương tâm – dù rằng không biết Cố Quân có tâm hay không để mà bị tổn thương.

"Nghĩa phụ," Trường Canh lặng lẽ nói, "Lần này phiền người từ Tây Bắc cất công đến, lòng con rất buồn, nhưng nếu người bất chấp lý lẽ, con cũng chỉ có thể tùy hứng đáp lại. Con có thể chạy một lần, thì có thể chạy hai lần, người không thể vĩnh viễn canh chừng con, gia tướng hầu phủ không nhốt được con."

Cố Quân tức phát điên, hầu phủ vẫn là nơi lòng y hướng về, vô luận không muốn về kinh cỡ nào, vừa nghĩ đến có thể về nhà, thì y chung quy vẫn chờ mong, lúc này y mới biết, hóa ra trong mắt Trường Canh, nơi đó hệt như nhà giam vậy.

Cố Quân: "Ngươi cứ thử xem."

Hai người một lần nữa chia tay trong không vui.

Huyền ưng vội vàng đuổi theo, Cố Quân còn chưa đi xa, căn bản không kiêng dè Trường Canh nghe thấy hay không, lạnh lùng phân phó: "Ngày mai ngươi không cần đi theo ta nữa, theo tứ điện hạ lên kinh thành, không thể để y rời khỏi kinh thành một bước!"

Huyền ưng: "... Vâng."

Cổng thành cháy hại đến cá chậu thì thôi, ngay cả hắc ưng bay ngoài cổng cũng bị đốt thành con gà trụi lông, thật là tai bay vạ gió mà.

Sáng sớm hôm sau, Cố Quân hằm hằm giận dữ mà đi.

Y không tạm biệt Trường Canh, trước khi đi, An Định hầu thất đức thần không biết quỷ không hay lẻn vào viện của đứa trẻ năm tuổi nhà Diêu đại nhân, trộm cây sáo trúc người ta để trên bàn đu dây, đứa bé ấy lúc dậy phát hiện sáo tự dưng biến mất, đau lòng gào khóc nguyên một ngày.

Cố Quân chạy về còn nhanh hơn lúc đến, chân vừa chạm đất câu đầu tiên đã nói với Thẩm Dịch: "Chuẩn bị thuốc cho ta."

Thẩm Dịch thần sắc nghiêm trọng: "Ngươi bây giờ còn có thể nghe thấy không?"

"Còn," Cố Quân nói, "Nhưng sắp hết rồi, có chuyện gì mau nói đi."

Thẩm Dịch lấy mấy tờ giấy từ trong lòng ra: "Đây là khẩu cung của Sa Hạt Tử, chưa cho người khác xem, ta đích thân thẩm tra, chờ Đại soái trở về định đoạt."

Cố Quân vừa đi vừa lật xem nhanh như gió, đột nhiên, y dừng chân, gấp số giấy trong tay lại.

Trong chớp mắt, vẻ mặt y hơi đáng sợ.

Sa Hạt Tử xâm chiếm con đường tơ lụa chỉ là thuận tiện, mục tiêu của hắn lại là Lâu Lan, trên tay hắn có một tờ tàng bảo đồ của Lâu Lan, cái gọi là "bảo", lại là quặng tử lưu kim ngàn khoảnh. (Một khoảnh cỡ 100 mẫu)

Thẩm Dịch hạ giọng hỏi: "Đại soái, việc này lớn, có báo lên triều đình không?"

Cố Quân nói ngay không suy nghĩ: "Không."

Y nhanh chóng thay đổi ý nghĩ: "Bản đồ ở đâu?"

Thẩm Dịch thì thầm chỉ đủ để hai người nghe thấy: "Sa Hạt Tử xăm trên bụng mình."

Cố Quân: "Không nói từ đâu mà có?"

"Cướp được," Thẩm Dịch nói, "Đám sa phỉ này hoành hành không cố kỵ, người Trung Nguyên, người chư quốc Tây Vực, người Tây Dương, gặp ai cũng cướp, chính mình cũng không biết là cướp từ ai."

Cố Quân "À" một tiếng, nheo đôi mắt bắt đầu hơi mờ, dõi trông Lâu Lan phồn hoa vạn gia đăng hỏa ở đằng xa, một tiểu tử Lâu Lan xa xa nhìn thấy y, như phát điên ngồi trên tường thành khảy độc huyền cầm, nhìn Cố Quân mà cười không ngừng.

Cố Quân không rảnh đùa với đám người Lâu Lan ăn no chỉ biết uống rượu này, đưa lại mấy tờ giấy kia cho Thẩm Dịch: "Diệt khẩu."

Đồng tử Thẩm Dịch hơi co lại.

"Diệt khẩu, hủy thi diệt tích," Môi Cố Quân hầu như không nhúc nhích, lời nói đều nằm trong miệng, "Cả đám sa phỉ kia luôn, cứ nói hãn phỉ muốn vượt ngục, tướng sĩ bên ta bất đắc dĩ đành phải chém hết – việc này giữa ngươi và ta, tiết lộ ra ngoài chỉ hỏi ngươi, lập tức truy tra sự tồn tại của tàng bảo đồ kia."

"Vâng."

Giây lát sau y lại hỏi: "Đại soái, ta nghe nói, phía kinh thành truyền đến lời đồn, rằng Ngụy vương đã bị giam lỏng?"

Cố Quân nhìn y một cái: "Ngươi cũng nói là lời đồn, thánh chỉ chưa hạ, không được phỏng đoán lung tung, làm việc của mình đi."

Thẩm Dịch đáp một tiếng, Cố Quân vẻ mặt mệt mỏi chưa tiêu, đứng tại chỗ ấn nhẹ khóe mắt, hi vọng mình đã phản ứng quá mức với tàng bảo đồ lai lịch không rõ này.

Đông Hải giao họa chưa bình, Tây Bắc lại có biến cố, y cứ cảm thấy những việc này không phải trùng hợp.

Nửa tháng sau, hai phong tấu biểu Giang Nam trải ra trước mặt Hoàng đế Long An Lý Phong.

Lý Phong gõ bàn, một nam tử ngoài bốn mươi để râu dài bên cạnh lập tức tiến lên, vặn đèn măng-sông sáng lên giúp hắn, người này chính là cậu ruột Hoàng thượng, tên Vương Quả, là đệ nhất sủng thần hiện nay.

Lý Phong mở bản tấu bên trên, chính là cách nói ngày đó Diêu Trấn và Cố Quân thương lượng, ẩn đi Huyền Thiết doanh và Lâm Uyên các, nịnh bợ hết các quan viên Giang Nam lớn nhỏ, cuối cùng ca công tụng đức một phen, Hoàng đế xem xong không nói gì, cầm phong thứ hai.

Phong thứ hai lại là một phong mật tấu, cách nói hoàn toàn bất đồng với bản trước, viết rằng: "Ngày tiễu phỉ trên biển, An Định hầu và huyền ưng, huyền giáp mấy chục người hiện thân ở Đông Hải, bắt tặc thủ, theo tặc thủ khai, trên hải giao phản quân có một nữ tử, hành tung quỷ bí, hình như là người của Lâm Uyên các, như là người quen cũ của Cố Quân."

Lý Phong xem xong không nói gì, thuận tay đưa hai bản tấu chương cho Vương Quả.

Vương quốc cữu nhanh chóng xem xong, cẩn thận đánh giá thần sắc không rõ hỉ nộ của Lý Phong, phỏng đoán ý hắn mà mở miệng: "Việc này... Hoàng thượng, An Định hầu liên lụy trong đó, tuy có công không tội, nhưng tự tiện bỏ nhiệm vụ, cũng..."

Lý Phong: "Y có huyền ưng ngày đi ngàn dặm, tung hoành Trung Nguyên chẳng qua là chuyện vài ngày, mặc dù tùy tiện bỏ việc, nhưng cũng chưa đặc biệt mất chừng mực, chỉ là trẫm không rõ, vì sao khéo như vậy, An Định hầu đóng vai gì trong đây?"

Vương Quả nheo mắt, ý thức được điều gì đó.

Lý Phong gõ những ngón tay thon dài trên bàn: "Còn có Lâm Uyên các – Lâm Uyên các ẩn nấp trên giang hồ nhiều năm, vì sao đột nhiên hiện thân? Cố Quân có liên hệ với những người này từ khi nào?"

Lâm Uyên các, thịnh thế không ra, ra tất gặp loạn.

Vương Quả hít sâu một hơi: "Hoàng thượng muốn nói là Cố Quân có mưu đồ bất chính-"

Lý Phong liếc lão một cái, mỉm cười: "Quốc cữu nghĩ đi đâu vậy, Thập Lục hoàng thúc từ nhỏ lớn lên bên trẫm, đàn áp phản nghịch lập công lớn, ngươi nghĩ như thế, chẳng phải là làm trung thần lạnh lòng?"

Vương Quả không rõ hắn có ý gì, nhất thời chỉ dám phụ họa, không dám tiếp lời.

Lý Phong: "Chỉ là Đại Lương ta vạn dặm non sông, nam bắc tứ phương toàn nhờ vào một mình y, chẳng lẽ không phải làm tiểu hoàng thúc của trẫm mệt chết? Trẫm nghĩ, cũng nên tìm người phân ưu giúp y rồi."

Hoàng đồ bá nghiệp mấy phiên, sử xanh lưu danh một trang.

Từ xưa đến nay, Hoàng đế các triều các đại vô cùng tương đồng, có người trị quốc an bang, có người hại nước hại dân, có người buông tay tu tiên, có người gây sóng gây gió.

Hoàng đế Nguyên Hòa tiên đế chắc chắn thuộc phái tu tiên, khoan thứ nhân hậu, mê muội vô năng, con trai ông tuy chính kiến tương tự, song tác phong chắc chắn thuộc phái sóng gió.

Hoàng đế Long An Lý Phong chưa từng tôn thờ "trị đại quốc nhược phanh tiểu tiên(1)" gì đó, hắn cần cù chính sự, là người cứng rắn, từ khi đăng cơ đã sửa lại tác phong mềm mỏng lười biếng chính vụ của tiên đế, hấp tấp bắt đầu kiếp sống chấp chính phiên vân phúc vũ-

Năm đầu, phái An Định hầu Cố Quân hộ tống Thiên Lang thế tử Gia Lai Huỳnh Hoặc quay về Bắc cương, đồng thời cùng nhiều phương ký kết hiệp ước con đường tơ lụa, mở ra con đường buôn bán tuyến Tây Vực.

Vô luận là thân thiện hữu hảo với Bắc man, hay cắm An Định hầu ở tuyến Tây Vực, lệnh cho y đốc thúc việc mở rộng con đường tơ lụa, đều tỏ rõ cho thiên hạ thấy sự thống hận của Hoàng thượng với quốc khố thiếu thốn, rất có vẻ như muốn nói "Cố Quân ngươi không kiếm được tiền về, thì tự đi bán mình đi".

Năm Long An thứ hai, Ngụy vương cấu kết với Đông Doanh, mưu toan dựng vương đô trên biển, gây ra giao họa. Nào ngờ giữa chừng âm mưu bại lộ, thủy quân Giang Nam chớp nhoáng bắt tặc thủ trên hải giao, Ngụy vương bị hạ ngục, sau uống thuốc độc "tự sát".

Trần Khinh Nhứ trách một câu, nhưng trên mặt không có vẻ gì là giận, trái lại như là bị những vị khách không mời này xông vào quen rồi. Nàng vào nhà bỏ thảo dược trong tay xuống, chào mấy người lạ trước: "Tiểu nữ họ Trần, là một lang trung giang hồ."

Nàng tự xưng là lang trung giang hồ, nhưng giơ tay nhấc chân rất có khí chất tiểu thư khuê các, lại không cười, vẻ mặt lạnh băng, phụ nhân kia thấy thế hơi câu nệ, lúng ta lúng túng hồi lâu, chẳng giỏi nói năng, chỉ biết ra sức cúi chào. Trần Khinh Nhứ nhìn thoáng qua Trường Canh đang thi châm, nói: "Y cũng xem như nửa đồ đệ của ta, khởi tử hồi sinh là không thể, nhưng chứng bệnh tầm thường cũng ứng phó được, đại tỷ cứ yên tâm."

Ngoại hình nàng khó nhận ra tuổi tác, ăn mặc lại như cô nương, tiểu tướng sĩ bên cạnh thấy thế tim đập như nổi trống.

Một cô nương chưa lập gia đình, cho dù là đại phu, điện hạ nhà mình không nói tiếng nào tùy tiện vào nhà người ta... có thích hợp không? Xem dáng vẻ như xe nhẹ đường quen ấy, không chừng đã tới bao nhiêu lần rồi.

Nếu là ở kinh thành, trong một số nhà chú trọng lễ phép, giữa phu thê gặp nhau cũng phải phái hạ nhân đi nói một tiếng trước.

Tuy là nhi nữ giang hồ không câu nệ tiểu tiết...

Tiểu tướng sĩ lần đầu một mình đi theo Trường Canh, không ngừng phỏng đoán quan hệ của nữ tử xa lạ này với tứ điện hạ, lại không biết việc này nếu để Cố Quân hay sẽ giận dữ cỡ nào, trong lòng lo sốt vó, không nghĩ ra phải bẩm báo làm sao với Đại soái, thiếu điều phát khóc.

Đang nói chuyện thì lão nhân trên sập rên một tiếng, nặng nề ho vài cái, từ từ tỉnh lại.

Trường Canh cũng không ngại bẩn, lấy cái ống nhổ để bên cạnh giúp ông lão nhổ đàm.

Phụ nhân thấy thế mừng vô cùng, ngàn ân vạn tạ, Trần Khinh Nhứ đưa cho Trường Canh một chiếc khăn, sai: "Ngươi đi kê thuốc đi, ta kiểm tra cho."

Nàng nói chuyện ngữ khí nhẹ nhàng chậm rãi, nhưng nội dung lại khá có ý ra lệnh, Trường Canh không ý kiến gì, trải giấy bút ra, hơi trầm ngâm, đoạn viết phương thuốc.

Tiểu tướng sĩ Huyền Thiết doanh suýt nữa trợn lồi mắt ra, lúc đi theo Cố Quân, gã từng nghe Cố đại soái nhắc tới không chỉ một lần, nói tứ điện hạ lớn rồi, không quản nổi nữa – nhưng đây rõ ràng là chỉ đông không đi tây, so với học trò nhỏ trong học đường còn ngoan ngoãn hơn, nào có một chút bất tuân từ nhỏ đã cãi nhau với An Định hầu?

Gã đang hoang mang thì Trần Khinh Nhứ đã bắt chuyện với phụ nhân kia.

Thấy người bệnh ổn hơn, phụ nhân thả lỏng không ít, vừa trò chuyện mới biết, nguyên là sau khi khôi lỗi trồng trọt phổ biến khắp bản địa, mọi người đều không có đất cấy cày, tuy triều đình có quy định hương thân địa chủ không được bạc đãi điền hộ, nhưng sau thời gian dài, mấy ai muốn nuôi kẻ ăn không ngồi rồi? Khất nợ thiếu cân đều thường có, trong bụng những kẻ có khôi lỗi làm việc dần dần cũng khó chịu. Sau đó, nông dân một phái, trường tý sư một phái, những người buôn bán nhỏ, coi đất lại là một phái, đều cảm thấy mình bị thiệt, không vừa mắt lẫn nhau.

Trượng phu của phụ nhân kia không muốn ở nhà ăn không ngồi rồi để bị trút giận, cùng đồng hương về phương Nam tìm việc làm, nào ngờ vừa đi liền bặt vô âm tín, cha chồng lại bệnh, con thì còn nhỏ, không thể nhờ cậy, thầy lang trong thôn chê cả ngày không có việc làm, sớm bỏ xứ đi mất rồi, bấy giờ nàng mới đành phải cố gắng tự mình cõng cha chồng, lặn lội đường xa đi tìm thầy.

Trần Khinh Nhứ nghe vậy chau mày: "Phương Nam? Phương Nam năm nay vừa có lũ lụt, chẩn tai còn không kịp, việc đâu ra mà tìm?"

Phụ nhân kia vẻ mặt hoang mang, hiển nhiên là quanh năm ru rú ở sơn thôn, trừ mảnh đất một mẫu ba trước cửa ra, cũng không biết thiên hạ có nơi khác, hoàn toàn không có khái niệm gì.

Trường Canh đang viết phương thuốc hỏi: "Thế lương thực phân phối năm nay đại thẩm được nhận chưa?"

Phụ nhân nghe vậy nhìn lão nhân thoi thóp trên sập một cái, vẻ mặt sầu khổ: "Không giấu gì công tử, vẫn chưa hề, tôi... tôi ngần này tuổi rồi, cũng không tiện tới nhà người ta gây chuyện, may mà năm nay giá lương thực thấp, trong nhà còn ít tiền để dành, ra ngoài mua một ít cũng được."

Nàng nói như vậy, nhưng Trường Canh hiểu, những người này nhiều thế hệ cấy cày, tiết kiệm quen rồi, sẽ không dễ dàng tiêu tiền, tiêu một lần tim như dao cắt, nếu không thì sao nàng lại thà cuốc bộ thật xa, cõng cha chồng đi từng bước một, cũng không chịu thuê xe?

Trần Khinh Nhứ: "Không phải có đất công của triều đình à? Ta nghe nói đất công của triều đình mỗi năm nộp đủ quốc khố, phân cho quan viên, còn lại phàm là người nhập tịch ở bản địa đều có thể lĩnh một ít."

Phụ nhân cười khổ nói: "Đất công của chúng tôi không trồng gì, bỏ hoang hai năm rồi."

Trường Canh: "Vì sao? Là do đất không tốt à?"

Phụ nhân: "Nghe nói là vì rất gần quê của một quan lão gia nào đó, Huyện thái gia muốn chiếm hai mẫu đất ấy xây từ đường, bên trên chẳng biết vì cớ gì không đồng ý, cứ thế giằng co, rồi chẳng ai nói rõ mảnh đất này phải dùng làm gì, vậy là bỏ hoang luôn."

Lời này vừa nói ra, ba người trong nhà đều im lặng.

"Tam sơn lục thủy, tổng cộng được mỗi một mảnh đất, mà còn phải bỏ hoang," Trần Khinh Nhứ thở dài nói, "Những người này thật là..."

Trường Canh không lên tiếng, không biết đang nghĩ gì, y mau chóng viết xong phương thuốc, đưa Trần Khinh Nhứ kiểm tra, Trần Khinh Nhứ nói: "Ừm, cũng được – đại tỷ đi theo ta, ở chỗ ta còn cất ít thuốc thường gặp, không cần mua nữa."

Nói xong, nàng dẫn phụ nhân ngàn ân vạn tạ đến hậu viện.

Vừa thấy nàng đi, tiểu tướng sĩ Huyền Thiết doanh bấy giờ mới thở phào nhẹ nhõm, lê bước đến trước mặt Trường Canh, cũng không lên tiếng, chỉ theo trước theo sau, thấy Trường Canh muốn làm gì, liền chẳng rằng chẳng nói xắn tay áo làm trước, chỉ chốc lát gã đã nhanh nhẹn rửa xong ống nhổ, dọn dẹp giấy bút, lúc này rốt cuộc mới chuẩn bị xong câu đầu tiên, lắp bắp nói: "Thiếu gia rất quen thuộc nơi này."

Trường Canh đáp một tiếng: "Ừm, khi đến Thục Trung thường xuyên nghỉ chân ở đây."

Cái gì? Cô nam quả nữ!

Tiểu tướng sĩ nhịn đến đỏ bừng mặt, sâu sắc cảm thấy nhiệm vụ trọng đại, nếu không làm rõ việc này, không khéo trở về mình sẽ bị Hầu gia gọt thành một cái ống nhổ luôn.

Trường Canh thấy biểu cảm như bị sét đánh của gã, mới hiểu gã đang nghĩ gì, vội cười nói: "Nghĩ đi đâu vậy? Đây tuy là nhà Trần cô nương, nhưng nàng thường xuyên đi vắng, nhà toàn bỏ không, các bằng hữu giang hồ ai vừa vặn đến đây thì ở vài ngày. Nếu tình cờ gặp nàng ở nhà, nữ thì ở lại, nam thì tự đi tìm chỗ khác – lần này vốn định dẫn ngươi đến ở nhờ vài hôm, nhưng nàng đã về, thì hai ta nên đi tìm khách điếm thôi."

Tim tiểu tướng sĩ trước tiên thả xuống phân nửa, nghĩ: "À."

Song phân nửa này còn chưa thả xong, lại nhanh chóng treo lên, tiểu tướng sĩ xót xa nghĩ thầm: "Đường đường tứ điện hạ, mà một chút tiền ở trọ cũng phải tiết kiệm."

Lại nhìn áo bào rách rưới của Trường Canh, tiểu tướng sĩ buột miệng nói: "Đại... chủ nhân nếu biết thiếu gia ở bên ngoài sống như thế, trong lòng chắc sẽ khó chịu lắm."

Gã không giỏi ăn nói, có phần giỏi hành động kém miệng lưỡi, bởi vậy thỉnh thoảng nói một câu như thế, tạo cảm giác đặc biệt chân thành.

Trường Canh sững lại, nhất thời không thể tiếp lời.

Chính lúc này, Trần Khinh Nhứ lấy thuốc xong, dẫn phụ nhân kia ra, liếc sắc mặt Trường Canh một cái, nhíu mày nói: "Bình tâm tĩnh khí, ta đã nói gì với ngươi?"

Trường Canh định thần lại, hơi cười khổ.

Trần Khinh Nhứ là nửa lão sư của y, lời này không sai.

Hai năm trước Ô Nhĩ Cốt phát tác, bị sư phụ bắt gặp, bí mật nặng nề chỉ có trời đất và bản thân y biết rốt cuộc có một lối ra khác, sư phụ nói mình không rành về y lý, dẫn y lặn lội khắp nơi, cuối cùng tìm được Trần Khinh Nhứ ở Đông Đô. Chỉ tiếc Ô Nhĩ Cốt là bí mật bất truyền của vu nữ Bắc man, Trần thần y kiến thức rộng rãi nhất thời cũng không có manh mối, đành phải vừa kê cho y ít thuốc bình tâm tĩnh khí, vừa chậm rãi nghiên cứu.

Trong lúc này, Trường Canh từng tìm nàng thăm dò chuyện Cố Quân, vòng vo hỏi: "Trần cô nương, trên thế giới liệu có một loại người, tai và mắt khi linh khi không?"

Trần Khinh Nhứ dĩ nhiên biết ý của y, nhưng không tiện lắm miệng, vì thế chỉ đơn giản trả lời: "Có."

Trường Canh lại hỏi: "Thế tai mắt mất linh kiểu nào thì có thể dùng thuốc giảm bớt?"

Trần Khinh Nhứ đáp: "Trời sinh thì không được, tầm nhìn ảnh hưởng do lớn lên bị thương tạo thành thì tùy tình huống mà định, trúng độc có lẽ có thể."

Nàng cho rằng Trường Canh vòng vo như vậy, kế tiếp sẽ hỏi thẳng chuyện Cố Quân, nhưng y không hề, nàng phát hiện hình như mình đã xem nhẹ sự thông minh nhạy bén của thiếu niên này.

Trường Canh nghe thế chỉ im lặng hồi lâu, sau cùng khẩn cầu nàng nhận mình làm đồ đệ.

Trần gia nhiều đời xuất thần y, vừa chú trọng vừa không chú trọng, gia huấn chỉ có bốn chữ "hành y tế thế", ai mà như những "thần y" tính tình cổ quái trong thoại bản, chỉ nhận nghi nan tạp chứng, "khán bệnh hạ điệp(1)", tất bị trục xuất khỏi gia môn, trọng thương trọng bệnh, kì độc tuyệt chứng nàng chữa, trẻ con phong hàn, phụ nhân khó sinh tìm đến, nàng cũng vui vẻ tiếp nhận, với sở học bình sinh đương nhiên cũng không chổi cùn tự quý, không có quy củ "gia học không thể truyền cho người ngoài", có người cầu nàng sẽ dạy, chỉ là Trần cô nương nói mình cũng chưa tính là xuất sư, không dám danh chính ngôn thuận nhận đồ đệ, cho nên chỉ có thể tính là nửa sư phụ thôi.

Trần gia ở phủ Thái Nguyên, đến mùa thu đông Trần Khinh Nhứ thường không ở phương Nam, Trường Canh đoán nàng lúc này còn ở Thục Trung, nhất định là có việc, liền lấy túi tiền cất trong ngực đưa cho tiểu tướng sĩ Huyền Thiết doanh kia, phái gã thuê xe đưa lão nhân và phụ nhân về.

Tiểu tướng sĩ đâu chịu nhận tiền của tứ điện hạ nghèo rớt mồng tơi, vội vàng từ chối, hấp tấp chạy đi.

Chờ những người không liên quan này đi hết rồi, Trần Khinh Nhứ mới lấy một cái túi ra: "Gặp ngươi khéo quá, đây là an thần tán ta mới điều chế, ngươi mang về dùng thử xem."

Trường Canh cảm ơn, nhận thuốc cất đi, lấy một ít nhét vào hà bao của mình.

Trần Khinh Nhứ vô tình liếc thấy hà bao kia, mắt sáng rỡ, chỉ thấy bên trên không thêu mấy cái như "uyên ương nghịch nước", "hồ điệp song phi" rối mắt, trong bằng lụa sạch sẽ, ngoài bao một lớp da mềm được mài cực mỏng, trên da dùng dao khắc một vòng hoa văn nhỏ, như là thiết oản khấu, cơ quan nối kết, mũi còn lộ ra một bên lưỡi đao, cơ hồ muốn bay ra, cực kỳ tinh xảo.

Trần Khinh Nhứ thuận miệng khen một câu: "Hà bao ở đâu ra vậy? Trông thật độc đáo."

Trường Canh: "Tự làm đấy, cô có muốn không?"

Trần Khinh Nhứ: "..."

Dù là Trần thần y trong thiên quân vạn mã bình tĩnh như thường, lúc này cũng không khỏi lộ ra một chút kinh hãi.

"Rất chắc đấy," Trường Canh giới thiệu, "Đúng rồi, vẫn chưa hỏi cô, Trung thu qua rồi, mà sao cô còn ở Thục Trung?"

"An Định hầu về Nam đi ngang qua Thục Trung, hẹn ta ở đây," Trần Khinh Nhứ hỏi ngược lại, "Sao thế, ngươi không biết à?"

Trường Canh: "..."

Phong thủy luân lưu chuyển, lần này người kinh hãi đã thay đổi.

Một lúc lâu, Trường Canh mới nhờ dư hương an thần tán, khó khăn tìm lại giọng nói: "Không, không biết, nghĩa phụ ta... y về Nam làm gì?"

Trần Khinh Nhứ lấy làm lạ nói: "An Định hầu rời khỏi Tây Bắc đương nhiên là có quân vụ, ta chẳng qua nhờ bóng tổ tiên mà nói chuyện với y vài câu thôi, y muốn làm gì cũng không nói với ta đâu."

Trường Canh: "Nhưng vừa rồi vị tiểu huynh đệ Huyền Thiết doanh kia bảo là, cuối năm y sẽ về kinh..."

Trần Khinh Nhứ nghe thế càng không hiểu: "Giờ còn chưa tới Trùng dương, Hầu gia cuối năm có về kinh hay không, có liên quan đến y hiện tại ở nơi nào à?"

Trường Canh: "..."

Y im lặng giây lát, rốt cuộc không nhịn được bật cười, đại khái chỉ có y mong cực kỳ cũng sợ cực kỳ như vậy, mới không coi ba bốn tháng là gì.

"Ta còn cho là ngươi biết việc này nên mới đến, hóa ra chỉ là đúng dịp đi qua," Trần Khinh Nhứ nói, "Trên thư y nói ước chừng chính là mấy hôm nay, nếu ngươi không vội đi, chi bằng ở lại chờ y luôn."

Trường Canh lơ đãng đáp một tiếng, mạch suy nghĩ sớm đã bay đi ngàn dặm.

"Trường Canh, Trường Canh!" Trần Khinh Nhứ quát khẽ một tiếng vào tai y, Trường Canh chợt định thần lại.

Trần Khinh Nhứ nghiêm mặt nói: "Ta từng nói với ngươi, nếu không phải giải dược, phương thuốc an thần hơn chung quy cũng chỉ là phụ trợ, Ô Nhĩ Cốt tối kị tâm thần không yên, mỗi một đoạn suy nghĩ lan man trong lòng ngươi đều là chất dinh dưỡng cho mầm độc, hôm nay chỉ một lúc, mà ngươi đã thất thần hai lần, rốt cuộc là có chuyện gì?"

Trường Canh nói "Hổ thẹn", thần sắc thản nhiên hạ mắt xuống, không muốn nhiều lời, một cách tự nhiên mà dời đề tài lên phương thuốc mình vừa kê.

Thiết nghĩ nàng hành y thiên hạ, đao đâm kiếm chém trên nhục thể, bệnh nặng lâu ngày đã chữa nhiều vô kể, nhưng cũng không biết nên trị liệu lòng một người như thế nào đâu nhỉ?

Không bao lâu, tiểu tướng sĩ Huyền Thiết doanh đưa người về nhà vội vã chạy về, thấy Trường Canh không bỏ mình lại mất tích lần nữa, lập tức thở phào nhẹ nhõm.

Trường Canh mượn mấy quyển "Dược kinh", cáo từ Trần Khinh Nhứ, dẫn tiểu tướng sĩ vào một khách điếm trong trấn lân cận nghỉ trọ.

Đất Thục côn trùng mùa thu càn rỡ, đêm khuya vắng vẻ càng ồn ào hơn, Trường Canh để an thần tán mới phối chế bên gối, cảm thấy thuốc mới của Trần cô nương thật sự chẳng ra làm sao, chẳng những không an thần, ngược lại rất tỉnh thần, khiến y nửa đêm không ngủ được, đành phải bò dậy chong đèn đọc sách, thắp hết một bát dầu, ba quyển "Dược kinh" đọc hết hai rưỡi, mới đến hừng đông, vẫn chưa buồn ngủ chút nào.

Trong ngực y giống như tự dưng có thêm một cái hộp vàng, bốc khói trắng mà đốt tử lưu kim vĩnh viễn không thấy đáy.

Vô luận Trường Canh nhủ thầm mấy vạn lần "bình tâm tĩnh khí", lấy tâm thái bình thường đối đãi Cố Quân chẳng mấy chốc sẽ đến, thậm chí cố hết sức không suy nghĩ chuyện này như thế nào – sự sốt ruột và nôn nóng vẫn thành đôi cuốn lấy xương cốt y, mỗi thời mỗi khắc đều cầm dây mây đầy gai nhọn quất vào tim y, lúc đau lúc tê, lừa mình dối người cũng không hữu dụng.

Sáng sớm hôm sau, Trường Canh liền gọi vị tiểu tướng sĩ Huyền Thiết doanh kia lại: "Tiểu huynh đệ, các ngươi nếu muốn qua Thục Trung về Nam đến Nam Cương, thường đi như thế nào?"

Tiểu tướng sĩ trả lời: "Công vụ đương nhiên đi quan đạo, việc khác có thể phải tùy nghi hành sự, không nói chắc được, từ khe suối bò vào cũng có khả năng."

Trường Canh im lặng gật đầu.

Không bao lâu, tiểu tướng sĩ kinh ngạc phát hiện, Trường Canh lại cởi tấm áo bào rách rưới mặc khi hành tẩu giang hồ, thay quần áo mới, dù không hoa quý lắm, nhưng rất cầu kỳ, cũng mơ hồ có thể nhìn ra không phú thì quý.

Trường Canh lắc mình biến hóa, từ thư sinh nghèo biến thành giai công tử chính cống, đến cả chưởng quầy khách điếm nói chuyện với y cũng không tự chủ được khá cung kính.

Y cứ thế ăn mặc kiểu thiếu gia, mỗi ngày dắt ngựa đi rong trên quan đạo, chẳng biết là chờ người hay triển lãm.

Quần áo thiếu gia không khỏi bẩn, sau một ngày đường phố náo động, buổi tối trở về phải dính một lớp bụi, Trường Canh không chịu làm phiền người khác, đều tự mình giặt giũ sạch sẽ – y không thể không giặt, bởi vì "đồ thiếu gia" mang theo chỉ có hai bộ, không chịu khó thì không kịp để tắm rửa.

Mỗi ngày chớp mắt khi lên ngựa, Trường Canh đều nghĩ: "Hay là mình đi thôi."

Hơn bốn năm không gặp Cố Quân, tư niệm ngày qua ngày chất thành núi, y nhìn ngọn núi ấy không khỏi lo lắng hãi hùng, sợ gió nhẹ thổi qua là nó sẽ đổ rầm xuống.

Y vừa muốn chạy vừa không nỡ chạy, dọc đường ở trong lòng đánh nhau với chính mình, còn chưa đánh xong thì đã đến quan đạo. Trường Canh đành phải "kí lai chi tắc an chi"(2), cả ngày đi loanh quanh hít gió cát, thông thường ngay cả con thỏ cũng chẳng đợi được, buổi tối lúc về, y liền nghĩ: "Sáng mai mình tính tiền rồi chạy lấy người thôi."

Song sáng hôm sau lại nuốt lời, vẫn đi đến ven quan đạo.

Điên rồ như vậy bốn năm ngày, chạng vạng Trường Canh quay đầu ngựa về khách điếm, thấy phương Tây tà dương rực như máu, trông rất đẹp mắt, không khỏi chậm lại, để ngựa vừa đi vừa ăn cỏ, thong thả hồi tưởng những việc đã làm mấy ngày qua, dở khóc dở cười nghĩ bụng: "Việc này nếu như bị Liễu Nhiên biết, chắc khiến hắn cười thành cao tăng không răng luôn quá."

Đúng lúc này, Trường Canh bỗng nghe thấy phía sau vọng đến tiếng vó ngựa, tựa hồ có đội xe ngựa đi qua, y quay đầu ngựa lui sang bên nhường đường, vô thức ngoảnh lại, thấy mấy thớt ngựa tốt cao to chớp mắt liền lao tới, phía sau còn kéo một cỗ xe ngựa.

Nhìn từ xa, những kỵ sĩ đó đều vận thường phục, không hề khác biệt với các lữ nhân đi vội khác, nhưng tim Trường Canh chẳng biết vì cớ gì mà bắt đầu đập như điên.

Bắt nguồn từ câu khán nhân hạ thái điệp, xem người mà bưng thức ăn, phân biệt đối xử.

Xuất xứ từ Luận ngữ – Quý thị, nghĩa là đã đến rồi thì cứ để nó yên.

Hoàng đế Long An coi đây là cơ hội, mạnh tay chỉnh đốn quan trường Giang Nam, quan viên lớn nhỏ tám mươi sáu người bị liên lụy, trong đó hơn bốn mươi người vấn trảm, sau mùa thu một lần chém chưa hết, chém tới ba đợt, những người khác cung hình hầu hạ, sung quân lưu đày, vĩnh viễn không dùng lại.

Cùng năm, từ Giang Nam bắt đầu toàn diện thi hành tân pháp, nghiêm tra vùng sở hữu của hương thân địa chủ các nơi, nhưng tra xong cũng không chia cho bách tính điền hộ, mà thu hết về triều đình, quyền lực địa phương sau khi thu lại trả về trung ương, cho đến năm Long An thứ ba, ngay cả mỗi một mảnh đất trồng gì, xây gì, đều phải trải qua tầng tầng phê duyệt, mức độ trung ương tập quyền Vũ đế năm đó cũng không bằng, việc hạn chế tử lưu kim đạt tới mức chưa từng có bao giờ.

Không ai dám dị nghị – có dị nghị đều là bè đảng Ngụy vương, không phải trên một đao thì là dưới một đao.

Lại hai năm nữa, năm Long An thứ tư, Lý Phong bắt đầu thi hành "chưởng lệnh pháp", bắt trường tý sư dân gian phải đăng ký vào nơi tương ứng, nhận được "chưởng lệnh" mới có thể tiếp tục công việc.

Triều đình dựa theo tư lịch và năng lực, chia trường tý sư làm ngũ đẳng, dưới mỗi một chưởng lệnh có ấn, trên mỗi ấn đều có đánh số, người cầm lệnh này, sửa gì làm gì đều phải ghi chép lại.

Cấp bậc nào có thể làm gì đều có quy định nghiêm khắc, nghiêm cấm trường tý sư không đăng ký tự tiện nhận việc.

Hết thảy giáp trụ và hỏa cơ liên quan đến quân nhu, trường tý sư không trong quân tịch không thể mó vào, kẻ trái lệnh sẽ bị chặt ngón tay lưu đày.

Pháp lệnh này vừa ban ra, trong triều liền nhao nhao tranh luận, nhưng vô luận quần thần lấy lý lẽ tranh đấu thế nào, Hoàng thượng và nội các quan hệ mật thiết với Hoàng thượng sau khi qua chỉnh túc đều là một câu – mạch trường tý sư nếu không bóp chết, thì làm sao bóp chặt van tử lưu kim rò rỉ?

Chưởng lệnh pháp chưa tranh luận xong, thì Lý Phong đã ném ra quả bom tiếp theo: "Pháp lệnh kích trống", chỉ thẳng vào quân đội.

Đại Lương triều vốn theo chức năng bất đồng mà chia làm bảy đại quân chủng, lại theo địa vực, ở Giang Nam, Trung Nguyên, Tái Bắc, Tây Vực và Nam Cương năm vùng mà bố trí một Thống soái. Việc bổ miễn võ quan, quân hưởng, quân lương, giáp trụ hỏa cơ điều phối đều do Binh bộ thống nhất, sự vụ khác thì do Thống soái các đại quân khu tự quản các vùng.

Mà trong tay An Định hầu có một tấm Huyền Thiết hổ phù, trong tình huống quân tình khẩn cấp có thể điều phối binh lực toàn cảnh.

Lý Phong giữ lại cách sắp xếp năm đại khu, cũng không động tới hổ phù trong tay An Định hầu, hắn chỉ bố trí thêm vài giám quân ngoài Thống soái ở các khu. Giám quân trực thuộc Binh bộ, ba năm đổi một lần, chỉ quản một việc là xin "lệnh kích trống" từ Binh bộ.

Lệnh kích trống chưa đến, Thống soái nào cả gan điều binh một bước, nhất loạt xử theo tội mưu phản.

Ngoại trừ Huyền Thiết doanh, trú quân năm khu các nơi đều cần tuân theo lệnh này.

Lệnh kích trống vừa ban ra, cả nước lập tức náo động, còn ai để ý mấy việc lắt nhắt như trường tý sư dân gian?

Hoàng thượng và văn võ bá quan tranh luận om sòm cả năm trời, năm đại Thống soái cùng ngày có ba muốn cáo lão, náo loạn đến sôi sùng sục, kinh động An Định hầu ở tận Tây Bắc.

An Định hầu còn chưa kịp biểu đạt ý kiến với pháp lệnh tự tìm đường chết của Hoàng thượng, đã phải bất chấp khó khăn đi khắp các nơi ổn định quân tâm, kiên nhẫn nghe các lão tướng quân đấm ngực khóc tang, ấn được hồ lô xuống thì gáo lại nổi, bôn ba khắp nơi.

Nguyên tịch năm này, Cố Quân vừa vặn về kinh báo cáo, bị đại cô nương tiểu tức phụ kín đường ập mặt ném hơn năm mươi chiếc khăn tay, còn chưa kịp đắc ý, được vài hôm đã phải tặng hết cho người ta lau nước mắt – tã cũng còn tiết kiệm hơn. (Nguyên tịch tức Tết Nguyên tiêu)

Ngay cả dân gian cũng lộn xộn theo, đám thư sinh của thư viện các nơi cả ngày ngậm trong miệng cơ hồ không có việc gì khác, như bánh xe lọc cọc lặp đi lặp lại lệnh này lệnh kia, tranh luận không ngừng.

Triều đình dưới thời Nguyên Hòa bao trùm bầu không khí nặng nề cuối cùng đã cho họ tìm được chút việc để khoác lác.

Vụ loạn này kéo dài đến tận năm Long An thứ sáu, pháp lệnh kích trống vẫn chưa tranh cãi xong, Hoàng thượng không chịu bãi bỏ pháp lệnh, nhưng tạm thời cũng chưa phái giám quân, pháp lệnh hữu danh vô thực treo lơ lửng, như một thanh kiếm, bất cứ lúc nào cũng chuẩn bị đập toác đầu một trong hai phương đang giằng co.

Lại là một năm trời thu mát mẻ, cách giao họa Giang Nam đã bốn năm, Ngụy vương thi cốt đã lạnh, việc này thành một đề tài lỗi thời, không ai nhắc tới nữa.

Cạnh quan đạo Thục Trung có một tửu quán nhỏ tên Hạnh Hoa thôn – nghe nói rải rác khắp Đại Lương tên thôn nhiều nhất chính là "Hạnh Hoa thôn", phàm là dựng quán bán rượu, mười chỗ hết tám đều gọi là "Hạnh Hoa thôn".

Một người trẻ tuổi nhẹ nhàng vén rèm cửa đi vào.

Y trạc tuổi nhược quán, vận trường bào cũ, ăn mặc kiểu thư sinh, nhưng ngoại hình thật là tuấn tú, tuấn tú đến gần như sắc sảo – sống mũi cao, tóc mai như đao cắt, hai mắt hơi sâu, mắt tựa hàn tinh, thế nhưng không khiến người ta cảm thấy hùng hổ đáng sợ, tự có khí chất ôn nhuận như ngọc, vừa gặp là trước mắt sáng bừng lên, nhìn lâu cũng không chán, ngược lại có thể thấy một chút xa cách không màng danh lợi khó nói rõ.

Tửu quán rất nhỏ, chó lớn vào cửa cũng phải khom lưng, bên trong chỉ có hai cái bàn, hôm nay đã ngồi chật chỗ.

Chưởng quầy kiêm luôn hai chức điếm tiểu nhị và trướng phòng tiên sinh, đang rỗi việc gảy bàn tính, mắt không tự chủ được bị người trẻ tuổi này thu hút, thầm khen một tiếng tuấn tú thật, chắp tay nói: "Vị khách quan này, thật xin lỗi, ngài tới không khéo, không còn chỗ ngồi nữa, đi thêm năm dặm chắc còn chỗ dừng chân, hay ngài đến đó xem?"

Thư sinh tốt tính nói: "Ta dọc đường hơi khát nước, làm phiền chưởng quầy rót cho một bầu rượu ngon, không cần ngồi đâu."

Chưởng quầy nhận bầu rượu, vừa mở liền có mùi rượu xộc ra: "Trúc diệp thanh, được!"

Khách bàn bên chủ động mời: "Vị công tử kia, mời đến đây nghỉ chân, ta dành một chỗ cho."

Thư sinh cũng không chối từ, chắp tay cảm ơn.

Y còn chưa kịp ngồi xuống, đã nghe bàn bên có người nói: "Cãi nhau làm gì? Ta thấy kim thượng rất tốt mà, làm Hoàng đế, nắm đại quyền thì có gì không đúng? Mạn phép nói một câu không cung kính, chẳng lẽ cái vị từ sáng đến tối chuyện gì cũng không quản, không phải ăn chay niệm phật thì là quấn lấy cung nhân, chính là Hoàng đế tốt sao?"

Thư sinh không liệu được trong tửu quán cũng có kẻ ngồi bàn đại sự thiên hạ, ngẩng lên, chỉ thấy đó là một hán tử lớn tuổi xắn quần, tay thô to, kẽ tay còn dính dầu từ hỏa cơ, có khả năng là một trường tý sư cấp thấp.

Bên cạnh lập tức có người trông như lão nông phụ họa: "Không phải sao, ngươi xem giá gạo hiện giờ, bắt đầu từ triều ta, đã thấy giá nào rẻ hơn chưa?"

Trường tý sư kia thấy mình được ủng hộ, càng thêm đắc ý, phát ngôn bừa bãi: "Hôm trước ta vào thành, nghe một đám học trò trong thư viện luận đạo, nói đến lệnh kích trống, có hậu sinh chưa mọc râu nói xằng nói bậy, dám bảo Hoàng thượng muốn làm yếu chiến lực biên phòng Đại Lương, thật đúng là luận binh trên giấy, buồn cười hết sức! Chuyện Ngụy vương tạo phản không thấy sao? Đám Thống soái này trời cao Hoàng đế xa, nếu sinh dị tâm, giang sơn của Hoàng thượng có ổn hay không chưa bàn, xui xẻo chẳng phải là lão bách tính chúng ta? Ta nghe người ta nói, Binh bộ quản thúc như vậy, đến lúc đó quân phí không biết phải bớt được bao nhiêu, dân gian cũng không cần gánh khoản thuế nặng kia, chẳng lẽ không phải việc tốt?"

Lời này vừa nói ra, mọi người đang tán gẫu trong tửu quán nhao nhao gật đầu, lão giả mời thư sinh ngồi xuống cũng mở miệng: "An Định hầu vẫn chưa nhảy ra phản đối đâu, mà người khác đã um sùm thay."

Thư sinh vốn không để ý lắm, nghe ba chữ "An Định hầu" thì vô thức ngẩng đầu lên, buột miệng hỏi: "Liên quan gì đến An Định hầu?"

Lão giả kia cười nói: "Công tử không rõ rồi, lần này Hoàng thượng nhìn như chưa động tới Huyền Thiết doanh, thực tế lại phân binh quyền trên tay An Định hầu – ngươi nghĩ xem, nếu sau này tướng sĩ tứ phương chỉ có lệnh kích trống điều động được, vậy Huyền Thiết hổ phù trong tay An Định hầu phải nói sao? Kẻ không có lệnh kích trống mà dụng binh luận như mưu phản, như vậy nếu Binh bộ không cho lệnh kích trống, năm đại Thống soái nghe Binh bộ, hay là nghe Hầu gia?"

Thư sinh cười nói: "Thì ra là thế, học trò thụ giáo."

Dứt lời, thấy chưởng quầy đã rót xong rượu, y liền không nghe những thôn dân hương dã này nói hươu nói vượn nữa, khách khí cảm ơn lão giả đã nhường chỗ ngồi, bỏ tiền rượu xuống rồi đi.

Y vừa ra khỏi tửu quán, liền thấy nơi ban nãy không một bóng người đã có người chờ sẵn, cũng không nói gì, thấy thư sinh nghèo kia tựa hồ hơi xấu hổ, nhanh nhẹn hành lễ, rồi đứng ở một bên làm bích họa.

Thư sinh bất đắc dĩ đỡ trán nghĩ thầm: "Đuổi theo ngày càng nhanh."

"Thư sinh" này chính là Trường Canh, bốn năm trước cãi nhau một trận với Cố Quân, bị huyền ưng "hộ tống" về kinh thành.

Từ chối rất nhiều ngợi khen của Hoàng đế, Trường Canh thử suốt nửa năm, mỗi ngày đều so chiêu với gia tướng hầu phủ, sau cùng rốt cuộc thành công trốn khỏi phủ An Định hầu.

Cố Quân phái người đuổi theo y vài lần, song phương mệt mỏi giằng co suốt một năm, sau đó Cố Quân thấy đứa trẻ kia thật sự như một con ưng non nhốt không được, đành phải thỏa hiệp, mặc cho y đi.

Chỉ là Trường Canh đi đến đâu cũng gặp phải mấy thị vệ Huyền Thiết doanh xuất quỷ nhập thần thường phục bám theo.

Sau đó, Trường Canh dưới sự dẫn tiến của Liễu Nhiên hòa thượng, bái nhập môn hạ một vị cao thủ dân gian không vang danh, theo sư phụ sống những ngày xuất quỷ nhập thần, đi khắp non sông các nơi và những chỗ chưa ai đến, một dạo thoát khỏi Huyền Thiết doanh.

Nhưng mỗi lần xuất hiện gần trạm dịch, lại sẽ bị bám theo, y vừa mới đến Thục Trung, vị tiểu tướng sĩ này đã chờ y.

Chỉ là Trường Canh hiện giờ đã không còn là thiếu niên không biết phải làm thế nào, một bầu quật cường năm đó. Y dẫn ngựa đi thẳng đến trước mặt người nọ, ôn hòa nói: "Vất vả vị huynh đệ này rồi, nghĩa phụ ta có khỏe không?"

Tiểu tướng sĩ không giỏi nói năng, không liệu được Trường Canh sẽ tới bắt chuyện, luống cuống trả lời: "Điện... thiếu gia, chủ nhân hết thảy đều tốt, nói nếu cuối năm biên cảnh bình ổn, sẽ về nhà đón Tết."

"Được, thế hai hôm nữa ta sẽ khởi hành về kinh." Trường Canh nghe thế gật đầu, không nhìn ra có bao nhiêu vui sướng, cũng không nhìn ra có bao nhiêu miễn cưỡng, vừa nói vừa đưa bầu rượu mới rót đầy ra mời, "Dọc đường vất vả, huynh đệ uống ngụm rượu cho ấm."

Tiểu tướng sĩ dù không hiểu chuyện hơn cũng biết mình đột nhiên xuất hiện rất chướng mắt, nào ngờ Trường Canh chẳng những không nổi nóng, còn ôn hòa mời gã uống rượu, nhất thời quả thực có chút thụ sủng nhược kinh.

Gã không dám dùng miệng mình chạm miệng bầu, nơm nớp lo sợ cách ra uống một ngụm, một giọt cũng không dám làm đổ, hai tay trả lại, dắt ngựa cho Trường Canh.

Trường Canh: "Lúc mùa xuân kỳ thực ta từng đi Tây Bắc một chuyến, chỉ là nghĩa phụ quân vụ bận rộn, nên không lộ diện làm phiền, con đường tơ lụa thật là phồn hoa, sa mạc cát vàng vậy mà cũng có thể trở nên chen chúc, đi khắp toàn cảnh Đại Lương, không được mấy nơi phồn hoa hơn ở đó."

Tiểu tướng sĩ thấy xa gần không có ai, thấp giọng nói: "Có Đại soái tọa trấn, mấy năm nay sa phỉ dần dần mai danh ẩn tích, rất nhiều người định cư buôn bán ngay cửa khẩu con đường tơ lụa, mấy món lặt vặt các nơi đều có, Đại soái nói nếu điện hạ có thích thứ gì, đến Tết về kinh sẽ mang về cho ngài."

Trường Canh dừng một chút, nhàn nhạt nói: "Người trở về là được."

Tiểu tướng sĩ không nghe ra ý tứ sâu xa trong lời này, cho rằng y chỉ thuận miệng khách sáo. Người ở lâu trong quân, cũng không hay nịnh bợ, liền thành thật im lặng.

Trường Canh thần sắc như thường đi trên quan đạo Thục Trung, ngực lại hơi nóng lên. Y vốn tưởng rằng ly biệt như nước, một vốc hắt lên, thì chu sa đằng hoàng, thông lục giả thạch (2) gì cũng gột sạch, không ngờ Cố Quân kia lại là khắc lên, chùi rửa nửa ngày mà chỉ ra dấu vết càng đậm hơn.

Nghe nói Cố Quân cuối năm về kinh, trời vừa vào thu, mà Trường Canh lại cảm thấy mình đã cận hương tình khiếp, mới vừa như nhớ nhà buột miệng một câu "chuẩn bị về kinh", lúc này lại hối hận vô cùng, chỉ hận không thể nuốt lời, chạy thật xa đến chân trời góc biển.

Y đang nghĩ ngợi lung tung, trước mặt có một phụ nhân nhỏ gầy cõng người đi tới. Phụ nhân kia đi rất mất sức, cứ vài bước sẽ dừng lại nghỉ ngơi, thở hổn hển như trâu, vấp một hòn đá ven đường, la hoảng một tiếng ngã nhào xuống đất.

Trường Canh lập tức định thần lại, tiến lên đỡ hai người dậy: "Đại thẩm không sao chứ?"

Phụ nhân kia không biết đã đi bao xa, mệt đến không nói ra lời, mở miệng chưa kịp nói thì nước mắt đã rơi xuống trước.

Trường Canh sửng sốt một chút, không truy hỏi vì sao khóc, chỉ đỡ lão nhân hôn mê bất tỉnh mà nàng cõng, đưa tay bắt mạch, giây lát sau nhẹ giọng nói: "Vị lão trượng này chỉ là thường niên đi lại không được, tâm hỏa quá mức mà thôi, thi châm một chút là ổn, không ngại đến tính mạng, nếu tin được ta, thì mời đi theo ta trước."

Tiểu tướng sĩ Huyền Thiết doanh không ngờ vị điện hạ này còn thông y lý, bước lên giúp cõng lão nhân ốm đau bệnh tật kia.

Trường Canh để phụ nhân lên ngựa của mình, dắt ngựa đi trước dẫn đường, không bao lâu liền tới một thôn, cổng thôn có một căn nhà rất nhã trí, cửa treo một xâu thịt khô.

Trường Canh quen đường buộc ngựa, trực tiếp đẩy cửa vào, dẫn người bệnh vào buồng trong, thả xuống cái sập nhỏ, lấy dưới gối ra một hộp ngân châm, xắn tay áo tự mình thi châm.

Tiểu tướng sĩ dè dặt hỏi: "Ngài... ở ngay nơi này ạ?"

Trường Canh nhanh chóng ngẩng đầu cười nói: "Không, đây chỉ là nhà một bằng hữu..."

Y còn chưa dứt lời, đã nghe gian ngoài có người nói: "Sao chưa mời đã tự vào."

Trong khi nói chuyện, một nữ tử bạch y cao ráo vén rèm cửa bước vào, tiểu tướng sĩ vô thức hơi căng thẳng – người tới cửa mà gã lại không hề phát hiện, công phu của đối phương nhất định trên gã.

Trường Canh không dừng tay, cũng không xấu hổ, chỉ nói: "Trần cô nương, ta cho là cô vắng nhà."

Đó chính là Trần Khinh Nhứ của Lâm Uyên các trên tặc thuyền Đông Hải năm ấy.

Trị nước lớn như nấu cá nhỏ, nấu cá nhỏ mà lật lên lật xuống, động tới nó nhiều quá, nó sẽ nát; trị nước lớn mà chính lệnh phiền hà, pháp lệnh thay đổi nhiều quá, can thiệp vào việc dân nhiều quá, dân sẽ trá ngụy, chống đối. Câu này xuất xứ từ Đạo đức kinh của Lão Tử, bản dịch của Giang Tử Nguyễn Duy Cần.

Chu sa và giả thạch là khoáng vật dùng làm thuốc, đằng hoàng là một vị thuốc lấy từ nhựa cây. Tuy nhiên theo ngữ cảnh thì câu này có lẽ muốn nói là dù dính mấy thứ màu vàng màu xanh hay màu cam thì tạt một vốc nước là sạch hết.

Dù gió mạnh thổi qua tai, vó ngựa nóng vội gõ xuống đất, Thẩm Dịch vẫn tai thính mắt tinh nghe thấy âm thanh trong xe không bình thường, y giục ngựa đuổi theo Cố Quân, bớt ra một tay ôm ngực, làm động tác nôn mửa, liếc mắt ra hiệu – vị kia ói thì làm thế nào?

Cố Quân nở nụ cười không rõ lắm, rành rành tỏ vẻ – đáng kiếp, tự dọn đi.

Cố Quân về Nam là vì chuyện Thống soái quân Nam Cương Phó Chí Thành có đại tang, lão mẫu Phó tướng quân mới mất, hắn liền dâng tấu lên triều đình, muốn trả ấn về nhà chịu tang mẹ.

"Có đại tang" kỳ thực là một lý do không mặn không nhạt, đi cũng được, không đi cũng được, dù sao thì nói kiểu nào cũng xong, nhưng các vị đại quan biên giới xưa nay không làm như vậy.

Nếu Thống soái về nhà mấy năm, vạn nhất có chiến sự thì ai phụ trách?

Huống chi cả Đại Lương đều biết, Phó tướng quân kia xuất thân đầu lĩnh thổ phỉ, năm đó bị lão Hầu gia đánh phục chiêu hàng mới nhập sĩ, đến nay gặp Hoàng thượng cũng có khi không kiềm chế được, thi thoảng lại buột ra vài câu chửi tục, căn bản không mấy lịch sự.

Phó tướng quân rõ ràng là bất mãn với lệnh kích trống, lại gặp năm nay phương Nam lũ lụt, tuyến Nam Cương loạn muốn chết, bèn nhân lúc sống còn này ném quang gánh luôn.

Đi theo ngồi trong xe chính là Binh bộ Thị lang Tôn Tiêu Tôn đại nhân, là người ủng hộ trung thành của lệnh kích trống, vốn Hoàng thượng phái hắn làm khâm sai, đến Nam Cương "an ủi" công thần, ngờ đâu Tôn đại nhân lâm trận co vòi, rơi lệ dâng tấu, nói rằng mình đã chuẩn bị sẵn sàng một đi không về, vì nước quên thân.

Hoàng thượng hết cách, đành phải gửi một đạo kim bài lệnh tiễn đến Tây Bắc, ném cả thùng cơm gánh nặng lẫn cục diện rối rắm cho Cố Quân.

Cố Quân quanh năm mệt mỏi chùi đít cho Hoàng thượng, bực bội vô cùng, không thể nói lý với Hoàng thượng, đành phải ra sức giày vò Tôn đại nhân không biết xấu hổ.

Chuyến này vừa vặn đi ngang qua Thục Trung, Cố Quân liền nhờ người viết thư cho Trần Khinh Nhứ, thuận tiện hẹn gặp nàng ở đây – mấy năm nay y càng cảm thấy dược hiệu của loại thuốc năm đó Trần lão tiên sinh cho y đang giảm đi, trước đây bốn năm ngày một liều còn chịu được, hiện tại đã đến nông nỗi cách một ngày phải uống một lần.

Lúc phóng ngựa qua quan đạo, từ rất xa Cố Quân đã trông thấy ven đường có một công tử trẻ tuổi thả ngựa đi rong, ban đầu vẫn chưa lưu ý, cho đến khi đi lướt qua nhau, y vô tình nhìn người nọ một cái, vừa vặn gặp ánh mắt đối phương.

Chỉ thoáng nhìn nhau, thần tuấn ngàn dặm của Cố Quân lao đi hơn mười trượng, y còn chưa kịp phản ứng, thì đã vô thức kéo cương.

Ngựa hí dài một tiếng, móng trước chồm lên cao rồi gõ xuống đất, quay nửa vòng tại chỗ, Cố Quân dừng lại, nhìn chằm chằm công tử trẻ tuổi hơi quen mắt, rồi lại nhất thời không dám nhận.

"Không khéo đến thế chứ," Cố Quân do dự nghĩ, "Mình nhớ quá nên nhận nhầm người rồi phải không?"

Thẩm Dịch đuổi tới: "Sao... Ôi chao!"

Tiểu tướng sĩ Huyền Thiết doanh đi theo Trường Canh rốt cuộc định thần lại, vội xuống ngựa, kích động nói: "Đại soái!"

Ngựa của Cố Quân như hơi giật mình, giơ móng trước, thở phì phì cào mặt đất.

Lúc này, cho dù ném Trường Canh vào đống an thần tán, chỉ sợ cũng không ngăn được tim y run rẩy trong lồng ngực, y gần như chết lặng ngồi trên ngựa giây lát, đầu óc trống rỗng, cái miệng bình thường thiệt xán sinh hoa nở ra một đóa hoa bá vương, chặn kín hết làm ngôn từ không lọt nổi.

Y chỉ có thể theo bản năng, ra vẻ điềm nhiên mà nở nụ cười hơi gượng gạo.

Cố Quân gọi khẽ một tiếng: "Trường Canh?"

Hai chữ như chuông lớn gõ cái keng bên tai Trường Canh, y vừa ép mình trấn định, vừa vì trấn định không nổi mà hơi xấu hổ quẹt mũi: "Con vừa vặn đi qua Thục Trung, tình cờ nghe Trần cô nương nói nghĩa phụ mấy hôm nay sẽ đến, liền muốn nán lại vài ngày, không ngờ khéo như vậy, dắt ngựa đi chơi cũng có thể đón được người."

Tiểu tướng sĩ đứng bên trợn mắt há mồm nghĩ: "Dắt ngựa đi chơi cũng phải tắm rửa thay quần áo, định giờ định địa điểm à?"

Gã kính sợ nhìn con ngựa lông tạp nom rất tầm thường của Trường Canh, hoài nghi đây là một thớt thần mã ẩn dưới lớp lông tạp.

Cửa xe mở ra "Rầm" một tiếng, Tôn đại nhân bất chấp cảnh phụ tử cửu biệt trùng phùng cảm động, thất tha thất thểu lao xuống mà nôn thốc nôn tháo.

Gián đoạn như vậy, hơi thở lơ lửng không xuôi của Trường Canh tạm thời trở về trong ngực, y nghiêng đầu liếc Binh bộ Thị lang như con gà chết một cái, ôn tồn lễ độ mà ra vẻ ngạc nhiên: "Sao vậy, ta đã nói gì gây buồn nôn à?"

Cố Quân phá lên cười.

Mấy năm nay, tuy y gián đoạn nắm được hành tung của Trường Canh, nhưng không ngờ người sẽ biến thành thế này, quả thực như thoát thai hoán cốt vậy. Cố Quân nhất thời quên cuộc chia tay không mấy vui vẻ khi gặp lại lần trước, cũng quên sự giận dỗi lâu dài, chiến tranh lạnh và sự đáng ghét khi y bám riết không tha tìm người theo dõi hành tung của Trường Canh.

Y cảm thấy kinh ngạc vì mình có thể dừng lại nhận ra Trường Canh, bởi vì thật sự trông chẳng giống tí nào – giơ tay nhấc chân, nhăn mày hay cười, tất cả đều khác hẳn.

Thời gian một lần nữa rút ngắn lại trước mặt y, Cố Quân bấm tay tính, không phải sao, đã hơn bốn năm rồi.

Thẩm Dịch tiến lại cười nói: "Trời ơi, tiểu điện hạ chớp mắt đã... còn nhớ ta chứ?"

Trường Canh: "Chào Thẩm tướng quân."

Thẩm Dịch cảm khái: "Nếu là ta thì không nhận ra đâu, cũng chỉ có nghĩa phụ ngài, mỗi ngày nhớ mong ngài thành tâm bệnh, nhác thấy người hơi giống là không nhịn được nhìn một chút..."

Cố Quân hết nhịn nổi cắt ngang: "Ngươi ở đâu ra lắm lời thừa thãi vậy?"

Thẩm Dịch nhìn đây lại ngó kia, cười "khà khà", phóng ngựa tiến lên, khom lưng xách Tôn đại nhân lên xe ngựa, đưa tay quơ quơ trước mặt hắn: "Tôn đại nhân, còn ổn không? Cố gắng thêm lúc nữa, sắp đến khách điếm rồi."

Tôn Tiêu thoi thóp dựa xe thở hồng hộc, sắp sửa thẳng cẳng.

Rất nhanh, Tôn đại nhân phát hiện Trường Canh quả thực là cứu tinh, từ khi giữa đường gặp Trường Canh, đám trâu bò Huyền Thiết doanh đó liền từ chạy một mạch như điên biến thành tản bộ, nhàn nhã như đi cho tiêu cơm vậy, đến tiếng vó ngựa cũng êm ái theo.

Đoàn người dưới sự dẫn dắt của Trường Canh đến khách điếm của tiểu trấn. Khách điếm không có nhiều phòng, bao hết thì ít nhất cũng phải hai người một gian, Cố Quân bỏ lại một câu: "Ta đến chỗ con ta, gian đơn còn lại nhường cho Tôn thị lang đi."

Tôn Tiêu theo bản năng khách khí nói: "Không không, sao dám để Đại soái hạ mình..."

Thẩm Dịch từ phía sau vỗ vai Tôn Tiêu, hạ giọng nói: "Đại nhân, thấy tốt thì nhận đi, y gặp tứ điện hạ, tâm tình đang tốt, hay ngươi muốn nhìn khuôn mặt 'ít ngày nữa sẽ lấy cái mạng chó của ngươi' hơn?"

Tôn Tiêu: "..."

Mồ hôi trong lòng bàn tay Trường Canh dọc đường chưa từng rơi, mấy lần dây cương suýt nữa tuột mất, trạng thái này hơi giống say rượu, y biết mình nên giữ sự tỉnh táo, lại không tự chủ được sa vào đó, trước khi gặp Cố Quân thì do dự giữa "đi" và "chạy", vừa gặp Cố Quân thì chẳng còn ý nghĩ gì nữa.

Cố Quân lúc này rốt cuộc nhớ đến việc tính sổ, vào khách điếm, vừa đóng cửa thì sắc mặt liền sầm xuống, nói với Trường Canh: "Ngươi càng ngày càng không ra gì, lão quản gia nói ngươi đã bốn năm chưa về hầu phủ, lần trước vào cung báo cáo công tác, ngay cả Hoàng thượng cũng hỏi ta, ngươi bảo ta phải nói thế nào đây?"

Trước kia sắc mặt Cố Quân vừa khác thường là Trường Canh sẽ căng thẳng, không phải căng thẳng đến độ muốn nhận lỗi thì là căng thẳng đến độ muốn tranh luận, nhiều năm không gặp, y lại phát hiện sự câu nệ và kích động trong lòng mình đều đã không thấy nữa, Cố Quân cười hay giận đều thế, y đều hận không thể khắc trọn vẹn vào mắt mình.

Bốn năm trước, y cố nén một bầu đau khổ, ra vẻ trấn định nói với Cố Quân: "Hầu phủ không nhốt được con."

Bốn năm sau, y nhìn Cố Quân, cẩn thận lộ ra một chút tình cảm vừa đúng: "Nghĩa phụ đi vắng, con một mình quay về có ý nghĩa gì?"

Cố Quân: "..."

Y vốn hung dữ chẳng được ba câu, nghe câu này của Trường Canh thì ngay cả mặt lạnh cũng không giữ nổi nữa, trái tim sắt đá cũng mềm nhũn như bông.

Cố Quân chuyển hướng sang gian phòng trọ nho nhỏ, thấy trên bàn vứt mấy quyển Dược kinh, liền tùy ý mở ra xem thử, hỏi: "Sao lại muốn xem mấy cái này?"

Trường Canh: "Theo Trần cô nương học chút kì hoàng chi thuật."

Cố Quân giật mình, nghĩ bụng: "Không phải đám người Lâm Uyên các đã nói gì với y chứ?"

Cố Quân lập tức lại âm thầm mỉm cười, thứ nhất cảm thấy mình nghĩ như vậy ít nhiều có phần tự đa tình, thứ hai đám người Lâm Uyên các đều không phải hạng lắm miệng...

Trường Canh: "Vốn định học y thuật cho giỏi, tương lai cũng tiện chăm sóc nghĩa phụ, đáng tiếc thiên tư có hạn, chỉ biết chút chút thôi."

Cố Quân: "..."

"Miệng tiểu tử này sao lại ngọt đến thế," Y bất đắc dĩ nghĩ, "Thật chết người."

Nhiều năm trông coi con đường tơ lụa, nhuệ khí phong mang tất lộ trên người Cố Quân dần tiêu tan, phảng phất như thần binh vào vỏ, hai người không hẹn mà cùng không nhắc tới chuyện chia tay trong không vui lần trước, tâm bình khí hòa nói đến những điều mắt thấy tai nghe mấy năm qua.

Trường Canh đang nói thì phát hiện bên cạnh không còn tiếng động, liền bạo gan nghiêng đầu nhìn – giường khách điếm quá chật, non nửa cơ thể Cố Quân nằm ngoài giường, chăn chỉ đắp một góc, chân cơ hồ đụng thành giường, y một tay gối đầu, bằng tư thế nhắm mắt dưỡng thần nghỉ ngơi giây lát này, vậy mà lại ngủ thiếp đi.

Trường Canh phút chốc dừng lại, trong bóng tối nhìn chằm chằm khuôn mặt nghiêng của Cố Quân rất lâu, y giơ tay, lại rụt về, lặp lại vài lần, ngón tay luống cuống giơ lên đó chẳng biết bao lâu, mới ngừng hơi thở có chút run rẩy, nhẹ nhàng ôm thắt lưng Cố Quân, vỗ vỗ như phủi bụi, thấp giọng nói: "Nghĩa phụ, dịch vào trong một chút, sắp ngã rồi."

Cố Quân bị y đánh thức, nhưng nhanh chóng nhận ra mình đang ở đâu, "Ưm" một tiếng, không mở mắt, theo tay y nghiêng người ậm ừ nói nhỏ, "Đang nói thì ngủ mất, đây là chưa già đã yếu mà."

Trường Canh giúp y kéo chăn, tháo mũ: "Là do con bỏ an thần tán bên gối, người lại đi đường quá gấp, hãy ngủ đi."

Lần này Cố Quân không lên tiếng, đã ngủ thật rồi, giường này không gian rất hẹp, khi thấp giọng nói chuyện chợt gây ảo giác kề tai chạm má, Trường Canh suýt nữa cúi đầu hôn thái dương y một cái – giống như làm vậy mới là tự nhiên.

Nhưng Trường Canh lập tức giật mình phát hiện sự đại nghịch bất đạo của mình, vội vàng nằm xuống đàng hoàng.

An thần tán xem ra hữu dụng, Cố Quân dưới sự thả lỏng ngủ rất say, có điều tác dụng cũng kén người, với Trường Canh mà nói thì chẳng hữu dụng tẹo nào, bên cạnh nằm một Cố Quân, vừa nhắm mắt lại cảm thấy mình đang mơ, thế là lại không nhịn được mở mắt chứng thực, sau năm lần bảy lượt, một chút buồn ngủ cũng tan thành mây khói, Trường Canh liền dứt khoát không ngủ, nằm bên lẳng lặng ngắm nhìn Cố Quân.

Nhìn suốt một đêm.

Sáng sớm hôm sau, Trần Khinh Nhứ chạy tới, trước tiên dùng Tôn đại nhân thoi thóp để làm ví dụ dạy học, sau đó ném Tôn đại nhân cho Trường Canh chơi... không, chăm sóc – rồi tự mình đi gặp Cố Quân.

Trường Canh chỉ ngẩng đầu nhìn bóng lưng nàng lên lầu một cái, không hề biểu hiện ra mảy may khác thường, giống như không mấy tò mò.

Thẩm Dịch ở trong phòng Cố Quân lật xem mấy quyển y thư của Trường Canh, Trần Khinh Nhứ không hỏi bệnh trạng, trước tiên tự mình kiểm tra, giây lát sau nói: "Thị lực của Hầu gia hiện tại có phải đã suy giảm hay không?"

Cố Quân: "Đêm qua vốn nên dùng thuốc, nhưng muốn mời Trần cô nương xem nên không uống."

Trần Khinh Nhứ trầm ngâm chốc lát: "Ông nội ta năm đó khi kê thuốc cho Hầu gia, chắc hẳn đã dặn ngài, đây không phải giải dược, chỉ sợ không thể lâu dài."

Trên mặt Cố Quân không thấy vẻ gì là kinh ngạc, chỉ hỏi: "Ta còn bao nhiêu thời gian nữa?"

Trần Khinh Nhứ thần sắc ngưng trọng: "Nếu Hầu gia từ nay về sau tiết chế dùng thuốc, có lẽ còn có thể kéo dài vài năm."

"Tiết chế e là không được," Cố Quân nói, "Cô thấy thêm lượng thuốc hoặc đổi phương thuốc mới thì thế nào?"

Trần Khinh Nhứ còn chưa kịp trả lời, Thẩm Dịch đã trầm giọng nói: "Dược có dư độc, ngươi dùng đã đủ siêng rồi, đổi thuốc mới cũng chỉ có thể đổi loại hổ lang hơn, thế chẳng phải là uống rượu độc giải khát à?"

"Đúng là đạo lý này." Trần Khinh Nhứ nói, "Trần gia uổng xưng thần y Trần thị, mấy năm nay với tai và mắt Đại soái vẫn thúc thủ vô sách, thật hổ thẹn."

Cố Quân cười nói: "Sao Trần cô nương lại nói thế, là ta đã làm phiền các cô rất nhiều."

Trần Khinh Nhứ lắc đầu: "Chúng ta luôn cảm thấy xung quanh man di ngu muội chưa khai hóa, nhốt mình ở Trung Nguyên quá lâu rồi, Hầu gia cho ta mấy năm, vài hôm nữa ta định khởi hành xuất quan, biết đâu có thể đánh bậy đánh bạ nghĩ ra chút biện pháp."

Cố Quân nghe lời này lấy làm kinh hãi, y hẹn gặp Trần Khinh Nhứ ở Thục Trung, trừ muốn cho người của Trần gia xác nhận tình hình mình một chút, chủ yếu cũng muốn mượn cớ dừng lại vài hôm, tránh để có mấy người không biết y đã đến, không trông mong một tiểu cô nương trẻ tuổi như Trần Khinh Nhứ có thể giải quyết chuyện ông nội mình cũng bó tay, vội nói: "Trần cô nương nhất thiết đừng như thế, ta có nghe thấy hay không cũng vậy thôi, người Bắc man nhiều thế hệ thù địch với chúng ta, nếu cô vì việc vặt của ta mà mạo hiểm, tương lai bảo ta còn mặt mũi nào đi gặp người của Trần gia!"

Trần Khinh Nhứ không trả lời, chỉ cầm cái bọc nhỏ tùy thân tới, lấy ra một quyển sách nhỏ viết tay: "Đây là một bộ châm pháp ta tự mình gọt giũa, không có tác dụng gì, chẳng qua có lẽ có thể giảm bớt chứng đau đầu do thuốc gây ra, điện hạ từng theo ta học châm cứu một thời gian, y hiểu đấy."

Thấy Cố Quân cau mày, Trần Khinh Nhứ lại bổ sung: "Không phải ta nói đâu, là điện hạ tự mình đoán ra."

Thần sắc Cố Quân thay đổi mấy lần, cuối cùng thở dài, cảm giác đầu đã râm ran đau.

Trần Khinh Nhứ dăm ba câu đã dặn dò xong, lại lâm thời tìm giấy bút, viết hai phương điều dưỡng: "Ít còn hơn không, thôi ta cáo lui đây, Hầu gia bảo trọng."

"Khoan đã," Cố Quân gọi nàng lại, "Chuyện xuất quan xin Trần cô nương nghĩ kỹ hơn."

Trần Khinh Nhứ quay đầu lại nhìn y, trên khuôn mặt lạnh như băng lộ ra một chút tươi cười nhạt nhẽo như đá trổ hoa.

"Cũng không phải toàn vì chứng bệnh của Hầu gia đâu – chỉ là có vài việc luôn cần có người đi làm, nói một câu không ngượng, ta đây tuy vị ti lực bạc, nhưng cũng có suy nghĩ như trong lòng Hầu gia, sinh ở Trần thị, nhập đạo Lâm Uyên, há dám nhờ bóng tiền bối để tạm bợ đời sau." Nàng nói, "Hầu gia, sau này còn gặp lại."

Nói xong, không đợi Cố Quân giữ lại, đã đi thẳng xuống lầu.

Trường Canh lưu lạc giang hồ lâu, làm việc chu đáo, vội bước tới nói: "Trần cô nương, ta tiễn cô một đoạn."

Trần Khinh Nhứ khoát tay, ngắm sắc mặt y một chút, dù y trẻ trung khỏe mạnh, một đêm không ngủ cũng chẳng có vấn đề gì, nhưng trên mặt vẫn có thể nhận thấy dấu vết.

Trần Khinh Nhứ: "Sao, an thần tán không hiệu nghiệm à?"

Trường Canh cười khổ: "Là vấn đề của chính ta."

Trần Khinh Nhứ nghĩ ngợi một chút: "Ta luôn bảo ngươi bình tâm tĩnh khí, nhưng kỳ thực cũng không biết trong lòng ngươi rốt cuộc có cái gì không bình, có khả năng quả thật là đứng nói chuyện không đau lưng – con người không thể không có thất tình lục dục, nếu ngươi thật sự không cách nào khắc chế, chi bằng thuận theo tự nhiên."

Trường Canh sửng sốt, không tự chủ được mím môi, thầm nghĩ: "Việc này làm sao thuận theo tự nhiên được?"

Trần Khinh Nhứ quản giết không quản chôn, ném lại một câu "thuận theo tự nhiên" xong rồi đi luôn, lại khiến Trường Canh cả ngày thất hồn lạc phách.

Cố Quân ở lại tiểu khách điếm suốt hai ngày, Tôn Tiêu muốn đi mau, nhưng nhớ tới dọc đường chạy như bay xóc lòi cả ruột, lại không dám thúc giục. Ai ngờ sau khi khởi hành, Cố Quân lại thôi không liều mạng chạy như đi đầu thai nữa, thêm một tứ điện hạ cả ngày dính lấy y, hệt như đạp thanh du xuân, chốc chốc lại xen lẫn với thương đội đến phương Bắc buôn bán, kiếm ăn trở về.

Vùng Nam Cương dân phong dũng mãnh, hãn phỉ hoành hành, Tôn thị lang động viên đại quan biên giới là giả, vốn định mượn uy phong An Định hầu, nắm chứng cứ Phó Chí Thành thân là mệnh quan triều đình mà cấu kết sơn phỉ, biến quân Nam Cương thành đường đột phá cho việc thi hành lệnh kích trống, nhưng từ khi vào đất Thục, Cố Quân bắt đầu làm chậm hành trình – Thục Trung về Nam đều là địa bàn của Phó Chí Thành, địa đầu xà kia không khéo đã sớm biết hành tung của họ, còn bắt hắn trở tay không kịp cái nỗi gì?

Tôn đại nhân không ói nữa, trái lại nôn nóng đến độ rộp hết khóe miệng.

Thẩm Dịch lặng lẽ rỉ tai Cố Quân: "Đắc tội quân tử không đắc tội tiểu nhân, ngươi làm vậy là đủ rồi, cẩn thận tôn tử kia quay về kinh vu cho ngươi mấy chuyện xấu."

Cố Quân cười.

Thẩm Dịch vừa thấy nụ cười thờ ơ ấy liền không nhịn được muốn dùng võ mồm, phát biểu trường thiên đại luận, ai ngờ Cố Quân lại thì thào: "Quân tử tiểu nhân đều không là vấn đề."

Thẩm Dịch tức giận nói: "Rước họa chính là vấn đề rồi."

Cố Quân không chấp nhặt, hạ giọng thấp hơn vài phần: "Vị kia mới là vấn đề... Ta và Binh bộ thế như nước lửa là tốt nhất, ngươi không hiểu à?"

Thẩm Dịch ngây ra rất lâu, thở dài, không nói gì.

Từ khi nào... Cố đại soái ngông cuồng tự cao cũng bắt đầu lưu ý chơi trò tâm nhãn rồi?

Cố Quân: "Không nghe lão mụ tử ngươi lải nhải nữa, ta đi tìm con ta đây."

Nói xong liền phóng ngựa đi, chẳng thèm để ý tới Thẩm Dịch.

Thẩm Dịch: "..."

Y cảm thấy hai vị này quả thực buồn nôn hết sức.

Miền Nam hai bờ non xanh, thu đông cũng chẳng thấy điêu linh, vẫn xanh um tươi tốt, chính giữa là một con đường nhỏ ngoằn ngoèo, dựa núi uốn lượn mà lên, xa gần không trông thấy điểm cuối.

Cố Quân cầm roi ngựa, như chỉ điểm giang sơn, thản nhiên giới thiệu cho Trường Canh: "Người trong quân ngũ chúng ta, gặp địa hình kiểu này, trong lòng luôn lo ngay ngáy, nếu người ta mai phục, chúng ta cắm đầu vào, thì cứ chờ bị đánh một trận – cho dù ở cảnh nội Đại Lương, nơi thế này cũng dễ xuất hiện bọn cướp đường chiếm núi làm vua..."

Chữ "vua" y còn chưa dứt lời thì đã nghe giữa non xanh vang lên tiếng kèn hiệu chói tai.

Thẩm Dịch chán nản nói: "Đại soái, ngài là do quạ đen biến thành hả?"

Trên đỉnh núi chậm rãi mọc lên một lá cờ, mới nhìn còn tưởng lại là "Hạnh Hoa thôn", chờ gió thổi qua nhìn kỹ, mới phát hiện là "Hạnh lâm". Đám sơn phỉ lớn bé nhờ cỏ cây thấp thoáng nhô đầu ra, mặc thổ giáp tự chế, trường cung đoản kiếm rào rào nhắm vào người dưới chân núi.

Trên đỉnh núi lấp lóe ngân quang, Trường Canh híp mắt nhìn, chỉ thấy một trọng giáp không biết cướp từ đâu tới đứng ở đỉnh núi, kẻ dưới mặt nạ bảo hộ không thấy rõ, đứng như bia ngắm vậy.

Cướp đường lên tận đầu An Định hầu, Trường Canh nhất thời dở khóc dở cười.

Nhưng y quay đầu lại, phát hiện Cố Quân không hề cười, chẳng những không cười, sắc mặt còn rất khó coi, gằn ra hai chữ: "Ngu xuẩn."

Trường Canh nhanh chóng nghĩ lại, hạ giọng nói: "Tức là chuyện Nam Cương quan phỉ cấu kết không phải lời đồn, mà là thật?"

Cố Quân không lên tiếng, sắc mặt càng sầm xuống.

Dưới thời Đại Lương, thổ đặc sản Đông Hải là trân châu, thổ đặc sản Lâu Lan là mỹ tửu, thổ đặc sản Nam Cương thì là sơn phỉ.

Hai năm nay phổ biến khôi lỗi trồng trọt, nông dân không tìm được việc, một phần đi theo thương nhân lên miền Bắc kiếm ăn, còn một phần không biết nghĩ sao mà bỏ minh theo ám làm sơn phỉ – hàng hóa càng rẻ thì bạc có vẻ càng được giá, người tích hàng hóa lương thực ngày càng ít, thay vào đó nhao nhao tích trữ vàng bạc, nâng hiệu suất cướp bóc của sơn phỉ lên rất cao.

Nơi đây văn hóa sơn phỉ thịnh hành, hang ổ còn nhiều hơn thỏ rừng, có thể nói là "lửa rừng đốt không hết, gió xuân thổi lại sinh".

Quân Nam Cương ở Binh bộ vốn là con ghẻ, kinh phí cấp phát đều không đủ, căn bản không thể đấu lại chúng.

Mà sơn phỉ tuy thắng ở số lượng đông đúc, nhưng hầu hết sức chiến đấu có hạn, nếu đối đầu với quân chính quy, cũng là cho người ta diệt gọn từng ổ, gặp trú quân cũng rất run.

Ai có tiền cũng muốn theo đuổi hòa bình ổn định, không muốn cả ngày giắt đầu ở lưng quần để người ta rượt theo – sơn phỉ cũng là người.

Thế là dần dà quân Nam Cương và sơn phỉ địa phương hình thành mối quan hệ cộng sinh vi diệu.

Thống soái quân Nam Cương Phó Chí Thành vốn xuất thân sơn phỉ, một mặt tiết chế sơn phỉ, cố hết sức để chúng lấy tiền không đả thương người, mặt khác trú quân Nam Cương quân phí eo hẹp, trong đây chắc hẳn không thiếu phần của Phó tướng quân.

Quan phỉ cấu kết, dĩ nhiên không phải chuyện vẻ vang gì, song trong lòng Cố Quân hiểu rõ, hai năm nay Hoàng thượng vừa phát triển khôi lỗi trồng trọt, vừa mở rộng đường thông thương, rõ ràng đều là chính sách tốt quốc phú dân cường, thế nhưng không biết vấn đề xảy ra ở đâu, quốc khố không đầy ngược lại còn rỗng, quân phí lại phải cắt giảm.

Phương Nam mới trải qua lũ lụt, còn chưa chẩn tai xong, lại đánh nhau nữa, đến lúc đó sơn phỉ chạy khắp thành hương thôn quách, bách tính càng gặp tai họa, mà nếu triều đình thật sự vì việc này đi thay Thống soái quân Nam Cương, Cố Quân căn bản nghĩ không ra còn ai có thể trấn được Nam Cương.

Hai hại đem so chỉ có thể chọn bên nhẹ, Cố Quân không thể lựa chọn, đành tạm thời giữ Phó Chí Thành lại.

Chờ qua mấy năm này, con đường tơ lụa hoàn toàn xây xong, thương lộ trên đất liền Đại Lương toàn diện mở ra, cả đống bạc trắng đến từ hải ngoại có thể chảy vào, cho quốc gia được nghỉ ngơi, đến lúc đó không chỉ xuất binh, còn phải sửa lại đường từ Ba Thục đến Nam Cương, chân chính tăng mạnh sự quản khống với nơi trời cao Hoàng đế xa này, hai việc cùng tiến hành, mới có thể triệt để dẹp sạch phỉ hoạn.

Đáng tiếc, những việc này trừ y lo lắng, người khác giống như đều không nghĩ ra.

Kỳ thực vị tất nghĩ không ra, chỉ là trong mắt họ, lệnh kích trống và ngày sau vỗ mông Hoàng thượng thăng quan phát tài quan trọng hơn.

Cố Quân trên đường liên tục cân nhắc làm sao giữ được Phó Chí Thành, cố ý âm thầm truyền tin cho hắn, không ngờ đến giữa đường, người ta lại làm trò này.

Thổ phỉ nào đánh cướp mà khuynh sào xuất động, còn kéo cờ khua chiêng gõ trống? Đối phương đã tỏ rõ biết y là ai.

Chặn giết khâm sai triều đình, có khác gì tạo phản?

Trường Canh mấy năm nay vào sâu dân gian, du lịch tứ phương, sớm không còn lơ mơ với thời cuộc dân sinh, nghĩ qua đã rõ hết tiền căn hậu quả, y dò xét thần sắc Cố Quân, thấp giọng nói: "Nghĩa phụ, con lại cảm thấy đây vị tất là ý của Phó tướng quân."

Cố Quân lạnh lùng nói: "Nói thừa, Phó Chí Thành nào có ngu xuẩn như vậy?"

Đám đại đầu sơn phỉ chiếm núi làm vua này có thể nói là chữ nghĩa chẳng được mấy, muốn tìm một kẻ biết viết biết tính, cũng phải mấy đỉnh núi xài chung một trướng phòng tiên sinh, không chừng là nghe thấy tin tức đường nhỏ từ đâu lọt ra, liền tự chủ trương đánh cướp họ, vừa thử vừa ra đòn phủ đầu, đến lúc đó có thể khoe thành tích với Phó Chí Thành.

Chỉ thấy một sơn phỉ trên cao vẫy cái đồng hống đơn giản, hướng về đám người Cố Quân dưới chân núi hô lên như hát hí khúc: "Người tới là ai, hãy xưng tên ra!"

Thẩm Dịch bên cạnh vừa dở khóc dở cười, vừa rút một mũi tên sau lưng: "Đại soái?"

Cố Quân: "Bắn xuống."

Tên trong tay Thẩm Dịch cơ hồ đồng thời rời cung với tiếng Cố Quân, thế như chẻ tre bắn trúng sơn phỉ cầm đồng hống, một con chim kêu to phóng lên cao, thanh âm chói tai vang vọng trong sơn cốc.

Cả sơn cốc đều ầm lên.

Tôn thị lang thấy thế, căn bản chẳng màng đắc ý mình đã bắt được thóp của Phó Chí Thành, lập tức sợ hãi, lồm cồm nhảy khỏi xe ngựa, luôn mồm nói: "Không được không được! Đại soái, tuyệt đối không được, trên núi này chí ít có khoảng trăm sơn phỉ, chúng ta chỉ có lèo tèo vài người, các vị tướng quân đều không mặc giáp, đây là tay không tấc sắt mà! Còn có tứ điện hạ, tứ điện hạ thân phận tôn quý, không thể sơ suất..."

Cố Quân chẳng thèm nhìn hắn, vẫy tay gọi Trường Canh: "Tứ điện hạ, công phu có lơ là không?"

Trường Canh khom người nói: "Làm một kỵ binh nho nhỏ dưới trướng Đại soái hẳn vẫn đủ tư cách."

"Đi, ta dạy ngươi cách lên núi đánh khỉ."

Cố Quân nói xong, phóng ngựa xông thẳng lên cao, Trường Canh không hề do dự, lập tức đuổi theo, tướng sĩ Huyền Thiết doanh được huấn luyện nghiêm chỉnh, Cố Quân vừa hành động thì lập tức hiểu ý chủ soái, cùng giục ngựa xông lên, chỉ để lại tiếng kêu thảm thiết vang vọng của Tôn đại nhân: "Đại soái, không được đâu..."

Ngay sau đó, gáy hắn căng lên, cả người chợt nhẹ tênh, bị Thẩm Dịch dùng chuôi kiếm nhấc lên cao, ném lên lưng ngựa của mình.

Tôn Tiêu "Á" một tiếng, ngã đến trợn trắng mắt.

Thẩm Dịch bất đắc dĩ nói: "Đừng gào nữa Tôn đại nhân, mạt tướng nhất định giữ cho ngài không chết, yên tâm đi."

Thẩm tướng quân nói đến đây không khỏi tự thương mình – Cố đại soái kia xuất thân thiếu gia hầu phủ, từ nhỏ đã có lão mụ tử theo sát, sai sử quen rồi, sau lớn lên phát hiện Huyền Thiết doanh không có lão mụ tử, bèn coi Thẩm nào đó là lão mụ tử, thật quá quắt.

Nói trở lại, Thẩm Dịch nhìn Tôn đại nhân trợn mắt ngất xỉu, thầm nghĩ: "Đây là lần đầu tiên ta nhìn thấy Thị lang như thái giám vậy."

Trên đỉnh núi, tiểu sơn phỉ nói với phỉ thủ: "Đại ca, em mới nghe tên thái giám kia kêu Đại soái."

Phỉ thủ cả người nấp trong trọng giáp, nghe vậy đẩy mặt nạ bảo hộ lên, giận dữ nói: "Thừa lời, còn không bắn tên! Bao vây! Bao vây!"

Trong sơn cốc tiếng kèn lại thổi lên, sơn phỉ lớn nhỏ hò hét lao ra, từ trên cao xông thẳng xuống bọn Cố Quân "binh lực" hai ba con mèo nhép.

Bọn sơn phỉ không biết là để thêm can đảm hay là thế nào, gióng trống khua chiêng làm thành một vòng vây, kẻ đầu này chạy xuống, đầu kia còn gõ chậu gõ bát gào thét từ trên đỉnh núi đối diện chạy tới "bao vây", chạy lộn xộn làm bụi đất tung lên mù mịt. Đáng tiếc ngựa của chúng phần lớn cướp từ thương đội qua lại, làm sao đuổi kịp chiến mã ngàn dặm chọn một của Huyền Thiết doanh, tích tắc đã bị bỏ lại đằng xa. Cố Quân đưa tay ra hiệu, mấy tướng sĩ phía sau lập tức hiểu ý chia binh tứ tán, vũ tiễn sơn phỉ bắn xuống bị phân tán mục tiêu, lập tức không thành hệ thống.

Trước mặt hãn phỉ thành đoàn, Cố Quân hờ hững rút kiếm, lưỡi kiếm như tuyết, nói với Trường Canh: "Nhớ kỹ, đến trước trận, ai không muốn chết thì chết trước..."

Trường Canh suýt nữa bị kiếm trong tay y làm lóa mắt.

Kiếm của y như du long, một đường huyết hoa tung tóe, hai tiến hai xuất, dưới đất xác sơn phỉ và ngựa lăn vào nhau.

Cố Quân bổ sung nửa câu sau: "... Cho dù địch nhân của ngươi là một đám thùng cơm."

Phỉ thủ ở trên cao cầm thiên lý nhãn quan sát, vừa thấy tình hình không đúng, lập tức nổi giận nói: "Bảo các ngươi bao vây mà, chuyện này là sao!"

Tiểu thổ phỉ bên cạnh nhăn nhó nói: "Đại ca, không biết!"

Lúc này, một thổ phỉ mặt đen chạy tới: "Đại ca, việc lớn không tốt!"

Chẳng qua giây lát, chỗ sơn khẩu đã bị một khinh kỵ xông qua, thổ phỉ cầm tù và chưa kịp rụt cổ, đã thấy ánh đao lóe lên, đầu mình hai ngả.

Cố Quân tài cưỡi ngựa siêu quần, tung hoành giữa đá núi như đi trên đất bằng, băng qua một lối nhỏ cực hẹp trên núi, vung trường kiếm trong tay, sau đại thạch liền vang lên một tiếng hét thảm – nơi đó vậy mà còn có người mai phục – y vẩy rơi máu trên trường kiếm, tựa hồ đợi Trường Canh giây lát, nói: "Trong núi lắm chỗ che chắn, phía sau vật che chắn thường có địa đầu xà, ngươi võ nghệ siêu quần, chưa chắc né được ám toán."

Trường Canh nhìn lướt qua, quả nhiên thấy sau tảng đá kia cơ quan nỗ đã sẵn sàng, chỉ chờ bắn người. Ngựa của y cũng không phải là chiến mã thần tuấn gì, đi theo Cố Quân hơi trầy trật, nhưng chỉ cảm thấy máu toàn thân đều nóng lên, hỏi: "Nghĩa phụ, làm sao người biết?"

Cố Quân nhếch môi: "Quen tay."

Vừa dứt lời, một tảng đá chợt từ phía trên lăn xuống, Cố Quân như trên đầu có mắt, thúc mạnh bụng ngựa, chiến mã nhảy vọt về phía trước, lông đuôi cơ hồ đụng phải tảng đá lăn, đồng thời, Cố Quân cả người rời yên ngựa đứng dậy, túm sợi một dây leo, mau chóng treo mình trên không, Trường Canh nghe thấy "Vút" một tiếng, theo bản năng ngửa ra sau, dù tốt dù xấu cũng không để nghĩa phụ hung tàn ở trên cao bị máu văng đầy mặt.

Cố Quân từ trên cao nhìn y nhướng mày cười, huýt sáo, ngựa lập tức có huấn luyện mà đi theo.

Tim Trường Canh đập như điên, nụ cười của Cố Quân sắp hút cả hồn phách y đi.

Cố Quân ở trên cao gọi y: "Đánh khỉ trên núi, nhớ phải giành chỗ cao trước-"

Lúc này "vòng vây" như đùa giỡn của sơn phỉ đã hoàn toàn rối loạn, mấy cửa khe núi trên cao chớp nhoáng bị chiếm, bọn phỉ thành lũ ruồi nhặng không đầu, chạy loạn khắp nơi, bị tên trên cao bắn xuống giết cả toán. Trường Canh vội đuổi theo, chỉ thấy Cố Quân một lần nữa nhảy lên ngựa, đồng thời nhanh nhẹn lôi một mũi tên đặc biệt từ sau lưng.

Cung và tên kia đều rất nặng, trường cung ít nhất mấy chục cân, gắn một cái hộp nhỏ cỡ bằng ngón cái, Trường Canh nheo mắt, thầm nghĩ: "Trên cung có hộp vàng?"

Ngay sau đó, khói trắng trên trường cung bay ra chứng thực phỏng đoán của y, tên như làm bằng sắt, lúc rời cung phát ra một tiếng rít chói tai, như hai mươi chùm toản thiên hầu đồng thời gầm thét đứt hơi mà lao lên trời – tên sắt như bạch hồng bản thu nhỏ, lao lên trời cao, một tiếng kim thạch lan khắp núi như sóng, tên trúng ngay một tảng đá to.

Náo loạn như ngựa hoang lao đi, tảng đá ấy chấn động chốc lát, rồi đột nhiên rơi xuống.

Bầy khỉ tứ tán, phỉ thủ lại bị trọng giáp cản trở hoạt động, chậm giây lát mới ngẩng đầu – còn chưa kịp nhìn thấy gì, thì cả người lẫn giáp đã chôn vùi dưới một tiếng "Ầm".

Trường Canh cười nói: "Nghĩa phụ, cái này con biết, bắt tặc bắt vương đúng không ạ?"

Y dọc đường được Cố Quân che chở, gào thét mà qua giữa mấy trăm sơn phỉ, ngay cả tóc cũng chưa rối một sợi, tay áo tung bay, thoạt nhìn vẫn là một công tử ca phong độ phiên phiên.

Cố Quân trong lòng "Chậc" một tiếng, nghĩ bụng: "Xong rồi, lần sau về kinh thành, tiểu cô nương ném khăn tay cho ta e là phải giảm một nửa mất thôi."

Non nửa canh giờ sau, Cố Quân dẫn mấy tướng sĩ Huyền Thiết doanh "tay không tấc sắt" nghênh ngang đi tới hang ổ bọn phỉ.

Phần lớn thổ phỉ vừa thấy lão đại ngân quang lập lòe chết, lập tức rào rào chạy tứ tán, chúng quen thuộc địa hình, một khi tản vào rừng, thì chớp mắt đã không thấy bóng dáng.

Cố Quân dẫn theo ít người, không tiện truy kích, chỉ trói mấy kẻ chưa kịp chạy, xâu lại như chim cút.

Cố Quân ngồi xuống cái ghế da hổ của phỉ thủ, lại cảm thấy không đúng, đứng dậy lật da hổ lên, vui vẻ nói: "Ngai vàng của đại vương quý sơn thật là độc đáo."

Chỉ thấy bốn chân ghế da hổ đầy khí thế kia đều đã bị cưa mất, bên dưới rõ ràng là vàng chất thành đống, trên kê một tấm ván gỗ.

Cố Quân: "Ngồi trên đây có thể đẻ ra trứng vàng sao?"

Thẩm Dịch ho khan một tiếng, ý bảo Đại soái nói tiếng người đi.

Lúc này, Tôn đại nhân ban nãy sợ tới vãi đái đã thay quần, lại nhân mô cẩu dạng trùng sinh quay về, thấy thế lập tức ý thức được thời cơ không thể để mất, mất là không đến nữa, sửa lại bộ dạng hèn nhát kêu gào "không được" lúc nãy, tiến lên một bước, hiên ngang lẫm liệt quát hỏi: "Ai cho các ngươi lá gan cướp lên đầu khâm sai triều đình? Ai làm chủ việc này? Nói!"

Trường Canh vốn đang cầm cây cung đặc biệt của Cố Quân ngắm nghía, nghe vậy ngẩng đầu lên nói: "Cướp khâm sai là cùng tội với mưu phản đấy, chỉ cần không phải phỉ thủ, sơn phỉ bình thường không chừng chỉ bị sung quân, đặc biệt anh hùng như chư vị..."

Y nói đến đây thì dừng lại, chỉ nở nụ cười ý tứ sâu xa, không nhìn mấy sơn phỉ run bần bật, giống như chỉ vô tình nói ra một câu, mau chóng dời sự chú ý đi chỗ khác, cười tủm tỉm hỏi Cố Quân: "Nghĩa phụ, cung tên này của người tốt thật, cho con được không?"

Cố Quân khoát tay: "Cầm đi."

Tôn Tiêu khựng lại, không chắc vị tứ điện hạ chưa từng gặp mặt này có ý gì. Ban đầu chỉ cảm thấy y không hề hống hách, tính tình ôn hòa, rất giỏi nói chuyện, lòng dạ không hề thâm sâu, nhưng lần này hắn đột nhiên phát hiện, có khả năng là mình nhìn nhầm rồi.

Trường Canh nói một câu như vậy, bọn sơn phỉ cũng không ngu xuẩn, lập tức giậm chân đấm ngực mà gào khóc.

"Thảo dân không biết là khâm sai đại nhân giá lâm, đại nhân tha mạng!"

"Kiếm miếng cơm ăn cũng không dễ, chúng con ở nơi bé tí này, mươi bữa nửa tháng không gặp một người, ai biết vừa khai trương đã đụng phải khâm sai, thảo dân oan uổng... A không, kỳ thực cũng không oan uổng, thảo dân trên có già dưới có trẻ, không dễ dàng đâu!"

Tôn Tiêu: "..."

Đúng lúc này, một tướng sĩ Huyền Thiết doanh đột nhiên rảo bước vào, rỉ tai Cố Quân: "Đại soái, Khối đại nhân Tuần phủ Nam Trung phái người truyền tin, nói nghe tin Hầu gia ở bản địa vậy mà bị phỉ đồ quấy nhiễu, liền dẫn hai trăm gia tướng, sẽ lập tức đến ngay."

Cố Quân mặt không biểu cảm ngước lên, vừa vặn gặp tầm mắt Tôn Tiêu, máu trên người Cố đại soái còn chưa khô, dọa Tôn Tiêu mất luôn vẻ đắc ý lóe lên trong mắt.

Phó Chí Thành xuất thân sơn phỉ, sau đó dù là chiêu an đầu hàng, quân công hiển hách, nhận mệnh một mình làm đại quan biên giới cũng rất bất hợp lý. Ngặt nỗi năm đó khi Tây Vực phản loạn, bọn đạo chích Nam Dương cũng thừa cơ xâm nhập cảnh nội Đại Lương, muốn mượn gió bẻ măng, Cố Quân đã đến phía Tây, trong triều thật sự chẳng còn ai để dùng, đành phải coi ngựa chết như ngựa sống mà chữa đại, lệnh cho Phó Chí Thành thống lĩnh trú quân Nam Cương.

Nhưng Hoàng đế Nguyên Hòa vẫn không yên tâm về hắn, Tuần phủ Nam Trung chính là năm đó chuyên môn bố trí để kiềm chế Phó Chí Thành, trong tay có hai trăm gia tướng như tinh binh, thời khắc mấu chốt có thể tùy nghi hành sự, mặc dù nếu thực sự xảy ra chuyện, hai trăm gia tướng này không cách nào đối kháng trú quân Nam Cương, nhưng chia nhau phá vây mang tin đi lại là không khó.

Khối Lan Đồ và Phó Chí Thành hai người này có thể nói là oan gia ngõ hẹp, chỉ sợ đều muốn trí đối phương vào chỗ chết, người tới e là không có hảo ý.

Cố Quân: "Ta vừa bước chân vào hang phỉ, Khối tuần phủ đã 'nghe nói' rồi, tin tức của hắn còn nhanh hơn thổ địa công nhỉ."

Tôn Tiêu cũng biết Khối Lan Đồ tới quá nhanh, không nắm chắc thời cơ, vội nói: "Không giấu gì Đại soái, chúng ta chuyến này vốn nên bí mật xuất hành, ai ngờ trên đường gặp tứ điện hạ, hạ quan sao có thể để hoàng tử mạo hiểm? Đành phải báo cho Tuần phủ Nam Trung chi viện một chút..."

"Tôn đại nhân có tâm," Trường Canh cười nói, "Nhưng làm sao ngài biết về Nam là mạo hiểm?"

Tôn Tiêu đại khái biết chỗ dựa vững chắc sắp đến, lưng cũng thẳng hơn vài phần, chắp tay nói: "Lần này thần xuống Tây Nam trấn an lòng quân, sớm nghe nói Nam Cương hãn phỉ hoành hành. Để phòng vạn nhất, trước khi đi đặc ý xin bệ hạ một phong lệnh kích trống – không ngờ đúng như dự đoán, may mà Hầu gia thân kinh bách chiến, lâm nguy không loạn."

Cố Quân ngoài cười trong không cười nhìn hắn, không thèm nhận nịnh bợ.

Tôn Tiêu nghĩa chính ngôn từ: "Bọn hãn phỉ này hoành hành không cố kỵ, thật là to gan lớn mật, ngay cả mệnh quan triều đình cũng dám cướp, huống chi bách tính bản địa? Họa này không trừ, Tây Nam không ổn, xem ra hạ quan mang lệnh kích trống là đúng rồi, đây chính là lệnh kích trống đầu tiên của Đại Lương ta, rơi ngay vào Phó tướng quân."

Trong tay Tuần phủ Nam Trung Khối Lan Đồ ngoài hai trăm gia tướng ra còn có mười bộ trọng giáp và mười lăm bộ khinh cừu – nếu thêm một cự diên nữa, chỉ luận trên hỏa cơ cương giáp, trang bị của thành thủ Nhạn Hồi trấn Bắc cương cũng chẳng hơn.

Khoảnh khắc nhận được thư của Tôn Tiêu, hắn liền biết ngày mình vẫn chờ đợi sắp đến rồi.

Phó Chí Thành làm thổ hoàng đế lâu ngày, là kẻ thô lỗ ngạo mạn, không chỉ một lần làm mất mặt Khối Lan Đồ kẻ được triều đình phái tới giám thị mình, thù hận giữa hai người tồn tại đã lâu.

Hoàng thượng quyết tâm muốn gom binh quyền toàn cảnh lại, thi hành lệnh kích trống, tất nhiên cần một kẻ tế cờ trước. Tây Bắc là địa bàn của Cố Quân, tạm thời chưa động được, Giang Nam chủ yếu là thủy quân, thủy quân gánh trách nhiệm quan trọng là giám thị thuyền bè Tây Dương qua lại, còn có họa giặc Oa, không tiện động trước, đại quân Trung Nguyên ở giữa trấn quốc, muốn động cũng phải giữ đến cuối cùng, vậy là chỉ còn vùng Nam Cương thâm sơn cùng cốc này có thể làm đột phá khẩu.

Nếu Phó Chí Thành thông minh, lúc này nên ngoan ngoãn ở Nam Cương vờ như mình không tồn tại, thế nhưng hắn còn muốn nhảy ra, lấy cớ có đại tang để uy hiếp triều đình.

Một gia tướng tiến lên, thấp giọng nói: "Đại nhân, dầu hỏa đã chuẩn bị sẵn sàng."

Khối Lan Đồ nhận thiên lý nhãn, từ xa thoáng nhìn thanh sơn tuyệt đẹp trước mặt – chủ nhân ngọn núi này vốn là một đạo sĩ pháp danh Tĩnh Hư, do Hoàng thượng tin Phật, dân gian nhao nhao noi theo, mà đạo quán hương khói khó tiếp tục, còn thường xuyên có du côn thấy hắn dễ bắt nạt rồi tới cướp bóc, Tĩnh Hư trong cơn giận dữ đánh chết một tên du côn, từ đó không chỗ dung thân, đành phải lên núi làm thổ phỉ.

Người này biết chữ, thủ đoạn tàn nhẫn, là một nhân vật rất khá, sau thành đầu lĩnh của sơn phỉ trong ba trăm dặm Nam Cương.

Khối Lan Đồ biết Tĩnh Hư và Phó Chí Thành có quan hệ mật thiết, muốn giết Phó Chí Thành, tất phải xuống tay từ đạo sĩ này.

Từ lúc Hoàng thượng dùng kim bài lệnh tiễn mời Cố Quân, Khối Lan Đồ đã định kế với Tôn Tiêu, đầu tiên rải tin tức trong vùng Nam Cương, nói khâm sai triều đình sắp đến, để tra rõ vụ án Phó Chí Thành cấu kết sơn phỉ.

Để cam đoan khâm sai không xảy ra chuyện, Phó Chí Thành tất nhiên đã dặn dò các đại phỉ thủ trước, nói "khâm sai động viên quân đội" sắp đến, bảo chúng ước thúc thủ hạ – cứ như vậy, đám sơn phỉ này sẽ tin nghe Phó tướng quân, hay tin theo lời đồn? Nếu tâm tồn nghi hoặc, Phó Chí Thành hời hợt nói khâm sai tra án thành "khâm sai động viên quân đội", đám đại phỉ thủ sẽ nghĩ như thế nào?

Gần đến giờ khâm sai tới, Khối Lan Đồ được Tôn Tiêu truyền tin, lại phái người đóng giả trú quân Nam Cương, đến tìm Tĩnh Hư, nói xe của An Định hầu và khâm sai bị cướp trên đường, Phó tướng quân tránh để kẻ có rắp tâm nhận thấy dính dáng, không tiện ra mặt, đành phải cầu viện đạo trưởng.

Tĩnh Hư và Phó Chí Thành giao tình tốt nhất, vô luận trong lòng còn nghi vấn hay không, giờ phút sống còn này đều theo hắn, vừa nghe nói như vậy, nghĩa khí lên đầu, lập tức dẫn người chạy tới.

Họ vừa mới đi thì sau lưng quân Khối Lan Đồ mai phục trên núi liền dùng trọng giáp chặn sơn lộ, ngàn vạn vũ tiễn nhúng dầu hỏa lên dây, thiêu rụi hang ổ của Tĩnh Hư.

Khinh cừu và trọng giáp tuần tra trên núi, thấy ai trốn ra là bồi thêm một đoản pháo, đạo tặc thủ sơn, lão nhược phụ nhụ nhất loạt như nhau, đều không buông tha, chỉ thả chạy mấy người sống, tiện bề tiết lộ tin tức cho Tĩnh Hư.

"Được rồi, đi, chúng ta đi gặp Cố đại soái." Khối Lan Đồ vung tay, trọng giáp khinh cừu cùng hai trăm tinh binh huấn luyện nghiêm chỉnh tập hợp lại chuẩn bị đi, Khối Lan Đồ lên ngựa, quay đầu lại thoáng nhìn đỉnh núi bị lửa liếm đầm đìa máu thịt, hờ hững nói, "Nghe xem Phó Chí Thành lý do lý trấu thế nào, sơn phỉ giảo trá gì, 'lửa rừng đốt không hết, gió xuân thổi lại sinh' cái gì, bản quan đốt lửa rừng, xem chúng làm sao đâm chồi lại – đi!"

Lúc này, sơn phỉ toàn vùng đều biết Phó Chí Thành dùng kế hoãn binh, để bảo vệ mình trước mặt khâm sai, ra tay với các "huynh đệ" ngày xưa.

Khối Lan Đồ chính là muốn cho sơn phỉ và Phó Chí Thành chó cắn chó, chẳng phải Phó Chí Thành tự phụ thông minh, cảm thấy không ai có thể bắt được nhược điểm của hắn à?

Đương nhiên, để phòng họ Phó chó cùng rứt giậu, dưới tình thế cấp bách phạm thượng tác loạn, Tôn Tiêu cố ý mời An Định hầu tới tọa trấn.

An Định hầu Cố Quân chưa đến nhi lập, đối phó phản quân có thể rất có sức uy hiếp, song chưa chắc trấn được loại đại quan biên giới bò ra từ đống xác chết như Phó Chí Thành – nhưng cũng không hề gì, ai bảo lão An Định hầu có ơn tri ngộ dìu dắt hắn kia chứ?

Khối Lan Đồ chắc chắn Phó Chí Thành không dám động tới Cố Quân, cựu bộ của lão An Định hầu tuy phần lớn đã cáo lão rời khỏi quân đội, nhưng quan hệ rườm rà rắc rối, dư uy còn đó, nếu Phó Chí Thành dám vong ân phụ nghĩa động đến độc tử của lão Hầu gia thật, trú quân Nam Cương của hắn nội loạn lên thì cho hắn xơi đủ.

Vả lại, họ Phó kia dù điên cuồng ngang ngược hơn, cũng sẽ không cho rằng trú quân Nam Cương con con có thể dựng cần khởi nghĩa, làm rung nền móng Đại Lương chứ?

Ngay sau khi họ quay người rời đi, một con chim gỗ bằng bàn tay xoay mắt, đập cánh, bay lên không trung giữa khói đặc và máu tươi, chớp mắt hóa thành một điểm đen bé tí, không thấy tăm hơi.

Mà cùng lúc đó, Phó Chí Thành trong trú quân Nam Cương nhận được tin xa giá của An Định hầu bị cướp, giật nảy mình, nhảy dựng lên túm áo thám báo kia: "An Định hầu hiện đang ở nơi nào?"

Thám báo nói: "An Định hầu bắn chết Hạnh Tử Lâm, nhưng sau đó không biết thế nào mà ở lại trong hang ổ Hạnh Tử Lâm không đi, cờ ban đầu cũng đổi thành soái kỳ Huyền Thiết doanh rồi."

Phó Chí Thành nghe thế da mặt giật giật, giơ tay hất rơi chén rượu bát trà trên bàn, căm hận nói: "Thành sự không đủ, bại sự có thừa!"

Thám báo thở mạnh cũng không dám, quỳ một gối xuống, nhìn Thống soái trú quân Nam Cương đi vài vòng trong phòng như thú bị nhốt – hắn không hề giật mình khi Cố Quân tiêu diệt hang ổ Hạnh Tử Lâm, nếu Cố Quân bị cướp thật mới là kỳ văn hi thế.

Vấn đề là... An Định hầu rốt cuộc có ý gì?

Tại sao y không đi tiếp, ngược lại dừng chân ở Hạnh Tử Lâm?

Nếu chỉ để thẩm vấn sơn phỉ, tại sao phải thay cờ?

Y đang đợi ai? Y đang đợi làm gì?

Cố Quân lấy danh nghĩa phúng viếng động viên mà đến, tại sao phải mang theo soái kỳ Huyền Thiết doanh?

Đã có soái kỳ, vậy hổ phù Huyền Thiết cũng ở đây chứ?

Bên cạnh y thật sự chỉ có mấy thị vệ và một Thị lang hèn nhát thôi sao?

Còn có Tuần phủ Nam Trung cách khoảng trăm dặm kia, tất nhiên đã chuẩn bị sẵn một thùng bùn đen để bôi lên người mình, Cố Quân đã tiếp xúc với hắn hay chưa?

Cố Quân rốt cuộc đứng ở bên nào?

Mí mắt Phó Chí Thành giật liên hồi, hắn vốn ở dưới trướng lão An Định hầu, nhưng chưa từng qua lại với Cố Quân, cũng biết Cố Quân vẫn không ưa gì hành vi sơn phỉ của hắn.

Đối với việc Cố Quân tới thăm, trong lòng Phó Chí Thành rất không chắc.

"Chuẩn bị ngựa," Phó Chí Thành đột ngột mở miệng, "Sơn Hổ, Bạch Lang và Linh Hồ ba doanh theo ta đi gặp An Định hầu và khâm sai, Lâm Báo đợi mệnh, lấy khói lửa làm hiệu, tùy thời chuẩn bị xuất phát."

Thám báo kinh nghi bất định nhìn Phó Chí Thành – Phó tướng quân triệu tập gần nửa binh lực trú quân Nam Cương, đây là đi vây xem An Định hầu, hay đi vây tiễu An Định hầu?

Phó Chí Thành tháo trường kích trên tường, giận dữ nói: "Lề mề cái gì!"

Theo sát gia tướng Tuần phủ, trú quân Nam Cương cũng dẫn gần nửa số binh lực, không thể quay đầu mà mở đường về phía Hạnh Tử Lâm.

Đêm khuya hơn, trên quan đạo Nam Cương, thương đội lớn nhỏ lỡ quán trọ bắt đầu dựng lều tạm ven đường, thương nhân vào nam ra bắc quen màn trời chiếu đất, dần dần đi ngủ hết, chỉ để lại người gác đêm và đuốc.

Vào lúc canh ba, trong rừng vẳng tới tiếng chim đỗ quyên lảnh lót.

Những người gác đêm và một phần giả ngủ trước sau đứng dậy, họ không hề nói chuyện với nhau, lúc đi lướt qua nhau chỉ trao đổi ánh mắt, lặng ngắt như tờ mà lẻn ra sau xe chở hàng.

Trong số xe chở hàng đó lại có vách đôi, gạt hàng hóa bên trên liền lộ ra mũ giáp lạnh lẽo phía dưới, một tia phản quang cũng không có.

Dạ hành nhân tốp năm tốp ba chớp nhoáng mặc cương giáp, có "ưng", có "giáp", còn có một phần kỵ binh khinh cừu.

Quay người liền từ bốn phương tám hướng hòa vào bóng đêm, núi rừng lắc lư chốc lát, lũ chim đang ngủ giật mình tỉnh dậy, chẳng qua giây lát lại lần nữa yên tĩnh như lúc đầu.

Chỉ còn lại những cây đuốc của thương đội lập lòe, tứ tán trên đại địa Nam Cương sơn xuyên san sát, ngoằn ngoèo khúc khuỷu, như một vốc vàng vụn rải rác vậy.

Đêm nay, đa phương thế lực phức tạp, các lộ với mưu đồ riêng chạy về hướng Hạnh Tử Lâm.

Có lẽ phỉ thủ Hạnh Tử Lâm bị đá đè chết nằm mơ cũng chẳng ngờ đến, hắn tựa như một sợi dây dẫn chí quan trọng, vô tình có một quyết sách ngu xuẩn, liền đốt bùng cục diện chạm vào là nổ của Nam Cương.

Trong hang ổ sơn phỉ Hạnh Tử Lâm, đám sơn phỉ khăng khăng nói không hề biết chuyện khâm sai tới thăm, Tôn Tiêu thẩm tới thẩm lui thẩm tái thẩm hồi, thủy chung chẳng hỏi được gì, đành phải từ bỏ, đôi mắt không ngừng liếc ra cửa.

Cố Quân ăn qua loa vài miếng lót dạ, lau miệng không động đũa nữa, thấy Tôn Tiêu như lên nhọt ở mông, liền cười nói: "Tôn thị lang, chưa đến một bữa cơm mà ngài nhìn ra cửa tới bảy tám lần, mỏi mắt chờ Khối tuần phủ à?"

Tôn Tiêu biến sắc mấy lần, miễn cưỡng cười xòa nói: "Đại soái cứ nói đùa – Đại soái không hợp khẩu vị hay sao mà không ăn thêm?"

"Không ăn nữa," Cố Quân ẩn ý nhìn hắn, "Ăn nhiều hành động không tiện, thế là đủ rồi. Đúng rồi Quý Bình, nếu không có việc gì thì ngươi kiểm kê qua xem hang phỉ này có bao nhiêu vàng bạc, chúng ta không thể cướp uổng thổ phỉ, đợi lát nữa phải đóng gói mang đi mới được."

Tôn Tiêu: "..."

Cố Quân: "Tôn đại nhân trở về sẽ không tố tội ta chứ? Ôi, không giấu gì ngài, Binh bộ ki bo, Huyền Thiết doanh chúng ta sống cũng chẳng dễ dàng gì."

Bọn sơn phỉ bị trói gô lại còn rất thông minh, nghe vậy vội nói: "Chúng tôi có sổ sách! Có! Ở... ở ở ngay bên trên!"

Thẩm Dịch quay đầu nhìn, thấy nơi đây vậy mà còn có một "phòng ngầm" – trong góc dựng một cái thang lớn, nối thẳng lên nóc, một đống cỏ tranh che một gác lửng nhỏ cất trên xà nhà.

"Hay thật," Thẩm Dịch nghĩ bụng, "Ta lại biến thành trướng phòng tiên sinh trong ổ gà rồi."

Đúng lúc này, Khối Lan Đồ đến Hạnh Tử Lâm trước tiên.

Khối Lan Đồ dẫn một đám gia tướng rảo bước vào, máu và lửa trên người chưa tan, phảng phất còn đằng đằng sát khí. Hắn tiến lên một bước, hùng dũng lên giọng: "Hạ quan Tuần phủ Nam Trung Khối Lan Đồ, chào An Định hầu, Tôn đại nhân, chư vị tướng quân, và vị này..."

Trường Canh mỉm cười nói: "Lý Mân."

Khối Lan Đồ: "..."

Tôn Tiêu vội hạ giọng nhắc nhở: "Không được vô lễ, đó là Nhạn Bắc vương, tứ điện hạ!"

Khối Lan Đồ giật nảy mình.

Lý Mân ấu đệ của Hoàng thượng chưa bao giờ xuất hiện trước mặt người đời, phần lớn chỉ biết y từng lưu lạc dân gian, sau khi tìm về vẫn ru rú trong phủ An Định hầu, không có công trạng gì, còn trẻ như vậy... Trên lý trí Khối Lan Đồ biết người trẻ tuổi này tuy thân phận cao quý nhưng kỳ thực không có gì phải lo lắng, song y dù sao cũng là một biến số ngoài ý liệu, luôn khiến người ta bất an.

Giống như điềm báo, khóe mắt Khối Lan Đồ giật giật.

Không đợi hắn nói tiếp, một gia tướng liền rảo bước vào, rỉ tai Khối Lan Đồ.

Cố Quân: "Sao, nước bọt của người trong nhà Khối đại nhân quý báu đến vậy, không cho bọn ta nghe luôn."

Khối Lan Đồ đá văng gia tướng kia: "Láo xược, châu đầu ghé tai trước mặt Hầu gia và điện hạ, còn ra thể thống gì!"

Gia tướng kia bị đá một phát không nhẹ không nặng, cũng không thấy phẫn nộ, lập tức nửa quỳ xuống, bẩm báo: "Bẩm các vị đại nhân, có mấy vạn binh lực đi về hướng Hạnh Tử Lâm, hình như là người của trú quân Nam Cương!"

Chưa dứt lời, một quan tiên phong lạ mặt đi lên sườn núi, bọn gia tướng của Tuần phủ cầm hết đao thương kiếm kích lên, như hàn quang chiếu trong đêm tối.

Quan tiên phong kia không sợ chút nào, chỉ cất cao giọng nói: "Tổng đốc Tây Nam Phó Chí Thành, dẫn thân binh nghênh đón Đại soái!"

Cố Quân thần sắc thản nhiên, thầm nghĩ: "Họ Phó cũng thật giỏi tìm đường chết."

Khối Lan Đồ lại lần nữa vô thức nhìn Trường Canh một cái, Trường Canh nở nụ cười với hắn, thong thả quay người đi tới cái thang ở góc nhà, trèo lên căn gác lửng giấu sổ sách.

Khối Lan Đồ ý thức được thời cơ không thể để lỡ, lập tức tiến lên một bước nói: "Đại soái, hạ quan có việc bẩm báo!"

Cố Quân nâng mí mắt lên.

Khối Lan Đồ: "Phó Chí Thành kia thân là thủ tướng một phương, mà lơ là nhiệm vụ, cấu kết thổ phỉ, hà hiếp bách tính, ngoại thông Nam Dương, ý đồ mưu nghịch rành rành, xin Đại soái sớm chuẩn bị!"

"Ồ, thế sao?" Cố Quân nghe thế không hề kinh ngạc, chỉ xoay chuỗi tràng hạt cũ rích trong tay vài vòng, dường như đang cân nhắc điều gì.

Giây lát sau, y nói: "Vậy thì mời lên đi."

Khối Lan Đồ và Tôn Tiêu ngơ ngác nhìn nhau, đều cho rằng tai mình có vấn đề.

Cố Quân: "Mời Phó tướng quân lên đây, ta xem hắn định mưu nghịch như thế nào."

Trường Canh trèo lên gác lửng, bên trong lại có động thiên khác, có cửa sổ và cửa áp mái, tầm nhìn rất tốt, từ cửa sổ áp mái đi lên, chính là chỗ bọn phỉ Hạnh Tử Lâm cắm cờ, Thẩm Dịch dựng một cây đuốc cao ở bên cạnh, không biết đốt cái gì mà bốc lên một đám khói trắng gió thổi không loạn, xông thẳng về phía chân trời.

Trường Canh cười nói: "Ta còn cho là Thẩm tướng quân tới làm trướng phòng, muốn đến giúp đỡ, thì ra là đi đốt khói báo động."

Thẩm Dịch từ trên cửa áp mái nhảy xuống, tò mò hỏi: "Điện hạ còn biết tính sổ sách cơ à? Mấy năm nay ra ngoài ngài đã làm những gì?"

Trường Canh: "Không có gì, theo Trần cô nương học y thuật một thời gian, thi thoảng hỗ trợ mấy bằng hữu giang hồ, cũng từng ngồi xa mã thương đội, cái gì cũng biết một chút."

Thẩm Dịch thấy y đáp lấy lệ, liền thức thời không truy hỏi thêm, kiến thức và lịch duyệt của một người không thể giả vờ, người thiếu niên non nớt dẫu ra vẻ trấn định, nếu chú ý thì đều có thể nhận ra.

Trường Canh mấy năm nay du lịch giang hồ trải qua tất không đơn giản, nếu không trên người y đã chẳng có cảm giác khó lường không nhìn thấu nông sâu.

Trường Canh đẩy cánh cửa sổ nhỏ trên gác lửng, nhìn ra bên ngoài.

Chỉ thấy dưới chân núi đội ngũ trùng trùng điệp điệp uốn lượn mà lên, soái kỳ phần phật, thoáng như phướn lớn.

Giữa đám đuốc, giáp trụ lãnh liệt, hơi nước vạn dặm, như một con cự long thở hồng hộc.

Phó Chí Thành thống lĩnh trú quân Nam Cương ngót nghét mười năm, đã sắp thành thổ hoàng đế Nam Cương rồi, hiện giờ nếu hắn dẫn một hai trăm người đến "tiễu phỉ nghênh đón khâm sai", còn có đường xoay xở, nhưng hắn lại dẫn hết nửa trú quân Nam Cương.

Trường Canh nói: "Nghĩa phụ mới đầu có khả năng là hơi muốn bảo vệ Phó tướng quân, nhưng hiện tại xem ra, không bảo vệ nổi rồi."

"Xem chừng người ta chẳng những không cảm kích, còn định chơi trò đập chén làm hiệu." Thẩm Dịch nhìn khuôn mặt nghiêng bình tĩnh của Trường Canh, "Điện hạ tuổi còn trẻ đã có phong độ Đại tướng gặp nguy không loạn, thật sự khó được."

"Trước lạ sau quen," Trường Canh bình tĩnh nói, "Lần trước cùng nghĩa phụ xâm nhập sào huyệt phản quân Đông Hải mới thật sự bất an, lần ấy bên cạnh y chỉ có bọn ta mấy gánh nặng chẳng được việc, với vài trợ lực giang hồ không biết liên lạc được không, thủy quân không biết ngày tháng năm nào mới chạy đến, cũng không rõ có nhận được tin bọn ta ven đường truyền đến hay chăng – y vẫn nói cười tự nhiên, toàn thân mà ra, khi đó ta liền hiểu một việc."

Thẩm Dịch: "Việc gì?"

Trường Canh: "Sợ hãi là vô lý."

Thẩm Dịch nghĩ một chút, lắc đầu cười nói: "Dĩ nhiên, ai cũng biết sợ hãi là vô lý, nhưng cũng giống như người đến giờ sẽ đói, không mặc áo sẽ lạnh vậy, đều là phản ứng tự nhiên của thân thể, mà con người làm sao có thể kiềm chế phản ứng của thân thể mình?"

Trường Canh nở nụ cười không rõ lắm: "Có thể."

Thẩm Dịch sửng sốt, y đột nhiên có trực giác lạ lùng, trong câu "có thể" này của Trường Canh hình như ẩn giấu rất nhiều lời.

Trường Canh: "Ta tin chỉ cần ngươi muốn, thì không một thứ gì trên đời có thể đánh bại ngươi, kể cả cái xác này."

Câu này nghe rất bình thường, song thần thái và ngữ khí của Trường Canh khi nói đều quá kiên định, kiên định đến có chút mê hoặc quỷ dị, khiến người ta không tự chủ được tin phục.

Thẩm Dịch: "Điện hạ, lần trước khi ngài và Đại soái bị vây ở Đông Hải, bên cạnh còn có mấy chục cao thủ Lâm Uyên các, có thể nói là nội ứng ngoại hợp; lần này thì khác, bên cạnh chúng ta chỉ có Tôn thị lang một lòng thi hành lệnh kích trống và Khối tuần phủ không có hảo ý, mà Phó Chí Thành kia chỉ e cũng sắp đánh lên núi rồi – trên tay hắn có thiên quân vạn mã, chẳng phải là gay go hơn tình huống lần trước? Điện hạ cũng không lo lắng sao?"

Trường Canh bình thản cười nói: "Ta không lo lắng, vừa thấy soái kỳ Huyền Thiết doanh trên căn gác này, ta liền cảm thấy có ba ngàn Huyền Thiết thần kỵ nấp giữa núi rừng Tây Nam, không tự chủ được liền vững dạ hẳn."

Thẩm Dịch sửng sốt, lập tức đỡ trán cười khổ, quả thực vã mồ hôi thay Cố Quân. Vị tiểu điện hạ nhà họ không hổ là chân long chi hậu, thật không phải là đèn ít dầu.

Trường Canh: "Huống chi Thẩm tướng quân cũng biết nhỉ? Nghĩa phụ ta vị tất toàn tâm toàn ý muốn bảo vệ Phó Chí Thành."

Thẩm Dịch: "..."

Việc này thì y thật sự không biết!

Thân binh của Khối Lan Đồ tuy rằng phụng mệnh nhường đường, nhưng đao kiếm trong tay chưa cất đi, chỉ để lại cho Phó Chí Thành một con đường hẹp đao kiếm dọc ngang, Phó thổ phỉ cũng không chịu thua, dẫn hơn trăm tinh binh lên núi, ai nấy đều mặc giáp cầm vũ khí, hai hàng song song, giơ binh khí ra.

Nhân mã hai phương đao kiếm chĩa vào nhau, trong tiếng kim thạch vọng vang, Phó Chí Thành dẫn người cắn răng phân cao thấp mà xông tới.

Hắn trông không giống đến thỉnh tội, mà giống đến tìm Cố Quân khởi binh vấn tội hơn.

Trú quân Nam Cương bên dưới bao vây Hạnh Tử Lâm, như hổ rình mồi bức thẳng trên núi.

Khối Lan Đồ không liệu được hắn lại to gan lớn mật đến vậy, thậm chí không thèm làm bộ, chẳng mảy may để mắt đến An Định hầu, không khỏi căng thẳng.

Phó Chí Thành như mưa rào gió giật dẫn người xông lên núi, vừa lộ diện thì sát khí dày đặc đã đập thẳng vào mặt.

Chó chặn đường Tôn Tiêu đứng mũi chịu sào, lúc cuống quýt lui về sau giẫm trúng một sơn phỉ bị trói gô dưới đất, sơn phỉ gào toáng lên, làm đôi chân đũa của Tôn thị lang nhũn ra.

Phó Chí Thành còn chưa mở miệng mà bên này đã nằm một kẻ.

Trường Canh từ trên gác hứng thú nhìn xuống, ngoài miệng nói với Thẩm Dịch đang há hốc mồm bên cạnh: "Ta nhớ ra rồi."

Thẩm Dịch vội rửa tai lắng nghe.

Trường Canh: "Em gái ruột Tôn đại nhân gả cho Vương quốc cữu làm lẽ... Chậc, Hoàng thượng thật là, để tiểu cữu tử của tiểu cữu tử vào Binh bộ làm gì? Cả ngày tiếp xúc với đám tướng quân luôn bất mãn, hắn không cảm thấy chịu tội sao?"

"..." Thẩm Dịch nghẹn họng một chút, "Điện hạ vừa rồi nói, Đại soái không hề toàn tâm toàn ý muốn bảo vệ Phó Chí Thành, xin chỉ giáo."

Trường Canh: "Không thì chúng ta ở lại phỉ trại này làm gì? Nếu y quyết tâm muốn bảo vệ Phó Chí Thành, hiện tại đã sớm ra roi thúc ngựa lao tới đại doanh Nam Cương hưng sư vấn tội rồi."

Thẩm Dịch không thể phản bác, y quả thật cũng đang nghi hoặc điểm này, chẳng qua do sự tín nhiệm vô điều kiện với Cố Quân nhiều năm qua, y còn tưởng là Cố Quân có hậu chiêu.

"Ta đoán khi nhìn thấy đám sơn phỉ chặn đường vô pháp vô thiên này, trong lòng nghĩa phụ đã bắt đầu suy tính, nếu Phó Chí Thành tự mình đến thỉnh tội, có lẽ nghĩa phụ còn niệm hắn lao khổ công cao mà cân nhắc chừa cho một lối thoát, hiện tại thì..." Trường Canh nở nụ cười, "Tham không phải lỗi, giảo hoạt không phải lỗi, thậm chí xuẩn cũng không phải lỗi, nhưng Phó Chí Thành không nên công nhiên khiêu khích Huyền Thiết doanh."

Ba đời người khổ tâm cô nghệ xây dựng, uy danh của Huyền Thiết doanh một ngày còn đó, vô luận binh quyền này thực tế nằm trong tay Hoàng thượng hay Cố Quân, đều có thể giữ vững sự an ổn ngoài mặt của Đại Lương.

Chỉ thấy Phó Chí Thành kia nhìn chăm chú Cố Quân giây lát, rốt cuộc vẫn có chút lý trí, tra thiết kiếm vào vỏ, khom người hành lễ: "Nhiều năm không gặp, Cố soái vẫn mạnh khỏe."

Phó Chí Thành vừa cúi đầu, thân vệ phía sau liền nhất tề thu hồi binh khí, tận trung chức thủ mà đứng thành bức tường người, bầu không khí tức thì dịu đi.

Khối Lan Đồ và Tôn Tiêu đều âm thầm lấy làm may mắn, xem ra mời Cố Quân đến là nước cờ đúng.

"Không khỏe lắm," Nào ngờ Cố Quân nhìn Phó Chí Thành một lúc, bất ngờ mở miệng, "Phó tướng quân, ban nãy Khối tuần phủ nói với ta, ngươi thân là Tổng đốc Tây Nam, mà cấu kết thổ phỉ, thông đồng Nam Dương, ý đồ mưu nghịch rành rành, việc này ngươi nghĩ sao?"

Phó Chí Thành: "..."

Chẳng ai ngờ được, Cố Quân lại còn thẳng tuột hơn Phó Chí Thành, đại quân Nam Cương đang bao vây núi, mà ngay cả vòng vo cũng không thèm, chất vấn thẳng thừng trước mặt luôn.

Phía dưới đột nhiên giương cung bạt kiếm, Trường Canh trên gác lại vẫn thong dong. Hình như y cực thích cây cung Cố Quân cho, thứ to đùng nặng mấy chục cân mà vác mãi trên người, một khắc cũng không chịu bỏ xuống, lúc này tháo xuống cầm trong tay, không biết từ đâu lấy ra một chiếc khăn, cẩn thận chà tới lau lui.

Thẩm Dịch trầm ngâm giây lát rồi nói: "Nhưng nếu y vứt bỏ Phó Chí Thành, chẳng phải là ngồi nhìn Hoàng thượng cưỡng chế thi hành lệnh kích trống?"

Trường Canh thủng thỉnh nói: "Thẩm tướng quân có từng nghĩ tới, lệnh kích trống vừa xuất hiện, ngay cả lão nông thôn dã cũng biết lệnh kích trống phân bớt quân quyền của hổ phù Huyền Thiết của nghĩa phụ, Thống soái tứ phương nhao nhao phản đối, tại sao y không chịu lên tiếng?"

Thẩm Dịch buột miệng hỏi luôn: "Tại sao?"

Trường Canh: "Bởi vì y từ nhỏ lớn lên bên Hoàng thượng, y hiểu sự bảo thủ của vị kia hơn bất cứ một ai. Lệnh kích trống một ngày thi hành chưa thành, Hoàng thượng một ngày chưa thể một tay nắm giữ quân quyền, y sẽ một ngày ăn ngủ khó yên, phản đối cũng chẳng qua tăng thêm nội hao, tối đa là tạo thành quân thần bất hòa, tiểu nhân thượng vị. Sự thỏa hiệp này sớm muộn đều phải làm, vấn đề là thỏa hiệp thế nào thôi."

Mấy chữ cuối cùng cơ hồ bị một tiếng gầm phía dưới át đi.

Khối Lan Đồ nào phải hạng chuột nhắt Tôn Tiêu, vừa nghe Cố Quân hỏi, lập tức biết việc này không tốt, hôm nay ở Hạnh Tử Lâm này, không phải hắn tử thì là Phó Chí Thành vong. Dưới chân núi còn có đại quân Nam Cương, nói nhảm nhiều thì chết mau, chi bằng nhân lúc họ Phó chưa kịp phản ứng, nhất cử bắt gọn, trú quân Nam Cương dẫu nhiều hơn, quần long vô thủ, còn không phải mặc người xẻ thịt?

Thế là Khối tuần phủ quyết đoán kịp thời, trực tiếp vượt qua Cố Quân, chỉ Phó Chí Thành nói: "Bắt loạn thần tặc tử này!"

Gia tướng Tuần phủ xung quanh sớm đã chuẩn bị sẵn sàng, vừa nghe hắn ra lệnh thì tức khắc ùa hết lên.

Trường Canh ở trên gác lửng rút một mũi thiết tiễn nặng trịch từ trong giỏ đựng, chậm rãi kéo cung cài tên, phần đuôi cung phụt ra sương trắng li ti, phun lên má y, khuôn mặt ấy dính hơi nước, càng lộ rõ sự anh tuấn ôn nhuận như ngọc.

Thẩm Dịch âm thầm kinh hãi, cung này là dành riêng cho Cố Quân, tuy có thêm hộp vàng, nhưng muốn đạt tới hiệu quả của bạch hồng tiễn, người thường cũng tuyệt đối không kéo nổi, Trường Canh kéo căng hết cỡ mà nhắm, hai tay vững như bàn thạch, không run chút nào – e rằng công phu của vị tiểu điện hạ này không chỉ là "không bỏ bê" mà thôi.

Thẩm Dịch: "Cho dù Đại soái thật sự có ý định thỏa hiệp, ai có thể thay thế Phó tướng quân thu thập cục diện rối rắm ở Nam Cương?"

Trường Canh: "Xin lắng nghe."

Thẩm Dịch nhanh chóng điểm lại các võ tướng lớn nhỏ trong triều: "Trừ tân nhiệm Giang Nam thủy lục Đề đốc Triệu Hữu Phương có vài phần năng lực, số khác đều không thể trọng dụng, có lẽ không thiếu mãnh tướng, nhưng làm Thống soái một phương, chỉ biết đánh nhau thôi là không được, tư lịch và kinh nghiệm thiếu một cũng không thể, còn phải biết cãi nhau với thế lực địa phương thậm chí đám thùng cơm Binh bộ, Hoàng thượng không thể kéo Thống soái thủy quân đến Nam Cương đại sơn chứ?"

Phó Chí Thành bên dưới dĩ nhiên không chịu thúc thủ chịu trói, đại tướng Nam Cương không hổ danh hãn dũng vô song, một kiếm chém rớt một cái đầu, quay người nghênh trọng giáp từ phía sau bức tới, không né không tránh, vung kiếm phi thân đạp lên Kiên Tỉnh của trọng giáp, cả người xoay tròn trên không, ba quân Nam Cương đi theo kịp phản ứng, nghênh đón sát gót, dây cản ngựa trong tay như roi xoắn tới cuốn chặt trọng giáp.

Hỏa cơ và Phó Chí Thành đồng thời gầm lên, Phó Chí Thành kia hai tay cầm thiết kiếm, hung tợn đâm xuống, tinh chuẩn xuyên vào khe hở sau gáy trọng giáp, một kiếm đâm xuyên cổ người bên trong, trọng giáp cứng ngắc dịch một bước về phía trước, đứng tại chỗ không động đậy nữa-

Máu lúc này mới chảy xuống như suối.

Phó Chí Thành cưỡi trên vai trọng giáp, đưa tay quẹt máu trên mặt, ánh mắt như chim ưng bức thẳng tới Khối Lan Đồ.

Khối Lan Đồ rốt cuộc vô thức lui một bước.

Đúng lúc này, một mũi tên như cầu vồng xuyên mặt trời, từ trên cao lao xuống, tiếng rít quanh quẩn trong hang phỉ, đồng tử Phó Chí Thành chợt co lại, nhưng hắn đã không kịp né tránh, tên kia tinh chuẩn sượt qua mũ quan của Khối Lan Đồ, khiến mũ quan của Khối tuần phủ nổ làm đôi, búi tóc xõa tung, Khối tuần phủ thành một nam quỷ tóc tai bù xù. Rồi nó lập tức xuyên thẳng qua ngực trọng giáp, thoáng cái chấn nát hai tầng thép tấm, Phó Chí Thành bị lực xung kích bức bách, lảo đảo ngã xuống, thế đi của thiết tiễn vẫn không giảm, ghim mạnh xuống đất.

Mặt đất nổ tung thành hố, ba binh sĩ Nam Cương đồng thời thối lui, mũi tên vừa vặn ghim trên giao điểm của ba sợi dây cản ngựa họ đang cầm.

Đuôi tên rung không thôi, như gió rít chói tai.

"Quá láo xược," Trường Canh khẽ lẩm bẩm, sau đó, khi mọi người kinh sợ nhìn lại, y kéo một cây thiết tiễn lên dây, nhẹ giọng tiếp tục với Thẩm Dịch, "Thẩm tướng quân đừng quên, còn có một người."

Thẩm Dịch vẫn chìm trong một mũi tên kinh hồng kia, hồi lâu mới tìm lại được giọng nói: "... Thứ cho ta nghĩ không ra."

Trường Canh: "Xa tận cuối trời, gần ngay trước mắt."

Thẩm Dịch giật nảy mình, hoảng hốt nói: "Cái gì?"

Trường Canh: "Ừ, chính là ngươi."

Cố Quân bên dưới chẳng mảy may thấy sự thong dong bình nhật, do sắc mặt căng thẳng mà có vẻ đặc biệt lãnh đạm: "Khối tuần phủ, ta vẫn luôn muốn thỉnh giáo, là ai cho ngươi lá gan nuôi nhiều tư binh như vậy?"

Khối Lan Đồ mặt như màu đất, trong tai toàn tiếng "ù ù" của thiết tiễn, không rõ Cố Quân đứng ở bên nào, tức khắc hơi hoảng loạn: "Đại, Đại soái có điều không biết, do Tuần phủ Nam Trung ở biên cương, để phòng bạo dân làm loạn, triều đình mới ban đặc ân, có thể có một nhánh quân phòng vệ..."

Cố Quân: "Quân phòng vệ thiên hạ, ngoại trừ Ngự lâm quân của Hoàng thượng, không được dùng hỏa cơ cương giáp từ khinh cừu kỵ binh trở lên, hộp vàng trong trọng giáp Ngự lâm quân cũng không thể vượt qua sáu ấn – Khối Lan Đồ, là ta nhớ lầm hay là ngươi nhớ lầm?"

Khối Lan Đồ rùng mình.

Hắn đương nhiên biết mình đi quá giới hạn, song việc này nói lớn không lớn, nói nhỏ không nhỏ, có thể chụp mũ tố tội, nhưng nếu có thể lật đổ Phó Chí Thành, để lệnh kích trống được thi hành, đó chính là lỗi nhỏ dưới công lớn, căn bản chẳng tính là gì. Việc đã đến nước này, tuyệt không thể quay đầu lại, hắn nắm chặt tay, âm trầm nói: "Phản thần tặc tử ở ngay đây, Hầu gia hiện tại muốn tính chuyện hộ vệ quân vượt quy chế với ta à?"

Cố Quân hơi nhíu mày, tựa hồ không quen giáp mặt múa mép khua môi với người ta lắm, so với năm đó ở trên thuyền phản quân Đông Hải miệng lưỡi trơn tru, quả thực như hai người vậy. Khối Lan Đồ lập tức tự cho là bắt được thần sắc thoáng qua này, đột nhiên cảm thấy An Định hầu trong truyền thuyết cũng chẳng có gì đáng sợ.

Khối Lan Đồ đã chẳng sá gì, nghĩ bụng: "Hắn cũng chẳng qua là một người trẻ tuổi thân phận tôn quý mà thôi, không có cựu bộ của lão Hầu gia, Cố Quân là cái thá gì?"

Phó Chí Thành phẫn nộ quát: "Họ Khoái, ngươi nói ai là phản thần tặc tử!"

Khối Lan Đồ cao giọng nói: "Chư vị, chúng ta hiện đã bị phản quân bao vây, theo tình hình trước mắt, chỉ có thể bắt tặc bắt vương, không cho chúng thời cơ phản ứng! Thỉnh các quý nhân ước thúc thủ hạ, đừng phóng túng phản nghịch!"

Phó Chí Thành tức quá hóa cười, mặt mũi hắn vốn đã xấu xí, khi cười càng y hệt ác quỷ: "Bắt ta, ngươi cứ thử xem!"

Vừa dứt lời, đám thân binh của Phó Chí Thành đã dẫn đầu làm loạn, cùng xông vào đại điện của hang ổ sơn phỉ, thân vệ quân Nam Cương và đội phòng vệ của Tuần phủ lập tức giáp lá cà.

Hang phỉ Hạnh Tử Lâm con con giây lát liền chật ních.

Thẩm Dịch không rõ vì sao Cố Quân còn giả hèn xem náo nhiệt, bị tiếng hò hét rung trời kích thích, suýt nữa chạy xuống, quay người lại thấy Trường Canh mặt không đổi sắc, hướng mũi tên chỉ thủy chung không rời Cố Quân, kẻ nào to gan lớn mật dám tới gần, sẽ xiên kẻ đó thành xâu.

"Thẩm tướng quân yên tâm, nghĩa phụ đã tính sẵn trong lòng, ta cũng đang dõi chặt đây." Lúc Trường Canh nói có sự chắc chắn và chân thật đáng tin bất hiển sơn bất lộ thủy.

Chớp mắt, trong lòng Thẩm Dịch bỗng sinh ra một ý nghĩ – Cố Quân vừa cố ý kích hóa mâu thuẫn giữa Phó Chí Thành và Khối Lan Đồ, là muốn mượn đao giết người sao?

Trường Canh: "Hôm nay nếu Phó Chí Thành bị bắt, Thống soái Nam Cương bỏ trống, Hoàng thượng tuy khư khư cố chấp, nhưng cũng biết nặng nhẹ, biên cương trọng địa, tất cần đại tướng phòng thủ, phóng nhãn khắp triều dã, không ai có tư lịch hơn Thẩm tướng quân – huống chi xét đến cùng, Hoàng thượng chèn ép binh quyền của nghĩa phụ ta, chẳng qua là do bệnh đa nghi quá nặng thôi, họ từ nhỏ lớn lên bên nhau, tình cảm còn đó, an nguy của Đại Lương cũng còn đặt trên vai nghĩa phụ. Lệnh kích trống vừa ban, Huyền Thiết hổ phù hình đồng hư thiết, Thống soái Nam Cương bất cứ ai làm, đều có quyền quản hạt lại không có binh quyền thực tế, nghĩa phụ đã tỏ rõ thái độ, Hoàng thượng chẳng lẽ không nên đánh một gậy cho một quả táo ngọt, để Thẩm tướng quân được lợi?"

Nói đến đây, Trường Canh dừng một chút, cười tiếp tục: "Thẩm tướng quân xem, Hoàng thượng tuy không ưa đệ đệ hời này lắm, thưởng ngày lễ ngày tết nên cho lại chưa từng thiếu một phần, cộng lại còn hơi cao hơn bổng lộc của nghĩa phụ đấy."

Thẩm Dịch nhãng đi vấn đề phức tạp là "Phủ rốt cuộc do ai nuôi", sửng sốt nhìn Trường Canh, thần sắc thay đổi xoành xoạch, rất lâu mới cảm thán: "Điện hạ thật sự khác quá rồi."

Thiếu niên năm đó họ dẫn đi từ Nhạn Hồi tiểu trấn đơn thuần quật cường như vậy, tất cả hỉ nộ ai lạc nhìn qua là thấu, Thẩm Dịch rất nhiều lần thầm khâm phục y tâm chí kiên định – thay bằng đứa trẻ bình thường, trong một đêm từ thiếu niên tiểu trấn biến thành hoàng tử đương triều, sớm đã bị đế đô phồn hoa làm mờ mắt rồi, mà Trường Canh khi đó còn là một đứa trẻ chưa từng biết vinh hoa phú quý là gì, thế nhưng kiên quyết rời khỏi hầu phủ, thà rằng trời cao biển rộng lang bạt giang hồ, cũng không chịu trở về làm quý nhân điện hạ ếch ngồi đáy giếng.

Người trẻ tuổi lúc này trong cảnh giương cung bạt kiếm chậm rãi nói về đại thế thiên hạ với y, đã mất đi nét trẻ con, hoàn toàn thay đổi đến độ khiến y kinh hồn táng đảm.

Trường Canh không đáp gì, bốn năm qua, từ thân đến tâm y đều không dám lơ là một ngày, không phải vì muốn kiến công lập nghiệp, mà là muốn mau chóng mạnh hơn, một ngày kia mạnh đến mức có thể chuyện trò vui vẻ với Ô Nhĩ Cốt... Có thể bảo vệ một người.

"Vấn đề lớn nhất của triều ta trước mắt là thiếu tiền," Trường Canh nói, "Hải vận tuy mở, nhưng người Trung Nguyên lại rất ít ra khơi, phòng thủ trên biển cũng chẳng chú trọng, dựa vào người nước ngoài lui tới mang đến mậu dịch, xét đến cùng, khoản lợi nhuận lớn vẫn do đám thương nhân Tây Dương lái thuyền này kiếm đi, chút bạc chảy vào không đủ để Hoàng thượng bí mật mua tử lưu kim từ người Tây Dương."

Thẩm Dịch: "Đây chỉ là nhất thời, không phải không có đường ra."

Trường Canh tựa hồ thoáng nở nụ cười: "Không sai, mùa xuân năm nay ta đã đi xem qua con đường tơ lụa, thấy cửa ngõ Lâu Lan phồn hoa đến khó tin, vừa nghĩ đến đây là do nghĩa phụ ta một tay chăm lo, trong lòng không khỏi thấy thơm lây – tối đa ba năm, con đường tơ lụa có thể thông hoàn toàn, chân chính xuyên qua toàn cảnh Đại Lương, chờ tới khi bách tính thật sự có thể thu lợi từ đây, tất có đủ vàng bạc chảy vào quốc khố, đến lúc ấy Linh Xu viện không còn cần sầu lo vì tiền bạc, thủ quân các nơi quân lương sung túc, binh cường mã tráng, còn kẻ nào dám cả gan xâm phạm? Như vậy là Binh bộ định đoạt hay nghĩa phụ ta định đoạt, trong mắt y có thể cũng không hề khác biệt gì."

Thẩm Dịch im lặng, không biết vì sao xa cách năm năm mà Trường Canh ngược lại càng hiểu Cố Quân hơn.

Nhưng y nói không sai một chữ nào.

Mấy năm trước, Cố Quân còn thường xuyên nói phải đánh đây đánh kia, song từ khi tiếp quản con đường tơ lụa, thì y ngày càng ít nhắc tới những việc này.

Một mặt là theo tuổi tác lớn dần, suy nghĩ sâu sắc hơn, kích phẫn dần tiêu, mặt khác... là Cố Quân từ đầu đến cuối chưa từng có ý định nắm binh quyền không buông để sính uy phong.

Cả đời y cầu, chẳng qua là gia quốc yên ổn mà thôi.

Nếu phải chiến, thì mặc giáp lên ngựa, nếu cần thủ, y cũng sẵn lòng làm một thủ vệ thương đạo thanh bần trên con đường tơ lụa.

Nghe nói sự ăn ý và tín nhiệm giữa một tướng quân và hộ giáp sư của y là người khác không cách nào chen vào, trong lòng Trường Canh không tự chủ được hơi ghen. Không đợi y lên cơn ghen, bỗng nhiên vang lên một tràng tiếng đập cánh.

Một con chim đậu trên cửa sổ, Trường Canh hơi sửng sốt, sau đó tạm cất cung tên. Chim nọ ngoan ngoãn bay tới đậu vào lòng bàn tay y, lại là một con chim gỗ, sống động như thật.

Thẩm Dịch xuất thân Linh Xu viện, thói xấu thấy cái mình thích là thèm cả đời đi theo, vừa thấy con chim ấy thì lập tức nhìn chằm chằm, lại không tiện hỏi xin Trường Canh, thèm thuồng vò đầu bứt tai.

Trường Canh gõ nhẹ vài cái theo tiết tấu trên bụng chim, phần bụng nó liền bật ra, để lộ một cuộn giấy bên trong.

Trường Canh mở ra xem qua, sắc mặt núi lở bất động vậy mà lại hơi thay đổi.

Thẩm Dịch: "Sao vậy?"

Lúc này, Cố Quân bên dưới khóe mắt bắt được một chút lưu quang, y giơ tay lên, lại chỉ đặt bàn tay thon dài xinh đẹp như quý công tử kia lên thanh kiếm bên hông mình.

Một binh lính Nam Cương dáng người thấp bé đột nhiên chui ra, lao thẳng tới Khối Lan Đồ, Huyền Thiết thị vệ của Cố Quân lập tức ra tay cứu giúp.

Khối Lan Đồ còn chưa kịp yên tâm, lại thấy sĩ binh Nam Cương kia há mồm phun cái gì, hắn theo bản năng giật mình cảm thấy không đúng, quay đầu muốn né nhưng không kịp.

Một mũi xuy tiễn bằng đầu ngón tay chui thẳng vào cổ hắn, cùng lúc đó, Huyền Thiết thị vệ một đao chém xuống đầu sĩ binh Nam Cương, giống như căn bản không nhìn thấy mũi xuy tiễn bay về phía Khối đại nhân.

Họng Khối Lan Đồ co giật mạnh vài cái, hắn tựa hồ muốn đưa tay bắt lấy cái gì-

Trong tích tắc, kẻ ám sát lẫn người bị ám sát đồng thời mất mạng.

Tôn Tiêu sợ quá lui lại đâm sầm vào tường, Cố Quân đột nhiên mỉm cười với hắn.

Ngay sau đó, một tiếng rít phóng lên trời, đỉnh đại điện cao tít của hang phỉ bị lật tung một nửa, hằng hà sa số huyền ưng hò hét lao xuống-

Khối Lan Đồ và Tôn Tiêu muốn lợi dụng Cố Quân bức phản Phó Chí Thành, ngờ đâu Cố Quân không theo ý họ, không chờ họ ra chiêu, đã kích thích mâu thuẫn trước, mượn tay Phó Chí Thành giết Khối Lan Đồ vướng tay vướng chân, Huyền Thiết doanh dùng cách nào đó lẻn vào Nam Cương lại hiện thân giết Phó Chí Thành, sư xuất hữu danh, nhất tiễn song điêu...

Nhưng không đúng.

Trường Canh chợt quay người lao xuống gác, cục này chưa dừng ở đây!

Người bắt đầu không phải Khối Lan Đồ, không phải Binh bộ, không phải Tôn Tiêu, thậm chí không phải Cố Quân...

Chương 38: Gặp lại

Trần Khinh Nhứ trách một câu, nhưng trên mặt không có vẻ gì là giận, trái lại như là bị những vị khách không mời này xông vào quen rồi. Nàng vào nhà bỏ thảo dược trong tay xuống, chào mấy người lạ trước: "Tiểu nữ họ Trần, là một lang trung giang hồ."

Nàng tự xưng là lang trung giang hồ, nhưng giơ tay nhấc chân rất có khí chất tiểu thư khuê các, lại không cười, vẻ mặt lạnh băng, phụ nhân kia thấy thế hơi câu nệ, lúng ta lúng túng hồi lâu, chẳng giỏi nói năng, chỉ biết ra sức cúi chào. Trần Khinh Nhứ nhìn thoáng qua Trường Canh đang thi châm, nói: "Y cũng xem như nửa đồ đệ của ta, khởi tử hồi sinh là không thể, nhưng chứng bệnh tầm thường cũng ứng phó được, đại tỷ cứ yên tâm."

Ngoại hình nàng khó nhận ra tuổi tác, ăn mặc lại như cô nương, tiểu tướng sĩ bên cạnh thấy thế tim đập như nổi trống.

Một cô nương chưa lập gia đình, cho dù là đại phu, điện hạ nhà mình không nói tiếng nào tùy tiện vào nhà người ta... có thích hợp không? Xem dáng vẻ như xe nhẹ đường quen ấy, không chừng đã tới bao nhiêu lần rồi.

Nếu là ở kinh thành, trong một số nhà chú trọng lễ phép, giữa phu thê gặp nhau cũng phải phái hạ nhân đi nói một tiếng trước.

Tuy là nhi nữ giang hồ không câu nệ tiểu tiết...

Tiểu tướng sĩ lần đầu một mình đi theo Trường Canh, không ngừng phỏng đoán quan hệ của nữ tử xa lạ này với tứ điện hạ, lại không biết việc này nếu để Cố Quân hay sẽ giận dữ cỡ nào, trong lòng lo sốt vó, không nghĩ ra phải bẩm báo làm sao với Đại soái, thiếu điều phát khóc.

Đang nói chuyện thì lão nhân trên sập rên một tiếng, nặng nề ho vài cái, từ từ tỉnh lại.

Trường Canh cũng không ngại bẩn, lấy cái ống nhổ để bên cạnh giúp ông lão nhổ đàm.

Phụ nhân thấy thế mừng vô cùng, ngàn ân vạn tạ, Trần Khinh Nhứ đưa cho Trường Canh một chiếc khăn, sai: "Ngươi đi kê thuốc đi, ta kiểm tra cho."

Nàng nói chuyện ngữ khí nhẹ nhàng chậm rãi, nhưng nội dung lại khá có ý ra lệnh, Trường Canh không ý kiến gì, trải giấy bút ra, hơi trầm ngâm, đoạn viết phương thuốc.

Tiểu tướng sĩ Huyền Thiết doanh suýt nữa trợn lồi mắt ra, lúc đi theo Cố Quân, gã từng nghe Cố đại soái nhắc tới không chỉ một lần, nói tứ điện hạ lớn rồi, không quản nổi nữa – nhưng đây rõ ràng là chỉ đông không đi tây, so với học trò nhỏ trong học đường còn ngoan ngoãn hơn, nào có một chút bất tuân từ nhỏ đã cãi nhau với An Định hầu?

Gã đang hoang mang thì Trần Khinh Nhứ đã bắt chuyện với phụ nhân kia.

Thấy người bệnh ổn hơn, phụ nhân thả lỏng không ít, vừa trò chuyện mới biết, nguyên là sau khi khôi lỗi trồng trọt phổ biến khắp bản địa, mọi người đều không có đất cấy cày, tuy triều đình có quy định hương thân địa chủ không được bạc đãi điền hộ, nhưng sau thời gian dài, mấy ai muốn nuôi kẻ ăn không ngồi rồi? Khất nợ thiếu cân đều thường có, trong bụng những kẻ có khôi lỗi làm việc dần dần cũng khó chịu. Sau đó, nông dân một phái, trường tý sư một phái, những người buôn bán nhỏ, coi đất lại là một phái, đều cảm thấy mình bị thiệt, không vừa mắt lẫn nhau.

Trượng phu của phụ nhân kia không muốn ở nhà ăn không ngồi rồi để bị trút giận, cùng đồng hương về phương Nam tìm việc làm, nào ngờ vừa đi liền bặt vô âm tín, cha chồng lại bệnh, con thì còn nhỏ, không thể nhờ cậy, thầy lang trong thôn chê cả ngày không có việc làm, sớm bỏ xứ đi mất rồi, bấy giờ nàng mới đành phải cố gắng tự mình cõng cha chồng, lặn lội đường xa đi tìm thầy.

Trần Khinh Nhứ nghe vậy chau mày: "Phương Nam? Phương Nam năm nay vừa có lũ lụt, chẩn tai còn không kịp, việc đâu ra mà tìm?"

Phụ nhân kia vẻ mặt hoang mang, hiển nhiên là quanh năm ru rú ở sơn thôn, trừ mảnh đất một mẫu ba trước cửa ra, cũng không biết thiên hạ có nơi khác, hoàn toàn không có khái niệm gì.

Trường Canh đang viết phương thuốc hỏi: "Thế lương thực phân phối năm nay đại thẩm được nhận chưa?"

Phụ nhân nghe vậy nhìn lão nhân thoi thóp trên sập một cái, vẻ mặt sầu khổ: "Không giấu gì công tử, vẫn chưa hề, tôi... tôi ngần này tuổi rồi, cũng không tiện tới nhà người ta gây chuyện, may mà năm nay giá lương thực thấp, trong nhà còn ít tiền để dành, ra ngoài mua một ít cũng được."

Nàng nói như vậy, nhưng Trường Canh hiểu, những người này nhiều thế hệ cấy cày, tiết kiệm quen rồi, sẽ không dễ dàng tiêu tiền, tiêu một lần tim như dao cắt, nếu không thì sao nàng lại thà cuốc bộ thật xa, cõng cha chồng đi từng bước một, cũng không chịu thuê xe?

Trần Khinh Nhứ: "Không phải có đất công của triều đình à? Ta nghe nói đất công của triều đình mỗi năm nộp đủ quốc khố, phân cho quan viên, còn lại phàm là người nhập tịch ở bản địa đều có thể lĩnh một ít."

Phụ nhân cười khổ nói: "Đất công của chúng tôi không trồng gì, bỏ hoang hai năm rồi."

Trường Canh: "Vì sao? Là do đất không tốt à?"

Phụ nhân: "Nghe nói là vì rất gần quê của một quan lão gia nào đó, Huyện thái gia muốn chiếm hai mẫu đất ấy xây từ đường, bên trên chẳng biết vì cớ gì không đồng ý, cứ thế giằng co, rồi chẳng ai nói rõ mảnh đất này phải dùng làm gì, vậy là bỏ hoang luôn."

Lời này vừa nói ra, ba người trong nhà đều im lặng.

"Tam sơn lục thủy, tổng cộng được mỗi một mảnh đất, mà còn phải bỏ hoang," Trần Khinh Nhứ thở dài nói, "Những người này thật là..."

Trường Canh không lên tiếng, không biết đang nghĩ gì, y mau chóng viết xong phương thuốc, đưa Trần Khinh Nhứ kiểm tra, Trần Khinh Nhứ nói: "Ừm, cũng được – đại tỷ đi theo ta, ở chỗ ta còn cất ít thuốc thường gặp, không cần mua nữa."

Nói xong, nàng dẫn phụ nhân ngàn ân vạn tạ đến hậu viện.

Vừa thấy nàng đi, tiểu tướng sĩ Huyền Thiết doanh bấy giờ mới thở phào nhẹ nhõm, lê bước đến trước mặt Trường Canh, cũng không lên tiếng, chỉ theo trước theo sau, thấy Trường Canh muốn làm gì, liền chẳng rằng chẳng nói xắn tay áo làm trước, chỉ chốc lát gã đã nhanh nhẹn rửa xong ống nhổ, dọn dẹp giấy bút, lúc này rốt cuộc mới chuẩn bị xong câu đầu tiên, lắp bắp nói: "Thiếu gia rất quen thuộc nơi này."

Trường Canh đáp một tiếng: "Ừm, khi đến Thục Trung thường xuyên nghỉ chân ở đây."

Cái gì? Cô nam quả nữ!

Tiểu tướng sĩ nhịn đến đỏ bừng mặt, sâu sắc cảm thấy nhiệm vụ trọng đại, nếu không làm rõ việc này, không khéo trở về mình sẽ bị Hầu gia gọt thành một cái ống nhổ luôn.

Trường Canh thấy biểu cảm như bị sét đánh của gã, mới hiểu gã đang nghĩ gì, vội cười nói: "Nghĩ đi đâu vậy? Đây tuy là nhà Trần cô nương, nhưng nàng thường xuyên đi vắng, nhà toàn bỏ không, các bằng hữu giang hồ ai vừa vặn đến đây thì ở vài ngày. Nếu tình cờ gặp nàng ở nhà, nữ thì ở lại, nam thì tự đi tìm chỗ khác – lần này vốn định dẫn ngươi đến ở nhờ vài hôm, nhưng nàng đã về, thì hai ta nên đi tìm khách điếm thôi."

Tim tiểu tướng sĩ trước tiên thả xuống phân nửa, nghĩ: "À."

Song phân nửa này còn chưa thả xong, lại nhanh chóng treo lên, tiểu tướng sĩ xót xa nghĩ thầm: "Đường đường tứ điện hạ, mà một chút tiền ở trọ cũng phải tiết kiệm."

Lại nhìn áo bào rách rưới của Trường Canh, tiểu tướng sĩ buột miệng nói: "Đại... chủ nhân nếu biết thiếu gia ở bên ngoài sống như thế, trong lòng chắc sẽ khó chịu lắm."

Gã không giỏi ăn nói, có phần giỏi hành động kém miệng lưỡi, bởi vậy thỉnh thoảng nói một câu như thế, tạo cảm giác đặc biệt chân thành.

Trường Canh sững lại, nhất thời không thể tiếp lời.

Chính lúc này, Trần Khinh Nhứ lấy thuốc xong, dẫn phụ nhân kia ra, liếc sắc mặt Trường Canh một cái, nhíu mày nói: "Bình tâm tĩnh khí, ta đã nói gì với ngươi?"

Trường Canh định thần lại, hơi cười khổ.

Trần Khinh Nhứ là nửa lão sư của y, lời này không sai.

Hai năm trước Ô Nhĩ Cốt phát tác, bị sư phụ bắt gặp, bí mật nặng nề chỉ có trời đất và bản thân y biết rốt cuộc có một lối ra khác, sư phụ nói mình không rành về y lý, dẫn y lặn lội khắp nơi, cuối cùng tìm được Trần Khinh Nhứ ở Đông Đô. Chỉ tiếc Ô Nhĩ Cốt là bí mật bất truyền của vu nữ Bắc man, Trần thần y kiến thức rộng rãi nhất thời cũng không có manh mối, đành phải vừa kê cho y ít thuốc bình tâm tĩnh khí, vừa chậm rãi nghiên cứu.

Trong lúc này, Trường Canh từng tìm nàng thăm dò chuyện Cố Quân, vòng vo hỏi: "Trần cô nương, trên thế giới liệu có một loại người, tai và mắt khi linh khi không?"

Trần Khinh Nhứ dĩ nhiên biết ý của y, nhưng không tiện lắm miệng, vì thế chỉ đơn giản trả lời: "Có."

Trường Canh lại hỏi: "Thế tai mắt mất linh kiểu nào thì có thể dùng thuốc giảm bớt?"

Trần Khinh Nhứ đáp: "Trời sinh thì không được, tầm nhìn ảnh hưởng do lớn lên bị thương tạo thành thì tùy tình huống mà định, trúng độc có lẽ có thể."

Nàng cho rằng Trường Canh vòng vo như vậy, kế tiếp sẽ hỏi thẳng chuyện Cố Quân, nhưng y không hề, nàng phát hiện hình như mình đã xem nhẹ sự thông minh nhạy bén của thiếu niên này.

Trường Canh nghe thế chỉ im lặng hồi lâu, sau cùng khẩn cầu nàng nhận mình làm đồ đệ.

Trần gia nhiều đời xuất thần y, vừa chú trọng vừa không chú trọng, gia huấn chỉ có bốn chữ "hành y tế thế", ai mà như những "thần y" tính tình cổ quái trong thoại bản, chỉ nhận nghi nan tạp chứng, "khán bệnh hạ điệp(1)", tất bị trục xuất khỏi gia môn, trọng thương trọng bệnh, kì độc tuyệt chứng nàng chữa, trẻ con phong hàn, phụ nhân khó sinh tìm đến, nàng cũng vui vẻ tiếp nhận, với sở học bình sinh đương nhiên cũng không chổi cùn tự quý, không có quy củ "gia học không thể truyền cho người ngoài", có người cầu nàng sẽ dạy, chỉ là Trần cô nương nói mình cũng chưa tính là xuất sư, không dám danh chính ngôn thuận nhận đồ đệ, cho nên chỉ có thể tính là nửa sư phụ thôi.

Trần gia ở phủ Thái Nguyên, đến mùa thu đông Trần Khinh Nhứ thường không ở phương Nam, Trường Canh đoán nàng lúc này còn ở Thục Trung, nhất định là có việc, liền lấy túi tiền cất trong ngực đưa cho tiểu tướng sĩ Huyền Thiết doanh kia, phái gã thuê xe đưa lão nhân và phụ nhân về.

Tiểu tướng sĩ đâu chịu nhận tiền của tứ điện hạ nghèo rớt mồng tơi, vội vàng từ chối, hấp tấp chạy đi.

Chờ những người không liên quan này đi hết rồi, Trần Khinh Nhứ mới lấy một cái túi ra: "Gặp ngươi khéo quá, đây là an thần tán ta mới điều chế, ngươi mang về dùng thử xem."

Trường Canh cảm ơn, nhận thuốc cất đi, lấy một ít nhét vào hà bao của mình.

Trần Khinh Nhứ vô tình liếc thấy hà bao kia, mắt sáng rỡ, chỉ thấy bên trên không thêu mấy cái như "uyên ương nghịch nước", "hồ điệp song phi" rối mắt, trong bằng lụa sạch sẽ, ngoài bao một lớp da mềm được mài cực mỏng, trên da dùng dao khắc một vòng hoa văn nhỏ, như là thiết oản khấu, cơ quan nối kết, mũi còn lộ ra một bên lưỡi đao, cơ hồ muốn bay ra, cực kỳ tinh xảo.

Trần Khinh Nhứ thuận miệng khen một câu: "Hà bao ở đâu ra vậy? Trông thật độc đáo."

Trường Canh: "Tự làm đấy, cô có muốn không?"

Trần Khinh Nhứ: "..."

Dù là Trần thần y trong thiên quân vạn mã bình tĩnh như thường, lúc này cũng không khỏi lộ ra một chút kinh hãi.

"Rất chắc đấy," Trường Canh giới thiệu, "Đúng rồi, vẫn chưa hỏi cô, Trung thu qua rồi, mà sao cô còn ở Thục Trung?"

"An Định hầu về Nam đi ngang qua Thục Trung, hẹn ta ở đây," Trần Khinh Nhứ hỏi ngược lại, "Sao thế, ngươi không biết à?"

Trường Canh: "..."

Phong thủy luân lưu chuyển, lần này người kinh hãi đã thay đổi.

Một lúc lâu, Trường Canh mới nhờ dư hương an thần tán, khó khăn tìm lại giọng nói: "Không, không biết, nghĩa phụ ta... y về Nam làm gì?"

Trần Khinh Nhứ lấy làm lạ nói: "An Định hầu rời khỏi Tây Bắc đương nhiên là có quân vụ, ta chẳng qua nhờ bóng tổ tiên mà nói chuyện với y vài câu thôi, y muốn làm gì cũng không nói với ta đâu."

Trường Canh: "Nhưng vừa rồi vị tiểu huynh đệ Huyền Thiết doanh kia bảo là, cuối năm y sẽ về kinh..."

Trần Khinh Nhứ nghe thế càng không hiểu: "Giờ còn chưa tới Trùng dương, Hầu gia cuối năm có về kinh hay không, có liên quan đến y hiện tại ở nơi nào à?"

Trường Canh: "..."

Y im lặng giây lát, rốt cuộc không nhịn được bật cười, đại khái chỉ có y mong cực kỳ cũng sợ cực kỳ như vậy, mới không coi ba bốn tháng là gì.

"Ta còn cho là ngươi biết việc này nên mới đến, hóa ra chỉ là đúng dịp đi qua," Trần Khinh Nhứ nói, "Trên thư y nói ước chừng chính là mấy hôm nay, nếu ngươi không vội đi, chi bằng ở lại chờ y luôn."

Trường Canh lơ đãng đáp một tiếng, mạch suy nghĩ sớm đã bay đi ngàn dặm.

"Trường Canh, Trường Canh!" Trần Khinh Nhứ quát khẽ một tiếng vào tai y, Trường Canh chợt định thần lại.

Trần Khinh Nhứ nghiêm mặt nói: "Ta từng nói với ngươi, nếu không phải giải dược, phương thuốc an thần hơn chung quy cũng chỉ là phụ trợ, Ô Nhĩ Cốt tối kị tâm thần không yên, mỗi một đoạn suy nghĩ lan man trong lòng ngươi đều là chất dinh dưỡng cho mầm độc, hôm nay chỉ một lúc, mà ngươi đã thất thần hai lần, rốt cuộc là có chuyện gì?"

Trường Canh nói "Hổ thẹn", thần sắc thản nhiên hạ mắt xuống, không muốn nhiều lời, một cách tự nhiên mà dời đề tài lên phương thuốc mình vừa kê.

Thiết nghĩ nàng hành y thiên hạ, đao đâm kiếm chém trên nhục thể, bệnh nặng lâu ngày đã chữa nhiều vô kể, nhưng cũng không biết nên trị liệu lòng một người như thế nào đâu nhỉ?

Không bao lâu, tiểu tướng sĩ Huyền Thiết doanh đưa người về nhà vội vã chạy về, thấy Trường Canh không bỏ mình lại mất tích lần nữa, lập tức thở phào nhẹ nhõm.

Trường Canh mượn mấy quyển "Dược kinh", cáo từ Trần Khinh Nhứ, dẫn tiểu tướng sĩ vào một khách điếm trong trấn lân cận nghỉ trọ.

Đất Thục côn trùng mùa thu càn rỡ, đêm khuya vắng vẻ càng ồn ào hơn, Trường Canh để an thần tán mới phối chế bên gối, cảm thấy thuốc mới của Trần cô nương thật sự chẳng ra làm sao, chẳng những không an thần, ngược lại rất tỉnh thần, khiến y nửa đêm không ngủ được, đành phải bò dậy chong đèn đọc sách, thắp hết một bát dầu, ba quyển "Dược kinh" đọc hết hai rưỡi, mới đến hừng đông, vẫn chưa buồn ngủ chút nào.

Trong ngực y giống như tự dưng có thêm một cái hộp vàng, bốc khói trắng mà đốt tử lưu kim vĩnh viễn không thấy đáy.

Vô luận Trường Canh nhủ thầm mấy vạn lần "bình tâm tĩnh khí", lấy tâm thái bình thường đối đãi Cố Quân chẳng mấy chốc sẽ đến, thậm chí cố hết sức không suy nghĩ chuyện này như thế nào – sự sốt ruột và nôn nóng vẫn thành đôi cuốn lấy xương cốt y, mỗi thời mỗi khắc đều cầm dây mây đầy gai nhọn quất vào tim y, lúc đau lúc tê, lừa mình dối người cũng không hữu dụng.

Sáng sớm hôm sau, Trường Canh liền gọi vị tiểu tướng sĩ Huyền Thiết doanh kia lại: "Tiểu huynh đệ, các ngươi nếu muốn qua Thục Trung về Nam đến Nam Cương, thường đi như thế nào?"

Tiểu tướng sĩ trả lời: "Công vụ đương nhiên đi quan đạo, việc khác có thể phải tùy nghi hành sự, không nói chắc được, từ khe suối bò vào cũng có khả năng."

Trường Canh im lặng gật đầu.

Không bao lâu, tiểu tướng sĩ kinh ngạc phát hiện, Trường Canh lại cởi tấm áo bào rách rưới mặc khi hành tẩu giang hồ, thay quần áo mới, dù không hoa quý lắm, nhưng rất cầu kỳ, cũng mơ hồ có thể nhìn ra không phú thì quý.

Trường Canh lắc mình biến hóa, từ thư sinh nghèo biến thành giai công tử chính cống, đến cả chưởng quầy khách điếm nói chuyện với y cũng không tự chủ được khá cung kính.

Y cứ thế ăn mặc kiểu thiếu gia, mỗi ngày dắt ngựa đi rong trên quan đạo, chẳng biết là chờ người hay triển lãm.

Quần áo thiếu gia không khỏi bẩn, sau một ngày đường phố náo động, buổi tối trở về phải dính một lớp bụi, Trường Canh không chịu làm phiền người khác, đều tự mình giặt giũ sạch sẽ – y không thể không giặt, bởi vì "đồ thiếu gia" mang theo chỉ có hai bộ, không chịu khó thì không kịp để tắm rửa.

Mỗi ngày chớp mắt khi lên ngựa, Trường Canh đều nghĩ: "Hay là mình đi thôi."

Hơn bốn năm không gặp Cố Quân, tư niệm ngày qua ngày chất thành núi, y nhìn ngọn núi ấy không khỏi lo lắng hãi hùng, sợ gió nhẹ thổi qua là nó sẽ đổ rầm xuống.

Y vừa muốn chạy vừa không nỡ chạy, dọc đường ở trong lòng đánh nhau với chính mình, còn chưa đánh xong thì đã đến quan đạo. Trường Canh đành phải "kí lai chi tắc an chi"(2), cả ngày đi loanh quanh hít gió cát, thông thường ngay cả con thỏ cũng chẳng đợi được, buổi tối lúc về, y liền nghĩ: "Sáng mai mình tính tiền rồi chạy lấy người thôi."

Song sáng hôm sau lại nuốt lời, vẫn đi đến ven quan đạo.

Điên rồ như vậy bốn năm ngày, chạng vạng Trường Canh quay đầu ngựa về khách điếm, thấy phương Tây tà dương rực như máu, trông rất đẹp mắt, không khỏi chậm lại, để ngựa vừa đi vừa ăn cỏ, thong thả hồi tưởng những việc đã làm mấy ngày qua, dở khóc dở cười nghĩ bụng: "Việc này nếu như bị Liễu Nhiên biết, chắc khiến hắn cười thành cao tăng không răng luôn quá."

Đúng lúc này, Trường Canh bỗng nghe thấy phía sau vọng đến tiếng vó ngựa, tựa hồ có đội xe ngựa đi qua, y quay đầu ngựa lui sang bên nhường đường, vô thức ngoảnh lại, thấy mấy thớt ngựa tốt cao to chớp mắt liền lao tới, phía sau còn kéo một cỗ xe ngựa.

Nhìn từ xa, những kỵ sĩ đó đều vận thường phục, không hề khác biệt với các lữ nhân đi vội khác, nhưng tim Trường Canh chẳng biết vì cớ gì mà bắt đầu đập như điên.

Bắt nguồn từ câu khán nhân hạ thái điệp, xem người mà bưng thức ăn, phân biệt đối xử.

Xuất xứ từ Luận ngữ – Quý thị, nghĩa là đã đến rồi thì cứ để nó yên.

Phỉ thủ Nam Cương Tĩnh Hư vốn vẫn chưa hoài nghi, theo "trú quân Nam Cương" đến báo tin chạy đi cứu Phó Chí Thành, đang đi thì lão sơn phỉ giàu kinh nghiệm này chợt phát hiện vấn đề – kẻ dẫn đường tựa hồ đang dẫn hắn đến nơi bọn sơn phỉ thường xuyên "đánh chuông".

Trong quần sơn Tây Nam thường xuyên có nơi kiểu này, địa thế cực kỳ phức tạp, mê cung tự nhiên, không phải địa đầu xà đi vào căn bản không tìm được phương hướng, dưới lòng đất hang động chồng chéo, người trên núi mai phục, có thể xuất quỷ nhập thần.

Bọn sơn phỉ bình thường trước hết nghĩ cách dụ người vào đó, rồi lại chặn cửa cướp giết, nơi thế này cướp người rất chuẩn, chuyên môn đối phó một số tiêu sư thành danh và bang phái giang hồ, tiếng lóng gọi là "đánh chuông".

Tĩnh Hư tuy chạy nhanh nhưng đầu óc vẫn chưa loạn, gần đến nơi chợt giật mình, ý thức được đây là một "nắp chuông", lưng toát mồ hôi lạnh, hắn dừng ngay lại, chất vấn "trú quân Nam Cương" dẫn đường. Chẳng qua dăm ba câu, đã trăm ngàn chỗ hở, tay dẫn đường kia chợt nổi điên muốn đả thương người, bị chúng sơn phỉ ba chân bốn cẳng khống chế, vậy mà lại uống thuốc độc tự sát.

Trong lòng Tĩnh Hư kinh nghi, lập tức lệnh cho thủ hạ quay lại, trên đường gặp hai huynh đệ trong trại toàn thân đẫm máu, mới biết hang ổ đã bị người ta lật úp, chờ tới khi hoảng hốt về đến nơi, chỉ thấy ngói vụn gạch vỡ, xác cháy la liệt.

Mười năm tích lũy, một đêm thành tro.

"Đại ca!" Một sơn phỉ đầu tóc bù xù loạng choạng chạy tới, túm tay Tĩnh Hư, "Mật đạo, đừng hoảng, chúng ta còn có mật đạo!"

Tây Nam nhiều núi, bọn sơn phỉ phần lớn thỏ khôn có ba hang, trên núi thường có mật đạo, có thể độn thổ.

Nếu có địch nhân giết lên núi, người trên núi dùng hư chiêu là có thể theo mật đạo chạy vào thập vạn đại sơn, ngay cả huyền ưng trên trời cũng chẳng bắt được chuột chũi.

Sơn phỉ khác vừa nghe thế, mắt đều sáng rỡ lên.

Nhưng Tĩnh Hư lại lảo đảo, thần sắc đờ đẫn, không thấy chút gì là vui vẻ.

Hắn trơ mắt nhìn thủ hạ ôm hi vọng may mắn, mừng rỡ đi tìm mật đạo – trong lòng hiểu rõ, mật đạo vô dụng.

Nếu đối phương chỉ là đao thật thương thật lên núi giết người, như vậy phần lớn người trên núi có thể bỏ chạy theo mật đạo, vô luận thế nào cũng không lung lay được nền móng của sơn trại, thế nhưng họ lại đốt núi.

Ngay cả Khối Lan Đồ cũng không biết mình đã hỏa thiêu cái gì.

Tĩnh Hư đứng bất động hồi lâu, không xa đó đột nhiên bật ra một tràng gào khóc chói tai, hắn nghe thấy người đi tìm mật đạo tuyệt vọng la lên: "Mật đạo sập hết rồi!"

Đại phỉ thủ nhắm mắt lại – quả nhiên.

Trong mật thất dưới chân núi chẳng có gì đặc biệt này, cất chứa không phải bạc trắng vàng thật như Hạnh Tử Lâm, mà là tử lưu kim.

Triều đình cấp tử lưu kim cho trú quân địa phương, ngay cả Huyền Thiết doanh cũng giật gấu vá vai, càng không cần nói tới trú quân Nam Cương, nhưng Phó Chí Thành đương nhiên cũng có cách của mình. Khối Lan Đồ nhận được mật báo, biết Phó Chí Thành và đại phỉ thủ Tĩnh Hư đạo nhân lui tới thân thiết, nhưng hắn không biết kỳ thực Tĩnh Hư đạo nhân chính là "chưởng quầy" buôn lậu tử lưu kim cho Phó Chí Thành.

Sơn phỉ làm nghề ăn cướp, nhạn qua nhổ lông, Tĩnh Hư giúp Phó Chí Thành ra mặt tiếp xúc chợ đen, vận lậu tử lưu kim, bản thân cũng không thể không chiếm một chút lợi, nhưng hắn tự nhận không tham lam, mỗi lần chỉ giữ lại một phần, việc này Phó Chí Thành biết, cũng luôn ngầm đồng ý. (Nhạn qua nhổ lông ở đây đại khái là hễ gặp việc có lợi sẽ kiếm chác một phen)

Trước đó, Tĩnh Hư mới chuyển loạt tử lưu kim gần nhất đến tay trú quân Nam Cương, trong mật thất dưới chân núi cũng vừa vặn còn lại một phần tử lưu kim, ai ngờ lại thành bùa đòi mạng, sau khi cháy đã nổ tung mật đạo trong núi, đuổi tận giết tuyệt cả sơn trại.

Đây là trùng hợp sao? Đây khả năng là trùng hợp sao?

Tĩnh Hư nhớ rất lâu trước có người từng nói với hắn rằng "Quân tử dụ dĩ nghĩa, tiểu nhân dụ dĩ lợi (Trích Luận ngữ), kẻ lấy lợi mà tụ, tất do lợi mà tan", hắn và Phó Chí Thành do lợi mà tụ, hiện giờ sự việc bại lộ, Phó Chí Thành đương nhiên cũng có thể dễ dàng vứt bỏ hắn, thổ phỉ đầy rẫy trên núi, diệt trừ một Tĩnh Hư, còn có thể bồi dưỡng vô số kẻ khác.

Có thủ hạ tiến lên nghẹn ngào nói: "Đại ca, chúng ta đào mật đạo ra, không chừng còn có người sống."

Tĩnh Hư hờ hững đứng đó, chỉ lắc đầu.

"Đại ca!"

Tiếng khóc vang lên khắp nơi, Tĩnh Hư đột nhiên quát to một tiếng: "Đủ rồi!"

Tất cả những kẻ may mắn sống sót đứng trên đất đai cháy sém nhìn hắn.

"Đi theo ta." Đôi mắt Tĩnh Hư dần đỏ lên, như một mãnh thú chuẩn bị cắn người, hắn hạ giọng cực thấp, nghiến răng nghiến lợi nói, "Phó Chí Thành bất nhân, đừng trách ta bất nghĩa – ngần ấy năm qua, thực cho rằng ta không có biện pháp đối phó hắn sao?"

"Nam Cương lắm núi, nhiều sơn trại, giữa những sơn phỉ này tự thành hệ thống, không hề là mạnh ai nấy làm, theo như chúng ta trước mắt biết, tổng cộng có ba đại phỉ thủ." Trong hang ổ Hạnh Tử Lâm, Trường Canh lấy ra một tấm địa đồ da dê đã lật nát, chỉ cho Cố Quân xem, bên trên đánh dấu cực kỳ phức tạp, địa hình, khí hậu, đường thế nào, có thể đi xe ngựa gì, vân vân và vân vân.

Bản vẽ như vậy, Cố Quân từng thấy ở Giang Nam, nhất định là bút tích của Lâm Uyên các không sai, y ở dưới ánh đèn suy tư nhìn Trường Canh một cái, không lên tiếng, ý bảo tiếp tục.

Cố Quân cho ba ngàn Huyền Thiết quân trà trộn vào thương đội về Nam hồi hương, lấy khói phân sói làm tín hiệu, bí mật đi trong đêm, từ trên trời giáng xuống ngay khi đội hộ vệ của Khối Lan Đồ bao vây Phó Chí Thành ở đỉnh núi Hạnh Tử Lâm, hai mươi mấy huyền ưng sát thủ không trung khống chế đỉnh núi chó cắn chó, huyền giáp và huyền kỵ chia binh hai đường, cắt mấy vạn trú quân Nam Cương dưới chân núi thành vài đoạn.

Chủ soái bị bắt, Huyền Thiết doanh đích thân tới, trú quân Nam Cương người đông thế mạnh, lại như một đám cừu non không biết phản kháng, bị Cố Quân thu thập.

Khi một chủ soái dẫn binh không phải đi giết người, mà là đi để thêm can đảm, vô luận theo sau hắn là nhánh quân đội hổ lang ra sao, đều sẽ biến thành một xe cừu non.

Song cuộc loạn đấu trên Hạnh Tử Lâm còn chưa dọn xong, Trường Canh lại mang đến một tin tức.

Trường Canh: "Thế lực của ba đại phỉ thủ này chia Nam Cương thành ba khối, bình thường yên ổn vô sự, tự tiết chế đạo tặc trong vùng, hoặc nhiều hoặc ít đều có liên hệ với trú quân Nam Cương, trong đó đặc thù nhất, chính là Tĩnh Hư đạo nhân ở phương Bắc."

Thẩm Dịch hỏi: "Vì sao người này đặc thù? Là thế lực lớn nhất? Hay là quan hệ với Phó Chí Thành chặt chẽ nhất?"

Trường Canh: "Bởi vì hắn chở lậu tử lưu kim cho Phó tướng quân."

Cố Quân nheo mắt, chợt ngẩng đầu lên: "Làm sao ngươi biết? Rốt cuộc lần này ngươi đến Tây Nam làm gì?"

Bốn năm trước, khi Liễu Nhiên hòa thượng dẫn y đi Giang Nam, trong lòng Cố Quân đã ẩn ẩn có phỏng đoán, Lâm Uyên các nằm trên giang hồ rộng lớn, không thể nào nghe lén toàn diện việc lui tới giữa trung thần trong triều, sở dĩ họ có thể phát hiện giao họa Đông Hải, chỉ sợ là do lần theo chợ đen tử lưu kim dân gian.

Trường Canh nở nụ cười nhẹ nhàng, tựa hồ không muốn nhiều lời, chỉ nói: "Người giang hồ có biện pháp của người giang hồ, nghĩa phụ không cần lo lắng."

Cố Quân giơ tay ngăn y lại, sầm mặt nói: "Ngươi nên biết triều ta buôn lậu tử lưu kim là tội gì – bắt được tất chết, trên chợ đen tử lưu kim toàn hạng liều mạng, quân tử không đứng dưới tường sắp sập, ngươi hiểu không?"

Thẩm Dịch ở bên cạnh nghe mà xấu hổ vô cùng, chỉ hận không thể đỏ mặt thay Cố soái, giáo huấn người khác thì rõ là đàng hoàng, nghĩa chính lại ngôn từ, giống như chuyện buôn lậu tử lưu kim chẳng liên quan gì đến y vậy!

Trường Canh không tranh cãi với y, cũng không nổi nóng, chỉ tựa tiếu phi tiếu mà nhìn y, trên mặt rõ ràng là vẻ "chút việc này của người con đều biết cả, có người ngoài ở đây, không tiện nói toạc ra thôi".

Cố Quân thoạt đầu sửng sốt, sau đó lập tức ngộ ra, nghĩ bụng: "Cái gì? Tên khốn này còn tra được lên đầu ta cơ à?"

Trường Canh đè tay Cố Quân: "Nghĩa phụ, đừng vội nổi giận, nghe con nói trước đã."

Trường Canh đặt tay lên mu bàn tay Cố Quân, lòng bàn tay y ấm áp, khớp xương rõ ràng, nắm nhẹ như đang bắt một con chim non, chạm tới rồi buông, nhưng không biết vì sao, lại có cảm giác khác thường.

Cố Quân đột nhiên cảm thấy không quen, giữa bằng hữu huynh đệ tình cảm thân thiết, ôm ôm ấp ấp, nắm tay đùa giỡn, thậm chí ôm hôn một cái cũng chẳng hề gì, giữa võ tướng không nhiều hư lễ, giữa binh lính càng như thế, nhưng động tác này thật sự quá "dính", Cố Quân không tự chủ được rụt nhẹ ngón tay, nhất thời quên mất mình vừa muốn nói gì.

Trường Canh mặt không đổi sắc nói: "Cát Thần vừa dùng chim gỗ truyền tin cho con, nói đỉnh núi của Tĩnh Hư bị người ta đốt rồi."

Cố Quân: "... Cát Thần?"

Trường Canh: "Chính là Cát Bàn Tiểu."

Cố Quân liếc Tôn Tiêu một cái, từ sau khi Khối Lan Đồ chết, Phó Chí Thành bị bắt, Tôn đại nhân liền thành một con chim cút yếu đuối đáng thương, chẳng biết gì ngoài run bần bật, bị Cố Quân tìm người canh chừng.

Việc này nghĩ qua là hiểu.

Phó Chí Thành sớm biết hành tung của bọn Cố Quân, nếu thật sự muốn phủi sạch quan hệ với sơn phỉ, sao lại vội động thủ vào giờ phút quan trọng này? Không phải giết người diệt khẩu chưa đánh đã khai à?

Lại nghĩ tới bộ dạng ngu xuẩn từ đầu đến đuôi "ta và Khối tuần phủ đã móc nối rồi" của Tôn Tiêu, thật sự nhìn qua hiểu ngay – hiển nhiên là Binh bộ vì cưỡng chế thi hành lệnh kích trống, Khối Lan Đồ vì diệt trừ Phó Chí Thành, ăn nhịp với nhau, gây xích mích giữa sơn phỉ và Phó Chí Thành, để hai bên chó cắn chó trước mặt An Định hầu, đến lúc đó Cố Quân dù tư tâm muốn bảo vệ Phó Chí Thành, cũng không cách nào đổi trắng thay đen.

Việc phóng hỏa đốt núi thất đức kia quá nửa là do Khối Lan Đồ làm.

Nhưng Khối Lan Đồ không thể biết mối quan hệ chân chính giữa Tĩnh Hư và Phó Chí Thành, bằng không hắn đã chẳng dùng lửa đốt núi, bởi vì cho dù Khối Lan Đồ cấu kết sơn phỉ sự thật rành rành, tội danh này cũng không nhất định có thể trí Tổng đốc Tây Nam Thống soái Nam Cương vào chỗ chết. Nếu Khối Lan Đồ biết Phó Chí Thành thông qua Tĩnh Hư buôn lậu tử lưu kim, sẽ tuyệt đối không qua loa mà thiêu hủy chứng cứ thay họ – buôn lậu tử lưu kim chính là mưu phản, giết mười Phó Chí Thành cũng đủ.

"Chợ đen tử lưu kim đại thể có ba nguồn," Trường Canh phân tích tỉ mỉ, "Thứ nhất đến từ quan trữ, pháp lệnh tuy nghiêm, nhưng luôn có chuột cống vì tư lợi mà làm liều, trộm tử lưu kim của quan trữ, pha lẫn tạp chất sau đó tuồn vào dân gian, thứ hai đến từ hắc đào khách, chính là những kẻ bất cần mạng đi quan ngoại tìm kiếm quặng tử lưu kim, cửu tử nhất sinh đào về, thứ ba thì đến từ hải ngoại, sở dĩ chúng con đặc biệt đến tra tuyến này, là bởi vì nguồn cuối cùng của tử lưu kim là Nam Dương."

Cố Quân chợt ngồi thẳng lên: "Ngươi xác định?"

Trường Canh im lặng gật đầu.

Sắc mặt Thẩm Dịch cũng nghiêm túc hẳn.

Họ đều biết, Nam Dương không sản xuất tử lưu kim.

Tử lưu kim đến từ hải ngoại chảy vào chợ đen Đại Lương, đều là trực tiếp giao dịch với người Tây Dương, theo một tuyến cố định, do người cố định nhận, sẽ không tự nhiên rườm rà chuyển vận từ chỗ người khác, rất mạo hiểm.

Nếu thực sự có người dùng Nam Dương làm bình phong, từ cự ly xa thao túng chợ đen tử lưu kim Tây Nam, vậy kẻ sau lưng mạo hiểm lớn đến thế, giấu sâu như thế, nhất định không chỉ đơn giản buôn bán tử lưu kim thôi.

Trường Canh: "Nam Dương không ở trong nước ta, bọn con năng lực có hạn, nhiều lần phái người đến Nam Dương, đều phí công quay về, đây là một việc, còn có Tĩnh Hư đạo nhân đến nay chưa lộ diện, nghĩa phụ, con nghĩ khi một hãn phỉ có thể tiếp xúc với tử lưu kim, hắn suy nghĩ sẽ tuyệt không phải là kiếm khôi lỗi trồng trọt khai hoang cày cấy khắp núi."

Cố Quân nghe xong, trầm ngâm chốc lát, đứng dậy huýt sáo một tiếng, một huyền ưng im lặng từ trên trời đáp xuống trước mặt.

Cố Quân nhíu mày, chớp mắt hạ liền ba quân lệnh.

"Hai đội thám báo huyền ưng mang theo tấm bản đồ này, nhân đêm thăm dò chỗ ba đại phỉ thủ Nam Cương, bắt phỉ thủ trước!"

"Giam giữ đội phòng vệ của Tuần phủ Nam Trung, tra rõ là ai bày kế cho Khối Lan Đồ, để hắn dùng cách này gây xích mích giữa Phó Chí Thành và bọn phỉ."

"Thẩm vấn Phó Chí Thành, Quý Bình, ngươi đi đi."

Mọi người đều tự lĩnh mệnh, Cố Quân nói xong lại không tự chủ được híp mắt một chút, ngay cả Thẩm Dịch vẫn chưa phát giác khác thường, Trường Canh đã kéo y: "Nghĩa phụ, có phải là... người có đem thuốc theo không? Trời sắp sáng rồi, nghỉ ngơi một lúc trước đi?"

Thẩm Dịch nghe thấy chữ "thuốc" mới định thần lại, đồng thời, trong lòng y nhất thời cảm thấy hơi kỳ lạ, ánh mắt Trường Canh hình như luôn dính trên người Cố Quân, gió thổi cỏ lay cũng có thể lập tức nhận thấy.

Cố Quân theo thói quen định phủ nhận.

Trường Canh lại tranh nói trước: "Cách châm cứu lần trước Trần cô nương bày cho con còn chưa thử đâu, việc này khả năng còn chưa xong, sợ lại sinh biến, nghĩa phụ cứ để con thử xem."

Cố Quân lúc này mới nhớ là Trường Canh đã biết rồi, giấu nữa cũng chẳng ích gì, ném lại một câu "ta ra đằng sau nằm một lúc", rồi im lặng đi theo.

Trong tay nải của Trường Canh tùy thân mang theo một bộ ngân châm, một ít dược vật phòng sẵn, không nhiều bạc vụn, mấy quyển sách – Cố Quân đã sớm phát hiện, đứa trẻ này thoạt nhìn nhân mô cẩu dạng, kỳ thực chỉ đem theo hai bộ quần áo tươm tất để thay đi thay lại. Vô luận thế nào y cũng không nghĩ thông, Trường Canh hồi nhỏ muốn dẫn đi chợ cũng phải dùng hết các kiểu kỹ năng, rốt cuộc vì sao mà bất kể thế nào đều không chịu ở lại kinh thành, khăng khăng muốn lang bạt giang hồ chịu đủ khổ cực?

Một tháng hai tháng là mới mẻ, bốn năm cũng mới mẻ sao?

Trường Canh từng thi châm cho rất nhiều người, lúc này một mình đối mặt với Cố Quân, lại vô cớ căng thẳng một trận, ngay cả lần đầu theo Trần cô nương học châm cứu châm lên người mình cũng chẳng như vậy. Y không tự chủ được rửa tay tới rửa tay lui, thiếu điều tróc cả da, cho đến khi Cố Quân nhịn không được thúc giục: "Trần cô nương dạy ngươi bao lâu, chỉ dạy được rửa tay thôi à?"

Trường Canh nuốt nước bọt, giọng hơi căng thẳng, dè dặt hỏi: "Nghĩa phụ, nằm trên đùi con được chứ?"

Cố Quân không cảm thấy có gì không thể, nào phải chân đại cô nương, nằm thì nằm sợ gì, có điều y rất muốn mở miệng hỏi một câu "Ngươi rốt cuộc có làm được không", song lại sợ gia tăng áp lực cho đại phu gà mờ Trường Canh, thế là nhịn xuống, chỉ cực kỳ rộng lượng nghĩ: "Ta sá gì chứ, dù sao cũng chẳng chết nổi."

Y đã chuẩn bị sẵn sàng chịu mấy châm trên da thịt, nào ngờ Trường Canh không hề kém cỏi như trong tưởng tượng, châm mảnh cắm vào huyệt cơ bản không có cảm giác gì, một lát sau, cơn đau đầu quen thuộc ùa lên, chẳng biết có phải là tác dụng tâm lý hay không, mà Cố Quân cảm thấy thật sự khá hơn rất nhiều.

Cố Quân thả lỏng, lại không nhịn được hỏi: "Ngươi đi theo Lâm Uyên các dãi nắng dầm mưa, mong được cái gì?"

Thật sự muốn đền đáp quốc gia, cũng nên về kinh vào triều làm Quận vương, đường đường hoàng tử, đi theo đám giang hồ không cần mạng tra tử lưu kim làm khỉ gì?

Trường Canh dừng một chút, động tác trên tay không dừng, khéo léo cự tuyệt: "Con chưa từng truy hỏi độc thương của tai mắt nghĩa phụ là từ đâu tới."

Cố Quân: "..."

Trường Canh nở nụ cười, cho rằng đã chặn họng được y, không ngờ giây lát sau, Cố Quân chợt thản nhiên nói: "Hồi nhỏ lão Hầu gia dẫn ta lên chiến trường Bắc cương, bị độc tiễn của người man làm xước da."

Trường Canh: "..."

Cố Quân: "Ta nói xong rồi, giờ tới lượt ngươi."

Cố Quân người này vô luận giả sói giả gấu giả tôn tử, đều là hảo thủ, mặt không biểu cảm nói một câu, thật giả lẫn lộn, toàn dựa theo tâm tình, cơ bản chẳng có dấu vết để tìm ra, Trường Canh chỉ có thể dựa vào trực giác cho rằng trong câu này tất có giả dối.

"Con... con muốn xem thử," Trường Canh nói, "Trước kia Liễu Nhiên đại sư từng nói với con, lòng có thiên địa, phiền não như núi cũng chẳng qua một góc, sơn xuyên hà hải, chúng sinh vạn vật, thường xuyên nhìn người khác một cái, thì cúi đầu cũng có thể nhìn thấy mình. Chưa tự tay chăm sóc người bệnh nặng hấp hối, còn tưởng rằng mình trầy miếng da là trọng thương, chưa nuốt cát sỏi, luôn cảm thấy kim qua thiết mã chỉ là cái bóng uy phong lẫm lẫm, chưa ăn rau ăn mắm, 'dân sinh quá khó khăn' không phải cũng là không bệnh mà rên sao?"

Cố Quân mở mắt nhìn y.

Ánh mắt Cố Quân dưới tác dụng của dược vật dần dần tìm lại tiêu cự, Trường Canh thoạt đầu hơi trốn tránh, lập tức lại định thần thản nhiên đón nhận, nhưng y vẫn không thể nhìn lâu vào mắt Cố Quân, nhìn nhiều thì ngực như lắp thêm một hộp vàng không tản nhiệt nổi, nóng hầm hập, sau lưng ngứa ngáy, vô thức khép chân lại, suýt nữa ngồi không yên.

Cố Quân bỗng nhiên nói: "Lão sư của ngươi họ Chung, Chung Thiền, đúng không?"

Trường Canh hơi sửng sốt.

"Phiêu Kỵ Đại tướng quân, công phu cưỡi ngựa bắn cung thiên hạ vô song, mười mấy năm trước do chống đối tiên đế, khi quân dối trên mà bị tội, cả triều văn võ cầu tình giúp, cuối cùng mới chỉ bị bãi quan miễn chức, không để lão tướng quân gặp tai ương lao ngục, sau đó vô tung vô ảnh, khi Tây Vực phản loạn tiên đế hoảng hốt muốn khởi phục lão tướng, lại tìm không ra người," Cố Quân thở dài, "Ngươi vừa bắn một mũi tên, ta liền biết là ông ấy dạy – chẳng trách người ta phái đi thường xuyên bị cắt đuôi, lão nhân gia xương cốt còn rắn chắc chứ?"

Trường Canh đáp một tiếng.

Cố Quân rất lâu không nói gì.

Y không nói cho Trường Canh biết, kỳ thực rất lâu về trước, Chung Thiền cũng từng là lão sư của mình, Lâm Uyên các dẫn tiến Trường Canh cho ông, là trùng hợp hay cố ý?

Y cũng không khỏi có chút chờ mong – tiểu hoàng tử y nhấp nhô nuôi nấng từ khi còn là đứa trẻ mười tuổi tóc trái đào, cuối cùng có thể thành rường cột chứ?

Cố Quân trong lúc miên man suy nghĩ dần dần ngủ thiếp đi, mơ mơ màng màng, cảm thấy hình như có người sờ mặt mình.

Tỉnh giấc thì trời đã sáng rồi, y đẩy tấm chăn mỏng trên người không biết ai đắp cho, trầm giọng hỏi: "Chuyện gì?"

Huyền ưng ngoài cửa: "Đại soái, ba đại tặc thủ tề tựu ngay trong đêm, tập kết một đoàn bạo dân phản quân ở gần cửa sông về phương Nam..."

Cố Quân cau mày.

"Họ có hơn mười bạch hồng, mấy chục trọng giáp, nếu thuộc hạ không nhìn lầm, trong tay đám bạo dân này còn có 'ưng'."

Huyền ưng ngay câu đầu tiên đã khiến Cố Quân có tinh thần.

"Ưng," Y khẽ hỏi lại một câu, "Ngươi quả thật không nhìn lầm?"

Huyền ưng: "Thuộc hạ lấy cái đầu trên cổ ra đảm bảo, chắc chắn có việc này."

"Ưng" là đặc biệt nhất trong tất cả quân chủng, tuy không phải hao dầu nhất, nhưng bảo dưỡng giữ gìn đều cực kỳ khó khăn, huyền ưng mỗi năm đều cần Linh Xu viện cho chuyên gia đến tu sửa, tính tổng lại tuyệt đối không rẻ hơn trọng giáp. So sánh mà nói, trọng giáp thường thấy hơn rất nhiều, các quân, thậm chí đội hộ vệ của Khối Lan Đồ cũng vượt cấp có mấy bộ, nhưng dõi mắt nhìn khắp toàn cảnh Đại Lương, "ưng bộ" thành hình cũng chỉ có mỗi huyền ưng thôi.

Ưng của đám sơn phỉ này là từ đâu tới?

Trộm từ Huyền Thiết doanh sao!

Cố Quân đứng bật dậy, sải bước ra ngoài, trong hang phỉ Hạnh Tử Lâm tất cả đều căng thẳng, Phó Chí Thành bị tước vũ khí trói gô lại quỳ ở giữa, vừa thấy Cố Quân liền vội vàng cao giọng kêu oan: "Đại soái! Đại soái ta oan uổng!"

Cố Quân nhấc chân đạp hắn một phát ngay ngực, Phó Chí Thành một hán tử cao to bị y trực tiếp đá bay, phun ra một búng máu, sặc sụa lăn dưới đất, không nói ra lời.

"Ngươi oan uổng?" Cố Quân lạnh lùng nói, "Đồ khốn nạn, ngươi nuôi một ổ phản quân ngay trong tầm mắt, trọng giáp khinh cừu đủ hết, bạch hồng bày ra hai dặm, ngay cả 'ưng' cũng không thiếu, so với thủy quân Giang Nam Đại Lương ta còn phung phí hơn, cũng thật có năng lực đấy Phó Chí Thành!"

Phó Chí Thành chật vật lăn dưới đất, vẻ giật mình không giống giả, không ngừng biện hộ: "Đại soái, ta thề với trời, ta không biết thiết ưng của chúng từ đâu tới, ngay cả trú quân Nam Cương cũng không có ưng mà!"

Thẩm Dịch thấp giọng nói: "Đại soái, hôm qua ta thẩm tra cả đêm, chính Phó tướng quân cũng không nói rõ được nguồn gốc của số tử lưu kim kia, chỉ thừa nhận là hắn kêu Tĩnh Hư đi liên lạc."

"Tên ngu xuẩn đi bảo hổ lột da, còn cho là mình nuôi mèo mướp." Cố Quân hung tợn nhìn Phó Chí Thành một lúc, "Tiếp tục thăm dò, lấy bản đồ tới đây – toàn thể chỉnh đốn đội ngũ, chuẩn bị vây tiễu phản quân, trú quân Nam Cương tạm thời do ta tiếp quản, kẻ trái lệnh xử trí theo quân pháp!"

Nói xong y đưa tay treo khinh cừu giáp, lúc mò tìm cung lại không thấy đâu, bấy giờ mới nhớ bộ cung tên kia mình đã thuận tay cho Trường Canh rồi.

Cố Quân hơi sửng sốt, hỏi: "Trường Canh đâu?"

Tĩnh Hư đạo nhân nhanh chóng xuyên qua mật đạo dài dằng dặc trong núi, nơi đó có người đang đợi hắn.

Đó là một nam nhân vóc dáng cao, ngũ quan dưới ánh đèn măng-sông như đao khắc, đường hằn khóe miệng (*) rất sâu, không nhận ra tuổi tác chính xác, cũng không rõ cụ thể là người phiên bang nơi nào, tóm lại không phải người Trung Nguyên, mặt hắn phơi nắng đến ngăm đen, da dẻ có vẻ dãi dầu gió sương, đôi mắt hơi ánh lam, đang chăm chú xem một sa bàn lớn. (*Chỗ này nguyên gốc là đường nasolabial)

Đối mặt với người này, Tĩnh Hư biểu hiện ra hoàn toàn cẩn thận: "Nhã tiên sinh, Cố Quân kia sẽ mắc mưu chứ?"

"Nhã tiên sinh" ngẩng đầu nhìn Tĩnh Hư một cái: "Có lẽ ngươi có thể lừa y tới, nhưng không thể kéo chân được y, An Định hầu đã lên chiến trường từ khi còn là một đứa trẻ, y chỉ cần tới nhìn qua, là biết số cương giáp bay trên trời và chạy dưới đất của các ngươi căn bản không có sức chiến đấu đối kháng được với Huyền Thiết doanh."

Tĩnh Hư ngớ ra: "Thế..."

Nhã tiên sinh giơ một ngón tay: "Nhớ ta từng nói cho ngươi biết, Huyền Thiết doanh là do ba thế hệ dốc hết toàn lực quý quốc tạo ra, là một trong các quân đội cấp cao nhất trên thế giới này, là một món hung khí vượt khỏi thời đại chúng ta, ngươi đừng vọng tưởng có thể chiến đấu trực diện với họ, vì sẽ chẳng khác nào một kẻ vạm vỡ đánh trẻ con cả, việc chúng ta phải làm, chỉ là tạm thời điệu hổ ly sơn, giữ chân họ trong một lúc."

Ngón tay hắn chỉ nhẹ trên sa bàn: "Cố Quân sẽ bị phi ưng và trọng giáp chúng ta để ngoài sáng dụ đến, dù rằng không kéo chân được bao lâu – nhưng ta vừa nhận được một tin tức, Phó Chí Thành đã giúp đỡ ngươi một phần, hắn kéo phần lớn trú quân đến Hạnh Tử Lâm, hiện tại nội phòng của trú quân Nam Cương đang trống, người lưu thủ thậm chí còn chưa biết tin tức các ngươi đã trở mặt."

Mắt Tĩnh Hư sáng lên.

"Ngươi chỉ cần giống với mỗi lần giúp Phó Chí Thành vận chuyển tử lưu kim, giấu người trong rương, người ở kho chứa đồ quân nhu Tây Nam vừa không ngăn cản cũng sẽ không lộ ra, đến lúc đó nội ứng ngoại hợp," Nhã tiên sinh làm động tác chém xuống, "Một chén trà uống chưa xong, có thể đoạt được kho quân nhu Tây Nam."

Trong kho quân nhu Tây Nam có rất nhiều tử lưu kim, chỉ cần một người cầm đuốc đứng ở đó, đừng nói Huyền Thiết doanh, ngay cả thần tiên cũng chẳng dám đi tới một bước.

"Nơi đó có ngàn vạn cân tử lưu kim, một khi bị đốt hủy, dù là An Định hầu cũng không gánh nổi tội danh này," Nhã tiên sinh khều nhẹ ngọn đèn măng-sông treo trên sa bàn, khiến mắt hắn trong bóng đêm cũng chợt sáng chợt tối theo, khóe môi lộ ra nụ cười mỉm không rõ ý tứ, "Các ngươi sẽ có rất nhiều đường đàm phán với triều đình."

Kế hoạch của họ không thể nói là không chặt chẽ, nhưng trên đại địa Nam Cương lúc này, còn có một lực lượng khác chưa thò đầu ra.

Trong khi đại quân Huyền Thiết doanh còn chưa hành động, Trường Canh ở Hạnh Tử Lâm đã nhận được con chim gỗ thứ hai.

Con thứ nhất mới bay đến đã bị Trường Canh thả đi, Thẩm Dịch ngay cả sợi lông cũng chưa được vuốt, thấy con thứ hai bay vào, Thẩm tướng quân nước dãi chảy dài, hớn hở xáp tới, xoa tay nói: "Điện hạ, ngài xem con này... ta mở thay ngài được không?"

Trường Canh thoải mái đưa y, chim gỗ quả thực lấy giả tráo thật đến trình độ nhất định, cầm trong tay trừ cảm giác cứng mềm hơi khác chim thật, cơ bản không thấy có gì khác biệt cả.

Thẩm Dịch hai tay nâng thần điểu này, cảm giác tim mình muốn tan chảy: "Nó còn biết gật đầu, còn biết mổ kìa!"

"..." Cố Quân, "Lão mụ tử, đừng làm trò mất mặt được không?"

Thần điểu trong tay, An Định hầu là cái thá gì?

Thẩm Dịch chẳng thèm phản ứng, vẻ mặt say mê sờ mó lưng chim, cẩn thận tìm cơ quan trên bụng nó.

Thẩm Dịch: "Thế ta mở nhé."

Trường Canh: "Từ từ, trước tiên phải lắc..."

Y còn chưa dứt lời, Thẩm Dịch đã nhanh tay nạy mở cơ quan trên bụng chim, trong cái bụng bé tí vậy mà lại ẩn chứa huyền cơ, vừa mở ra thì một cục giấy liền bắn ra như đạn, trúng ngay cái mũi cao thẳng của Thẩm tướng quân, suýt nữa chảy máu mũi, kế đó chớp nhoáng phủ đầy mặt Thẩm tướng quân.

Thẩm Dịch: "..."

Trong bụng con chim chưa to bằng bàn tay chứa một tờ giấy có thể phủ kín cả mặt tường.

"Phải lắc một cái trước," Trường Canh lúc này mới có cơ hội nói cho hết lời, "Do vùng bụng chim có hạn, đôi khi họ sẽ dùng 'giấy Hải Văn'..."

Thẩm Dịch nghe thế, không để ý nước mắt chảy ra do bị bắn trúng còn đọng trên vành mắt, ồm ồm lắm điều: "A, giấy Hải Văn! Ta biết, là một loại giấy chế bằng kỹ thuật đặc biệt, bất kể tờ giấy to cỡ nào, đều có thể ép lại bằng viên thuốc, nét mực không mờ, để lâu còn tự phẳng lại!"

Trên đời này không gì có thể ngăn cản chứng cuồng giảng giải thao thao bất tuyệt của Thẩm tướng quân, thân tàn chí kiên không được, máu mũi giàn giụa cũng không nốt.

"Sao không đập vỡ mồm hắn đi?" Cố Quân không hề cảm thông nghĩ vậy, một tay đoạt tờ giấy Hải Văn như hung khí kia.

Đó là bản vẽ "ưng giáp", từ hai cánh đến hộp vàng, thậm chí hộ giáp che mặt, tất cả đều tỉ mỉ như thật, chỗ ký tên có một chữ "Cát" viết ngoáy.

"Đây là ưng trên tay sơn phỉ?" Cố Quân tuy không phải là trường tý sư, nhưng các loại chiến giáp chính là nửa thân thể y, quen thuộc vô cùng, vừa nhìn đã nhận ra ưng trên bản vẽ có gì khác với huyền ưng, "Bớt xén vật liệu quá thể."

Thẩm Dịch bịt mũi xáp lại xem, nói: "Ta thấy so với huyền ưng ít nhất phải bớt đi trọng lượng của một bộ khinh cừu, có lẽ là để tiết kiệm dầu."

"Diều càng tiết kiệm dầu hơn." Cố Quân làu bàu một câu, song chưa dứt lời thì y chợt biến sắc, "Khoan đã!"

Phi ưng giáp này tuy là gối thêu hoa, nhưng người thiết kế chắc chắn hiểu rõ ưng giáp, chẳng lẽ không biết giáp này không có sức chiến đấu? Đối phương treo ưng giáp lên cao như vậy, không hề nghi ngờ là kế điệu hổ ly sơn.

Vấn đề là "sơn" ở đâu?

Đánh rắn phải đánh dập đầu, đầu của trú quân Nam Cương... thậm chí chính Cố Quân ở chỗ nào?

Cố Quân quay người đi tới hướng Phó Chí Thành: "Ngươi thường để đám thổ phỉ kia đưa tử lưu kim đến nơi nào?"

Phó Chí Thành mặt đầy máu, hoang mang nhìn Cố Quân giây lát, chợt ngộ ra, trên mặt là thần sắc dao động – thừa nhận mua lậu tử lưu kim, chẳng phải là nắm chắc tội danh mưu phản?

Đúng lúc này, Trường Canh ở phía sau Cố Quân nhẹ nhàng mở miệng: "Phó tướng quân phải nghĩ cho rõ, Khối tuần phủ đã chết bởi tay ngươi, có Tôn đại nhân của Binh bộ làm chứng, tội mưu nghịch túng binh hành hung của ngươi vô luận thế nào đều đã chắc chắn, một người tất chết, chết ở kinh thành và dứt khoát chết ở chỗ này có gì khác biệt đâu?"

Phó Chí Thành chưa bao giờ thấy người tao nhã quý khí như tứ điện hạ, mới gặp người trẻ tuổi này, có khả năng còn hoài nghi y ngay cả vại nước cũng khiêng không nổi, song lúc này, hắn không chút nghi ngờ, nếu mình không phối hợp, tứ điện hạ dáng vẻ "thư sinh" kia có thể nói được làm được một đao giết hắn luôn.

Cố Quân đúng lúc tiếp lời: "Nếu ngươi chịu thức thời, bây giờ còn cơ hội lập công chuộc tội."

Môi Phó Chí Thành run run một lúc lâu, giọng không vững nói: "Kho quân nhu Tây Nam, ta không lập chỗ khác, trực tiếp để Tĩnh Hư đưa tử lưu kim đến kho quân nhu Tây Nam luôn, một giọt cũng không đưa về phủ ta."

Cố Quân đứng dậy.

"Đại soái!" Phó Chí Thành đột nhiên hét lớn một tiếng gọi y lại: "Họ Phó đời này giết người phóng hỏa, đào mồ quật mả, việc thất đức gì cũng từng làm, nhưng phụng mệnh trú thủ Nam Cương, vẫn luôn cần cù cẩn trọng, chưa bao giờ có nhị tâm! Ta tự thấy không phụ lòng Hoàng thượng, hiện giờ rơi xuống hậu quả thế này, không biết các huynh đệ đồng chí khác biết rồi sẽ nghĩ thế nào! Đại soái, trong lòng ngươi nghĩ sao?"

Cố Quân nhìn hắn một cái thâm sâu.

Trong nháy mắt, Phó Chí Thành còn tưởng rằng hắn đã làm Cố Quân xúc động.

Song Cố Quân không cảm khái, cũng chẳng nổi giận, như đeo một tấm mặt nạ cuồng phong bão táp thổi không bung, quay đầu bỏ đi: "Ta nghĩ thế nào, ngươi quản được hả?"

"Quý Bình, ngươi dẫn huyền ưng đi trước một bước, cần phải tiếp quản kho quân nhu Tây Nam trước tặc nhân, Tiểu An-"

Tiểu tướng sĩ Huyền Thiết doanh lúc trước đi theo Trường Canh ở Thục Trung nghe gọi bước ra khỏi hàng.

Cố Quân: "Dẫn một nhánh trú quân Nam Cương, giả vờ tấn công đỉnh núi sơn phỉ tụ tập."

Tiểu An: "Vâng!"

"Khoan đã," Cố Quân nói, "Bôi đen giáp của họ, hắt chút mực là được, không cần đặc biệt như thật, cơ linh một chút."

Chiêu thức ấy còn là học từ Liễu Nhiên hòa thượng, Tiểu An thoạt tiên sửng sốt, rồi lập tức hiểu được ý của Cố Quân, mừng rỡ chạy đi.

Ba đại phỉ thủ Nam Cương đã kiểm xong bộ hạ, Tĩnh Hư đạo nhân nhìn đoàn phỉ lặng ngắt như tờ, chớp mắt lại cũng sinh ra sự hào hùng của thiên quân vạn mã.

Hắn hướng lên trời, chắp tay cao giọng nói: "Quan binh trú quân các nơi cương giáp hoành hành, thanh thế lẫy lừng, Huyền Thiết doanh như quạ quỷ trời giáng, uy chấn hải ngoại, Đại Lương binh cường như thế, song chẳng qua hơn chục năm, mà thủy quân Phúc Kiến, Giang Nam trước sau nổi loạn, là vì sao?"

"Nếu không phải hôn quân nắm quyền, nịnh thần hoành hành, bá tính chúng ta cần chi thiêu thân lao đầu vào lửa, liều mạng đọ sức? Hôm nay huynh đệ chúng ta bị ép tới tuyệt cảnh, tính mạng bản thân và gia đình như ngàn cân treo sợi tóc, thoái nhượng chỉ có một đường chết, không trí đến chỗ chết thì tuyệt không có sinh cơ để tìm, có nguyện uống máu ăn thề, cùng mưu đại nghiệp, có phúc cùng hưởng, có nạn cùng chịu với ta!"

Chúng sơn phỉ cả đời cướp bóc, số chữ biết được còn không nhiều bằng ngón tay mình, tức khắc bị giọng nói trầm bổng của Tĩnh Hư đạo nhân kích động đến nóng đầu, tưởng như đã nhìn thấy mình liệt vào hàng vương hầu khanh tướng vậy.

Tĩnh Hư nhận chén rượu một thủ hạ bên cạnh đưa cho, một ngụm uống cạn, ném chén xuống đất: "Thành bại trong một lần hành động này!"

Chúng sơn phỉ uống rượu thêm can đảm, choang choang ném chén, từ trong mật thất rộng rãi nối đuôi nhau mà đi.

Tĩnh Hư quay đầu lại nhìn Nhã tiên sinh một cái, người phiên bang thần bí này từng là kẻ chắp nối đến từ Nam Dương khi hắn mua lậu tử lưu kim thay Phó Chí Thành, ở Trung Nguyên không biết bao nhiêu năm rồi, hết sức khôn ngoan.

Nhã tiên sinh nghe một phen "Khao quân từ" moi hết ruột gan ấy, trên mặt ngay cả một tẹo dao động cũng không có, ánh đèn măng-sông kéo đường vân ở miệng dài và sâu hơn, hắn đứng ở nơi tranh tối tranh sáng, với nụ cười mỉm châm chọc như thật như giả.

Tĩnh Hư lần đầu tiên ăn bớt một phần tử lưu kim của Phó Chí Thành, đã từng định thông qua Nhã tiên sinh mà bán lại, đổi thành vàng bạc, để mỗi ngày nằm ngủ trên đó, từ khi ấy Nhã tiên sinh đã tận tình khuyên hắn giữ lại số tử lưu kim này, định kỳ dời đến một nơi an toàn hơn, sau đó từ từ bắt đầu tích góp vũ khí.

Năm đó Nhã tiên sinh từng dặn hắn, chỗ trữ vũ khí và tiền tài không thể là cùng một chỗ.

Xem ra, người phiên bang nông sâu khó lường này tựa hồ đã sớm liệu được cục diện hiện giờ.

Trong lòng Tĩnh Hư đầu lĩnh sơn phỉ đa nghi đột nhiên sinh ra một nghi vấn, hắn nghĩ: "Nhã tiên sinh này thật sự chỉ là một địa đầu xà buôn lậu tử lưu kim thôi sao?"

Đúng lúc này, một thủ hạ đột nhiên tới báo: "Đại ca, nhìn thấy người mặc hắc giáp đi đến nơi đậu ưng rồi!"

Nghi hoặc mới nảy mầm trong lòng Tĩnh Hư chớp mắt bị sự mừng rỡ như điên bao phủ: "Nhã tiên sinh nói không sai, chúng quả nhiên mắc mưu, khởi động bạch hồng tiễn, chặn được một khắc thì hay một khắc! Theo kế hoạch toàn quân tăng tốc tiến lên! Mau!"

Lúc này, một xa đội áp tải tử lưu kim ít gây chú ý đang im ắng tới gần kho quân nhu Tây Nam, ở chỗ cửa vào, hán tử cầm đầu hơi đẩy mũ lên, lộ mặt cho vệ đội trưởng của kho quân nhu thấy: "Là ta đây."

Việc mua lậu tử lưu kim, càng ít người biết càng tốt, bởi vậy bên Tĩnh Hư chở tử lưu kim và bên Phó Chí Thành nhận hàng, đều là tâm phúc cố định, vệ đội trưởng kho quân nhu chính là người phụ trách chắp nối với sơn phỉ trong trú quân Nam Cương, Phó Chí Thành yêu cầu hắn mỗi lần nhận tử lưu kim đều tuyệt không thể lộ ra, nhất định phải làm im ắng không một tiếng động.

Dựa theo lệ thường, vệ đội trưởng trước mặt thủ hạ không gặng hỏi một câu, sắc mặt như thường vẫy tay gọi họ, để cho vào, hơn nữa quen đường quen lối dẫn họ đến hướng kho tử lưu kim, chỉ là hôm nay, vệ đội trưởng đi hai bước, ma xui quỷ khiến lắm miệng hỏi một câu: "Ta nhớ mấy hôm trước các ngươi vừa đưa tới một đợt, sao mới đó lại đưa tới nữa?"

Sơn phỉ áp tải tử lưu kim giấu cả khuôn mặt dưới mũ, giọng ồm ồm: "Đây là chuyện của đại nhân và đại ca, làm sao ta biết được?"

Vệ đội trưởng không biết thế nào mà hơi lơ đãng, vừa tìm chìa khóa vừa nói: "Không giấu gì ngươi, hôm qua đại nhân nhà ta điều động hơn một nửa nhân thủ đi theo ngài, chẳng ai biết là có chuyện gì."

Sơn phỉ đội mũ nhìn chằm chằm động tác mở kho của hắn, vô thức liếm môi, thô lỗ thúc giục: "Đều là chân sai vặt, bọn ta cũng không rõ, mở cửa nhanh đi!"

Tay vệ đội trưởng đang vặn chìa khóa chợt khựng lại, hắn cau mày quay đầu: "Sao ta cảm thấy ngươi hôm nay..."

Tiếng hắn nói đột nhiên ngừng bặt, bởi vì nhìn thấy một sơn phỉ đang ở cách ba bước cầm một cây nỏ nhỏ chỉ vào yết hầu hắn.

Vệ đội trưởng rùng mình, bọn sơn phỉ lập tức biết sự việc đã bại lộ, dứt khoát đã làm thì làm cho trót, kẻ cầm đầu phất tay, đoản tiễn trên nỏ lập tức như độc xà phun nọc chui vào yết hầu vệ đội trưởng, một hơi hắn hít vào để chuẩn bị cao giọng hô lên rốt cuộc không còn cơ hội thở ra nữa.

Sơn phỉ đội mũ chợt tiến lên một bước, dùng bả vai đỡ thân hình vệ đội trưởng ngã xuống, giơ tay lấy chìa khóa trên cửa kho-

Tim hắn muốn nhảy ra khỏi ngực, bởi vì chỉ cần mở cánh cửa này ra, mấy vạn đại quân Nam Cương, ba ngàn quỷ quạ đen Huyền Thiết, tất cả đều bị hắn bóp cổ.

Đúng lúc này, hắn nghe thấy bên tai có một tiếng rít, sơn phỉ đội mũ nhất thời chưa thể định thần thoát khỏi sự hưng phấn cực độ, theo bản năng ngoảnh lại nhìn, thì thấy tất cả thủ hạ bên cạnh đều hoảng sợ ra mặt, bấy giờ hắn mới cảm giác được cánh tay mình bất thường – cái tay mới cầm chìa khóa bị thiết tiễn từ trên trời giáng xuống bắn xuyên qua, làm cả cánh tay chỉ còn dính đúng một tấc thịt!

Cánh tay đứt một nửa nắm chặt chìa khóa kho, vừa không xoay được, vừa chắn ở đó.

Sơn phỉ rốt cuộc rú lên thảm thiết không giống tiếng người.

Chỉ trì hoãn giây lát, huyền ưng đuổi tới đã nhao nhao đáp xuống, Thẩm Dịch tay cầm cung tên chưa cất trực tiếp đáp lên nóc kho tử lưu kim, lấy Huyền Thiết hổ phù từ trong lòng ra, dưới hổ phù lủng lẳng sợi dây thừng, như mua một tặng một mà treo lệnh kích trống đầu tiên của Đại Lương.

Y trường thân ngọc lập đứng đó, sau lưng ưng giáp là đôi cánh đen như mây, nói với trú quân Nam Cương đang kinh ngạc đến ngây người trong kho quân nhu Tây Nam: "Huyền Thiết hổ phù và lệnh kích trống đều ở đây, ta phụng mệnh An Định hầu tiếp quản binh quyền quân nhu Tây Nam, kho quân nhu hiện tại giới nghiêm, đạo tặc giết chết tại chỗ!"

Ba phỉ thủ Nam Cương còn chưa biết sự tình có biến, lúc này đang chia binh ba đường, dẫn thủ hạ từ dưới đất chui lên, xoa tay hăm hở chia nhau đến kho quân nhu Tây Nam.

Đúng lúc này, Tĩnh Hư bỗng nghe thấy một tràng tiếng kim thạch lanh lảnh, như là vật nặng và đá từ trên đỉnh núi va chạm lăn xuống, liền ngẩng đầu lên theo bản năng.

Một cái đầu người bọc trong trọng giáp từ trên sườn núi lăn xuống.

Trọng giáp ấy là hắn giấu trong xe chở tử lưu kim, muốn lẻn vào kho quân nhu Tây Nam.

Tĩnh Hư cứng đờ người-

Chỉ thấy trú quân Nam Cương bạt ngàn sơn dã, Huyền Thiết hắc giáp như ẩn như hiện bên trong, tên nhọn chi chít từ trên đỉnh núi nhắm xuống họ, mà nửa đội ngũ khác của Tĩnh Hư thậm chí còn ở trong mật đạo dưới chân núi.

Đối với Tĩnh Hư, Cố Quân chỉ nhìn hắn một cái, phát hiện chẳng có điểm nào để khen, thế là nhanh chóng coi đại sơn phỉ đầu lĩnh này và những người khác như nhau mà ném qua một bên – lúc này, y càng quan tâm Trường Canh đi khi nào hơn.

Vừa vặn, Trường Canh hết sức đúng lúc bày tỏ mình phải đi hội hợp với đồng bạn điều tra mật đạo sơn phỉ ở đây, Cố Quân thầm thở phào, ngoài mặt vẫn nghiêm túc căng thẳng cấp cho y một toán tướng sĩ Huyền Thiết doanh, dặn dò cẩn thận sơn phỉ lọt lưới.

Thấy y đi khỏi, Cố Quân mới nói với huyền kỵ bên cạnh: "Tìm hai người đi xem chừng, nếu tứ điện hạ về quá nhanh, thì kiếm cho y chút việc để làm, đừng để y tới đây."

Huyền kỵ lĩnh mệnh mà đi, Cố Quân lúc này mới thu tầm mắt lại.

Y nhìn quét đội ngũ sơn phỉ bắt được từ đầu đến chân, trong ánh mắt có chút âm trầm mà bình thường không có: "Ta chỉ có một câu hỏi, mấy cái hang chuột chũi quý địa có bao nhiêu lối ra vào? Thỉnh chư vị thức thời một chút, thế này đi, bắt đầu từ người ở phía Tây nhất, không hé răng thì chém đầu tại chỗ, người phía trước nói xong, phía sau có thể bổ sung, bổ không ra cái gì mới cũng xin lỗi luôn, ai xếp hàng trước còn có thể được chút lợi – bắt đầu đi, đếm ba tiếng, không nói thì chém, nói bậy bạ cũng chém."

Chúng sơn phỉ đều sợ ngây người vì An Định hầu còn phỉ hơn cả phỉ này.

Huyền kỵ phụng mệnh thẩm vấn mặt không biểu cảm bắt đầu hỏi từ người đầu tiên, người đầu tiên theo bản năng nhìn ngang liếc dọc, phân vân chưa quyết.

Cố Quân không chút do dự làm động tác chém, cát phong nhận trong tay huyền kỵ theo đó mà hành động.

Huyền kỵ bình thường chỉ biết giết người, chưa từng nuôi khỉ, cũng không nghiên cứu việc chém đầu, cát phong nhận xoay một vòng trên cổ sơn phỉ, bất hạnh kẹt trong khớp xương cổ, đầu sơn phỉ kia nửa liền nửa đứt, yết hầu vừa vặn chưa đứt, tiếng kêu thảm thiết làm lũ chim xa gần trong núi cùng sợ xù lông lên.

Huyền kỵ híp mắt, tay kéo một phát, hung tợn tăng lực, mới kết liễu kẻ xúi quẩy nọ.

Máu như địa mạch sơn tuyền phun trào ra, bắn đầy vào những kẻ bên cạnh, sơn phỉ thứ hai run lẩy bẩy như một cái hộp vàng quá tải, trong đầu trống rỗng, run rẩy chỉ phía sau nói: "Ở, ở đó có một..."

Cố Quân cười gằn: "Thừa lời, ta không nhìn thấy chắc?"

Thế là cái đầu người thứ hai cũng theo đó rơi xuống đất.

Sơn phỉ thứ ba bị thảm tượng nửa cái đầu vừa rồi dọa vãi đái, ngã phịch xuống đất, hai tay ôm đầu, chỉ sợ đao phủ vận hắc giáp sốt ruột chém thẳng xuống, một hơi khai hơn chục lối ra vào của mật đạo, ánh mắt kẻ xếp sau sắp bắn thủng cả lưng hắn.

Có tên này mở đầu, tiếp sau quá đơn giản, là sống hay chết một con đường, dù sao mình giữ bí mật cũng vô dụng, người sau rồi sẽ nói ra, khai sớm giữ mạng lại mới là đúng đắn.

Cố Quân ngoài mặt tỉnh rụi, trong lòng lại thực sự hơi chấn kinh vì bộ rễ khổng lồ của bọn sơn phỉ Nam Cương, số cửa ra vào đám sơn phỉ này khai có một số Lâm Uyên các đã thăm dò được – nếu không, dù là Huyền Thiết doanh, cũng không thể nửa đường chặn được lũ chuột chũi này dễ dàng như vậy, nhưng còn có nhiều hơn, ngay cả Lâm Uyên các cũng chưa từng biết.

Tướng sĩ Huyền Thiết phía sau y im lặng rời đi, lần lượt nghiệm chứng số cửa ra vào này, canh chừng mỗi một cửa mật đạo. Chưa đến một nén nhang, chúng sơn phỉ đã như đánh trống chuyền hoa(1), khai sạch các mật đạo rộng rãi dưới lòng đất nơi đây, ngay cả mẩu vụn cũng không sót.

Chớp mắt, đóa "hoa" chết người này chuyền đến trước mặt kẻ đầu têu sự việc, phỉ thủ Tĩnh Hư.

Tĩnh Hư đời này, oanh oanh liệt liệt từ trong đống người chết giết ra một đường máu mà chiếm núi làm vua, tài hoa chưa thấy, đảm khí và tâm ngoan thủ lạt thì không thiếu, thấy mũi đao bức đến trước mắt, dưới đất máu chảy thành sông, hắn hít sâu một hơi, thẳng lưng lên, biến một hơi mình ủ nhiều năm thành xương chống trên người, căng đôi mắt tam giác nhìn chằm chằm Cố Quân đang thong thả bước đến trước mặt.

Tĩnh Hư: "Ta trước kia chỉ từng nghe người ta nói Cố đại soái phong hoa vô song, không ngờ tra tấn bức cung cũng rất có thủ đoạn, thật đúng là nghề nhiều không nặng người."

"Không cần nịnh bợ," Cố Quân ngoài cười trong không cười nói, "Đánh trận chính là hoạt động chém người, ta một không nhốt ngươi vào phòng tối, hai không bỏ lên giường đinh, ba không mời ngươi ngồi ghế hùm, bốn chữ 'tra tấn bức cung' thật sự lấy làm hổ thẹn. Nếu ngươi không phản đối, thì đi theo làm bạn với chúng đi."

Khóe mắt Tĩnh Hư giật giật: "Mật đạo này tổng cộng sáu mươi bốn lối ra vào, họ đã khai hết một lần, mấy kẻ vô dụng đằng trước rõ ràng đã bắt đầu nói bậy nói bạ, thứ cho ta ngu dốt, không biết Cố đại soái có dụng ý gì."

"An toàn thôi, không có dụng ý gì hết," Cố Quân cười nói, "Vạn nhất có cá lọt lưới chưa khai ra thì sao? Ngươi muốn khuyên ta bớt chém đi à? Dù gì các ngươi cũng đông, yên tâm đi, chém không hết đâu."

Tĩnh Hư: "..."

Cố Quân: "Chúng đã lấy ngươi làm đầu, chắc hẳn ngươi còn biết chút việc khác, chi bằng nói mấy việc ta chưa từng nghe đi?"

Tĩnh Hư cắn chặt răng, nhớ tới Phó Chí Thành đầu sỏ gây nên hết thảy, càng thêm hận không thể lột da rút gân tay ấy, nghiến răng nghiến lợi nói: "Nếu ta nói ra chuyện Phó Chí Thành mua lậu tử lưu kim mưu phản, Đại soái có hứng thú nghe không?"

Cố Quân dần thu lại nét cười lạnh băng trên mặt: "Nếu ta không biết việc này, sao có thể đoán ra các ngươi sẽ to gan lớn mật chạy tới kho quân nhu Tây Nam tặng cơm? Cho ngươi một cơ hội nữa, nói về việc ta không biết."

Cát phong nhận Huyền Thiết dựng thẳng bên tai Tĩnh Hư, hơi nhúc nhích là có thể cảm giác được sự lạnh lẽo của lãnh thiết. Hắn cũng biết, chỉ cần một luồng hơi nước nhỏ, là cát phong nhận sẽ cắt đầu hắn như cắt rau, Cố Quân kia lãnh khốc vô tình, khăng khăng cố chấp, cái đầu tốt đẹp của hắn sẽ như mọi kẻ bình thường khác, rơi xuống đất, dính đầy bụi, không có một chút đặc dị.

Tĩnh Hư: "Ngươi muốn biết cái gì?"

Cố Quân khoát tay, cát phong nhận cách Tĩnh Hư mấy tấc: "Ta muốn biết sau khi tử lưu kim Nam Dương nhập cảnh, kẻ liên hệ với ngươi là ai, kẻ bảo ngươi giấu tử lưu kim, tích trữ vũ khí là ai, kẻ bày mưu tính kế, bảo ngươi dùng mấy con diều kia lừa ta, thừa cơ chiếm kho quân nhu Tây Nam là ai?"

Tĩnh Hư cắn chặt răng.

"Nếu ta là ngươi, ta sẽ không liều mình che chở kẻ đó," Cố Quân thình lình tiến lên một bước, hạ giọng nói, "Nhìn thử mật đạo sáu mươi bốn lối ra phía sau ngươi đi đạo trưởng, đám các ngươi lúc ăn no rửng mỡ chui vào, Đại La thần tiên đến cũng không thể quật ba thước đất mà lôi các ngươi ra... Là ai xúi bẩy ngươi hội tụ lực lượng ba đỉnh núi lớn lại, tiện cho chúng ta một lưới bắt hết, hửm?"

Cố Quân là cao thủ đổi trắng thay đen, cả đời có ba sở trường: đánh hay chữ tốt giỏi nói láo – chuyện vô lý vào miệng y đều giống như thật, huống chi nghĩ kỹ lại thì lời y nói vậy mà không vô lý chút nào, khiến Tĩnh Hư toát hết mồ hôi lạnh.

Y ở bên này thẩm vấn phỉ thủ tốn nhiều thời gian hơn là Trường Canh tìm người, không bao lâu, Trường Canh đã dẫn người quay lại, chỉ là chưa qua đỉnh núi đã bị tướng sĩ Huyền Thiết doanh tận chức tận trách ngăn cản, tiểu tướng sĩ kia thành thật học vẹt nói với Trường Canh: "Điện hạ, Đại soái bảo người hãy ở đây nghỉ ngơi một lúc trước."

Trường Canh không bất ngờ lắm, nghe thế chẳng hỏi lấy một câu, ngoan ngoãn ở tại chỗ chờ đợi.

Mấy năm nay, tuy Trường Canh không chính mắt gặp Cố Quân, nhưng đã theo Chung lão tướng quân nghiên cứu mỗi một trận Cố Quân từng đánh, nghiên cứu mỗi một thay đổi chủ trương từ khi y được phong hầu ở tiền triều đến bây giờ, thậm chí chữ của y – nếu Trường Canh hiện tại vào thư phòng Cố Quân, tùy tiện lấy một bảng chữ cũ, có thể đại khái nhìn ra đó là Cố Quân bao nhiêu tuổi viết.

Việc này có thể giúp hiểu Cố Quân hơn xa cả ngày đi cùng nghe y bốc phét mình là "một nhành hoa Tây Bắc".

Lúc nãy ánh mắt hơi chần chừ của Cố Quân đảo qua, Trường Canh liền biết y định bức cung, hơn nữa rất không muốn để mình nhìn thấy, cho đến hôm nay, Cố Quân vẫn theo bản năng giữ gìn "hình tượng từ phụ" đầy nguy cơ trước mặt Trường Canh.

Trường Canh không có dị nghị với việc này, cực kỳ quý trọng mà hưởng thụ chút cưng chiều không nói ra miệng của tiểu nghĩa phụ.

Phía sau Trường Canh có hai người đi theo, chính là Cát Bàn Tiểu và Tào Nương Tử năm đó từ Nhạn Hồi tiểu trấn cùng vào kinh với y – hiện tại tên là Cát Thần và Tào Xuân Hoa.

Cát Thần thời thiếu niên là một đứa nhóc béo ú đáng yêu, hiện giờ lớn lên lại không thể nói là béo, vóc dáng cao to chắc khỏe, chỉ nhìn cơ thể này, có thể tính là "đại hán vạm vỡ"; tiếc thay cái đầu trên cổ như gắn nhầm, bên trên là khuôn mặt tròn nhỏ vừa trắng vừa non, má có hai gò da mỏng thịt mềm rung rung, như đậu hũ non bọc cái mũi nhỏ cái miệng nhỏ và đôi mắt nhỏ, trong thất khiếu không đâu không toát ra sự vô hại chất phác.

Tào Xuân Hoa thay đổi nhiều hơn, vô luận trong lòng gã nghĩ thế nào, thân bất do kỷ phát triển khung xương nam tử trưởng thành, không còn vẻ sống mái khó phân thiên y vô phùng thời thiếu niên, gã cũng chỉ đành bất đắc dĩ thừa nhận mình thật sự là một xú nam nhân, thay lại nam trang, có điều vẫn chưa chịu từ bỏ mà lấy đại danh là "Tào Xuân Hoa" – trừ chính gã ra chắc chẳng ai thấy "Xuân Hoa" thì cao minh hơn "Nương Tử" ở chỗ nào.

"Sao còn chưa cho qua?" Tào Xuân Hoa thò đầu hỏi, "Đã nhiều năm chưa được gặp Hầu gia nhà ta, mấy ngày qua nhớ đến ngủ không yên luôn."

Trường Canh u ám nhìn gã một cái, im lặng ghi một khoản nợ cho Tào Xuân Hoa, chờ y từ miệng tên này gom đủ năm mươi lần mấy lời hoa si như kiểu "Hầu gia nhà ta", nhất định phải tẩn cho gã một trận mới được.

Tào Xuân Hoa không hề hay biết, lại hỏi: "Đúng rồi đại ca, lần này huynh về kinh, sẽ phong vương tập tước chứ? Ta nghe nói tiên đế sớm chuẩn bị xong xuôi phủ Nhạn Bắc vương cho huynh rồi, vậy về sau huynh sẽ dọn sang đó hay vẫn ở hầu phủ?"

Trường Canh hơi sửng sốt, cười khổ nói: "Việc đó cũng phải xem Hầu gia có muốn ta đi hay không."

Hiện tại hồi tưởng, Trường Canh đã không nhớ nổi mấy năm trước mình đập nồi dìm thuyền rời khỏi hầu phủ, rời khỏi Cố Quân, dũng khí là từ đâu đến, không gặp thì thôi, lần này bất ngờ đụng mặt Cố Quân ở Thục Trung, y quả thực như đụng phải túc mệnh, đánh chết cũng khó mà tích tụ sự quyết tâm năm đó.

Trần Khinh Nhứ bảo y "bình tâm tĩnh khí, bớt vọng niệm", cố nhiên có tác dụng nhất định đối với khắc chế Ô Nhĩ Cốt phát tác, nhưng hỉ nộ ai lạc đều liền nhau, khắc chế oán hận và phẫn nộ, hỉ lạc tự nhiên cũng biến thành hầu như không thấy, lâu dần con người sẽ như một gốc cỏ cớm nắng – tuy miễn cưỡng chưa chết, lá cây cũng trắng bệch đi.

Trường Canh cho rằng mình sắp thành Phật rồi.

Mãi tới khi gặp lại Cố Quân.

Mặc dù đi theo xe Cố Quân mệt nhọc chưa tính, còn thêm cả ngày không phải đối phó phản quân thì là đối phó thổ phỉ, trong lòng Trường Canh lại luôn vô cớ ngập tràn niềm vui một cách vô lý – là niềm vui đầy sức sống, chờ mong và sốt ruột, giống như sáng sớm vừa mở mắt, liền biết hôm nay có chuyện tốt sắp xảy ra.

Dù rằng y biết không có chuyện tốt đẹp gì, Ô Nhĩ Cốt cũng vẫn y nguyên mỗi ngày như mộng đến thăm y.

Giả như phong vương, Cố Quân sẽ giữ y lại chứ?

Lý trí nghĩ, Cố Quân nhất định giữ, hầu phủ chí ít sẽ sẵn lòng thu lưu y đến khi chính thức thành gia, nếu y mãi không thành gia, chưa biết chừng có thể dày mặt ở lại mãi, ý nghĩ này quá tốt đẹp, Trường Canh dốc sức của chín trâu hai hổ mới kiềm chế được mình không cười ngu.

Họ chờ chừng hai khắc thì Cố Quân ra.

Mật đạo trên núi như tấm mạng nhện khổng lồ, bốn phương thông suốt, móc nối thành vòng, Cố Quân tổng cộng chém hơn bốn mươi cái đầu, loại bỏ mấy lời nói nhảm của một số kẻ sợ phát khóc, cuối cùng tìm được lối vào của sáu mươi bốn mật đạo.

Cát Thần nghe thế hết sức kinh ngạc: "Cái gì? Hai anh em ta ở trên núi làm dã nhân hơn nửa năm, mới tìm được hơn ba mươi lối vào, sao Hầu gia vừa đến đã thẩm ra hơn sáu mươi!"

"Nếu không phải các ngươi mò đến đáy, ta cũng chẳng tiệt được chúng, càng khỏi nói tới thẩm vấn." Cố Quân nhìn Cát Thần một cái, kiềm chế giây lát, rốt cuộc không nhịn nổi, vẫy tay gọi, "Lại đây."

Cát Thần cho rằng Đại soái có việc gì quan trọng muốn phân phó, vội hăm hở xáp tới, nào ngờ Cố đại soái đột nhiên thò tay véo mặt gã một phát.

Cố Quân muốn làm như vậy từ lâu rồi, tật xấu ngứa tay của y sớm đã di căn, nhìn thấy thứ có xúc cảm liền không nhịn được muốn véo.

"Đã quá!" Cố Quân véo một hồi, chưa thỏa mãn mà nghĩ, "Làm sao hay nhỉ?"

Cát Thần: "..."

Tào Xuân Hoa mắt hổ ẩn tình, hâm mộ đến mòn mắt, thẽ thọt nói: "Hầu gia nhất bên trọng nhất bên khinh, sao không véo mặt ta?"

Lời này gã không dám đến trước mặt Cố Quân nói, bởi vậy chỉ có Trường Canh nghe thấy, Trường Canh nghĩ: "Được, bốn mươi tám lần."

Tào Xuân Hoa tự dưng ớn lạnh rùng mình, nhìn xung quanh một chút, trong lòng đột nhiên trỗi lên dự cảm xấu khi tới gần nguy hiểm.

Cố Quân theo khẩu cung của Tĩnh Hư, vẽ ra mật đạo của vùng núi này, sau đó sai người xông khói từ cửa mật đạo, xông ba ngày, biến đại sơn thành ống khói, lũ dơi, chuột và độc trùng lớn nhỏ ở đậu bên trong đều dắt díu gia khẩu chạy ra, nhưng thủy chung không thấy người Cố Quân muốn bắt.

Mấy tướng sĩ xung phong thòng dây vào mật đạo tìm kiếm, lục soát sáu mươi bốn lối ra vào từ sớm đến khuya, nhưng ngay cả sợi tóc cũng chẳng tìm được, chỉ khiêng ra bộ sa bàn mà Tĩnh Hư nhắc đến.

Đến ngày thứ tư, thủ hạ tới báo, họ tra xét bên cạnh Khối Lan Đồ, quả thật tìm được một kẻ khả nghi – là một khách khanh Khối Lan Đồ nuôi, tên là Vương Bất Phàm, vừa nghe đã cảm thấy là tên giả.

Vị khách khanh này bình thường không hay ra ngoài gặp người, nhưng mấy tâm phúc của Khối Lan Đồ đều biết. Khối Lan Đồ rất sùng bái và tín nhiệm người này, trong phủ dọn riêng một viện cho hắn, phái tiểu tư tâm phúc và nha hoàn xinh đẹp hầu hạ.

Cố Quân: "'Bất Phàm' này hiện đang ở đâu?"

Thủ hạ trả lời: "Chạy rồi, hạ nhân trong viện thần không biết quỷ không hay bị độc chết, lúc người trong phủ phát hiện thì thi cốt cũng lạnh ngắt rồi."

"Đại soái," Lúc này, lại một kỵ binh đến hồi báo, "Chúng ta đi tra xét mấy điểm giấu tử lưu kim chuyển vận mà Tĩnh Hư khai ra, nhưng người đi lầu trống, ngay cả tờ giấy cũng không sót lại."

Cố Quân im lặng lần chuỗi tràng hạt cũ, khách khanh thần bí bên cạnh Khối Lan Đồ, "Nhã tiên sinh" trong miệng Tĩnh Hư... Hết thảy thoạt nhìn tựa hồ đều là ngẫu nhiên, nhưng Cố Quân có trực giác không cách nào nói rõ, y luôn cảm thấy trong đây dính dáng âm mưu rất lớn.

Những người âm thầm một tay khuấy tung thời cuộc Nam Cương này xuất hiện thần không biết quỷ không hay, sau đó lại biến mất không một chút dấu vết, thân phận thành câu đố, mục đích cũng thành câu đố.

Nhìn như là địch nhân, nhưng lại giống như trong minh minh giúp y đao sắc chặt đay rối trị hết đám người này.

Cố Quân phần nào không nghĩ ra, rốt cuộc là mình phá hoại cục của người khác, hay đã chui đầu vào cục của người ta.

Người mà Cố Quân quật ba thước đất muốn tìm, lúc này đang ở trong một con thuyền hàng nho nhỏ không có gì đặc biệt trên mặt biển Nam Dương.

Nhã tiên sinh đã thay phục sức Tây Dương rườm rà, cúi đầu xem một tấm bản đồ. Vạn dặm giang sơn mênh mông của Đại Lương nằm cả trên bản vẽ da dê nho nhỏ này, hắn cầm bút chu sa, vẽ một vòng màu đỏ nho nhỏ ở vùng Nam Cương.

Tính cả nét này, trên tấm bản đồ cũ ấy đã có ba vòng tròn đỏ, hai vòng khác lần lượt ở Bắc cương và Đông Hải.

Ngòi bút của "Nhã tiên sinh" lưỡng lự chốc lát trên bản đồ, cuối cùng dừng ở lối vào con đường tơ lụa vùng Tây bộ.

"Tính đến hôm nay, cục của chúng ta đã bố trí tốt rồi." Nhã tiên sinh cười, "Còn lại một kíp nổ, chỉ cần đốt nó, là có thể 'Uỳnh' một tiếng-"

Vương Bất Phàm trông như người Trung Nguyên tiếp lời: "Đốt đại hỏa Trung Nguyên."

Hai người nhìn nhau cười, giơ chén rượu lên cụng một tiếng thanh thúy.

Nam Cương xảy ra chuyện lớn như vậy, thiên tử trong triều đương nhiên tức giận, thúc giục Cố Quân mau chóng áp giải phỉ thủ và phản tướng về kinh.

Cố Quân đành phải tạm thời buông xuống mối nghi ngờ trong lòng, khởi hành về phương Bắc.

Có điều nghĩ tới đứa con nuôi bảo bối rốt cuộc đã chịu về cùng, hầu phủ lại sắp náo nhiệt, y lại có chút chờ mong với việc "về kinh".

"Nó lớn lên đã đáng yêu hơn," Cố Quân cảm thấy rất được an ủi, lén nói với Thẩm Dịch, "Dù cho đột nhiên biến thành hiểu chuyện như vậy, ta cũng có phần không quen lắm."

"Hạ tiện." Thẩm Dịch lời ít ý nhiều mà bình luận, sau đó đúng như ý nguyện trúng một phát roi.

Thẩm Dịch lại hỏi: "Đúng rồi, bắt Phó Chí Thành rồi, ngươi định làm thế nào?"

Cố Quân thôi cười đùa, trầm mặc giây lát rồi nghiêm mặt nói: "Quý Bình, kỳ thực mấy năm nay ta thường xuyên nghĩ, ngươi đi theo ta, phải chăng hơi lãng phí tài hoa."

Thẩm Dịch im lặng nhìn y một cái.

Cố Quân: "Ngươi thông kim bác cổ, văn có thể vào Hàn lâm, võ có thể an một phương, ở Linh Xu viện và Huyền Thiết doanh chìm nhiều năm như vậy, cũng đến lúc xuất đầu..."

Dù rằng Trường Canh đã phân tích, nhưng chợt nghe y nói thế, trong lòng Thẩm Dịch vẫn xúc động.

Hai người vừa là đồng bào vừa là bằng hữu, tuy rằng là quá mệnh chi giao có thể gửi gắm vợ con, nhưng cái miệng chó của Cố Quân chẳng bao giờ khạc ra nổi ngà voi, chưa từng thẳng thắn bày tỏ tán thưởng ngay trước mặt y.

Vành mắt Thẩm Dịch nhất thời hơi nóng lên: "Tử Hi, kỳ thực ngươi không cần..."

"Vả lại ta cũng rất áy náy," Cố Quân lại thành khẩn bổ sung, "Ngươi nói một mỹ nam tử trời sinh cha mẹ nuôi như ta, luôn ở bên cạnh chặn hoa đào của ngươi, hại ngươi những năm qua ế chỏng ra, thật là... chậc, quá có lỗi luôn."

Thẩm Dịch: "..."

"Mỹ nam tử trời sinh cha mẹ nuôi" này nói xong định mức một ngày hai câu đứng đắn, chuẩn bị tiến vào nội dung nhảm nhí, Thẩm Dịch đành phải qua loa thu lại một bầu tâm sự mắc trong họng, "Hừ" một tiếng, thúc ngựa chạy luôn.

Trường Canh không xa đó nhìn thấy thế vội vàng thừa cơ chạy tới, chiếm vị trí Thẩm Dịch, song hành với Cố Quân: "Sao Thẩm tướng quân lại nổi giận chạy mất rồi?"

Cố Quân tựa tiếu phi tiếu sờ sờ mũi.

Trường Canh nhìn thấy khinh cừu giáp của y dính một chiếc lá, liền giơ tay gỡ giúp, cẩn thận nói: "Nghĩa phụ, giáp nhẹ hơn cũng ngoài bốn mươi cân đấy, tháo ra cho thoải mái?"

Cố Quân không phản đối, để Trường Canh giúp mình tháo khinh cừu giáp, nhất nhất gỡ ra, người quá gần nhau, hai con ngựa không biết hợp nhãn thế nào mà lại quấn vào nhau.

Cố Quân dùng một tay đẩy đầu ngựa của mình, răn: "Đừng giở trò lưu manh!"

Giáp trên tay y mới tháo được một nửa, hất nhẹ như vậy, suýt nữa bay khỏi cổ tay, còn kéo theo một thứ trong tay áo.

Trường Canh tay mắt lanh lẹ đón được, phát hiện đó lại là một cây sáo trúc nhỏ làm ẩu.

Đánh trống chuyền hoa là trò chơi của người Trung Quốc, cách chơi là vài hoặc vài chục người ngồi thành vòng tròn, một người cầm hoa (hoặc vật nhỏ), một người khác quay lưng lại hoặc bịt mắt đánh trống (hay những vật tạo được tiếng), mọi người sẽ chuyền hoa tới khi trống kết thúc, lúc này hoa ở trong tay ai thì người đó phải lên biểu diễn.

Ban đầu, hai người đều chưa kịp phản ứng.

Trường Canh hoang mang nghĩ: "Y mang cây sáo quèn trên người làm gì?"

Cố Quân thì còn đang bực bội: "Thứ gì bay ra vậy?"

Sau đó tầm mắt hai người đồng thời dừng trên cây sáo trúc dãi dầu sương gió đã bị nứt phần đuôi.

Giây lát sau, Trường Canh đột nhiên cảm thấy cây sáo này hơi quen mắt, Cố Quân thì như bị sét đánh, sực nhớ ra – vật này lai lịch bất chính!

Hai người cơ hồ đồng thời ra tay, Cố Quân chộp lấy, Trường Canh nắm chặt tay theo bản năng, hai bàn tay cầm một cây sáo trúc giằng co nhau.

Trường Canh hỏi vẻ vô tội: "Không thể xem ạ?"

Cố Quân: "Có gì đẹp mà xem?"

Nói xong Cố Quân rút mạnh cây sáo trúc nhỏ khỏi tay Trường Canh, giấu đầu hở đuôi vội vã nhét vào tay áo.

Trường Canh hiếm khi thấy y chột dạ, không tự chủ được nhớ tới cô bé con khóc muốn đứt ruột nhà Diêu đại nhân Giang Nam bốn năm trước, lờ mờ hiểu được điều gì, lại không dám tin lắm, thế là bóng gió hỏi: "Là người khác tặng ạ?"

Cố Quân không đỏ mặt không thở mạnh nói láo: "Tự làm."

"À," Trường Canh chớp chớp mắt, lát sau lại như cố ý như vô tình nói, "Tây Vực Lâu Lan cũng có trúc ạ?"

Cố Quân: "..."

Trường Canh khẽ chớp mắt, làm đôi mắt y trông hơi lấp lánh, kế đó cười nói: "Nghĩa phụ thủ công kém quá, hay để hôm nào con làm cho người cây khác nhé?"

Cố Quân bị chặn họng á khẩu không trả lời được, xấu hổ muốn chết, cứ cảm thấy tiểu tử kia đã nhận ra, cố ý sỉ nhục y, nhưng do chuyện trộm sáo thật sự rất mất mặt, y không tiện nổi giận, đành phải cụp cái đuôi thỏ của anh hùng khí đoản mà chạy mất.

Trường Canh không đuổi theo, ở tại chỗ nghĩ lại việc này một lúc lâu, không nhịn được hơi buồn cười, lại sắp xếp một lần từ đầu đến cuối chuyện Cố Quân sáng sớm lén mò tới viện của trẻ con trộm sáo trúc, tức khắc tâm hoa nở rộ một bó to, sinh cơ bừng bừng nở hơn nửa ngày, cho đến khi mặt trời ngả về Tây, mới chậm rãi yên lại.

Hương thơm chưa tan trong lòng y đẩy Ô Nhĩ Cốt vào một góc bé tí, đợi đến khi hoa lạc thủy lưu hồng(1), phía dưới liền sinh ra một ý nghĩ như hạt giống, đâm ra ngàn vạn cành cây.

Trường Canh nghĩ: "Tại sao y vẫn giữ lại thứ đó?"

Giữ lại, thỉnh thoảng sẽ lấy ra xem chứ?

Tiểu nghĩa phụ lúc nhìn nó có nhớ đến mình không?

Việc này phải chăng có nghĩa là Cố Quân đối với y... so với bản thân tưởng tượng, càng tình sâu nghĩa nặng hơn?

Y phải chăng có thể được một tấc muốn tiến một thước mà gần gũi tiểu nghĩa phụ hơn?

An thần tán của Trần cô nương trong túi thơm thoang thoảng bay ra, Trường Canh nhìn chằm chằm bóng lưng Cố Quân, chừng như bị bốn chữ "thuận theo tự nhiên" vang vọng trong đầu đốt tan. Y không dám vọng tưởng thái quá, nhưng bất an lo sợ ôm một chút phỏng đoán như vậy, không khỏi ngứa ngáy khó chịu, tiêu hồn thực cốt.

Con đường áp giải khâm phạm vốn nên vừa dài vừa chán, tiếc thay không biết là Huyền Thiết doanh đi nhanh hay là trong lòng Trường Canh chậm chạp, rét đậm chưa đến mà họ đã về tới kinh thành rồi.

Mà lúc này, vụ án Nam Cương mưu nghịch chấn động triều dã oanh oanh liệt liệt nổ ra sâu trong đế đô.

Tôn Tiêu dở sống dở chết về kinh, do hoảng sợ mà chớp mắt đã ốm liệt giường, chính Hoàng đế Long An cũng không liệu được, hắn chẳng qua mượn thủ đoạn nhỏ thi hành lệnh kích trống, mà Đề đốc Tây Nam kia thực sự dám tạo phản, vừa sợ hãi vừa tức giận, ra lệnh tra rõ.

Bởi vụ án này liên lụy rất rộng, Lại bộ Hình bộ Binh bộ Đại Lý tự... Thậm chí Đốc sát viện trên dưới, đều căng thẳng theo, ngay cả Cố Quân chẳng dễ gì về kinh nghỉ ngơi vài hôm cũng không được yên tĩnh, liên tục bị triệu vào cung hỏi han.

Vụ án Đề đốc Tây Nam Phó Chí Thành cấu kết sơn phỉ, sát hại mệnh quan triều đình, tư vận tử lưu kim, ý đồ mưu phản đã không thể thay đổi, phỉ thủ và thủ lĩnh phản đảng trước sau bị phán tử hình, liên lụy gia quyến.

Mà Hoàng đế Long An thiết huyết khốc lệ vẫn chưa chịu từ bỏ ý định, tình thế nhanh chóng không thể vãn hồi, như nhổ củ cải lôi cả đất lên, liên lụy đến lục bộ trung ương – những người hay qua lại với Phó Chí Thành, từng nhận hối lộ, mở cửa sau cho hắn, thậm chí lão thần năm đó đề cử Phó Chí Thành thượng vị, không một ai chạy thoát, tất cả đều bị liên lụy.

Lớp hạ ngục, lớp bãi quan, nhất thời trong triều ai nấy đều lo sợ, cả kinh thành đều bị đè nén trong sự nghi kỵ âm trầm.

Trời âm u mãi đến cuối năm, một trận tuyết lớn mới rào rào rơi xuống.

Năm ấy, chào cũ đón mới, An Định hầu giao nộp Huyền Thiết hổ phù, thi hành lệnh kích trống đã thành định cục, Binh bộ nhanh chóng cử người chuyên trách đến tứ phương làm giám quân.

Đến lúc này, Hoàng đế Long An đã thu gom quân quyền hết mức, Vũ đế năm xưa cũng chẳng theo kịp.

Trong cả đợt cuối năm, việc duy nhất cho Lý Phong yên tâm, có lẽ chính là sự thức thời của Cố Quân.

Đúng như Trường Canh suy đoán, Hoàng thượng được nể mặt, quả nhiên cũng cho Cố Quân đủ thể diện, thật sự thăng Thẩm Dịch lên hai cấp liền, hạ chỉ làm Đề đốc Tây Nam, đồng thời phong tứ điện hạ Lý Mân làm Nhạn Bắc vương.

Ngày mười sáu tháng Giêng, Thẩm lão gia tử mượn danh chúc thọ An Định hầu, kéo hai cỗ xe to chất đầy quà đến chặn cửa.

Thẩm lão gia tử đã trí sĩ nhiều năm, dưới gối chỉ có một tên không cầu tiến như Thẩm Dịch, Thẩm Dịch từ nhỏ đã là một quái thai, đọc sách tập võ đều không tệ, thế nhưng chẳng chịu si mê loại nào, chỉ thích ru rú trong viện hí hoáy hỏa cơ, Thẩm gia từ thiết khôi lỗi giữ nhà hộ viện đến đèn măng-sông lớn nhỏ treo trong phòng, không thứ nào chưa bị y phá hoại.

Mặc dù Thẩm lão gia tử một lòng tin theo Lão Trang, xem trọng vạn vật tùy tâm, nhưng chắc là đạo hạnh chưa đủ, trong nội tâm vẫn có chút kỳ vọng vào đứa con này. (Lão Trang là Lão Tử và Trang Tử)

Cố Quân sáng sớm bị gọi vào cung nghị sự, đã đi rồi, tuy y thường niên không ở kinh thành, nhưng dẫu sao quyền cao chức trọng, quà biếu không ít, hầu phủ không có nữ chủ nhân, quà cáp lễ tết qua lại đều do một tay lão quản gia lo liệu, nghe nói là quà của Thẩm lão gia tử, Trường Canh đặc ý theo lão quản gia ra đón, tò mò dòm thử.

Bản thân Thẩm lão gia tử kia cũng là một đóa hoa lạ, thiếu niên ham chơi, trung niên vẫn chơi, về già chơi mệt rồi, bắt đầu cầu tiên vấn đạo, chẳng hỏi việc đời, bình sinh thích luyện đan và ủ rượu, trong số quà cáp tặng Cố Quân, vàng bạc châu báu, lụa là gấm vóc, đồ cổ trân phẩm... nhất loạt không có, một hơi tặng hai xe rượu, tất cả đều là tự ủ.

Trường Canh đang dở khóc dở cười, vừa ngẩng đầu lên liền nhác thấy Đề đốc Tây Nam nóng sốt mới ra lò hùng hục phóng ngựa tới.

Thẩm lão gia tử hoàn toàn tự chủ trương, chờ Thẩm Dịch biết chuyện đuổi theo thì đã muộn – Thẩm Dịch nhìn xe rượu ngay cửa hầu phủ, khóc không ra nước mắt mà giấu mặt vào cổ ngựa, bụng nghĩ: "Mất mặt quá đi!"

Cố Quân chập tối trở về, gặp người nhà dỡ rượu từ trên xe xuống, Thẩm Dịch mặt mày xanh xám đứng ở một bên.

Không biết Hoàng thượng đã nói gì với y, Cố Quân thần sắc thản nhiên – chỉ cần y về đến hầu phủ, bình thường luôn rất vui vẻ, lúc vào cửa không cười, cũng không đùa giỡn với thị vệ canh cửa, quá nửa là thật sự rất mất vui rồi.

Cố Quân: "Sao ngươi lại tới đây?"

Thẩm Dịch hất cằm ý bảo y nhìn xe rượu chết tiệt kia: "Lão đầu nhà ta đem đến hối lộ ngươi, cảm tạ ngươi nâng đỡ ta."

Cố Quân hít thử, tiến lên xách một vò, trực tiếp xé lớp dán, đứng ở cửa ngửi ngửi, uống một ngụm ngay tại chỗ.

"Nghĩ cái gì có cái đó, lão gia tử nhà ngươi tự ủ nhỉ, ta ngửi qua là biết ngay." Cố Quân cảm thán, "Vừa hay, ngươi đến rồi thì đừng đi nữa, dù sao chưa hết tháng Giêng là hai ta sẽ phải đi hai ngả, đến lúc đó trời nam đất bắc, chưa biết ngày tháng năm nào mới được gặp nhau, hôm nay uống chút rượu với ta đi."

Thẩm Dịch đang có ý này, thống khoái đồng ý luôn.

Cố Quân lại hỏi: "Trường Canh đâu?"

"Dưới bếp ấy."

Cố Quân dừng bước: "Cái gì?"

"Y nhất định muốn tự mình nấu mì cho ngươi," Thẩm Dịch cười nói, "Vương bá ngăn cản cả buổi không được. Ta thấy Quận vương điện hạ của chúng ta thật tài ba, địch tiền có thể áp trận, hạ trường biết châm cứu, rỗi rãi có thể tự may hà bao, ngay cả trọng địa nhà bếp cũng như bước trên đất bằng... Nếu là một cô nương, dù kéo hết Huyền Thiết doanh đến cũng không ngăn nổi đám người cầu thân chặn trước cửa nhà ngươi đâu."

Cố Quân nhíu mày: "Quân tử xa nhà bếp, hồ đồ quá!"

Thẩm Dịch thấy sắc mặt y khác thường, hỏi: "Sao vậy, Hoàng thượng gọi ngươi vào cung nói gì?"

Cố Quân im lặng giây lát, đoạn hạ giọng: "Hoàng thượng muốn xử trí Phụng Hàm công."

Thẩm Dịch giật mình: "Cái gì?"

Phụng Hàm tiên sinh họ Trương, tự Phụng Hàm, làm thủ tọa Linh Xu viện đã mười tám năm, Thẩm Dịch năm đó khi còn ở Linh Xu viện, chính là làm việc dưới tay ông, hiện giờ ông đã sáu mươi tuổi, cả đời ở Linh Xu viện, không lập gia đình, thê thiếp con cháu nhất loạt không có, cũng không thích nam phong.

Nghe nói nha hoàn tiểu tư dâng trà trong phủ đều là bằng sắt, sinh vật sống trừ chính ông ta ra thì chỉ có một con chó già sắp xuống lỗ – chỉ là nghe đâu, đừng nói người khác, ngay cả Thẩm Dịch cũng chưa từng tới thăm, Phụng Hàm tiên sinh tính tình cổ quái, không muốn nhà có khách. Vị lão tiên sinh này dốc hết cả đời vào hỏa cơ cương giáp, trừ thời điểm Cố Quân trùng chỉnh Huyền Thiết doanh giương cờ đứng ra một lần, những lúc khác đừng nói triều chính, ngay cả người ông ta cũng chẳng buồn để ý, người vô tranh với đời như vậy, sao lại chọc giận Hoàng đế?

Thẩm Dịch: "Vì sao?"

Cố Quân: "Lão nhân gia hôm qua dâng tấu, phản đối "chưởng lệnh pháp", làm Hoàng thượng tức phát điên."

Thẩm Dịch: "Ông ấy luôn phản đối, bắt đầu từ ngày ban bố chưởng lệnh pháp vẫn chưa từng yên mà, ta nghe người cùng thế hệ nói ông ta ba ngày dâng một bản tấu, gió mặc gió mưa mặc mưa, Hoàng thượng vẫn chẳng thèm để ý, sao đột nhiên..."

Chưởng lệnh pháp là pháp lệnh hạn chế trường tý sư dân gian, lúc mới ban ra từng gây xôn xao bàn tán một thời gian, sau bị cơn sóng lớn do lệnh kích trống dấy lên nhấn chìm.

"Tính tình Phụng Hàm công... Ôi, ngươi chưa thấy bản tấu hôm trước ông ấy viết, nói chưởng lệnh pháp hạn chế không phải trường tý sư, mà là dân trí, cứ thế mãi quốc sẽ không thành quốc, chờ người Tây Dương đằng vân giá vũ đến đập cửa biên cương Đại Lương, ta thấy ông ấy thiếu mỗi chỉ mũi Hoàng thượng mắng quốc tặc thôi – kỳ thực Hoàng thượng vốn cũng không đến mức chấp nhặt với ông ta, có điều lần này chuyện Nam Cương ồn ào, làm trong lòng Hoàng thượng có khúc mắc, cả một mùa đông chưa gỡ được, lão đầu nhảy vào nòng pháo rồi."

Cố Quân dừng lại, đoạn lắc đầu tiếp tục: "Hôm nay trước khi đi, Hoàng thượng còn gọi ta lại, nói 'Trẫm tự hỏi từ khi kế vị tới nay luôn cần cù cẩn trọng, cả đêm khó ngủ yên, vì sao giang sơn chẳng ngày nào an bình' – ta còn có thể nói gì!"

Hoàng đế Long An đăng cơ vài năm ngắn ngủi, trước là huynh đệ ruột cấu kết Đông Doanh mưu phản, sau lại là đại quan biên giới cấu kết sơn phỉ làm phản, mỗi một việc đều phảng phất là sự trào phúng dữ dội, chợ đen tử lưu kim cấm suốt không ngừng càng thành tâm bệnh của hắn.

Thẩm Dịch không nói gì, cả hai sóng vai đi vào nội viện – trong lòng họ đều biết, Phụng Hàm công tuy tự tìm đường chết, song những gì ông nói không phải là không có lý.

Về sau trường tý sư dân gian bị hạn chế, từ đây chỉ dựa vào Linh Xu viện, quanh năm suốt tháng có thể làm ra mấy món kỹ thuật mới? Huống chi Linh Xu viện vĩnh viễn lấy cương giáp quân dụng làm đầu, sau này kỹ thuật dân dụng còn đường nào để phát triển?

Thẩm Dịch: "Có thể cứu được ông ấy không?"

Cố Quân ngẩng đầu nhìn không trung chìm trong ánh hoàng hôn ở cuối đế đô, thở ra khói trắng: "Không biết, ta sẽ cố hết sức."

Thẩm Dịch gật đầu, lát sau y chợt nói: "Đại soái, ta từ nhỏ lớn lên ở kinh thành, nhưng có đôi khi thật sự cảm thấy thở không nổi."

Cố Quân không nói một lời đưa vò rượu cho y.

Thẩm Dịch tu luôn bằng vò một ngụm rượu nhà tự ủ, rượu mạnh xộc lên, y vỗ vỗ lưng Cố Quân: "Đều chuẩn bị sinh nhật cho ngươi đấy, lát nữa vào đừng có đanh cái mặt."

Thế là cả hai đứng trên hành lang uốn khúc, mỗi người một ngụm mà chia hết vò rượu.

Rượu có thể giải ưu, có thể làm máu nóng lên, có thể hồng đôi má, có thể giúp người ta ném phăng việc tày trời trước mắt sau lưng, thả lỏng chốc lát.

Nhưng vào nội viện, Cố Quân vẫn giật mình.

Chỉ thấy hàng loạt thiết khôi lỗi hỏng trong hầu phủ bị Cát Thần lôi hết ra, cũng không biết gã mất bao lâu để sửa, một đám mặt đen to đùng hành động như thường, qua lại như bay, lại thêm một đám tháo giáp trụ và binh khí, xếp thành một hàng, hai tay cầm hai cây quạt tơ lụa, ở trong sân uốn éo múa ương ca – Tào Nương Tử là kẻ duy nhất bằng da bằng thịt, ăn mặc rực rỡ múa dẫn đầu.

Cố Quân: "..."

Thẩm Dịch lắc đầu cảm thán: "Thật là một thiên tài."

Cố Quân: "... Gì?"

Thẩm Dịch bá vai y nói: "Tiểu tử Cát Thần kia, thật là một thiên tài, vừa nghĩ đến năm đó hỏa cơ cương giáp đầu tiên thiên tài này xử lý là nhận từ tay ta, ta quả thực... chậc, hận không thể cướp gã đến Nam Cương."

Cố Quân: "..."

Luôn cảm thấy lời này của Thẩm tướng quân là lạ sao đó.

Trường Canh quả nhiên làm một bát mì mừng thọ cho Cố Quân, lần trước y chỉ đập một quả trứng gà, còn làm rơi vỏ vào, không ngờ sĩ biệt ba ngày phải rửa mắt mà nhìn, y xuống bếp lần nữa, trình độ quả thực không thể vơ đũa cả nắm.

Nấu ngon hết sảy, Cố Quân trước mặt y không nói mấy câu gây mất hứng như "quân tử xa nhà bếp" nữa, suýt nữa xơi luôn cả bát.

Ba bát rượu vào bụng, người trong viện đều trở nên vô pháp vô thiên.

Thẩm Dịch than thở: "Bao nhiêu năm qua từ kinh thành đến Tây Vực, Bắc cương, lại đến Lâu Lan, đi đâu cũng có ngươi, về sau đột nhiên không còn, trong lòng ta rất khó chịu."

Cố Quân: "Bớt nói nhảm, uống rượu đi."

Cát Thần chạy tới thành khẩn nói: "Thẩm tướng quân, ở vùng Tây Nam ta có quen vài bằng hữu giang hồ, về sau nếu ngài có việc gì không tiện làm, có thể nhờ họ làm cho!"

Thẩm Dịch nhìn gã lệ nóng tràn mi: "Bằng hữu giang hồ thì không cần, có thể tặng ta một con chim gỗ không?"

Hai người chỉ hận gặp gỡ muộn cầm tay nhìn nhau mắt ngấn lệ, chạy ra chỗ khác nước miếng tứ tung bàn về "cách kéo dài tuổi thọ của hỏa cơ", bị Cố Quân phạt một người ba bát.

Cát Thần uống ba bát xong suýt lăn xuống gầm bàn, Tào Xuân Hoa lên cơn điên, cùng đám khôi lỗi lăn vào nhau, Trường Canh trông kẻ này ngó kẻ kia, đỡ trái hở phải.

Sau đó quả nhiên đều say mèm.

Thẩm Dịch túm Cố Quân, líu lưỡi rồi mà còn lắm lời, lặp đi lặp lại như bánh xe quay tròn: "Tử Hi... Tử Hi à, Cố gia ngươi ở nơi đầu sóng ngọn gió, ợ... liên tục ở nơi đầu sóng ngọn gió, ngươi phải cẩn... cẩn thận..."

Cố Quân nằm bò lên vò rượu, nhúc nhích cũng không muốn, nói cũng lười, chỉ cười, cười không dừng được, chảy cả nước mắt ra, vừa cười vừa nghĩ: "Cố gia chỉ còn lại mình ta thôi."

Thẩm Dịch chân nam đá chân chiêu đứng dậy, đi ngang hai bước, ngã phịch xuống đất, miệng còn lẩm bẩm: "Hoàng... Hoàng thượng sợ ngươi."

Hoàng thượng sợ ai chưa biết, chỉ biết Trường Canh hơi sợ họ rồi, vội gọi gia tướng và thị vệ đến đỡ Thẩm Dịch dậy: "Mau đưa Thẩm tướng quân xuống."

Cố Quân dựa bàn, chống trán cười đến cao thâm khó lường, nếu không phải ánh mắt rời rạc, thật y như tỉnh táo vậy.

Thẩm Dịch bị bọn thị vệ ba chân bốn cẳng khiêng dậy, còn không chịu ngoan ngoãn, vừa giãy giụa vừa nói lộn xộn: "Ngươi... Cố Tử Hi, trong lòng ngươi... ngươi, là buông xuống, nhưng Hoàng, Hoàng thượng buông không được, y thủy chung sợ ngươi, sợ như tiên đế, có thể không sợ sao? Năm đó họ hủy ngươi như vậy, nhưng ngươi không chết, Huyền Thiết doanh cũng còn... Còn uy phong đến thế, những người đó liền nghĩ, nếu đổi lại là họ, họ sẽ trả thù như thế nào? Suy bụng ta ra bụng người, Tử Hi... Mọi người trên đời đều suy bụng ta ra bụng người..."

Trường Canh tửu lượng bình thường, bị Cố Quân chuốc không ít, vốn cũng chỉ miễn cưỡng giữ tỉnh táo một chút, ai ngờ nghe lời này, y chợt giật mình tỉnh hẳn.

"Họ hủy ngươi như vậy" là ý gì?

Y không xác định Thẩm Dịch nói có phải là lời bậy bạ của người say hay không, không nhịn được tiến lên một bước, muốn nghe rõ hơn.

Ai ngờ Thẩm Dịch kêu gào một hồi, sau đó quay người vịn cột nôn thốc nôn tháo, biến mình thành một vũng bùn loãng, mềm nhũn ngã xuống, trực tiếp ngủ thiếp đi.

Trường Canh hết cách, đành phải kêu người còn tỉnh khiêng hết đám hán tử say quắc cần câu nằm la liệt trong viện đi.

Sau cùng, chỉ còn lại mấy thiết khôi lỗi vẫn tận trung chức thủ mà múa may, trên đầu bốc lên hơi nước màu trắng.

Tiếng reo vang nói cười của kinh thành dần dần đi xa.

Cố Quân nhoài cả người lên bàn, hiển nhiên đã chẳng còn biết trời trăng gì, miệng lảm nhảm rất khẽ: "Giỏi thật, toàn là bị khiêng xuống."

Còn mặt mũi nói người khác – Trường Canh thở dài, thấp giọng dỗ dành: "Người là giỏi nhất, chúng ta quay về thôi, để con đỡ người được không?"

Cố Quân ngẩng đầu nhìn y, đôi mắt ấy quá đen quá sâu, men say Trường Canh mới dằn xuống bị nhìn như vậy lại bốc lên đầu.

"A Yến..." Cố Quân bỗng nhiên gọi khẽ.

Trường Canh chau mày.

"A Yến à," Cố Quân phá lên cười, giống như hơi bất đắc dĩ, lại có chút cay nghiệt bất cần đời bình thường, "Ta cho ngươi biết một bí mật, ngươi không được nói với người khác... Cha ngươi ông ta... thật khốn nạn."

Trường Canh: "..."

Toàn là nói nhảm!

Cố Quân cười khe khẽ, lẩm bẩm lộn xộn: "Người nào biết ta sương tuyết thúc giục, người nào cùng ta say sưa một phen..."

Trường Canh không định cùng con mèo say này trố mắt nhìn nhau thêm nữa, đưa tay đỡ Cố Quân dậy, kéo vào phòng ngủ. Ai ngờ Cố Quân uống say rất dính người, sờ mó lung tung như Đăng Đồ Tử, Trường Canh bị y bám thấp thỏm không yên, muốn trực tiếp ném y lên giường, cúi đầu thấy tấm ván giường cứng ngắc của Cố đại soái chỉ trải một lớp nệm mỏng, rốt cuộc không nỡ làm vậy.

Ai ngờ Cố Quân quay người lại chộp gân tê trên khuỷu tay y, Trường Canh chợt bị như vậy, cánh tay thoát lực, suýt nữa để rơi Cố Quân, định đưa tay đỡ, lại quên mình cũng chếnh choáng, thoáng cái bị Cố Quân kéo ngã sấp.

Cố Quân bị nện trúng sặc một hơi, thở hổn hển hồi lâu, vỗ lưng Trường Canh nói bậy bạ: "Ôi bảo bối, ngươi đè chết ta rồi."

Trường Canh nằm trên người y, hạt giống cố gắng chôn sâu dưới đáy lòng ở sâu trong tăm tối im lặng nhú mầm ra.

Y nhìn chằm chằm khuôn cằm nhợt nhạt của Cố Quân, bỗng nhiên thấp giọng hỏi: "Người đang gọi ai?"

Cố Quân không lên tiếng.

Trường Canh cảm thấy mình cũng say rồi, không thì làm sao có lá gan lớn như vậy?

Y chợt đè lên, nắm cằm Cố Quân: "Nghĩa phụ, người gọi ai?"

Hai chữ "nghĩa phụ" tựa hồ nhắc nhở Cố Quân điều gì, ậm ừ nói một tiếng "Trường Canh".

Hai chữ ấy như một mảnh sắt cùn, nhẹ nhàng cạo qua tai Trường Canh, trong đầu y nổ uỳnh một tiếng, bốn chữ "thuận theo tự nhiên" đẩy lưng y một phát, khiến y như bị quỷ ám cúi người xuống, hôn Cố Quân.

Cố Quân thoạt đầu sửng sốt, một lúc lâu mới trì độn nhận ra một chút mùi vị, mơ màng túm cổ áo Trường Canh, bỗng nhiên đẩy y từ trên người mình xuống.

Trường Canh: "..."

Lưng y đập vào tấm ván giường cứng như đá của Cố Quân, tức khắc tỉnh táo lại, huyết sắc trên mặt mất sạch, y hoảng sợ cực kỳ, thầm nghĩ: "Ta đang làm gì đây?"

Cố Quân ở bên trên nhìn xuống y, Trường Canh mở miệng muốn gọi "nghĩa phụ", nhưng há miệng ra lại chẳng nói thành tiếng.

Ai ngờ Cố Quân lại chợt nở nụ cười, con ma men kia căn bản chẳng nhận ra ai, đưa tay sờ soạng mặt y, mơ mơ màng màng nói với giọng mũi: "Ngoan."

Trường Canh: "..."

Ngay sau đó, Cố Quân ôm Trường Canh toàn thân cứng ngắc, trịnh trọng hôn từ trán đến môi, hết sức ôn nhu liếm mở đôi môi y, cho y một sự tra tấn dài lâu lại triền miên, đồng thời tay cũng chẳng nhàn rỗi, lần mò cởi vạt áo Trường Canh.

Trường Canh cảm thấy mình như sắp nổ tung, một tay nắm thắt lưng Cố Quân, tay run lẩy bẩy, nhưng vẫn cố nhịn không dùng một chút sức.

Cố Quân phảng phất cảm giác được sự run rẩy của y, người này ở trên giường trái lại rất có phong độ của công tử thế gia, vừa sờ vạt áo Trường Canh, vừa say quắc cần câu mà cười, ôn nhu dỗ dành: "Đừng sợ, theo ta, về sau ta tốt với ngươi."

Trường Canh hạ giọng rất nhỏ, hỏi khẽ: "Ta là ai?"

Cố Quân nghe tiếng ngẩn người, ngẫm nghĩ một lúc, đáng tiếc đầu óc căn bản không hoạt động, chẳng những không ra kết luận gì, bản thân còn bị vạt áo Trường Canh cuốn lấy, hì hục cả buổi, càng tháo càng quấn chặt, cuối cùng giày vò mình đến kiệt sức, ngã lăn ra bên kia mà ngủ luôn.

Trường Canh trong sự yên tĩnh cắn chặt răng, dùng hết toàn lực đếm nhịp thở dài lâu hơi run run của mình, đếm đến năm sáu mươi lần, rốt cuộc lấy đủ sức bò lên đẩy Cố Quân ra.

Y vội vàng lôi vạt áo khỏi tay Cố Quân, để người ta nằm ngay lại, qua quýt kéo chăn, sau đó chốc lát cũng không nán lại nổi, bỏ chạy mất tiêu.

Đoạn này trích trong Tây sương ký của Vương Thực Phủ, nghĩa là hoa rơi xuống nước làm đỏ cả dòng.

Cả câu: "Hoa lạc thủy lưu hồng, nhàn sầu vạn chủng, vô ngữ oán đông phong." Đại ý là hoa rơi hữu ý, nước chảy vô tình, chỉ hận thế sự vô thường. (Theo Baidu)

Cố Quân ngủ một giấc đến khi mặt trời sắp lên cao ba sào.

Đêm hôm trước trong lòng y rất khó chịu, ít nhiều có ý định mượn rượu giải sầu, thành thử say quắc cần câu, lúc dậy người cứng ngắc, còn mệt hơn một đêm không ngủ.

Trên cái bàn con bên cạnh không biết ai để sẵn một bát canh giải rượu, Cố Quân bịt mũi bưng lên một hơi uống hết, lúc này mới xem như mở được đôi mắt khô khốc. Y ngồi ngây ra bên giường một hồi, nhanh chóng tự xét lại mình, trong lúc nửa ngủ nửa tỉnh đã nhận ra sự nôn nóng lạ lùng của mình gần đây.

"Đến mức ấy không?" Cố Quân ngáp một cái, tự hỏi lòng mình.

Nghĩ kỹ lại, đương nhiên là không đến mức.

Mấy năm nay quốc khố hơi eo hẹp, quân phí dĩ nhiên cũng túng thiếu theo, nhưng cũng chưa đến mức phải nhịn đói.

Ông trời cũng coi như yên ổn, mấy đợt lũ lụt, động đất, rồi còn hai ba năm trước từng bị hạn hán một lần, đều không đặc biệt nghiêm trọng, Trung Nguyên lớn như vậy, tùy tiện Long vương gia trong đám mây nào hắt xì một cái, triều đình không phải sứt đầu mẻ trán chẩn tai theo? Mấy năm qua kể từ năm Long An thứ nhất, đã xem là trời yên biển lặng hiếm thấy rồi.

Giang Nam và Tây Nam xảy ra hai vụ án, tuy thanh thế đều rất lớn, khiến Hoàng thượng sợ bóng sợ gió, nhưng kỳ thực trong mắt Cố Quân, đó đều chỉ có thể tính là ẩu đả vặt thôi – Đông Hải là Ngụy vương rõ ràng vẫn chưa chuẩn bị xong, đã bị tử lưu kim tiết lộ tung tích, việc của Nam Cương là thế lực đa phương đụng vào nhau, Phó Chí Thành ban đầu chỉ sợ là ngay cả ý định tạo phản cũng không có – tóm lại, kỳ thực còn chưa hung hiểm bằng họ đuổi bắt sa phỉ giữa đại mạc cát vàng.

So với năm đó quốc vô cường binh, y một mình gánh cả Đại Lương chinh chiến sáu quốc gia Tây Vực liên hợp phản loạn có tính là gì đâu?

Khi đó mỗi ngày y đều không biết liệu rằng mình có thể nhìn thấy thái dương ngày mai hay không, trong lòng hoàn toàn không tạp niệm, hiện tại thì ngược lại, y quyền cao chức trọng, thong dong ở trong viện nhà mình xem thiết khôi lỗi múa ương ca, còn đi mượn rượu tiêu sầu, giỏi giang thật!

Tiêu xong hình như y đã làm việc gì dư thừa thì phải...

Làm gì nhỉ?

"A, đúng rồi," Cố Quân nghi hoặc day huyệt thái dương, nghĩ thầm, "Hình như đã chòng ghẹo một nha đầu, còn làm người ta sợ hãi."

"Quá đáng thật!" Cố Quân vừa lẩm bẩm một mình, vừa rửa mặt thay quần áo.

Đang thay giữa chừng, y đột nhiên khựng lại – không đúng, hầu phủ ngay cả con ngựa cái còn không có, thì đào đâu ra nha đầu!

Cố Quân rốt cuộc tỉnh hẳn, mặt mày tái xanh cân nhắc một hồi, đoạn lật chăn – chỉ thấy góc giường lăn xuống một vật nhỏ, là hà bao bằng da Trường Canh vẫn đeo trên người.

Cố Quân: "..."

Thẩm Dịch tửu lượng chẳng bằng ai, còn say hơn Cố Quân, sáng sớm chưa ngủ dậy đã bị Cố Quân xông vào khách phòng lôi đầu dậy.

"Ta nói với ngươi một việc." Vẻ mặt Cố Quân nghiêm trọng như thể gặp ma vậy.

Thẩm Dịch không dám thờ ơ, một đống ý nghĩ lộn xộn lướt qua trong lòng: Phó Chí Thành vượt ngục? Phụng Hàm công bị Hoàng thượng định tội rồi? Bắc man xâm phạm? Hay trú quân trấn thủ Trung Nguyên làm phản?

Y cố nén sự khó chịu, nỗ lực định thần lại, nghe Cố Quân nói.

Kết quả là họ Cố kia ngập ngừng một lúc lâu, ánh mắt từ xà nhà dời đến mũi giày mình, ngay cả rắm cũng chẳng đánh ra.

Thẩm Dịch thấp thỏm lo lắng hỏi: "Rốt cuộc xảy ra chuyện gì rồi?"

Cố Quân: "... Thôi, không muốn nói nữa."

Thẩm Dịch đương trường phát điên, lông toàn thân xù ra ba trượng, cái thể loại nói chuyện một nửa này sao vẫn chưa bị chém chết hả?

"Khoan đã," Thẩm Dịch lao tới túm Cố Quân lại, cả giận nói, "Rốt cuộc có chuyện gì?"

Cố Quân lúc này đã theo "vật chứng" trên giường mình, chậm rãi quay về ký ức sau khi say rượu, bản thân đã nói gì, làm gì, nhất thời mồn một trước mắt – quá xấu hổ, quá hèn hạ, quá khốn nạn.

Cố Quân che mặt: mình đã làm gì vậy trời?

Y cảm thấy nước chua trong dạ dày trào ngược lên, thống khổ hỏi Thẩm Dịch: "Ta quá chén mượn rượu làm càn sao?"

"Ngươi cũng đâu có uống nhiều lắm?" Thẩm Dịch ôm chăn co vào đầu giường – họ thường niên ở biên quan, mặc dù cũng uống rượu, nhưng không dám uống say mèm, kẻo không cẩn thận có quân tình hỏng việc thì không ổn.

"Sao thế," Thẩm Dịch ngó sắc mặt Cố Quân, hào hứng hỏi, "Hôm qua ngươi đã làm chuyện gì mất mặt?"

Cố Quân ấn Thẩm Dịch xem náo nhiệt không chê việc lớn vào chăn, thất hồn lạc phách bay đi, tự thấy là mình nên tìm sợi đai lưng treo cổ quách cho rồi.

Ban đầu, Cố Quân còn ôm vài phần hi vọng may mắn mà nghĩ: "Tiểu Trường Canh sẽ không chấp nhặt với con ma men chứ? Nếu là ta, ta sẽ không để bụng đâu."

... Cùng lắm là lấy việc này ra giễu cợt chừng nửa năm một năm thôi.

Nhưng chút may mắn này nhanh chóng biến mất, bởi vì Cố Quân nhớ rõ Trường Canh hôm qua bị y đè trên giường cứ liên tục run lên, như vậy xem ra, có khả năng Trường Canh chẳng những để bụng, còn tức giận muốn chết.

Cố Quân mặt mày ủ ê ngắm nghía hà bao của Trường Canh, giống như ngắm một bao hỏa dược có thể nổ tung bất cứ lúc nào.

An thần hương thoang thoảng thấm vào ruột gan lan ra, Cố Quân vừa ngửi tới ngửi lui, vừa âm thầm tính toán: "Mình nên giả bộ hồ đồ? Hay giả bộ không biết? Hoặc là vờ như chưa có gì xảy ra hết?"

Không đợi y quyết định xong, lão quản gia đã bước thẳng tới, Cố Quân liền như chính nhân quân tử hỏi: "Vương bá, tứ điện hạ đâu?"

Lão quản gia trả lời: "Tôi đang muốn đi nói với Hầu gia đây, điện hạ sáng sớm đã đến Hộ Quốc tự rồi."

Cố Quân: "..."

Trực tiếp bỏ nhà đi luôn!

Lão quản gia không chú ý biểu cảm như nuốt hoàng liên của y, lại nói: "Đúng rồi, hôm qua Giang đại nhân của Đại lý tự tặng Hầu gia một bức họa mừng thọ, bên trong còn kẹp một phong thư, Hầu gia có muốn xem không?"

Cố Quân sửng sốt: "Cầm tới đây ta xem."

Thẩm Dịch tuy rằng đi theo Cố Quân tự dưng thành tướng quân, nhưng năm đó quả thật là xuất thân văn khoa cử, Đại lý tự khanh Giang Sung là sư huynh đồng môn của y, thông qua tầng quan hệ này mà quen biết Cố Quân, sau đó phát hiện đối phương tính tình rất hợp, dần dần thành bằng hữu, song bình thường để tránh hiềm nghi, hai người đi lại không thường xuyên lắm.

Cố Quân mở thư xem lướt qua như gió, tức khắc chẳng còn tâm trạng để ý Trường Canh đang giận mình.

Giang Sung ngoài hỏi thăm sức khỏe, còn ngắn gọn tiết lộ một tin tức – Hoàng thượng định đập nồi dìm thuyền, triệt để xóa sạch chợ đen tử lưu kim.

Chỉ riêng câu này đã ẩn chứa rất nhiều tin tức bên trong.

Chập tối hôm nay, Khởi Diên lâu vẫn huyên náo như xưa, trong gian phòng chữ thiên, tân nhiệm Đề đốc Tây Nam Thẩm Dịch làm ông chủ, mời một nhóm đồng liêu Linh Xu viện trước kia khi y ở kinh thành là đồng môn hảo hữu. Thẩm Dịch sắp đến Tây Nam nhậm chức, mặc dù xa xôi, nhưng tốt xấu gì cũng là vẻ vang thăng quan, đám lão bằng hữu sớm đã om sòm bắt y đãi khách.

Rượu qua ba tuần, An Định hầu cũng tự mình đến lộ mặt, nhưng chỉ nán lại một lúc, liền viện cớ nhà có việc đi trước, y đi chưa bao lâu, Giang Sung nhậm chức Đại lý tự khanh cũng cáo từ đi theo.

Giang Sung ra khỏi Khởi Diên lâu không ngồi xe, đuổi gia nhân đi, chỉ nói mình muốn tản bộ một lúc cho tỉnh rượu, dẫn theo mỗi một tiểu tư, từ dưới lầu hàn giang tuyết liễu đi theo đường nhỏ.

Đường nhỏ vừa rẽ, sớm có một chiếc xe ngựa cũ không hề hút mắt chờ ở đó, màn xe vén lên, lộ ra nửa khuôn mặt Cố Quân: "Trời lạnh quá, ta đưa Hàn Thạch huynh một đoạn."

Giang Sung nói "Làm phiền", liền hiểu ý lên xe y.

Giang đại nhân đã ngoài bốn mươi, nhưng từ diện mạo không thể nhìn ra, ngoại trừ khí độ trầm ổn, nói hắn là một công tử trẻ tuổi cũng không quá.

Lên xe mượn tiểu lô của Cố Quân làm ấm tay, Giang Sung cũng không thừa lời, đi thẳng vào vấn đề: "Hôm ấy sau khi Hầu gia rời cung, Hoàng thượng liền âm thầm triệu tập tam ty, ta nghe ý ngài thì thấy có khả năng chẳng những muốn trùng khải 'dung kim lệnh', còn tính làm hai việc cùng lúc, sẵn dư âm cuộc phản loạn Nam Cương, bắt đầu hạ đao từ Tây Nam, tra rõ chợ đen tử lưu kim trong nước."

"Dung kim lệnh" là chuyện từ thời ngoại tổ phụ Cố Quân – Lương Vũ đế, khi đó hải vận mới mở, dân gian tư dụng tử lưu kim từng một dạo khó ngăn chặn, để tăng mạnh sự khống chế với tử lưu kim, Vũ đế ban bố bốn điều nghiêm lệnh, chính là "dung kim lệnh" mà hậu nhân vẫn nói.

Nhưng sau đó theo hỏa cơ cương giáp dân dụng ngày càng nhiều, dung kim lệnh dần dần không thích hợp để dùng nữa, thành thử đã bị bãi bỏ dưới thời tiên đế Nguyên Hòa.

Giang Sung: "Hầu gia đầu xuân đại khái sẽ phải về Tây Bắc, theo lý thuyết vùng kinh thành cho dù cải thiên hoán nhật cũng chẳng ảnh hưởng xuống đầu Hầu gia, chỉ là nếu Hoàng thượng muốn tra chợ đen tử lưu kim, sợ rằng Hầu gia trú lâu ở biên cương, đến lúc đó không khỏi tình ngay lý gian, xin hãy lưu tâm hơn..."

Giang Sung không thể trực tiếp chỉ mũi Cố Quân nói "Ta biết tay ngươi cũng chẳng sạch sẽ gì cho cam, gần đây tra nghiêm, bứt tuyến chợ đen trên tay cho sạch sẽ mà yên ổn vài ngày đi", hắn nói như vậy, ám chỉ đã tương đối rõ ràng.

Cố Quân hiểu, cảm kích nói: "Đa tạ Hàn Thạch huynh nhắc nhở."

Giang Sung thấy đã nói đến đó, không cần phải nhiều lời nữa, đổi đề tài, cười khổ nói: "Một khi dính dáng đến tử lưu kim, không thiếu được phải đối mặt với một đám cùng hung cực ác, cùng hung cực ác trên giang hồ thì đã đành, chỉ sợ còn âm thầm cấu kết với không ít cốt cán của triều đình. Vậy tra ai không tra ai? Tra thế nào đây? Ôi, chẳng giấu gì Hầu gia, ta hiện tại cũng chưa có đầu mối."

Nước quá trong ắt không có cá, cũng không biết Hoàng đế Long An muốn an thiên hạ, hay là muốn khuấy động đến gà chó không yên đây.

Cố Quân biết chỗ khó xử của hắn, an ủi: "Hàn Thạch huynh yên tâm đi, tin tức này vừa ra, chỉ cần không phải kẻ quá mù mắt, thì đều biết giấu nghề, chúng ta có ai không căng thẳng như huynh? Đến lúc đó nếu thực sự có chuyện gì khó xử, huynh cứ phái người gửi cho ta bức thư, hiện giờ không có Huyền Thiết hổ phù, trú quân các nơi không còn do ta điều phối, nhưng một chút thể diện nhỏ chung quy phải nể."

Giang Sung liên tục cười khổ: "Vậy thì đa tạ Hầu gia. Trước là chưởng lệnh pháp, sau là dung kim lệnh... Ta rất ít ra khỏi kinh thành, rất nhiều việc không biết, chỉ là nghe người ta nói, năm ấy 'sương trắng phủ phố phường, điểm canh chẳng thấy bóng người', ai cũng nói cảnh về sau phải ngồi 'ngựa bay' xuất hành đã sớm mất rồi."

Cố Quân mân mê tràng hạt gỗ cũ trên tay, không tiếp tục chủ đề này, lảng sang chuyện khác: "Phụng Hàm công thế nào rồi?"

"Còn đang bị giam," Giang Sung nói, "Yên tâm, đã có ta trông chừng rồi – Hầu gia định dâng sớ trần tình giúp Phụng Hàm công à?"

Cố Quân cười khổ nói: "Ta? Ta dâng sớ chỉ có tác dụng khiến ông ấy chết mau hơn thôi. Kỳ thực cũng không cần nói rõ, trong cung rất nhiều thứ đều là ra từ tay Linh Xu viện, Hoàng thượng nhìn thấy tự nhiên sẽ nhớ đến điểm tốt của ông ấy – Phụng Hàm công say mê hỏa cơ, không hiểu việc đời, ngay cả tính tình chó chết đó, Hoàng thượng cũng biết, qua vài hôm hết giận là được."

Nói thì nhẹ, nhưng làm sao để sau khi Hoàng thượng tiêu hỏa khéo léo nhắc tới Phụng Hàm công nuôi chó thay con, khiến Hoàng thượng vừa tức giận vừa buồn cười không nổi nóng được, lại là phải trăm phương ngàn kế.

Giang Sung nhìn Cố Quân một cái, biết y đại khái đã âm thầm chuẩn bị sẵn sàng, An Định hầu từ nhỏ lớn lên trong cung, có mấy người dùng được cũng không ngạc nhiên, chỉ là...

Giang Sung thấp giọng nói: "Hầu gia lần này từ Tây Bắc trở về, đối nhân xử thế tựa hồ giỏi hơn không ít."

Cố Quân ý tứ sâu xa trả lời: "Hổ lang ở bên ngoài, không dám không hết lòng hết sức, non sông chưa yên, cũng không dám coi thường thân này, tranh những nghĩa khí và nóng giận vô dụng đó cũng vô ích thôi."

Hai người dăm ba câu trao đổi xong tin tức, Giang Sung cáo từ, trước khi đi hắn đột nhiên đứng lại, nói với Cố Quân: "Nói một câu đại bất kính, một hai năm này, địa phương liên tục báo khôi lỗi trồng trọt được mùa như thế nào, ở đâu lại có hỏa cơ hơi nước có thể tự dệt vải may đồ, nhưng quốc khố lại không thấy đầy lên, đủ loại pháp lệnh như xiềng xích, hạ quan thực sự có ảo giác, giống như sau ngần ấy năm, Đại Lương lại quay về thời Vũ đế rồi."

Cố Quân cười nói: "Không giấu gì Hàn Thạch huynh, ta một hai năm nay cũng thường xuyên lo âu một cách kỳ lạ, nhưng nghĩ lại cảm thấy vô lý, có thể mọi người là như thế này, luôn yêu cầu ngày càng tốt hơn, một khi tạm thời hơi có đình trệ, cho dù đã thân cư cao vị, cũng sẽ mất mát sốt ruột thôi?"

Giang Sung hơi biến sắc, tựa hồ muốn nói lại thôi.

Cố Quân hỏi: "Sao thế?"

Đại lý tự khanh thấp giọng nói: "Người tra án chúng ta, đôi khi sẽ có một loại trực giác, vô lý do cũng vô căn cứ, nhưng cuối cùng rất có khả năng sẽ ứng nghiệm, càng là người lão đạo thì trực giác càng chuẩn – Hầu gia chinh chiến sa trường, vào sinh ra tử, có thể trực giác của ngài thật sự đã báo trước điều gì... Vạn mong bảo trọng."

Cố Quân thoáng sửng sốt, không nói thêm nữa, hai người ôm tâm sự nặng nề mà cáo từ rời đi.

Cố Quân quay về hầu phủ thì trời đã tối rồi, hỏi thị vệ, đáp rằng Trường Canh vẫn chưa về, chỉ nhắn lại, nói Liễu Nhiên đại sư đã về Hộ Quốc tự, tính ở bên đó vài hôm.

Cố Quân đành phải nghĩ: "Ở thì ở đi, bớt giận rồi trở về cũng tốt."

Ai ngờ Trường Canh không biết là "rất thích làm mình làm mẩy" hay là thế nào, mà ở bốn năm ngày liền, có vẻ như muốn an cư lạc nghiệp ở bên đó luôn, Cố Quân tổng cộng ở kinh thành chẳng được bao nhiêu ngày, lần này đi không biết mấy năm mới gặp lại, rốt cuộc không kiềm chế được, đành bịt mũi đến Hộ Quốc tự.

Liễu Nhiên hòa thượng vẫn thế, quanh năm suốt tháng cũng chỉ có mấy ngày trở về Hộ Quốc tự gặp toàn khách quý là chịu tắm rửa thành một gốc phù dung nước trong, mỗi ngày đi khắp nơi giả thần giả quỷ, buổi chiều hôm đó khó khăn lắm mới được rỗi rãi, cùng Trường Canh chơi cờ trong thiền phòng, hai người trò chuyện đều là ra dấu, yên tĩnh không tiếng động, nhưng nói không ít.

Trường Canh: "Ta muốn hỏi đại sư một việc – mắt và thính lực của nghĩa phụ ta rốt cuộc là thế nào?"

Liễu Nhiên nhanh chóng ra dấu trả lời: "Nói sau lưng người ta không có kết cục tốt."

"Việc này ta nhất định phải biết." Trường Canh nghiêm mặt nói, "Hơn nữa nhất định sẽ truy tra đến cùng, nếu đại sư không nói, ta cũng sẽ đi tìm người khác."

Liễu Nhiên hòa thượng chăm chú nhìn y một lát.

Rất lâu sau, Liễu Nhiên hết sức đắn đo dùng ngôn ngữ của người câm trả lời: "Hòa thượng chỉ là bắt gió bắt bóng nghe nói đại khái, Hầu gia hồi nhỏ bị lão Hầu gia và công chúa điện hạ dẫn đến Bắc cương, khi đó chiến sự giữa Đại Lương và Bắc man vốn đã bình ổn, theo lý không nên có nguy hiểm, nào ngờ có một đám tử sĩ Bắc man ngoan cố chống cự, liều cá chết lưới rách xông vào trong trú quân của ta, Hầu gia là bị tên lạc gây thương tích, không khéo đó vừa vặn là độc tiễn của người man."

Những lời này lại không mưu mà hợp với câu nói lấy lệ của Cố Quân.

Trường Canh truy hỏi: "Độc gì?"

Liễu Nhiên lắc đầu: "Điện hạ sư tòng Trần cô nương, nên biết độc vật của người man ngay cả Trần gia cũng thúc thủ vô sách – độc vật đó rất bá đạo, người trúng độc tiễn này trong vòng vài ngày toàn thân tê liệt mà chết, thế nhưng hiệu quả với trẻ nhỏ lại chậm hơn rất nhiều, năm xưa Trần lão tiên sinh chạy từ Sơn Tây tới vùng trú quân Bắc cương, không ngủ không nghỉ hai ngày một đêm, dùng tuyệt kỹ kim châm của Trần gia giữ mạng lại cho tiểu Hầu gia, song sau đó thị lực và thính lực cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng."

Trường Canh hơi nhíu mày: "Bắc cương..."

Nếu việc này là do tử sĩ Bắc man làm, câu "họ hủy ngươi như vậy" của Thẩm Dịch lại nên giải thích thế nào?

Chẳng lẽ thật sự chỉ là uống say nói bậy?

Đúng lúc này, một tiểu sa di đột nhiên tiến vào báo: "Vương gia, Liễu Nhiên sư thúc, An Định hầu đến."

Liễu Nhiên giật mình, tuyệt đối không ngờ An Định hầu sẽ có một ngày đại giá quang lâm Hộ Quốc tự, vội ra hiệu bảo Trường Canh: "An Định hầu không phải giẫm một chút tàn hương cũng cảm thấy xui xẻo à? Hôm nay lão nhân gia xâm nhập hang hổ, trở về liệu có dùng lá ngải tắm tróc một lớp da không?"

Trường Canh không rảnh để ý hắn, trên mặt thoáng qua vẻ mất tự nhiên.

Y vẫn chưa chuẩn bị sẵn sàng đối mặt với Cố Quân khởi binh vấn tội.

Nói tới thì, quỷ xui thần khiến, cả hai đều cho rằng mình say rượu thất đức, phi lễ đối phương, đều tự chột dạ.

Liễu Nhiên lấy làm lạ nhìn Trường Canh – mấy năm nay do phải áp chế Ô Nhĩ Cốt, Trường Canh luyện công phu tĩnh tâm dưỡng khí đến cực hạn, có thể diện bích ngồi thiền hai ba ngày không nhúc nhích, đến cả "cao tăng" Liễu Nhiên này cũng cam bái hạ phong.

Có lúc người đang nôn nóng nhìn thấy đôi mắt y, cũng không tự chủ được an tĩnh theo, bạch y công tử tuấn mỹ vô trù kia ngồi trên bồ đoàn cũ của tăng nhân bần hàn tay cầm vân tử, vốn có loại nhập hóa cảnh u tĩnh cao huyền, nào ngờ đột nhiên bị ba chữ "An Định hầu" khuấy động gợn sóng. (Vân tử là quân cờ vây Giang Nam)

Trường Canh tựa hồ đứng ngồi không yên mà nhúc nhích một chút, tự nhiên giơ tay lên, cũng không biết muốn mò tìm cái gì, giơ nửa chừng phát hiện Liễu Nhiên đang nhìn mình không chớp mắt, lại miễn cưỡng dằn cảm xúc xuống, thấp thỏm đặt trên chén trà, cúi đầu nhấp một ngụm để che giấu.

Dù là Liễu Nhiên đại sư quen giả thần giả quỷ cũng buồn bực, nghĩ bụng: "Sao thế, Hầu gia đến đòi nợ à?"

Cố Quân nhanh chóng tiến vào, khóe mắt chân mày hiện rõ vẻ ghét bỏ, chỉ hận không thể nhón chân đi vào, khinh khỉnh nhìn Liễu Nhiên hòa thượng một cái, ngoài cười trong không cười mà chào hỏi: "Mấy năm không gặp, đại sư trắng trẻo hơn không ít."

Liễu Nhiên phong phạm đại sư, không thèm chấp nhặt, đứng dậy chắp tay chào, ra dấu: "A di đà Phật, hòa thượng lòng như minh kính đài(1), không đâu dính bụi bặm."

Té ra không tắm rửa cũng có thể trích dẫn kinh điển!

Cố Quân tựa hồ lại ngửi thấy mùi ôi thiu, không thể nán thêm một khắc ở chốn thị phi này, quay sang bảo Trường Canh: "Ngươi ở đây quấy rầy đại sư thanh tu đã mấy ngày, nên về nhà rồi."

Tâm thần Trường Canh khó khăn lắm mới yên ổn lại bị hai chữ "về nhà" khuấy động, trong lòng biết cho dù ở lại dưới gốc bồ đề cũng chẳng niệm nổi "sắc tức thị không" nữa, đành phải dẹp yên sự thấp thỏm, vâng lời đứng dậy.

Cố Quân bị sặc đàn hương nồng nặc trong Hộ Quốc tự ho vài tiếng, hỏa tốc rút ra chờ ở ngoài thiền phòng, chán muốn chết mà nhìn Trường Canh cáo biệt Liễu Nhiên.

Kỳ thực giữa thân nhân bằng hữu đôi khi nhìn đối phương quen rồi, sẽ rất khó chú ý tới đối phương là đẹp hay xấu, Cố Quân vẫn biết Trường Canh giống mẫu thân Bắc man hơn, hiện giờ nhìn kỹ mới phát hiện, thì ra cũng không hẳn thế, ngũ quan đã nảy nở tuấn tú ngay ngắn, nhất thời cũng chẳng biết giống ai, chỉ cảm thấy người như mặc ngọc, vui tai vui mắt.

Cố Quân ngẩn ra, nhớ tới trên giang hồ tam giáo cửu lưu hạng người nào cũng có, đặc biệt là từ khi hải vận khai thông, dân phong Đại Lương khá thoáng, nhất là vùng ven bờ Đông Hải, nghe nói nam phong cũng rất thịnh hành, Trường Canh bạch long ngư phục, không có kẻ nào mắt mù trêu chọc chứ?

Thế nên hôm ấy y mới tức giận như vậy?

"Đúng thế," Cố Quân sáng tỏ, mặc cho mình suy nghĩ lung tung, "Nếu ta cắn Thẩm Quý Bình một phát, hắn nhất định không để bụng, có bản mặt cổ hủ như vậy, căn bản sẽ không nghĩ đến phương diện đó, cắn hắn một phát còn là ta bị thiệt kìa."

Y càng nghĩ càng cảm thấy có lý, càng nghĩ càng cảm thấy xấu hổ, mau chóng cân nhắc một chút, dứt khoát quyết định giả ngu, thế là điềm nhiên như không hỏi Trường Canh đang đi tới: "Sao nán lại lâu quá vậy, đậu hũ cải trắng của Hộ Quốc tự ngon thế cơ à?"

Trường Canh thấy thần sắc y bình tĩnh, mới hơi yên lòng, trả lời: "Phật âm thức chay có thể tĩnh tâm."

"Tuổi trẻ nên tiên y nộ mã, cũng đâu có ý định xuất gia làm hòa thượng, thì tĩnh tâm làm gì?" Cố Quân sóng vai đi cùng y, theo thói quen định bá vai, vừa giơ tay lên lại sợ Trường Canh đa tâm, thế là lại im lặng rụt về chắp sau lưng.

Trường Canh thản nhiên nói: "Từng cân nhắc."

Y từng nghĩ tới, kết thúc trần duyên tam thiên bước vào cửa Phật, chưa biết chừng một bụng vọng niệm cũng bị Phật pháp vô biên trừ hết.

"Cái gì?" Cố Quân dừng bước, mới đầu chưa kịp phản ứng, ngẩn người, hỏi với vẻ khó tin, "... Ngươi nói xuất gia?"

Trường Canh hiếm khi nhìn thấy vẻ kinh ngạc trên mặt y, cười nói: "Chỉ là nghĩ thôi, không dám đi thật đâu ạ."

Cố Quân nghĩ bụng: "Nói nhảm, nếu ngươi mà dám, ta đập gãy chân ngươi."

Nhưng Trường Canh hiện giờ đã không còn là nghĩa tử nho nhỏ không nơi nương tựa được y che chở trong hầu phủ, sau khi đội mũ thừa tước Quận vương, vẫn gọi y một tiếng "nghĩa phụ", đó là tình cảm không phải danh phận, Cố Quân rốt cuộc không tiện giáo huấn như con ruột, nên không nói câu đó ra miệng.

Y hơi sầm mặt đi, hỏi: "Vì sao?"

Trường Canh nho nhã lễ độ chào tiểu sa di đi tới trước mặt, thủng thỉnh trả lời: "Con từ thời thiếu niên đã nhìn chữ thế bất khả tị trong phòng nghĩa phụ mà lớn lên, sau lại theo sư phụ đi khắp sơn xuyên, thế đạo gian nguy chẳng qua chỉ mới thử một chút, há dám trốn tránh từ đây? Thân này sinh ra trên thế gian, mặc dù trời sinh tư chất có hạn, vị tất có thể lập công thiên thu bất thế như tiên hiền, nhưng tốt xấu gì cũng không thể thẹn với thiên địa bản thân..."

... Và người.

Hai chữ cuối cùng Trường Canh giấu trong lòng, không nói ra.

Năm đó Tú Nương lôi y sau ngựa, không thể giết chết y, Ô Nhĩ Cốt quấn thân, đến bây giờ chưa thể khiến y phát điên – đôi khi Trường Canh cảm thấy, chỉ có đương đầu với sóng gió không ngừng đi ngược dòng, đi đến một nơi mà mình có thể tôn trọng mình, có lẽ mới xứng đôi với tiểu nghĩa phụ nửa đêm tỉnh mộng thường nghĩ về.

Cố Quân thần sắc hơi nguôi giận, nhưng vẫn không vui hỏi: "Vậy ngươi cứ chui vào chỗ đám hòa thượng làm gì?"

Trường Canh thuận miệng đáp lấy lệ: "Tìm Liễu Nhiên đại sư uống trà, con có lúc tâm hỏa quá vượng dễ ngủ không ngon – không phải Trần cô nương còn cho con an thần tán sao? Con bỏ vào hà bao rồi, nhưng mấy hôm nay đột nhiên tìm không ra."

Cố Quân thoáng cái câm luôn.

Trường Canh: "Cũng không biết đánh rơi ở đâu rồi."

Cố Quân mặt mày tái xanh – có người thật là toàn đi nhắc chuyện không nên nhắc.

Cố đại soái im lặng một lúc trong sự giày vò của lương tâm, sau cùng vẫn lấy cái túi thơm nhỏ bằng da trâu cất trong lòng, không nói một lời đưa cho Trường Canh: "Đây."

Trường Canh: "..."

Sự kinh hãi này tới quá bất ngờ, Trường Canh không cẩn thận mua dây buộc mình suýt nữa cắn lưỡi, Nhạn Bắc vương vừa rồi còn nhất phái phong phạm cao nhân "đi khắp sơn xuyên" tức khắc rịn mồ hôi ướt lòng bàn tay, lắp bắp: "Sao, sao lại ở chỗ nghĩa phụ?"

Cố đại soái da mặt thiên chùy bách luyện tỉnh rụi lấp liếm: "Không biết làm sao mà rớt lên giường ta, có lẽ là hôm ấy ta uống say, không cẩn thận lôi xuống thôi."

Trường Canh kinh hồn táng đảm nhìn y.

Cố Quân trơ trẽn làm bộ vô tội: "Sao vậy?"

Trường Canh vội lắc đầu, trong lòng thở phào nhẹ nhõm, biết việc này xem như đã qua, sau này vẫn có thể thản nhiên thân mật ở bên nhau như ngày trước. Song đồng thời, y lại khó tránh khỏi có chút mất mát giấu kín.

Cố Quân thấy thần sắc y khác thường, cho rằng Trường Canh còn để ý, liền hỏi với giọng hơi lấy lòng: "Hai hôm trước ta quên nói với ngươi, Hoàng thượng muốn cho ngươi vào triều nghe chính sự, ngươi muốn nhận chức gì? Để ta nghĩ cách cho."

Trường Canh mau chóng thu tâm thần lại, nghiêm túc nói: "Lục bộ có phạm vi thế lực của riêng mình, con không tiện đi vào xáo trộn, mấy năm nay văn không thành võ không tựu, lại nhàn tản quen rồi, Hoàng thượng thực sự để con nghe chính sự, thì con cứ nghe là được rồi – hay là cho con đi theo Giang đại nhân của Đại lý tự tra án cũng được."

Cố Quân không biết đây có phải là đáp án trong lòng Trường Canh nghĩ hay không, nhưng nhất định là Hoàng thượng muốn nghe, nhất thời hơi đau lòng, không muốn đưa Trường Canh đến chỗ Hoàng đế Long An để khuất tài bị khinh thường.

Nhưng điều đó là không thể, y họ Lý, dẫu tương lai làm một Vương gia nhàn tản phong hoa tuyết nguyệt, cũng không thể cả đời trốn trong phủ An Định hầu.

"Muốn đến Đại lý tự có thể chờ thêm một thời gian, gần đây chưa nên đi," Cố Quân nói, "Gần đây Hoàng thượng muốn điều tra chợ đen tử lưu kim, chỗ Giang đại nhân sứt đầu mẻ trán, đã đủ rối loạn rồi, ngươi đừng xen vào, đừng kéo cả Lâm Uyên các vào nữa."

Trường Canh "À" một tiếng, không hề bất ngờ với tin tức này: "Nhanh thế cơ à? Hoàng thượng quả nhiên chờ không nổi, hôm trước con còn đang nghĩ Hoàng thượng chuẩn bị khi nào thì trùng khải dung kim lệnh."

Cố Quân: "Làm sao ngươi biết?"

"Con đoán," Trời bắt đầu đổ tuyết nhẹ, Trường Canh thuận tay cầm một cây ô ở cửa tăng xá, ô nhỏ, Trường Canh lại liên tục đẩy nó về phía Cố Quân, không bao lâu, bả vai thò ra ngoài liền phủ một tầng bông tuyết mỏng, y cũng chẳng buồn phủi, vẫn đi không nhanh không chậm, như hơi hưởng thụ, "Kỳ thực cũng không thể coi là đoán, nghĩa phụ nghĩ xem, Hoàng thượng, tiên đế, thậm chí Vũ đế – họ mặc dù có sự anh minh thần võ của riêng mình, nhưng trên tử lưu kim đều như nhau, coi thứ này là họa lớn trong lòng."

Cố Quân vẫn luôn coi y là hậu bối, lần đầu sóng vai đi bên nhau, nghe cách nghĩ của y, cảm thấy có chút mới mẻ, thế nên chỉ lắng nghe chứ không xen vào.

"Con hồi nhỏ ở Nhạn Hồi trấn, từng tận mắt thấy triều đình vì tử lưu kim mà hao người tốn của, mấy năm nay cũng liên tục suy nghĩ, tại sao nhất định phải quản chế nghiêm hơn? Nếu mọi người đều có thể tùy ý mua bán tử lưu kim như mua lương thực vải vóc, chẳng phải cũng không còn chợ đen à?" Trường Canh lắc đầu, "Sau mới biết điều đó là không thể, nói một câu đại nghịch bất đạo, bất kể ai làm Hoàng đế, là hôn hay minh, là văn nhược hay hiếu võ, đều không thể cho phép dân gian giao dịch tử lưu kim, nếu không từ nay về sau, đại thương hộ, người Tây Dương, man di, thậm chí quan viên nắm giữ một phần tài nguyên, tặc nhân làm xằng làm bậy... mỗi người đều cầm một thanh đao trên tay."

Cố Quân: "Giống mấy tên thổ phỉ Nam Cương kia."

"Không sai," Trường Canh nói tiếp, "Đây mới chỉ là chợ đen, chỉ là thổ phỉ, chỉ là mấy bè phái Nam Cương nho nhỏ, nếu mở rộng đến toàn cảnh Đại Lương thì sao? Nếu mỗi người có 'đao' trong tay? Triều đình không thể lo hết lợi ích của mọi người, đến lúc đó tất nhiên dẹp được việc này lại ra việc khác, sẽ bị chế bởi thanh 'đao lớn nhất' kia, như vậy mỗi người đều muốn cầm thanh bảo đao Đồ Long này, họ sẽ vô pháp vô thiên đấu đá thôn tính nhau, như dưỡng cổ vậy, chờ cổ vương xuất đầu, giang sơn sẽ là của nhà ai?" (Bảo đao Đồ Long là thanh đao trong Ỷ Thiên Đồ Long ký của Kim Dung)

Cố Quân nhíu mày: "Trường Canh, những lời này ta nghe thì thôi, không được nói với người khác – thế theo ý ngươi, trùng khải dung kim lệnh là buộc phải làm sao?"

"Cũng không phải, kỳ thực tốt nhất là tiếp tục sự quản chế không lỏng không chặt với tử lưu kim, ổn định rồi, giải quyết vấn đề tiền bạc khẩn cấp trước đã – từ khi phát triển khôi lỗi trồng trọt, mỗi năm rất nhiều lương thực sản xuất ra đều để mọt trong kho, giá gạo ngày càng rẻ, đồn lương cũng đổi thành trữ vàng bạc, tổng cộng vài đồng bạc như vậy, tích hết vào kho, quốc khố dĩ nhiên chẳng sung túc nổi. Bạc không thể tự nhiên biến ra, gia tăng đúc tiền hiện tại cũng là nước xa không cứu được lửa gần, chỉ có thể dựa vào người Tây Dương, một khi con đường tơ lụa hoàn toàn thông, nghĩa phụ là công thần bất thế, bình hàng trăm vụ phản loạn cũng chẳng bằng."

"Có tiền rồi, chẳng khác nào nhà có xà, người có chủ kiến, đến lúc đó lại dùng lửa nhỏ hầm từ từ, từng chút một điều chỉnh nội chính, vấn đề tuy luôn có, song sự thái không đến mức bị kích hóa, giữ được trăm năm quốc thái dân an, vững vàng quá độ một hai đời, có lẽ sẽ tìm được một đường ra." Trường Canh nói đến đây, thoáng thở dài, "Đáng tiếc trong vòng vài năm hai cuộc phản loạn đều liên quan đến chợ đen, Hoàng thượng phản ứng gay gắt là quá bình thường – cho nên con vẫn hoài nghi chuyện Đông Hải và Nam Cương không hề là tình cờ, đang mượn lực lượng Lâm Uyên các truy tra, vừa mới thấp thoáng tìm được một tuyến, nhưng chúng quá giảo hoạt, nghĩa phụ, người nhất định phải cẩn thận."

Cố Quân nghe xong một lúc lâu không lên tiếng, trên mặt cũng không nhận ra là hỉ hay nộ, Trường Canh không làm ồn, chậm rãi cùng y ra khỏi Hộ Quốc tự, tiếng trống chiều trong tự vang lên, vang vọng trên núi, xa gần không một bóng quạ, sơn tuyết im lặng rơi.

Chung Thiền lão tướng quân có khả năng định quốc an bang, nhưng chẳng dạy nổi khanh tướng chi tài trị quốc an thiên hạ, trong lòng Cố Quân lần đầu tiên trỗi lên sự tiếc nuối vô cùng, thầm nghĩ: "Tại sao y phải mang họ Lý kia chứ?"

Nếu y không mang họ Lý, khoa cử nhập sĩ tất nhiên dễ như trở bàn tay, nói không chừng sớm đã một bước lên mây, tương lai có thể thành một danh thần trung hưng, mà không phải vài câu ít ỏi chỉ nói cho mình nghe trong ngôi chùa lụp xụp này, bày tỏ bản thân chỉ muốn làm một Vương gia nhàn tản như bình hoa bài trí.

... Đều là mệnh.

Trường Canh: "Thời tiết không tốt, nghĩa phụ mặc mỏng, trở về đừng cưỡi ngựa, ngồi xe của con đi."

Cố Quân đang thất thần, chợt nghe y lên tiếng, liền đột ngột nghiêng đầu, nào ngờ không kịp đề phòng gặp ánh mắt Trường Canh. Trong lòng Cố Quân bỗng nhiên "bộp" một phát, trước kia chưa bao giờ chú ý ánh mắt Trường Canh nhìn mình lại là như thế, đôi mắt ấy chuyên chú cực kỳ, hơi ánh một chút tuyết quang, như muốn chứa trọn cả người mình vào vậy.

Trường Canh thoạt đầu kinh ngạc, sau đó nhanh chóng nhìn đi chỗ khác, giấu đầu hở đuôi cúi đầu giũ giũ tay áo, tay áo y đã ướt, dính bết lên tay, Cố Quân lúc này mới phát hiện, nửa đầu vai Trường Canh đã bị tuyết phủ một lớp nước lạnh băng, nhưng y chẳng những không lên tiếng, còn chậm rãi tản bộ với mình.

Cố Quân đưa tay sờ thử thấy lạnh ngắt: "Ngươi..."

Y giơ tay như vậy, Trường Canh lập tức hơi căng thẳng, tuy chỉ là một tích tắc, song rốt cuộc không thể tránh được ánh mắt Cố Quân.

Cố Quân lúc riêng tư có chút không câu nệ tiểu tiết – cũng chính là vô tâm vô phế, mấy việc nhỏ nhặt rất ít lưu ý tới, thế nhưng sự xấu hổ sau đợt say rượu hôm ấy vẫn còn đây, khiến y không tự chủ được hơi mẫn cảm.

"Ảo giác sao?" Cố Quân kinh nghi bất định nghĩ thế, lên ngồi trên xe ngựa.

Trên xe đã đốt sẵn lò sưởi, Cố Quân liền dựa thành xe nhắm mắt nghỉ ngơi, trong lúc nửa ngủ nửa tỉnh, đột nhiên cảm giác được có người tới gần, y không mở mắt, sau đó cảm thấy Trường Canh đắp một tấm chăn mỏng lên người mình, nhẹ tựa một sợi lông vũ, giống như sợ đánh thức y – Thẩm Dịch trước nay toàn ném thẳng lên người y, dù là thân binh chu đáo nhất cũng không có động tác dịu dàng gần như che chở thế này.

Cố Quân lập tức chẳng còn buồn ngủ, vất vả nhắm mắt tiếp tục làm bộ, không dám nhúc nhích tẹo nào, cổ cứng đờ ra, luôn cảm thấy có đôi mắt đang dõi theo mình.

Trên đời đại khái không tâm sự nào có thể giấu đến thiên y vô phùng, chỉ là thiếu một chút thể nghiệm và quan sát cẩn thận tỉ mỉ thôi.

Sợi tơ trong lòng Cố Quân lặng lẽ căng lên, kế tiếp y không tự chủ được âm thầm quan sát Trường Canh, sau vài ngày, chẳng những không xua tan sự nghi ngờ lạ lùng, ngược lại càng cảm thấy kinh hồn táng đảm.

Ngoài việc này ra, y còn phải vừa lo nghĩ dung kim lệnh và Hoàng thượng tấn công chợ đen tử lưu kim, vừa vòng đường cứu Phụng Hàm công người cứng đầu bậc nhất Linh Xu viện, quả thực tâm lực đều mệt mỏi, khổ không tả nổi.

Hai mươi ba tháng Giêng, Cố Quân ở kinh giao tiễn Thẩm Dịch đến Tây Nam nhậm chức.

Hai mươi lăm tháng Giêng, Hoàng thượng đến ngự hoa viên, không biết làm sao mà long liễn nửa đường bị hỏng, nội thị vô tình nói một câu, khiến Hoàng thượng nhớ tới chuyện Phụng Hàm công quỳ dưới đất chạy thử long liễn hơi nước cho mình, lửa giận trong lòng liền tiêu quá nửa, dò la một chút, nghe nói lão đầu chỉ có một mình, mấy bữa nay hạ ngục, trừ các học trò Linh Xu viện đến thăm, ngay cả người nhà đưa cơm cũng không có. Hoàng thượng vừa vặn tâm trạng không tệ, nghe thế lại thấy hơi tội nghiệp lão già đó, liền thở dài, sai người thả Trương Phụng Hàm, chỉ phạt bổng nửa năm xem như trừng phạt, việc này coi như qua.

Giải quyết xong hai việc này, Cố Quân liền cảm thấy kinh thành này một ngày cũng không nán lại nổi nữa, lập tức dâng tấu xin quay về Lâu Lan.

Y quả thật cũng nên đi rồi, Hoàng thượng không có dị nghị gì, phê luôn hôm ấy.

Trước hôm đi, đêm đã khuya, Cố Quân mới uống thuốc xong đi nằm, mặc dù Trường Canh đã châm cứu một lúc cho y, nhưng dù sao chỉ làm giảm bớt, chứ không thể trị tận gốc chứng đau đầu, đương khi y trằn trọc khó ngủ, trong cung đột nhiên có người tới, truyền An Định hầu vào cung gặp thánh ngay trong đêm.

Không biết là tác dụng của dược vật hay là thế nào, mí mắt Cố Quân đột nhiên giật giật.

Minh kính đài tức đài trang điểm, đài trang điểm luôn được lau chùi sạch sẽ, do thường đặt gương ở đây mới có tên này. Sau vì một điển cố mà thành cách gọi khác của Phật tính.

Cố Quân vội vàng dậy mặc quần áo, vừa ra khỏi phòng, lại kinh ngạc phát hiện Trường Canh đang ở gian ngoài, vậy mà không ngủ, tựa hồ cũng vừa mặc thêm áo ngoài, tay cầm một ngọn đèn măng-sông bỏ túi to bằng hạt đậu, trên đầu gối còn một quyển sách xem một nửa.

Gian ngoài thông thường là nơi bọn hạ nhân hầu hạ ban đêm ngủ lại, Cố Quân đơn giản quen, không để lại người canh đêm, chỉ có lão quản gia nửa đầu đêm thi thoảng tới, thêm lửa thêm than cho trong phòng.

"Trường Canh?" Cố Quân ngạc nhiên nói, "Sao ngươi ở đây? Ta tưởng Vương bá..."

Trường Canh: "Con chờ người ngủ rồi lại đi."

"Ngươi đường đường Quận vương ngọc điệp," Cố Quân nhíu mày, ẩn ý nói, "Hạ mình ở nơi của hạ nhân, còn ra thể thống gì nữa?"

"Hư danh mà thôi, còn không tự tại bằng làm hạ nhân cho nghĩa phụ," Trường Canh nhàn nhạt nói, đứng lên lấy cái ấm nhỏ trên noãn lô đỏ rực, rót một chén trà thuốc đưa cho Cố Quân, "Vào cung ạ? Nếu người không chịu mặc áo lông, ít nhất phải uống một ít trước cho ấm."

Cố Quân: "..."

Trong lòng y rất đỗi phiền muộn, cưới vợ chắc cũng chẳng chu đáo bằng Trường Canh, ý nghĩ này vừa sinh ra, y liền tự tát mình một cái ở trong lòng, thầm nghĩ: "Khốn nạn, tẩu hỏa nhập ma rồi à?"

Cố Quân nhận chén trà thuốc kia uống một hơi cạn sạch, lúc trả chén ngón tay hai người không cẩn thận chạm phải nhau, Trường Canh rụt phắt về như bị kim đâm, lập tức lại điềm nhiên như không quay người bỏ ấm xuống chỗ cũ.

Cố Quân nhìn bóng lưng y, ánh mắt hơi tối đi, nghĩ thầm: "Không thể tiếp tục như vậy được, chờ vào cung trở về, vô luận thế nào ta cũng phải thẳng thắn nói chuyện với y."

Bên ngoài cung nhân đang thúc giục, Cố Quân không tiện trì hoãn thêm, chỉ đành vội vàng đi theo.

Tháng Giêng đêm khuya sương giá, cái đầu vốn hơi xây xẩm của Cố Quân bị gió lạnh thổi, tỉnh táo lại như vừa châm cứu vậy.

Nội thị dẫn đường đầu cũng không dám ngẩng lên, đi dưới tường cung, vài ba bước lại có một trạm canh gác gắn đầy nỏ kỳ lân, đều là đầu thú chỉnh tề, mặt mũi dữ tợn, trong răng nanh u u bốc khói trắng, bánh răng ở cổ chậm rãi chuyển động, phát ra tiếng ma sát như gầm rú, làm tường son ngói lưu ly trước mắt càng uy nghiêm đến không thể nhìn gần.

Đèn cung đình vĩ đại đu đưa trên không, mông lung phủ một tầng khí mù mịt, không thấy tiên khí, ngược lại âm trầm như có quỷ khí vậy.

Chúc Chân Nhỏ nội thị hầu hạ cận thân Hoàng đế Long An dẫn mấy người từ Tây noãn các đi ra, vừa vặn chạm mặt Cố Quân, đó là mấy người Tây Dương, người cầm đầu tóc bạc trắng, cao gầy vàng võ, ngũ quan cực giống ưng săn mồi, có ánh mắt bức người, sống mũi cao thẳng mà khoằm, cơ hồ không nhìn thấy môi, chỉ có một đường nhỏ như vết đao.

Chúc Chân Nhỏ vội tiến lên một bước, thi lễ nói với Cố Quân: "Hầu gia – mấy vị này là sứ giả do Giáo hoàng đại nhân phương Tây phái tới."

Nam tử tóc bạc ngắm nghía Cố Quân, mở miệng hỏi: "Vị này chẳng lẽ chính là An Định hầu các hạ sao?"

Cố Quân bị bám một lớp tuyết mỏng trên lông mi, cả người phủ một tầng hàn ý, lãnh đạm chắp tay.

Nam tử tóc bạc trái lại hết sức trịnh trọng đặt tay trước ngực, khom người nói: "Không ngờ An Định hầu là người trẻ tuổi anh tuấn như thế này, hạnh ngộ."

Cố Quân: "Quá khen!"

Hai tốp người đi lướt qua nhau, chờ người Tây Dương đi xa rồi, Cố Quân mới nhìn Chúc Chân Nhỏ một cái.

Chúc Chân Nhỏ nháy mắt nói: "Mấy tên mũi lõ ban nãy không biết nói gì với bệ hạ, mà bệ hạ lần này hưng trí rất cao, luôn miệng bảo họ đi mời Hầu gia đến, Hầu gia yên tâm, không phải chuyện xấu đâu."

Lão thái giám này tiếng xấu vang khắp thiên hạ, là một lộng thần nịnh hót danh xứng với thực, nhưng quan hệ với Cố Quân cũng được, coi như là nhìn Cố Quân lớn lên, có một lần không biết hắn chọc giận gì tiên đế, vừa vặn Cố Quân bắt gặp, thuận tiện nói giúp vài câu, giữ cho hắn cái mạng nhỏ.

Chúc Chân Nhỏ mặc dù nhân phẩm tệ hại, nhưng bất ngờ là tri ân báo đáp, vẫn ghi nhớ chút ân nghĩa này, chuyện cứu Trương Phụng Hàm vài hôm trước, cũng là nhờ hắn ở bên trong giúp đỡ một chút.

Song hắn vừa nói như vậy, Cố Quân ngược lại không dám yên tâm.

Nếu Hoàng thượng không vui lắm, trong lòng y đại khái còn nắm được một chút – quá nửa là có người tố tội y từng tự mình mua tử lưu kim từ chợ đen.

Tố thì tố, dù sao Cố Quân đã cho người xử lý sạch sẽ, không có bằng chứng, cùng lắm là đánh trận bằng miệng một phen... Nhưng Hoàng thượng "hưng trí rất cao" lại là thế nào?

Mí mắt Cố Quân giật càng nhanh hơn.

Lúc y đi vào, Lý Phong đang cúi đầu xem một phong tấu chương. Hoàng đế Long An dưới đèn quả thật không được khí vũ hiên ngang cho lắm, còn tiều tụy hơn Cố Quân vừa đau đầu vài phần, không đợi y làm lễ chào hỏi, Lý Phong đã khoát tay, vui vẻ nói: "Nơi này đâu có người ngoài, hoàng thúc không cần đa lễ với ta."

Lý Phong lại quay sang Chúc Chân Nhỏ: "Đi hỏi xem canh sâm lúc tối còn không, bưng một bát cho hoàng thúc làm ấm tay."

"Vô sự mà nịnh bợ," Cố Quân than thầm trong bụng, "Không gian thì đạo mà."

Lý Phong không biết trong lòng y nghĩ gì về mình, thần sắc khá thoải mái hỏi: "Ta nhớ lần trước hoàng thúc từng nói, tử lưu kim của phản tặc Phó Chí Thành một phần là đến từ Nam Dương?"

Cố Quân: "Vâng, thứ cho thần vô năng, không thể điều tra rõ nguồn gốc của số tử lưu kim này."

Lý Phong không lấy làm giận: "Không sao, đám phản tặc đó đều rất gian xảo, hoàng thúc không quen địa hình, trong lúc vội vã có thể đại phá mật đạo tặc nhân, nhất cử bắt gọn bọn chúng, đã là công lớn rồi, nếu ngươi cũng tự xưng vô năng, cả triều văn võ chẳng phải bỏ đi hết?"

Cố Quân không rõ trong hồ lô của hắn bán thứ thuốc gì, vội nói không dám.

"Chợ đen tử lưu kim trong nước thật sự quá hung hăng ngang ngược," Lý Phong đổi giọng, nhanh chóng nói đến chính đề, "Trẫm gần đây đang phái người cải trang điều tra, phát hiện một phần rất lớn nguồn cung cấp lại đều đến từ ngoài nước."

Cố Quân vừa nghe là hiểu, đám quan lại tuồn hàng ra ngoài đại khái đã thông qua các con đường nhận được tin tức, lần lượt án binh trông chừng, bọn Giang Sung tra được đều là đám tép riu lén đào mỏ, liền không tiếp lời.

Lý Phong: "Hoàng thúc thường đi lại vùng biên cương, kiến thức nhiều hơn những kẻ ếch ngồi đáy giếng cả ngày ở kinh thành như chúng ta, có biết bọn đào lén quặng này bình thường hay ẩn hiện ở nơi nào không?"

Cố Quân: "Bẩm Hoàng thượng, bình thường đều ở trên thảo nguyên của người Bắc man."

"Không sai," Lý Phong nở nụ cười, "Chỉ là chưa nói hết – hoàng thúc mau đến xem cái này."

Cố Quân do dự nhận mật tấu Lý Phong ném cho, đọc lướt rất nhanh, trong đầu tức khắc "Uỳnh" một tiếng.

Chỉ thấy mật tấu kia liệt ra tỉ mỉ mấy tuyến đường đào quặng buôn bán tử lưu kim, hầu hết Cố Quân đều nắm được, chỉ trừ dòng cuối cùng – trên đó viết rõ "Lâu Lan quốc".

Sao lại có Lâu Lan được?

Cố Quân ở Huyền Thiết doanh lối vào con đường tơ lụa đóng quân ngay cạnh Lâu Lan quốc, chưa bao giờ nghe nói trong nhà đám ngốc chỉ biết uống rượu ca hát kia có tử lưu kim...

Mật tấu này từ đâu tới?

Mật sứ dâng tấu có mục đích gì?

Lý Phong: "Thế nào?"

Trong lòng Cố Quân chớp mắt lướt qua vô số ý nghĩ, mồ hôi lạnh sắp túa ra: "Hoàng thượng, Huyền Thiết doanh làm láng giềng với Lâu Lan quốc nhiều năm, chưa từng biết ở Lâu Lan quốc có quặng tử lưu kim, thứ cho thần thất lễ, xin hỏi tấu này là do ai trình lên? Có căn cứ gì?"

"Ôi, sao hoàng thúc còn đa tâm thế," Lý Phong cười nói, "Trẫm đâu nói ngươi có liên hệ với bọn đạo tặc đào trộm mỏ, nhưng việc này ngươi không biết cũng không lạ."

Cố Quân hít sâu một hơi, miễn cưỡng kiềm chế, ra vẻ rửa tai lắng nghe.

Lý Phong: "Chuyện này kể ra dài lắm, tháng Chín năm ngoái hoàng thúc dẫn người đến Nam Cương, lúc ngươi vắng mặt, Lâu Lan quốc cầu viện tướng sĩ Huyền Thiết doanh lưu thủ, muốn vây tiễu một bọn sa phỉ, lúc ấy tham tướng Khưu Văn Sơn phái binh đến, sau đó giành được toàn thắng, bắt giết sa phỉ trên dưới một trăm tên, còn cứu một nhóm khách thương Thiên Trúc bị sa phỉ bắt giữ. Do nhóm khách thương này có văn điệp thông quan của Đại Lương ta, Khưu tướng quân liền hộ tống họ đến trạm dịch Tây khẩu – không ngờ trạm dịch lại phát hiện văn điệp của đám thương nhân này là giả."

Lý Phong tâm tình vô cùng tốt, nói đến đây cố ý dừng lại như để gây tò mò, nào ngờ quay đầu lại chỉ thấy Cố Quân lắng nghe với thần sắc nghiêm trọng lạ thường, không hề định truy hỏi, Hoàng đế cũng không khỏi hơi bực mình.

Hắn đành phải mất vui tiếp tục: "Theo luật, kẻ ngụy tạo văn điệp thông quan nên chuyển giao cho đô hộ sở điều tra xử trí, Tây Bắc đô hộ tra mới biết, thì ra mấy người Thiên Trúc này không phải thương đội, mà là một bọn 'kim đấu tử' trên chợ đen tử lưu kim!"

"Kim đấu tử" chính là hạng vong mạng buôn lậu tử lưu kim.

"Cũng vừa đúng lúc, mật sứ của trẫm mới đến Tây Vực, chân chưa đặt xuống, bọn 'kim đấu tử' này đã đâm đầu vào tay. Theo bọn tặc nhân này khai, chúng vốn hoạt động trong quặng lậu ở ngoài Bắc đại quan, gần đây mới có một tấm 'tàng bảo đồ', chỉ ra dưới lòng đất Lâu Lan quốc có hàng loạt quặng tử lưu kim, bèn đến thử vận may. Ngươi nói chuyện này có kỳ lạ không, trẫm lại biết rõ dưới lòng đất chỗ họ có cái gì trước cả chính người Lâu Lan."

Cố Quân chợt nhớ tới bọn sa phỉ bắt được bốn năm trước, lông tơ dựng hết lên.

Đám sa phỉ ấy sớm đã bị y và Thẩm Dịch bí mật diệt khẩu, sau đó Cố Quân không chỉ một lần phái người ngầm điều tra Lâu Lan quốc, không tìm được cái gọi là "quặng tử lưu kim", cũng không đụng trúng chuyện tương tự nữa.

Nào ngờ qua vài năm, ngay khi việc này dần dần bị y lãng quên, nó lại bị lật ra với hình thế này!

Hơn nữa... Tại sao người hạ lệnh xuất binh là Khưu Văn Sơn?

Khưu Văn Sơn là một vị tham tướng chủ quản bố phòng của Huyền Thiết doanh, chưa từng tiếp xúc với chuyện thương lộ, nếu không thay bằng một người có kinh nghiệm, trong tình huống chưa xác minh văn điệp thật giả, quyết sẽ không trực tiếp chuyển giao người đến đô hộ sở Tây Bắc – đô hộ sở Tây Bắc trực thuộc trung ương, một khi chuyển giao, Huyền Thiết doanh sẽ không có quyền can dự vào công việc tiếp sau đó.

Cố Quân dẫn Thẩm Dịch đi, nhưng đốc kỵ của tam đại doanh đều còn đó, lúc ấy mọi người đã đi đâu hết?

Cố Quân: "Thần cả gan hỏi bệ hạ, chuyện sa phỉ xâm lấn là khi nào?"

Lý Phong nói: "Cuối năm ngoái, sao thế?"

Cố Quân miễn cưỡng nở nụ cười: "Không có gì, chỉ là thần thấy hơi lạ, Tây Vực sa phỉ quét sạch đã lâu, vì sao lại đột nhiên chui đầu ra?"

Đầu y càng đau hơn, giống như sức thuốc bị Trường Canh dùng châm cứu áp chế lại trỗi lên – đúng rồi, cuối năm trên lối vào con đường tơ lụa có họp chợ của vạn quốc, Huyền Thiết doanh phải tăng phái nhân thủ hộ vệ, cống hàng năm của Bắc cương qua Tây Bắc vận chuyển đến đế đô, thông thường cũng sẽ điều tạm một phần huyền kỵ... Thế nên mọi người đều bị phái đi hết.

Vì sao lại đúng vào lúc này?

Vì sao đô hộ sở Tây Bắc mới vừa tra ra "kim đấu tử", mật sứ của Hoàng đế Long An đã đến liền, khiến ngay cả đường xoay xở cũng không có?

Hơn nữa, đủ các chuyện trong đây, vì sao trước đó y không nhận được một chút tin tức?

Đầu óc Cố Quân nhất thời hỗn loạn, trong noãn các bốn mùa như xuân chợt hơi ngột ngạt.

Lý Phong nói: "Sa phỉ Tây Vực bình thường loanh quanh ngoài Đại Lương, các ngươi không nhận được cầu viện cũng không tiện xuất binh, quả thật không dễ xử lý. Trẫm hôm nay đặc ý tìm hoàng thúc đến, không phải muốn hỏi bên kia có bao nhiêu sa phỉ, mà là muốn giao cho hoàng thúc một việc quan trọng."

Cố Quân ngẩng đầu lên nhìn hắn.

Lý Phong ánh mắt như lửa: "Mật sứ của trẫm hiện tại đã cải trang xâm nhập cảnh nội Lâu Lan, chỉ sợ tám chín phần mười là dưới lòng đất Lâu Lan quả thực có một quặng tử lưu kim hiếm thấy... Hoàng thúc hiểu ý trẫm chứ?"

Lòng Cố Quân từ từ chùng xuống, y ngắt từng chữ nói: "Thứ cho thần ngu dốt, xin Hoàng thượng chỉ rõ."

Lý Phong vỗ vai y, người Cố Quân phảng phất vĩnh viễn không ấm nổi, tùy lúc tùy nơi đều như một tảng đá đông lạnh ba ngày trong hàn băng.

"Ta nói thật lòng với hoàng thúc, trước mắt Đại Lương loạn trong giặc ngoài, hoàng thúc biết đấy," Lý Phong thở dài nói, "Trẫm rất lo lắng, nửa đêm tỉnh mộng không nơi để kể, trên người đè một giang sơn như vậy thực không dễ dàng gì."

Cố Quân cẩn thận cân nhắc từ ngữ một chút, uyển chuyển nói: "Hoàng thượng trăm công nghìn việc, là niềm hi vọng của vạn dân, nhất thiết phải bảo trọng long thể. Thần không rành chính vụ, nhưng mấy năm nay nhìn con đường tơ lụa từ từ kiến thành, mỗi năm đều sục sôi hơn, đại thương nhân Tây Bắc cũng bắt đầu đi ra ngoài, bách tính Trung Nguyên xưa nay cần cù thật thà, thần nghĩ chẳng qua dăm ba năm, sự phồn hoa này có thể lan rộng ra toàn cảnh Đại Lương, đến lúc đó..."

Y nói khéo léo, nhưng Lý Phong không ngu, đương nhiên hiểu y muốn cự tuyệt.

Hoàng đế Long An vốn hưng trí cực cao triệu Cố Quân tới, nào ngờ y ngay cả một câu xu nịnh cũng không có, mở miệng hắt ngay một chậu nước lạnh.

"Cố khanh," Lý Phong đột nhiên thay đổi xưng hô, không khách khí cắt ngang, "Ngươi quả thật không rành chính vụ. Thương lộ thông thương qua lại, mấy năm nay đúng là kiếm được tiền, nhưng ngươi có thể cam đoan sẽ tiếp tục như vậy mãi sao? Chuyện của dân buôn bán, ngươi nói rõ được à? Trẫm trái lại không biết, An Định hầu ngoại trừ có thể ra trận giết địch, còn hiểu đạo lui tới trên thương thị."

Cố Quân biết, nghe thấy hai chữ "Cố khanh", y nên lập tức câm miệng lĩnh chỉ, đi làm việc cần làm.

Y nhất thời trầm mặc, ngọn đèn măng-sông phía sau Hoàng đế không biết cớ làm sao, đột nhiên hỏa lực bất ổn bùng lên một chút, "tách" một tiếng nhỏ.

Cố Quân nghĩ, độ trước hình như mình còn thề thốt với Giang đại nhân là "không dám coi thường thân này".

Lý Phong day ấn đường, dằn cơn giận xuống, tìm lối thoát cho cả hai, gượng gạo nói: "Thôi, ngươi về nghỉ ngơi trước đi, việc này trẫm giao cho ngươi, trở về hãy nghĩ kỹ, hiện giờ chưa vào xuân, Tây Bắc trời lạnh đất đông, ái khanh không cần vội vã về đó..."

"Hoàng thượng." Cố Quân thoáng nhắm mắt, đột nhiên vén vạt áo quỳ xuống – y từng nói không tranh nổi nóng và nghĩa khí, nhưng đây há là việc của nổi nóng và nghĩa khí?

"Hoàng thượng thứ tội," Cố Quân chậm rãi nói, "Tử lưu kim cố nhiên trọng yếu, nhưng thứ cho thần ngu dốt, không thể hiểu thâm ý của Hoàng thượng trong lần hành động này, con đường tơ lụa hiện giờ thái bình phồn hoa không hề dễ, Hoàng thượng thật sự muốn vì một chút tử lưu kim có lẽ có mà vứt nó không ngó ngàng ư?"

"Con đường tơ lụa có thể có hôm nay, Cố khanh không phải không có công, trẫm cũng biết tâm huyết nhiều năm, ngươi không nỡ... Chẳng lẽ trẫm thì không đau lòng à?" Lý Phong kiên nhẫn phân tích, "Nhưng một quốc gia rộng lớn, cũng giống một căn nhà đổ nát bốn phía gió lùa, hơi có mưa gió, thì trẫm sẽ phải mệt mỏi dỡ tường đông vá tường tây, chỗ nào không giật gấu vá vai?"

Cố Quân cười khẩy trong bụng, trên mặt không tiện thể hiện, đành phải ra vẻ hờ hững.

"Mặt đất lạnh, ta thấy sắc mặt hoàng thúc không tốt, dược khí trên người chưa tan, không nên quỳ mãi." Lý Phong thần sắc dịu đi, định nói lý lẽ với Cố Quân, "Trẫm nhớ hồi nhỏ Lâm thái phó từng giảng, lực của một quốc gia, không ngoài 'trời ban' và 'người tạo', hoàng thúc còn nhớ chứ?"

Cố Quân: "Thần nhớ, ông ấy nói 'trời ban sơn xuyên cỏ cây, thóc gạo thú cá, lưu kim dưới đất; bởi vì đó là lời của thánh nhân, công kiến kỹ nghệ, hỏa cơ cương giáp, hai cái này như xà như cột, có thể có một, không thể gãy hết, người làm vua nên ghi vào lòng'."

"Hoàng thúc quả thật xem qua là nhớ," Lý Phong hạ mắt xuống nhìn y, "Hiện giờ hai cái xà cột này đều bị mọt gặm rỗng, trẫm phải làm thế nào đây?"

Kỳ thực Cố Quân rất muốn nói rằng "Nếu ngươi không thi hành chưởng lệnh pháp vớ vẩn kia, không chừng cũng chẳng có lắm mọt như vậy", nhưng nói cũng vô dụng, Phụng Hàm công đang phải ôm cẩu nhi tử đóng cửa tự kiểm điểm kìa.

Một hỏi một đáp làm Lý Phong nhớ tới chuyện lúc trẻ hai người cùng đọc sách, Cố Quân hồi nhỏ thân thể không tốt, suốt ngày đau bệnh uống thuốc, tính tình rất tệ, cũng chẳng thèm để ý đến ai, nhưng đối với mấy huynh đệ họ lại rất có tự giác của người làm "thúc thúc", dù rằng y còn nhỏ hơn Ngụy vương, nhưng có cái gì ngon miệng hay chơi được, đều giữ lại cho họ, chưa từng tranh giành, hơn nữa hữu vấn tất đáp, hữu cầu tất ứng, Lý Phong từng cực kỳ thích y.

"Mau đứng lên đi," Chút giận dữ cuối cùng trên mặt Lý Phong cũng biến mất, "Hoàng thúc là vũ khí của quốc gia, trẫm còn phải dựa vào ngươi bình định tứ phương mà."

Cố Quân nghe vậy, chậm rãi cúi người, trán hơi chạm đầu ngón tay mình đang chống xuống đất.

Lý Phong thở phào, cảm thấy xem như thuyết phục được người này rồi – Cố Quân những năm gần đây đối nhân xử thế càng khôn khéo, cũng đủ thức thời, không còn như mấy năm trước chạm vào là nổ, vừa rồi không biết nặng nhẹ chống đối, đại khái cũng là nghe thấy hai chữ "Lâu Lan" nên có chút phản ứng quá khích mà thôi...

Lâu Lan ư, ở bên đó hơn năm năm, tình cảm chắc hẳn sâu đậm, không phải là không thể hiểu.

Vừa nghĩ thế, Lý Phong lại mềm lòng đi không ít, thậm chí định tự mình đỡ Cố Quân dậy.

Nào ngờ hắn còn chưa đưa tay ra, Cố Quân đã đứng thẳng dậy, bình tĩnh nói: "Hoàng thượng, Lâu Lan tuy nhỏ, nhưng luôn luôn hữu hảo với triều ta, năm ấy Tây Vực đa quốc phản loạn, quân ta bị bao vây ở nơi cát vàng gò hoang hơn hai mươi ngày, duy nhất báo tin cho ta, lén vận lương thảo dược vật chính là người Lâu Lan, sau đó Tây Dương, Tây Vực, Thiên Trúc các nước ký kết hiệp ước con đường tơ lụa với Đại Lương ta, Lâu Lan cũng ở trong đây-"

Tay Lý Phong giơ ra giữa chừng khựng lại đó, hắn thoạt tiên sửng sốt, lập tức giận dữ quát: "Đủ rồi!"

"Do thèm muốn vật của nước khác, mà dấy binh xâm phạm, chính là bất nhân; ném phăng cựu ân, hủy ước bội tín, chính là bất nghĩa!" Cố Quân chẳng mảy may định đủ rồi, từng chữ như đao, nện thẳng xuống nền kim điện noãn các.

Lý Phong tức đến run lên: "Im miệng!"

Hắn chuyển tay phất qua văn phòng tứ bảo trên bàn, thuận tay cầm một nghiên mực vuông, hung tợn ném tới, Cố Quân không né tránh, mặc nghiên mực kia đập mạnh lên khinh giáp trên vai, "Choang" một tiếng, mực còn chưa khô từ phần ngực triều phục gấm hoa của An Định hầu chảy xuống.

Lý Phong: "Cố Quân, ngươi muốn làm gì?"

Cố Quân mặt không đổi sắc nói hết lời: "Quân đội bất nhân bất nghĩa không thể may mắn, Huyền Thiết doanh năm vạn tướng sĩ, mặc dù không sợ chết, cũng không dám phụng triệu, xin Hoàng thượng thu hồi mệnh lệnh."

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenFun.Vip