Nguoc Ve Thoi Minh Lam Vuong Gia Full 361 385

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng
Chương 361: Chiến thắng Tử Cấm đỉnh

Bố trí trên kim điện nghìn năm không đổi. Bách quan trên triều cũng không thay đổi, ánh mặt trời ngoài điện, mùa xuân về trăm hoa khoe sắc, bầu không khí trong lành, tất cả đều vẫn đẹp như vậy. Nhưng Lưu Cẩn lại thực sự cảm thấy có một luồng sát khí, một luồng hận ý của vô số người ngưng tụ lại thành sát ý.

Hoàng đế ngồi trên ghế cao, văn võ bách quan cũng theo lễ nghĩa, cùng hô vạn tuế đã xong. Lưu Cẩn còn có chút hoảng hốt. Trương Thái thấy y có chút tâm hồn bất định. Ti điện thái giám liên tiếp hỏi hai lần câu "có chuyện khởi tấu, không chuyện bãi triều" y cũng không có phản ứng gì, trong lòng quýnh lên, bước lên trước một bước nói:

- Hoàng thượng, thần có bản tấu. Cục thế Bá Châu phản loạn ngày càng căng thẳng, dân chúng đều phiêu bạt khắp nơi. Có những nạn dân đã chạy vàokinh. Hưởng mã đạo hoàng hành dữ dội, tất cả đều vì Uy Quốc công Dương Lăng đối với hành động chiêu hàng phản nghịch cuồng vong không chịu hối cải này mà dẫn tới nuôi hổ thành họa. Thần cho rằng, bên trong phải nghiêm khắc giết Dương Lăng, bên ngoài bình định phản loạn để an ủi lòng dân. Tội của Uy Quốc công rất rõ ràng, hoàng thượng không thể từ bi thêm nữa, nên lấy giang sơn xã tắc làm trọng.

Đám người Lưu Vũ đồng loạt quỳ gối, khẳng khái trần từ, phần lớn đều là Dương Lăng không chết, kỷ cương bại hoại, mất đi lòng dân, mà thế phản loạn khó bình.

Từ tận đáy lòng Chính Đức không cho tội danh này là đúng. Tứ Đại Khấu Đông Hải cũng là Dương Lăng chiêu hàng. Bây giờ vùng duyên hải yên ổn, có không ít công lao của những người này. Nếu tất cả đều chỉ vào triều đình từ đầu tới cuối luyện binh, làm thuyền mới, vậy thì tốn bao nhiêu ngân lượng? Hưởng mã đạo Bá Châu mấy trăm ngươi, trời biết họ có thể gây loạn tới mức như vậy?

Nhưng y là Hoàng đế, Bá Châu phủ xảy ra chuyện lớn như vậy, tất có người phải đứng ra gánh vác trách nhiệm. Đây không chỉ là cho người dân một câu trả lời thỏa đáng, cũng là kỷ cương triều đình. Nếu không sẽ kích động thanh thế đại loạn lớn hơn nữa, người liên quan không bị chế tài. Bách quan lại học theo đó, không sợ quốc pháp, không sợ kỷ cương. Uy tín của triều đình sẽ không còn lại gì nữa rồi.

Chính Đức thầm thở dài: "Dương khanh vốn là phụng chỉ kê biên tài sản, quản lý thêm nhiều việc nữa tất cả đều là vì lòng trung thành. Đáng tiếc, những tên hưởng mã bất tuân đó lại gây nhiễu loạn như hiện giờ, phải làm thế nào đây? Quần thần muốn trấn an, lòng dân muốn trấn an, kỷ cương không thể không tuân theo .... Hay là .... Phạt nửa năm bổng lộc? Liệu có nhẹ quá không?"

Chính Đức không nghĩ ra dược ý kiến nào, không khỏi liếc mắt nhìn Tiêu Phương, thấy lão nhìn không chớp mắt, đứng im lặng, trong lòng có chút tức giận, hung hăng lườm lão một cái.

Hai ngày nay nhất phái Lưu Cẩn vẫn luôn chú ý, chỉ cần đề cập tới chuyện trừng trị Dương Lăng, đám người Tiêu Phương sẽ như đám lửa bốc lên, xông vào thảo luận. Cách này sử dụng một ngày, Chính Đức sẽ kéo dài hơn nữa. Hôm nay Tiêu Phương không lên tiếng, không phải vì cổ họng bị câm rồi sao? Lão già này gì cũng không hiểu, trở về nhà ngươi cũng không phải là uống quả lười ươi rồi chứ? Vô dụng!

Lý Đông Dương nhìn sắc mặt y, cười thản nhiên, bỗng bước ra khỏi hàng tấu:

- Hoàng thượng, thần có bản tấu. Việc đã tới nước này rồi, do phản tặc Bá Châu gây loạn, muốn dâng tấu lên Hoàng thượng.

Cuối cùng cũng có người ra mặt. Chính Đức thở phào nhẹ nhõm, thẳng người lên mỉm cười:

- Lý tiên sinh cứ nói đừng ngại.

Lý Đông Dương nghe thấy thế, hai mắt bỗng ươn ướt xúc động. Ngày xưa, chỉ có Hoằng Trị Đế không xưng thần, mà gọi nội các tam lão là tiên sinh, điều đó đều rất lâu rồi. Khó mà có được những lời tôn trọng của Hoàng đế. Lý Đông Dương trấn tĩnh cơn xúc động, cúi người nói:

- Hoàng thượng. Phản loạn Bá Châu, hưởng mã đạo tung hoành ở các phủ đạo, trong vòng mười mấy ngày đã có hàng trăm người gia nhập vào làm số người phản loạn lên tới hàng ngàn người. Hơn nữa còn đi khắp nơi chiêu binh mãi mã, dán cáo thị rộng rãi mua chuộc lòng dân. Ở đây thần có một bản cáo thị an dân chiêu binh của một tên tặc xưng Triệu Hoài Trung viết. Nội dung nói lý do hưởng mã đạo tạo phản, trình lên Hoàng thượng.

- Cáo thị an dân chiêu binh?

Trong lòng đám người Lưu Cẩn bỗng thấy kinh sợ, nhìn lão hồ ly đó từ từ lấy một tờ giấy trắng chỉnh tề từ trong tay áo ra, trong lòng ai nấy đều căng như dây đàn.

Hoàng đế Chính Đức cười lạnh nói:

- Tặc tử không an phận, phản lại Trẫm còn tạo ra lý do gì? Mang lên đây, Trẫm muốn xem xem chúng nói những gì!

Đỗ Phủ liền bước xuống bậc thềm, lấy tờ cáo thị đó từ tay Lý Đông Dương, quay trở lại cung kính đưa cho Chính Đức. Văn võ toàn triều thấy rõ mà không nhìn rõ, vẫn nghển cổ nhìn về phía đó.

Chính Đức liền lấy tờ giấy trắng ra, vẻ mặt cười lạnh, nhưng khi mở tờ cáo thị đó ra, nụ cười trên mặt bỗng dần biến mất. Y nhíu chặt hai mày lại, cuối cùng "rầm" một cái vỗ long thư án, tức giận quát:

- Khốn kiếp! Bọn đám hưởng mã đạo dám vơ vét bắt cóc tống tiền. Lương Hồng thân là trấn thủ, nhưng lại còn ác độc hơn cả bọn hưởng mã đạo, "giặc trong giặc"! Lời này của Triệu Hoài Trung quả không sai. Hóa ra là hắn ta bị ép làm phản, lại còn giá họa cho Dương Thị Độc, người này quả thực là đáng chết!

Ban đầu Lý Đông Dương còn ngây người ra, sau đó thở dài, chắp tay nói:

- Hoàng thượng, đây chính là lý do bọn hưởng mã đạo hàng rồi lại phản. Sau đó còn có 30 đại tội, 60 tội nhỏ mà Triệu Hoài Trung đã liệt kê ra. Từng tội từng tội đều trực tiếp kiện ti lễ thái giám Lưu Cẩn, cho nên tờ cáo thị này ra đời, bách tính đều hưởng ứng, phản loạn ngày càng mở rộng.

Lưu Cẩn trên triều hôm nay là chỉnh Dương Lăng, không ngờ lại bị Lý Đông Dương xoay chuyển tình thế, đổ hết lên đầu y. Lưu Cẩn giận tím mặt, bước lên phía trước một bước nói:

- Làm gì có lý này! Lời của phản tặc cũng đáng tin sao? Nếu như vậy, từ nay về sau có kẻ tạo phản chỉ cần chỉ ra là quan bức bách, lại chụp tội lên đầu thần tử trong triều, triều đình đó liệu có phải là đang giúp phản tặc không? Truy sát đại thần tạ tội không?

Lý Đông Dương cười thản nhiên, nói:

- Lưu công công, bổn quan chỉ là mang tờ cáo thị của phản tặc dâng lên Hoàng thượng, công đạo tự ở lòng dân, hà tất ông lại kích động thế? Sự việc rốt cuộc là thế nào, cuối cùng cũng phải tra ra manh mối, ai nói là chỉ dựa vào tờ cáo thị của phản tặc để định tội chứ?

Lưu Cẩn bị ứ họng lại, Lưu Vũ liền bước ra, điềm nhiên nói:

- Lý Đại học sỹ, tờ cáo thị này của phản loạn, từ đâu mà ngài có?

Lý Đông Dương mỉm cười nói:

- Lưu Thượng thư muốn nói gì?

Lưu Vũ liền hừ một tiếng nói:

- Hạ quan thẹn vì Binh bộ Thượng thư nắm quyền chiến sự, về chuyện này lại không rõ chút nào. Đại học sỹ nội các thủ phụ, không biết tờ cáo thị này là từ đâu tới? Nếu có quan viên địa phương dâng tấu, phải qua Thông chính ti, Ti lễ giám trình lên Hoàng thượng. Hành động hôm nay của Đại học sỹ, cho thấy lai lịch bất chính, hành động lén lút, giống như sớm có âm mưu rồi, hay là chủ yếu là nhằm vào Lưu công công?

Lý Đông Dương bật cười ha hả, vuốt râu nói:

- Lưu Thượng thư sai rồi. Cáo thị này của bổn quan chính là tới từ Binh bộ. Còn về phần đi không theo quỹ đạo bình thường, tự cất trong áo, trước mặt Hoàng thượng cũng là bất đắc dĩ mà thôi.

Lưu Vũ kinh ngạc, thất thanh nói:

- Vật quan trọng như vậy, sao ta chưa từng nhìn thấy?

Lý Đông Dương phất ống tay áo một cái, nói:

- Tờ cáo thị này là môn sinh thiên tử, tổng binh Ngoại tứ gia quân tướng quân Hứa Thái khi truy sát phản tặc, chiếm được trấn huyện, báo cáo lên Binh bộ, thị lang Dương Nhất Thanh đại nhân nhận được cáo thị này biết chuyện đã lớn rồi, không dám giấu diễm, nên giao lại cho bổn quan.

Lưu Vũ đỏ bừng mặt lên nói:

- Chuyện này không hợp quy tắc. Sao ông ta nhận được cáo thị lại không bẩm tấy cho bổn quan biết? Sao lại thông qua Thông chính ti dâng lên Hoàng thượng? Rõ ràng là các người thông đồng với nhau, âm mưu hãm hại.

Hoàng thượng Chính Đức nghe thấy họ bắt đầu cãi nhau, không nhịn được nữa lên giơ tờ cáo thị lên nói:

- Không cho ngươi biết là đúng. Không qua Thông chính ti cũng là đúng. Trên tờ cáo thị này của tên Triệu Hoài Trung gì đó, điều thứ 6 của 30 đại tội: "Kết bè kết đảng, lấy công thiên hạ làm tư thiên hạ, Lưu Vũ, Tào Nguyên. Lưu Vũ nịnh nọt..." Cáo chính là ngươi. Dương Nhất Thanh đương nhiên không dám đưa cho ngươi rồi. Điều thứ 8: "Một tay che trời, Thông chính ti sắp xếp, Ti lễ giám độc chiếm đại quyền, lừa dối thiên tử, bức bách bách quan ...". Điều này Dương Nhất Thanh không thông qua Thông chính ti cũng là đúng. Ừ! Người này làm việc rất có cân nhắc.

Những lời này được nói ra từ miệng y, dường như chẳng có chuyện gì vậy nhưng lại khiến cho những người được đọc tên ra sợ đến mức hồn siêu phách lạc. Chính Đức còn chưa nói xong, Lưu Cẩn đã quỳ xuống phía trước, hai đầu gối chạm đất, mặt cúi sát nền nhà, bái lạy:

- Lão nô oan ... uổng!

Cùng với những người được Chính Đức đọc tên ra đều quỳ xuống đất, dập đầu liên tục, luôn miệng kêu oan.

Chính Đức kinh ngạc nói:

- Các ngươi kêu cái gì? Đứng hết dậy đi. Phản tặc tạo phản, đương nhiên sẽ lấy một lý do đường hoàng cho mình, để mê muội dân chúng, tạo dựng cho mình danh tiếng tốt thay trời hành đạo. Hừ! Trẫm lại theo cáo thị của phản tặc để định tội của các ngươi sao? Nực cười!

Nhưng, họ đã hàng rồi, hơn nữa còn làm quan, triều đình đối xử với họ không thể nói là không hậu hĩnh. Họ lại lật lọng, công khai tạo phản, trong đó đương nhiên là có ẩn tình rồi. Lương Hồng xảo trá vơ vét tài sản. Họ bị ép tạo phản, chỉ e là 10 người thì có tới 8, 9 người chính là thật tình. Chuyện này phải nhanh chóng điều tra rõ.

Trong lòng Lưu Cẩn cảm thấy yên tâm một chút, liền đứng dậy nói:

- Hoàng thượng anh minh, phản tặc muốn mê hoặc lòng người đương nhiên phải ra sức nói xấu triều đình rồi. Những tên đạo tặc này không tuân theo pháp luật, không theo lễ pháp, sau khi quy hàng không chịu được sự ràng buộc của triều đình, vì vậy mới nổi binh tạo phản, chưa chắc đã là do Lương Hồng bức bách vơ vét tài sản. Lão nô cho rằng Hoàng thượng cũng nên cẩn trọng, tránh làm oan uổng lòng tận trung của kẻ bề tôi.

Tào Nguyên liền nói:

- Đúng vậy, tờ cáo thị này rõ ràng là bọn tặc nói bậy nói bạ, bịa đặt dối trá. Những lời phản nghịch của chúng sao có thể lấy được lòng tin chứ? Lưu công công bị nghịch tặc hận, chứng tỏ ông ta trung thành với Hoàng thượng, cho nên phản tặc mới hận thấu xương, mong sao Hoàng thượng chặt đi cánh tay của mình.

Tiêu Phương liền bước ra khỏi hàng tấu:

- Hoàng thượng, mấy hôm trước Uy Quốc công và Lưu Cẩn đối chất trên triều, đã liệt kê ra hàng loạt tội trạng, rất nhiều tội phù hợp với những tội mà Triệu Hoài Trung lên án công khai. Hoàng thượng không nên xuất phát từ lời nói của phản tặc mà xem nhẹ sự việc. Lưu Cẩn đương nhiên tự nhận thấy quang minh lỗi lạc, thần xin Hoàng thượng công bố cáo thị của phản tặc Triệu Hoài Trung trước quần thần, để mọi người luận đoán.

Các lão thần Dương Đình Hòa, Vương Hoa, Dương Thủ Tùy đồng thời lên tiếng, lần lượt bước ra khỏi hàng khẩn xin. Bách quan vẫn luôn đứng im lặng cũng bắt đầu xôn xao, tiếng nói ngày càng lớn lên khiến cho Đỗ Phủ cũng thấy được khí thế của quần thần, đã khó mà khống chế được, không thể không cao giọng hét lên im lặng.

Chính Đức nhíu mày: Tình hình này dường như là mọi người được nghỉ ngơi vài ngày để chuẩn bị cho một cuộc đại chiến của bách quan. Y liền đưa tờ cáo thị cho Đỗ Phủ, ra hiệu:

- Ngươi đọc đi.

Đỗ Phủ cung kính một tiếng, liền cầm lấy tờ cáo thị, hai tay mở ra, cao giọng đọc lên. Giọng của Đỗ Phủ đầy nhịp điệu, vừa đọc tới hai tội trạng, trong bách quan bỗng có người lớn tiếng hét lên:

- Khoan đã! Thần có bản tấu!

Nói xong một người bước lên, tiến tới phía trước quỳ gối, cao giọng nói:

- Hoàng thượng, Lưu Cẩn tham ô vô độ, loạn chính trái pháp luật, cướp đoạt của cường hào. Thần cho rằng thực sự là có việc này, thần ở Đốc Sát viện, vừa mới nhận được trình báo địa phương ....

Y nói xong, liền lấy từ trong tay áo ra 6, 7 báo cáo của các quan địa phương gửi tới mấy tháng trước, cung kính nói:

- Quan địa phương ai nấy đều tố giác chuyện này rất nhiều. Lưu Cẩn đã sai thuế giám, thu thuế hoành hành, tùy ý làm bậy. Vốn ruộng 5 mẫu, đè ra thu tiền thuế 10 mẫu. Vốn ruộng 50 mẫu, đè ra thu 100 mẫu, đã khiến cho dân chúng rơi vào cảnh lầm than, sống không yên ổn.

Ông ta đo đạc đất đai, nói là vì nước, lại kiếm tiền bỏ túi riêng, đem lượng lớn đất tư quy về quốc hữu để hòng lấy thành tích cá nhân, hại dân chúng trôi giạt khắp nơi, đi tới những vùng xa xôi mưu sinh. Quan lại được cử đi không giúp kẻ xấu làm điều ác, đã bị gán tội lợi dụng không làm tròn trách nhiệm chịu sự trừng phạt của ông ta, thế nào cũng được hàng vạn vàng tiền hối lộ, mới bằng lòng phóng thích ....

Người này là Tả đô Ngự sử Đô sát viện Địch đại nhân. Y nói xong liền ngẩng đầu lên, chỉ thấy đám người Lưu Cẩn trừng mắt nhìn y. Nhìn bộ dạng đó, hận là không thể một miếng mà nuốt chửng y. Lão Địch không để ý liền đứng lên, lùi ra sau một bước, đứng trở về hàng bất động.

Lưu Cẩn tức giận nghiến chặt răng lại: Lão thất phu này, dám ăn gan hùm mật báo à? Lúc này chính là lúc cầu xin ta làm việc, lúc này chính là lúc nịnh nọt nhìn sắc mặt ta, y .... Y không lo những thư tín nịnh nọt mình bị truyền ra ngoài, hỏng một đời thanh danh sao?

Lưu Cẩn đang còn hồ nghi, Đỗ Phủ đã ngừng lại một lúc không thấy ai ra hiệu, liền đọc tiếp. Y vừa đọc được hai hàng, lại có người bước ra khỏi hàng quỳ gối, nói:

- Hoàng thượng, Lưu Cẩn lộng quyền, truyền nhiều ý chỉ, giả mạo chỉ dụ, làm bại hoại chính thể tổ tông, thần cho rằng không thể xem nhẹ được.

Thái tổ Hoàng đế đã bỏ chức vụ Thừa tướng, thiết lập Nội các, Thông chính ti chia quyền mà trị, chính là vì để phòng tránh độc tài, tự ý vi phạm pháp luật. Lưu Cẩn ỷ vào sự tín nhiệm của Hoàng thượng, ngoài bách quan tấu trần và bạch bản ra, còn có hồng bản, tất sẽ được Lưu Cẩn đọc trước, sau đó mới trình lên Hoàng thượng. Hoàng thượng ngài mới đọc và phê duyệt tấu chương này. Trước khi người chưa kịp đọc, Lưu Cẩn đã truyền lệnh xuống xử lý thế nào rồi. Thử hỏi đây không phải là giả mạo chỉ dụ thì là gì? Đây không phải là lừa dối Hoàng thượng, độc tài đại quyền thì là gì?

Lưu Cẩn hung hăng nhìn lại, lại là học sỹ Hàn lâm viên Lư Sĩ Sâm. Lưu Cẩn liền cãi lại:

- Tất cả những chuyện mà ta đã làm đều là thay Hoàng thượng làm việc, thi triển quyền uy của Hoàng thượng, vì Hoàng thượng phân ưu. Vốn là trách nhiệm của ta, nhặt chọn tấu chương, chọn ra thứ chính và thứ yếu, có gì là sai chứ? Ngươi rõ ràng là được mọi người tin tưởng, đổ tội cho ta.

Lưu Cẩn chỉ trích chưa xong, Hàn lâm Vương Tự Văn liền bước ra thay Lưu Sĩ Sâm biện giải. Người này là Thành Quốc công Chu Cương thay cháu nội mời giáo sư Tây Tịch. Mặc dù là một lão Hàn lâm, bình thường rất bình tĩnh, chỉ lo mò mẫm chú khoản thu nhập bên ngoài. Một ông già như vậy cũng đứng ra đối đầu với mình, Lưu Cẩn thấy mũi mình như vẹo đi.

Đám người Trương Thái cũng thầm cảm thấy hoảng sợ, người hôm nay bước ra đều là những người mấy ngày trước ngồi im bất động quan sát tình hình, làm cây cỏ đầu tường bất động thanh sắc. Đặc điểm chính của cây cỏ đầu tường chính là không đúng hướng gió thì tuyệt đối không dễ dàng biểu hiện thái độ. Mà một khi đã thấy được hướng ra, đó tuyệt đối còn nhảy ra nhanh hơn là bộ hạ trung thành nhất của đối phương, càng tỏ lòng trung thành, hận là không phải tất cả mọi người đều hò reo phất cờ, chỉ có họ mới là chủ lực quét gian đỡ chính. Những người này ra mặt là có ý gì? Liệu có phải là có đại sự gì đã xảy ra mà mình vẫn chưa biết không?

Hoảng sợ và điềm xấu, giống như một đám mây u ám từ từ bao phủ lên lòng họ. Cùng với 30 đại tội, 60 tội nhỏ được Đỗ Phủ lần lượt đọc lên, các quan lại bước ra ngày càng nhiều. Trong đó có rất nhiều quan viên mà họ vốn cho rằng có thể khống chế được. Hàng loạt tội danh cũng muôn hình muôn vẻ, càng ngày càng ly kỳ, hấp dẫn, cái gì hối lộ nhận hối lộ, mua quan bán tước, bức hại trung lương, độc chiếm triều chính, tích trữ riêng võ sĩ, tư tàng binh khí, khởi binh gây biến .... Từng điều đều đưa vào chỗ chết.

Lưu Cẩn cũng thấy hoang mang, lại tự trấn định mình, cười lạnh nói:

- Dùng lời lẽ của nghịch tặc phỉ báng chúng ta. Rốt cuộc Lưu Cẩn đã gây lên tội ác gì khiến các ngươi lại không thể tương dung như vậy?

Lưu Cẩn quay sang bái lạy Hoàng đế, dập đầu thành tiếng, khóc lóc bi thương:

- Hoàng thượng, mấy hôm trước họ đã câu kết với nhau, ý đồ bức tử lão nô. Đây là một kế không thành thì làm kế khác, mượn lời phản tặc để mưu sát trung lương. Hoàng thượng anh minh, xin Hoàng thượng minh xét, giải oan cho lão nô!

Chính Đức nghe các quan nói ra đủ loại tội trạng như vậy, trong lòng thực sự có chút sinh nghi. Nhưng thấy Lưu Cẩn vẻ mặt đầy phẫn uất, ngoài ra còn có một hàng Thượng thư, Thị lang cũng vì y mà phất cờ hò reo, dốc lòng bảo vệ, cũng không khỏi do dự:

- Lưu Cẩn thực sự dám làm nhiều việc như vậy sau lưng ta sao?

Bởi vì bách quan đã hai lần hợp lực công kích, dồn Lưu Cẩn vào chỗ chết, nhưng không giải quyết được. Chính Đức đã có chút hơi miễn dịch, đối với những tội trạng và dụng tâm mà họ nêu lên, thực sự có chút nghi ngờ. Đúng lúc này, tướng quân đứng trên điện bước lên điện, quỳ xuống dâng tấu nói:

- Khởi bẩm Hoàng thượng, Binh bộ Tả Thị lang Dương Nhất Thanh thỉnh cầu tấn kiến.

Cả triều bỗng im lặng trở lại, ánh mắt của văn võ bá quan đều nhìn về phía tướng quân. Chính Đức nói:

- Dương Thị lang? Ồ, hôm nay ông ta đang trực ở Binh bộ, chưa từng lên triều sao? Ông ta cứ lên điện, hà tất phải xin chỉ?

Tướng quân đứng điện tấu:

- Hoàng thượng, Dương Nhất Thanh dẫn theo một người đang chờ chỉ ở ngoài Ngọ Môn. Nói người này là tướng quân du kích Bá Châu, tên là Giang Bân, biết rõ tình hình phản loạn của Bá Châu, cho nên đã nhanh chóng dẫn tới, nhận dự hạ cố hỏi thăm của Hoàng thượng.

- Hả? Mau mau tuyên hắn ta lên điện!

Chính Đức liền phấn chấn tinh thần, bách quan nhìn nhau xì xào khiến cho buổi triều biến thành cảnh ầm ĩ. Y vội vàng muốn biết tình hình Bá Châu thế nào, lại không ý thức được người này tới sẽ mang tới hậu quả nghiêm trọng gì cho bách quan đang công kích nhau.

Bách quan không cần chờ lệnh xuống, liền ngừng cãi vã, ai nấy đều trở về hàng của mình. Trên đại điện lặng ngắt như tờ, im lặng chờ thời khắc cuối cùng lật cây bài tẩy.

- Tuyên! Bộ binh Tả Thị lang Dương Nhất Thanh, tướng quân du kích Bá Châu Giang Bân lên điện!

Cùng với tiếng tuyên xướng, ngoài cửa điện đi vào hai người. Chỉ thấy một người đi trước vẻ mặt lẫm liệt, ngẩng đầu ưỡn ngực, ôm ngọc vật chính là Binh bộ Tả Thị lang Dương Nhất Thanh. Người đi theo sau, thân hình cao lớn, lưng hùm vai gấu, nghiêm nghị với thiết giáp quân y, phía trên còn dính đầy bùn máu đọng lại. Hai chân người này giống như đầy sức đàn hồi, bước đi giống như vừa mới đặt chân xuống đã đẩy người lên rồi.

Hai tay hắn ta xòe ra, giống như là cầm hai thanh đao thép vô hình, sẵn sàng rút ra, đầu thì ngó đông ngó tây, nhìn trên nhìn dưới, bộ dạng đó .... Bộ dạng đó giống như một con bọ ngựa đực đang diễu võ dương oai.

Chính Đức nhìn thấy bộ dạng này không khỏi bật cười. Chỉ thấy Dương Nhất Thanh bước tới trước điện, liền quỳ gối xuống, người đó phía sau cũng rất nhanh, vừa thấy hắn ta quỳ xuống cũng phịch một cái quỳ xuống đất, cúi đầu, đầu hắn ta nối ngay phía sau mông Dương Nhất Thanh.

Trong thời khắc căng thẳng như vậy, văn võ toàn triều cũng bị tướng quân du kích ngốc nghếch này mà bật cười lớn. Giang Bân đùa giỡn quả nhiên đã có hiệu quả, không khỏi thầm lộ vẻ đắc ý, nhưng lại cố ý giả giống quỳ ở đó, giống như người không hiểu quy củ ngẩng đầu lên nhìn trái nhìn phải, vẻ mặt ngơ ngác.

Hoàng đế Chính Đức ho lên hai tiếng, nén cười nói:

- Dương ái khanh bình thân!

Dương Nhất Thanh cung kính nói:

- Tạ Hoàng thượng!

Sau đó theo lời đứng dậy. Giang Bân thấy thế cũng ngốc nghếch đứng lên. Dương Nhất Thanh quay người trở về hàng, quay đầu lại nhìn, Giang Bân vẫn theo sau đít mình, không khỏi hoảng sợ, liền nói nhỏ:

- Không gọi ngươi mà, trở lại quỳ xuống đi!

Giang Bân "ồ" lên một tiếng, vèo một cái, như tia chớp quay lại chỗ cũ, vẫn quỳ ở đấy. Văn võ toàn triều lại cười ồ lên một trận nữa. Hoàng đế Chính Đức sáng ngời hai mắt lên, khen ngợi:

- Thân thủ rất nhanh, Giang ái khanh, ngẩng đầu lên. Giang ái khanh? .... Ầy, Giang Bân, ngẩng đầu lên.

- Ồ! Thần tuân chỉ!

Giang Bân giống như bây giờ mới biết là đang gọi mình, liền ngẩng đầu lên. Chính Đức nhìn thấy nửa bên mặt hắn ta là máu tươi, không khỏi sợ hãi nhảy dựng lên, thất thanh nói:

- Giang ái khanh, đây là bị trọng thương sao?

Giang Bân chỉ vào mặt mình, hỏi:

- Hoàng thượng là hỏi thần sao?

Hắn ta nhếch miệng cười, nói:

- Hoàng thượng, thần không bị thương. Hai cây trảm mã đao trong tay thần, trong nghìn quân vạn mã, tung hoàng ngang dọc, không ai địch nổi, phản tặc chết dưới tay thần nhiều không kể xiết. Những thứ này đều là máu của hưởng mã đạo tạo phản.

Chính Đức nghe xong, long nhan vui mừng nói:

- Người này quả nhiên là một hổ tướng!

Y vui vẻ hỏi lại:

- Giang ái khanh, Trẫm nghe nói ngươi biết rõ tình hình phản loạn Bá Châu, ngươi hãy kể lại tỉ mỉ cho Trẫm biết.

Giang Bân liền lên tiếng đáp lại, nói:

- Hoàng thượng, tiểu thần vốn là tướng sĩ Tuyên phủ, nhận được ân điển của Hoàng thượng, thăng làm du kích Bá Châu. Xưa nay đóng quân ở Phi giáp doanh Bá Châu. Hưởng mã đạo Bá Châu mưu phản, sau khi tiểu thần biết tin này vừa kinh sợ và tức giận, lập tức muốn dẫn quân đi bình phản. Không ngờ tướng tá trong quân có lòng đố kỵ với tiểu thần, lòng người không thuận, khó mà hành động.

Chính Đức tức giận nói:

- Khốn kiếp, nuôi binh ngàn ngày, dùng binh một giờ, nghe thấy có phản loạn, còn chần chừ bất động sao?

Giang Bân thấy thế liền dập đầu nói:

- Vâng vâng vâng, tiểu thần khốn kiếp, tiểu thần khốn kiếp.

Nói xong liền lấy tay 'bốp" một cái vào miệng mình, rất là vang đã khiến cho toàn triều đều nghe thấy.

Hoàng đế Chính Đức không biết nên khóc hay nên cười. Nhưng đối với tình hình này, có được võ tướng dũng mãnh càng thấy vui hơn, liền nói:

- Trẫm không phải nói ngươi khốn kiếp. Ngươi nói, những tên tướng tá đó vì sao lại không tuân theo mệnh lệnh của ngươi? Sợ địch không tiến, những binh tướng này đều đáng bị chặt đầu!

Giang Bân liền nói:

- Không trách bọn họ, không trách bọn họ. Đây tất cả đều là tiểu thần sai.

Hắn ta quỳ ở đó, nói:

- Tiểu thần không dám giấu vạn tuế gia, đại tặc tạo phản Bá Châu Trương Mậu, đó là anh họ của tiểu thần. Tiểu thần vừa mới phụng mệnh tới nhậm chức ở Bá Châu, các tướng tá lo lắng tiểu thần tư thông với anh họ, chôn vùi tính mạng của họ, cũng là có nguồn gốc của nó.

Trên triều đình ầm ầm xôn xao. Đám người Lưu Cẩn vốn lo lắng hãi hùng, vừa nghe thấy lời này sắc mặt liền vui vẻ trở lại:

- Tạo phản là phải tru di cửu tộ, bây giờ Trương Mậu tạo phản, ngươi chính là người hiềm nghi. Đám người Lý Đông Dương đã tìm đến một kẻ dở hơi, là muốn lật đổ ta sao? Lời của hắn ta còn có bao nhiêu phân lượng?

Hoàng đế Chính Đức cũng giật minh kinh hãi, sắc mặt trầm xuống, lạnh lùng nói:

- Tai họa và rắc rối của Bá Châu, phản lại Trẫm, là anh họ của ngươi làm?

Giang Bân thành thực đáp:

- Vâng! Tiểu thần đã nghe nói, vô cùng tức giận, các binh lính lại không tin tiểu thần. Tiểu thần bất đắc dĩ, do đó dẫn theo 12 thân binh vào thành đi gặp anh họ Trương Mậu. Giả ý đầu hàng, lấy đầu hắn ta, lúc này mới lấy lại được lòng tin của một số tướng tá, cướp lại thành Bá Châu.

Giang Bân cúi đầu, nức nở nói:

- Sau khi đám phản tặc Lưu Lục, Lưu Thất biết tin, bức ép vô số dân chúng đánh lại Bá Châu lần nữa. Hoàng thượng, binh tướng của thần không nhiều, lòng quân lại không vững. Tiểu thần chiến đấu một ngày một đêm, trong tay đã không còn binh lính có thể chiến nữa rồi, bất đắc dĩ rút lui khỏi thành, muốn ngăn cản phản quân, không cho bọn chúng chạy trốn.

Những ngày này, thần ngày ngày khổ chiến, đã cứu được Huyện lệnh huyện Cố An Kiều Ngữ Thụ sắp cùng thành tiêu vong. Lúc này, trong tay tần còn lại không nhiều binh tướng đã bị hao tổn tận lực. Vốn muốn liều chết, dùng cái chết để báo quốc, do đó tiểu thần đã dẫn theo mấy thân tín đi mai phục ở ngoài thành huyện Văn An sẵn sàng ám sát thủ lĩnh đạo tặc Lưu Lục. Không ngờ bên cạnh Lưu Lục được bảo vệ dày đặc. Thần bị thất thủ sau đó bị hắn ta truy sát. Nghe nói Hoàng thượng người phải thiên tử môn sinh, dũng mãnh thiện chiến Hứa Đại tướng quân tới Bá Châu, liền sẵn sàng đi góp sức. Lúc này mới giữ lại được cái mạng, chỉ là tiểu thần chiến đấu mà không có công lao, thực là có tội.

Chính Đức vừa nghe xong, sắc mặt liền dịu xuống, khen ngợi:

- Được! Ái khanh có thể công tư phân minh, đại nghĩa diệt thân, lại có thể tử chiến vì triều đình mà không màng tới tính mạng. Đây là trung thần rồi. Anh họ ngươi dù tạo phản, tội này lại không liên quan tới ngươi. Trẫm thấy ái khanh thực sự là một hổ tướng, có thể chiến đấu tới một binh một tốt, còn muốn ám sát thủ lĩnh phản loạn, cũng đã là làm tròn bổn phận của thần tử rồi. Trẫm thấy ngươi không những vô tội mà còn có công.

Giang Bân thân là du kích Bá Châu, phụ trách một phương an tĩnh, có trách nhiệm giữ đất. Kết quả bây giờ phản tặc ngang ngược, hung dữ, đại quân của hắn ta không những không tiêu diệt được đạo tặc, cướp lại một thành, ngược lại còn bị người ta đánh tan, chỉ dẫn theo hơn 10 binh lính chạy về, so với Hà Tham tướng năm đó ở Kê Minh Dịch bị mai phục, không biết còn nghiêm trọng gấp bao nhiêu lần. Theo nghiêm luật Đại Minh, hắn ta không chết cũng phải lột da.

Kết quả là hắn ta vừa mới lên điện, biểu hiện thật thà chất phác, lại cộng thêm những lời nói này, không những vô tội mà ngược lại còn nhận được sự tán thưởng của Chính Đức. Có câu này của Hoàng đế, ai cũng không thể truy cứu được trách nhiệm của hắn ta. Giang Bân nghe thấy thế, không khỏi nhẹ nhõm trong lòng.

Kỳ thực chuyện này cũng thực sự không trách hắn ta được. Hắn ta vừa mới tới Bá Châu, thủ hạ binh tướng chưa quen. Chiến lực quân đội bản thân cũng không thành vấn đề, nếu trên dưới tướng tá không thể đồng tâm, vậy thì chiến lực càng giảm bớt đi, cộng thêm những vệ binh đó đều hy vọng Giang Bân dẫn người đi bảo vệ quê hương mình. Lòng người không thuận, một mình Giang Bân dũng cảm, căn bản không thể xoay chuyển được đại cục. Chiến sự thất bại, còn không phải là trách nhiệm của hắn ta.

Giang Bân đã yên tâm rồi, lúc này mới đi vào chủ đề chính, đập đầu mấy cái nói:

- Tạ Hoàng thượng hồng ân, thần sẽ nhanh chóng trở về Bá Châu, làm tiểu tốt dưới trướng của Hứa tướng quân, lập công chuộc tội, dốc sức vì triều đình. Không ngờ giám quân Lương công công, ý chỉ đến trễ làm lỡ việc quân cơ, tác chiến bất lực, yêu cầu tiểu thần xử phạt mức cao nhất theo pháp luật, lập tức chính pháp. Hứa tướng quân và tướng lĩnh trong quân vẫn luôn xin hoãn, Lương công công cố chấp không cho phép. Hứa tướng quân biết đây là Lương công công muốn giết người diệt khẩu, nhưng quyền của giám quân lớn hơn, ông ta cũng không dám cãi lời, chỉ biết dặn dò tiểu thần trở về kinh ngay trong đêm, đem hết thảy báo cáo lên Thánh thượng.

Tim Lưu Cẩn lại đập thình thịch. Quả nhiên, ánh mắt Chính Đức nghiêm nghị, nghi ngờ nói:

- Giết người diệt khẩu? Lời này là thế nào?

Giang Bân lại dập đầu, lớn tiếng nói:

- Trong lòng thần chỉ biết có Hoàng thượng, Hoàng thượng hỏi, thần cái gì cũng đều nói, cái gì cũng đều không sợ.

Chính Đức gật đầu nói:

- Đúng đúng đúng, ngươi không cần sợ. Trẫm hỏi gì, ngươi cố gắng nói thẳng, Trẫm tuyệt đối không thêm tội.

Giang Bân mừng thầm, liền nhướn cổ lên nói:

- Hồi Hoàng thượng, anh họ của thần vốn là một đại tặc. Hơn nữa tổ tiên đời đời đều là trộm ngầm. Uy Quốc công Dương Lăng tới Bá Châu, mang theo ý chỉ của Hoàng thượng, bắt tham quan, dẹp bọn giả thần giả thánh, thanh trừ thổ phỉ hưởng mã đạo. Bách tính Bá Châu đều nói đương kim Hoàng thượng anh minh. Uy Quốc công là trung thần của Hoàng thượng, đã trừ đại họa cho dân chúng Bá Châu. Anh họ thần thấy giang sơn Đại Minh dưới sự cai trị của Hoàng thượng, ngày càng tươi sáng, dân chúng giàu có, cho nên cũng có lòng hướng thiện.

Uy Quốc công nói ông trời có đức hiếu sinh, đương kim Hoàng thượng là anh chủ hiếm thấy thiên cổ, cho dù là đạo tặc dưới sự cai trị của đương kim Hoàng thượng cũng có thể giáo hóa hướng thiện. Tứ Đại Khấu Đông Hải chính là nhất lệ, vì thế mệnh thần khuyên nhủ anh họ thần, để y dẫn người ra đầu hàng, từ đó dốc sức vì triều đình.

Anh họ kính sợ sự nhân đức của Hoàng thượng, liền dẫn người tới tiếp nhận chiêu an, còn thường nói là thay đổi triệt để, làm người từ đầu. Có được võ nghệ này, trước khi vào quân dốc lòng vì Hoàng thượng, kiến công lập nghiệp, con cháu đời đời đều làm lương dân Đại Minh, cũng không làm cường đạo nữa.

Chính Đức nghe mà nở mày nở mặt, liên tiếp gật đầu, sắc mặt rạng rỡ lên. Lời này dù có chút nịnh bợ, nhưng ai cũng thấy, vị tướng quân trước mặt này có chút thiếu tâm nhãn. Tính tình thẳng thắn, thật thà, ngay cả chút nghi lễ triều đường cũng đều không hiểu, nói chuyện mênh mông, nói hết những lời tận đáy lòng ra, còn không đáng tin sao?

Hoàng đế Chính Đức vẻ mặt ôn hòa, liền nói:

- Ừ, ừ, nói tiếp đi, sau đó sao lại làm phản? Lương Hồng giết ngươi rốt cuộc là diệt cái gì khẩu?

Đám người Lưu Cẩn, Trương Thái vẻ mặt đều có chút hung dữ giống như giả heo ăn thịt hổ, chỉ thấy Giang Bân mở rộng miệng ra thao thao bất tuyệt nói:

- Hoàng thượng, sau khi đám người anh họ thần tiếp nhận chiêu an, an phận tuân thủ, nghiêm túc chấp hành kỷ cương. Sau khi gia nhập Tập Đạo doanh tới khắp nơi bắt đại tặc tiểu tặc, Bá Châu là cảnh thái bình nhảy múa vui mừng. Lúc này, Lương Hồng mới nhậm chức trấn thủ liền vơ vét 18 vạn lượng bạc trắng của đám người anh họ thần, nếu không sẽ tìm lý do trị tội họ.

Lưu Cẩn sững sờ, tức giận: Không phải 10 vạn lượng sao? Sao lại thành 18 vạn lượng rồi? Tên khốn kiếp Lương Hồng, dám ngụy trang ta vơ vét tiền bạc! Đủ đen rồi, còn đòi thêm 8 vạn lượng nữa. Ta không ngờ không hề hay biết chút tin tức nào, tên khốn kiếp to gan lớn mật này!

Trong lúc y đang tức giận, Giang Bân tiếp tục tố khổ:

- Anh họ thần làm cường đạo chỉ là kiếm miếng ăn, nào có số tiền lớn như vậy. Vạn bất đắc dĩ, y còn nhờ thần thỉnh cầu Lương công công, xin ông ta khoan dung độ lượng, nói là nếu chỉ cần tám vạn lương, thì anh ta có thể bán nhà cửa, bán con cho Lương công công. Nếu đòi nhiều hơn nữa, thì bán con cái cũng thực sự lấy không ra được. Không ngờ ... không ngờ ....

Giang Bân nói dường như có chút khó nói.

Hoàng đế Chính Đức nghe mà sắp tức điên lên rồi, liền đập long án nói:

- Nói! Cứ việc nói, có chuyện gì, liên quan tới người nào, Trẫm đều làm chủ cho ngươi!

Giang Bân vừa nhắm mắt lại, hít một hơi dài nói:

- Ai ngờ Lương công công đã chửi thần một trận, nói số bạc này là ... là Lưu công công trong kinh giao cho đi làm. Lần trước Trương Trung Trương công công đã vơ vét phú thân, ép người dân cả nhà phải treo cổ, cũng là chuyện này, còn nói số bạc này đều là lấy để tu sửa cung Huyền Minh, dùng vào làm tang sự cho Thái hoàng Thái hậu. Nếu không giao ra, chính là không trung thành với Hoàng thượng, không làm việc vì Lưu công công, ngay cả ông ta cũng sẽ bị chặt đầu. Anh họ thần thực sự không lấy được ra số tiền đó, mới bị ép tạo phản. Anh ta phản lại triều đình, tiểu thần không dám không tận trung tận chức giết chết chặt đầu anh ta. Nhưng anh họ tạo phản, thực sự là chuyện có nguyên nhân, xin Hoàng thượng minh xét!

Giang Bân thao thao bất tuyệt nói một hơi xong, quỳ thẳng người, không nói thêm gì nữa.

Câu nói này long trời lở đất, không những vạch trần nguyên nhân hưởng mã đạo Bá Châu tạo phản, mà đã chứng minh được cáo thị của Triệu Phong Tử nói không sai. Hơn nữa, ngay cả Hoàng thượng cũng đều bị lôi kéo vào, văn võ bách quan còn ai dám nói gì?

Đám người Lưu Cẩn thực sự là sắp bị bệnh tim rồi. Tim căng lên, một hồi thư thả, một lát lại sợ hãi nhảy lên tới tận lồng ngực, một lát lại vui sướng vô cùng, giống như nhặt được kim nguyên bảo vậy. Vừa rồi rõ ràng là bị hù gần chết, Giang Bân đã kéo được Hoàng thượng vào, Lưu Cẩn vui sướng sắp bay lên rồi.

Hay cho một hôn chiêu, người nào tốt không dùng, lạ dùng một tên rác rưởi như vậy. Nếu ngươi chỉ nói Lương Hồng phụng mệnh của ta đi vơ vét tài sản, căn bản không đề cập tới số tiền này, ta lại dám trước mặt bách quan nói là Hoàng thượng dùng sao? Ha ha, đây chính là các ngươi nói ra. Sự uy nghiêm của Hoàng thượng đã bị mất hết rồi, mặt mày ủ rõ, từ đầu các ngươi đã cắm lên đầu Hoàng thượng cái tội của hưởng mã đạo tạo phản Bá Châu, Dương Lăng ơi Dương Lăng, ngươi quả là tài giỏi! Ha ha ha ha ....

Lưu Cẩn không có ý tốt liếc nhìn Hoàng đế Chính Đức, chỉ thấy trên mặt Hoàng thượng Chính Đức hình như có chút tối sầm lại, lúc xanh lúc đỏ, lúc trắng lúc đen. Nhưng lời này văn võ cả triều đều đã nghe thấy rồi, bảo y làm thế nào để giấu giếm? Hồi lâu sau, Hoàng đế Chính Đức với vẻ mặt khó coi mới nói:

- Lưu ... Lưu Cẩn, ngươi không phải nói số tiền trù bị của cung Huyền Minh đều là do bách tính vui lòng quyên góp sao? Tiền quyên góp đủ để sử dụng, sao ... sao lại còn yêu cầu địa phương hiến bạc? Gây ... gây chuyện tới nước này sao?

Náo loạn hồi lâu, nguyên nhân vẫn là ở bên mình. Hoàng đế Chính Đức thực sự đã bị mất mặt, ngồi bên trên giống như bách quan trong triều đang nhìn vào mặt y. Y hận là không tìm được lỗ nẻ nào để chui vào. Chuyện này thực sự là đã động đến lòng tự trọng của y, khiến cho lòng tự tôn của tiểu Hoàng đế bị tổn thương nghiêm trọng, mặt nóng ran lên, hai mắt không dám nhìn thẳng mọi người.

Lưu Cẩn thấy y đã lo lắng, trong lòng không khỏi thầm cười lạnh. Y lạnh lùng liếc nhìn văn võ bách quan đang im lặng nhìn: Giỏi lắm, làm Hoàng thượng mất mặt, ta xem xem ai còn dám lấy chuyện này ra nữa. Lý Đông Dương sao không lên tiếng đi? Tiêu Phương sao không lên tiếng đi? Còn có Dương Đình Hòa .... Các ngươi không phải rất biết ăn nói sao? Nói tiếp đi, ta chờ đây!

Y khinh thường nhìn, liếc ngang vào trong điện: Hôm nay đã khiến Hoàng thượng mất hứng, hơn nữa còn khiến y bị mất mặt. Xem xem cuối cùng y hận là ai, hừ!

Lưu Cẩn bái lạy xuống đất nói:

- Hoàng thượng làm lụng vất vả vì chuyện nước, trăm công ngàn việc, giao cho lão nô một số việc, lão nô nào dám quấy rầy Hoàng thượng? Kỳ thực lão nô sớm đã biết họ chỉ trích chuyện gì, chỉ là vì Hoàng thượng mà nghĩ. Lão nô nguyện gách vác toàn bộ trách nhiệm. Nhưng chuyện đã tới nước này, lão nô cũng không thể không nói thẳng rồi.

Y ngẩng đầu lên, thâm tình nói:

- Hoàng thượng, trong triều không có tiền! Mỗi khi thấy Hoàng thượng lo lắng, trong lòng lão nô như dao cắt, sao có thể để tuyết phủ thêm băng, ép Hoàng thượng ngày đêm không thể say giấc được? Người là chủ thiên hạ, không thể tổn thương long thể được!

Lưu Cẩn nói lời thương cảm, đã tự khiến mình cảm động tới rơi lệ:

- Triều đình vì đại tang tiên đế, vì Hoàng thượng làm lễ đăng cơ, vì tang sự của Thái hoàng Thái hậu, Tắc Ngoại, Giang Nam, Tây Bắc liên tiếp dụng binh, lấy đâu ra tiền có thể dùng. Số tiền bách tính bằng lòng quyên góp, vốn có thể đủ chi, nhưng tang sự của Thái hoàng Thái hậu, đó là thể diện của hoàng gia, mà trong triều lại không có tiền. Lão nô không thể không lấy bạc dùng để xây cung Huyền Minh ra xử lý những việc tang sự này, để Thái hậu dưới cửu tuyền cũng có thể nhắm mắt.

Cung Huyền Minh xây nửa năm rồi, cũng không thể nửa chừng mà hủy bỏ. Lão nô ... lão nô chỉ có thể điều dụ trấn thủ các nơi, cố gắng, nhanh chóng chuyển thuế phú tới kinh thành. Khụ! Nghĩ là Lương Hồng mới lên nhậm chức, vì có chút thành tích chính trị, muốn Hoàng thượng được vui mới đưa ra hạ sách này. Lão nô dùng người không đúng, làm việc không rõ, khó mà chuộc tội này!

Y ngẩng đầu lên, vẻ mặt tang thương:

- Hoàng thượng, người giết chết lão nô đi! Người giết chết lão nô, để cho người trong thiên hạ có được câu trả lời công bằng, lão nô là một phế nhân, cũng chỉ có thể tận chút sức vì vạn tuế gia.

Lời này thực sự đã đánh động lòng người. Hoàng đế Chính Đức liền tái mặt đi, hai mắt ang ang lệ, đứng lên nói:

- Lão Lưu, ngươi đứng dậy đi, đây là Trẫm vô dụng, không liên quan tới ngươi. Đây là Trẫm có lỗi, sao có thể để ngươi vì Trẫm mà gánh vác, không thể! Không thể, đây là tội của Trẫm! Tội của Trẫm!

Hoàng đế Chính Đức đấm ngực dậm chân, hai hàng lệ tuôn rơi. Văn võ cả triều thấy Hoàng thượng đau khổ như vậy, đều quỳ xuống đất, chủ lo thần nhục, chủ nhục thần tử! Bức bách thiên tử tới bước này, đó là thần tử không làm tròn trách nhiệm. Văn võ bách quan phịch phịch quỳ xuống đất, rất nhiều quan viên thấy Hoàng thượng đau lòng như thế không khỏi vẻ mặt đầy nước mắt, trên điện dưới điện đều khóc lóc.

Trong lòng Lưu Cẩn thầm cười lạnh, tình hình cuối cùng đã đảo ngược lại hoàn toàn rồi, xem ai còn dám lấy chuyện này ra nữa. Đó chính là ép chết Hoàng thượng. Lão Lưu ta chống mắt lên xem, ba Đại học sỹ các ngươi, văn võ cả triều ai dám làm như vậy! Các ngươi chờ xem ta dạy dỗ từng người từng người một các ngươi!

Y bước lên trước một bước, chịu đau mà đập đầu xuống, nói với Hoàng thượng:

- Vạn vạn lần không được! Vạn vạn lần không được! Hoàng thượng là cửu ngũ chí tôn, chủ thiên hạ, sao có thể gánh vác trách nhục nhã như vậy? Tất cả đều là lão nô gây nên! Tất cả đều là lão nô giấu Hoàng thượng làm, không liên quan gì tới Hoàng thượng, không liên quan gì tới Hoàng thượng. Lão nô ... lấy cái chết để tạ tội!

Y đứng lên, hét lớn, bứt vạt áo, quăng lên long cột, dọa Hoàng đế Chính Đức liền kêu lên:

- Ngăn hắn ta lại! Mau ngăn hắn ta lại!

Còn cần y hô sao, Lưu Cẩn vừa bày thế, đám người Trương Thái, Lưu Vũ đã xông lên. Giang Bân ngẩng đầu lên muốn xem chút náo nhiệt, vừa thấy động tĩnh rất lớn, tổng cộng chưa chạy quá ba bước, không khỏi thú vị bĩu môi.

Rắp tâm của Dương Lăng chỉ có chút này thôi sao? Không cho Hoàng thượng đau lòng thực sự, không để Hoàng thượng bị cảm động tới cực điểm, lát nữa y sao có thể hận tới cực điểm được? Tức đến cực điểm được? Độc ác giết chết ngươi được?

Lưu Cẩn dựa vào ngươi, dù là sự tín nhiệm và tình cảm của Hoàng đế, cái gì dựa vào Hoàng đế, một câu của Hoàng đế là có thể khiến cho y sống cũng có thể khiến cho y chết. Y có thể khiến cho văn võ cả triều công kích lẫn nhau không ngã, chỗ dựa duy nhất này chính là lòng tin của thiên tử. Thiên tử ban cho y quyền lực vô thượng.

Hôm nay y đánh đòn này, bất kỳ ai cũng hiểu y đang làm gì, đều cảm đủ cảm động tới rơi nước mắt. Lưu Cẩn cũng rất hài lòng, qua chuyện ngày hôm nay, vị trí của y trong lòng Hoàng đế không còn nghi ngờ gì nữa đã thăng lên số một rồi. Thậm chí nói không chừng còn đè bẹp Dương Lăng, cũng không ai có thể vượt qua y được ....

Lưu Cẩn vẫn còn đang giãy dụa than khóc, nói:

- Cái mạng này của lão nô có tiếc gì đâu? Chư vị đại nhân buông ta ra, để ta đập đầu vào tường chết. Chuyện này tới đây là chấm dứt rồi.

Tiêu Phương quỳ ở đằng kia lấm lét ngẩng đầu lên nhìn:

- Lão Lưu diễn cũng khá đấy chứ, sắp đến giờ ăn cơm trưa rồi, cũng phải để hắn ta nghỉ một lát chứ.

Lão ngẩng đầu lên, nhìn về phía sau, tiểu thái giám đợi ở phía sâu góc tường, giơ hai tay lên chỉnh mũ quan ngay ngắn, sau đó cúi đầu. Mấy tiểu thái giám bên đó có mấy người là người của Miêu Quỳ. Vừa thấy Tiêu Lão Các phát tín hiệu, liền có một tiểu thái giám lặng lẽ lùi ra phía sau, từ cửa sau điện bỗng bước đi ra ngoài.

Hoàng đế Chính Đức rất khó chịu nói:

- Lão Lưu, đừng làm ầm ĩ lên nữa. Trong triều không có bạc dùng, là Trẫm vô năng! Ép bách tính tạo phản, là Trẫm làm! Ngươi có thể thay Trẫm gánh trách nhiệm gì? Trẫm dù có thể lừa gạt bách tính thiên hạ, nhưng Trẫm có thể bắt nạt trời, bắt nạt đất sao? Có thể bắt nạt được văn võ cả triều trừng trừng nhìn sao? Người đâu, đỡ Lão Lưu xuống nghỉ ngơi ....

Y cúi đầu ủ rũ ngồi xuống, vừa định tự trách tội mình, tiếp nhận hết thảy, như vậy sẽ dừng lại làn sóng tạo phản của dân chúng Bá Châu. Tướng quân đứng điện bỗng chạy vào, bẩm báo:

- Hoàng thượng, Đề đốc Đông Xưởng Đới Nghĩa có việc đại sự muốn khởi tấu Hoàng thượng.

Hoàng đế Chính Đức mặt không chút cảm xúc nhìn xuống, cô đơn tự giễu nói:

- Đại sự? Lại là đại sự? Đại sự của triều Chính Đức ta đúng là quá nhiều! Gọi ông ta vào, Trẫm xem xem liệu có phải là trời long đất lở rồi không?

Lưu Cẩn nhìn lên, Hoàng đế Chính Đức thẹn quá thành giận, tà hỏa bốc lên, cũng không dám khóc lóc nữa, liền thu thế lại, ỉu xìu lui sang một bên.

Y quay đầu lại nhìn, chỉ thấy Đới Nghĩa bước vào, mỉm cười bước lên đện. Trong lòng vừa thư thái, lại có chút căng thẳng:

- Tên khốn kiếp này cười cái gì mà dọa người ta thế?

Đới Nghĩa bước tới trước điện, nhẹ nhàng quỳ xuống một bên, nói:

- Lão nô Đới Nghĩa tham kiến ngô hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!

Hoàng đế Chính Đức khoát tay nói:

- Bớt thủ tục rườm ra đi, có lời cứ nói, Trẫm ... trong lòng Trẫm không vui, nếu không phải là đại sự, đừng làm phiền Trẫm!

Đới Nghĩa liền cười dài nói:

- Vâng vâng! Hoàng thượng, lão nô đã tra ra, nói ra cũng là việc không đâu vào đâu. Nhưng nhân vật liên lụy khác nhau, đó không phải là chuyện nhỏ. Hành động này có trở ngại tới uy danh của Thánh thượng, đó lại càng là chuyện lớn ....

- Bốp!

Lại một viên ngọc đẹp bị Chính Đức đập vỡ, mảnh vụn văng ra đầy triều, trong lòng buồn bực, Chính Đức nhảy dựng lên gầm hét:

- Cút! Ngươi cút ra ngoài cho Trẫm! Trẫm chuyện gì cũng không nghe nữa! Cút! Cút ra ngoài!

Đới Nghĩa hoảng sợ, liền đứng lên, nâng áo bào lên vừa lùi ra ngoài vừa nói:

- Vâng vâng vâng, lão nô chính là muốn bẩm báo về chuyện xây dựng cung Huyền Minh, có người đã rút được lượng bạc lớn, vốn là chuyện nhỏ, nhưng ....

- Từ đã! Ngươi quay lại cho Trẫm! Cái gì mà tham ô ngân lượng? Nói ra đi, ngươi nói rõ ràng cho Trẫm!

Đới Nghĩa liền chạy về chỗ cũ, cẩn thận quỳ xuống tránh mảnh vỡ ngọc, nói:

- Hoàng thượng, bách tính kinh thành quyên góp bạc trắng được hơn 40 vạn lượng, chuẩn bị xây dựng cung Huyền Minh. Các phiên tử Đông Xưởng của lão nô đã điều tra rõ, ti lễ thái giám Lưu Cẩn đã tham ô 20 vạn lượng, mang về xây mộ cho phụ mẫu y ở quê nhà Thiểm Tây.

Hơn nữa .... Hơn nữa quy cách phần mộ, đã đi quá giới hạn cho phép, tráng lệ đường hoàng, bia đá đình đường đầy đủ, đã vượt qua quy mô lăng tẩm hầu vương! Tham ô, lão nô còn không dám lên điện nhiễu quân, nhưng phần mộ của phụ mẫu nội giám tứ phẩm, quy cách vượt quá vương hầu. Hành động này gần như mưu phản, lão nô không dám không báo!

Đới Nghĩa nói xong, quỳ ở đó chờ Hoàng đế Chính Đức chỉ bảo. Nhưng chờ đợi hồi lâu mà không có động tĩnh gì, đại điện yên tĩnh giống như một ngôi mộ, ngay cả tiếng thở cũng đều không nghe thấy.

Quả là bất thường, ngay cả Hoàng đế Chính Đức với tính tình nóng nảy, lẽ ra y phải quăng long thư án lên mới là phản ứng bình thường. Lúc trước tiên là thừa nhận nỗi nhục lớn, cảm động tới rơi nước mắt, bây giờ nghe nói Lưu Cẩn như vậy, sao lại không tức giận được chứ? Y sao thế ... sao thế ....?

Đới Nghĩa lo lắng ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy Hoàng đế Chính Đức đứng sau long thư án, tay áo buông xuống, hai mắt nhìn phiêu diêu bất định, dường như là không tìm được tiêu điểm. Trên khuôn mặt đó, không những không hề có chút tức giận nào, mà cũng không có chút ... cười nào, chỉ là vẻ mặt trắng bệch ra, cắt không có giọt máu nào, trắng tới ghê người.

- Hoàng ... Hoàng thượng?

Đới Nghĩa co rúm người lại, có chút sợ hãi. Vẻ mặt này của Hoàng thượng từ trước tới giờ chưa từng thấy.

- Ha ha! Ha ha ha!

Bỗng vang lên một tràng cười lớn. Văn võ khắp triều sợ hãi nhìn lên trên, chỉ thấy Chính Đức cười ngửa trước ngửa sau. Y ngồi lại ghế rồng, nghiêng người sang một bên, khuỷu tay vịn lên thành ghế, vừa vịn vừa cười, vừa lấy khăn ra lau nước mắt.

Trên đại điện yên tĩnh vô cùng, rõ ràng Hoàng đế đang cười bên trên, nhưng người phía dưới đều cảm thấy quá yên lặng, yên lặng giống như cây kim rơi xuống đất cũng có thể nghe thấy. Bầu không khí lạnh lẽo vô hình, khiến ai nấy khi nghe thấy tiếng người đều cảm thấy nổi da gà. Ngay cả Giang Bân vẫn luôn giả ngốc cũng cảm thấy áp lực vô hình này. Vẻ mặt bất cần đời cũng nghiêm nghị lại.

Hoàng đế Chính Đức cười khanh khách, cười đến bả vai nghiêng ngả, hạt châu trên mũ rung lên liên tục, chỉ thấy y cười đứng lên, khoát tay nói:

- Tan triều, hồi cung!

Nói xong quay người bước đi, Đỗ Phủ dẫn theo bốn tiểu hoàng môn hoang mang đi theo. Sau khi Chính Đức đi qua tấm bình phong, tiếng cười bỗng nhiên vang lên từng trận "ha ha ha ha" truyền tới tai mọi người.

Lưu Cẩn vẫn đang ngây người ra bỗng giật mình, hình như vừa mới sống lại. Y quỳ xuống đất "rầm" một tiếng, cũng không biết phương hướng, không biết lạy ai, tuyệt vọng thét lên:

- Hoàng thượng! Hoàng thượng!

Tiếng cười ha ha đã đi xa rồi, căn bản đã dừng lại rồi. Lưu Cẩn ngây người quỳ xuống hồi lâu, cảm thấy môi căng lên, mặt lạnh toát. Y từ từ ngẩng đầu lên, chỉ thấy đám người Trương Thái, Lưu Vũ đang kinh ngạc đứng bên đó nhìn lên ghế rồng trống không. Vẻ mặt đó giống như một người chết ....

Lưu Cẩn, xong rồi!

Hoàng đế hạ chỉ tan triều. Nhưng văn võ toàn triều chưa ai đi, tất cả đều đứng ở Kim Loan điện. Họ cần thời gian để tiêu hóa thông tin này. Khi họ hiểu đây đã là sự thực, họ bắt đầu đoán rốt cuộc Hoàng thượng đang chuẩn bị xử lý Lưu Cẩn thế nào?

Cũng may, chỉ chờ nửa canh giờ nữa, thái giám lại tới truyền chỉ. Người truyền chỉ vẫn là Đỗ Phủ. Y tới Kim Loan điện đứng, thấy ngoài Dương Lăng ra, tất cả đều ở điện. Đỗ Phủ truyền chỉ:

- Tam Đại học sỹ Nội Các tới Càn Thanh cung kiến giá. Lưu Cẩn áp giải vào đại lao. Những người còn lại trở về phủ của mình.

Vị nhân huynh truyền chỉ này truyền chỉ xong lập tức phi ngựa tới phủ Uy Quốc công.

Bách quan văn võ lập tức giải tán, chuẩn bị uống rượu làm thơ chúc mừng, chuẩn bị thay đổi bóng cây khác. Sau khi sắp xếp xong việc, ai nấy đều rời đi.

Thánh chỉ khắp nơi, thị vệ thân quân rút lui khỏi Quốc công phủ. Dương Lăng vào cung kiến giá, cùng ba Đại học sỹ và Hoàng thượng mật nghị cả buổi chiều. Hoàng đế lập tức hạ chỉ, lệnh cho Cẩm y vệ, Đông xưởng kê biên tài sản Lưu Cẩn phủ.

Lưu Cẩn bị nhốt vào trong lao. Nội lao chính là phòng cũ nát ở trong hoàng cung. Trước tiên là nhốt ở bên trong, nếu không giao lại cho cai ngục, đó là còn có một đường sống. Lưu Cẩn biết hôm nay thực sự là đã làm tổn thương tới trái tim Hoàng thượng rồi. Nhưng, y bây giờ chỉ còn lại một mạng sống, chỉ cần mạng vẫn còn, sự tức giận của Hoàng thượng sớm muộn cũng sẽ tiêu tan. Khi đó mới có thể ung dung mưu tính Đông Sơn tái khởi được.

Tuy nhiên, y dùng hết tâm cơ, nhưng khi nhìn người canh giữ mình, toàn bộ đều là thân tín của Miêu Quỳ chọn ra từ ngàn vạn người, bất luận y có cầu xin thế nào, dùng lợi ích dụ dỗ thế nào cũng không có ai thay y đi đưa tin cho Hoàng thượng. Lưu Cẩn không còn cách nào khác, nằm trên giường gạch trừng mắt nhìn nên nóc nhà, căn bản không thể ngủ được, chống đỡ đã lâu như vậy, không ngờ Hoàng thượng lại tới thăm y.

Lưu Cẩn vui mừng, thấy Chính Đức vào điện, lập tức bổ nhào tới ôm lấy hài của Chính Đức, hét lớn:

- Hoàng thượng, Hoàng thượng thứ tội. Lão nô hầu hạ Hoàng thượng mười mấy năm rồi. Lão nô không hề tiếc Hoàng thượng điều gì!

Nói xong liền đập đầu xuống đất, binh binh liên tục.

Chính Đức giận giữ, đá thẳng một cái, lại thấy Lưu Cẩn vẫn không buông tha, mặc nội bào trắng, đầu tóc hoa dâm, trên trán đã rướm máu, dưới ánh đèn soi rõ khuôn mặt y đầy nếp nhăn, già nua vô cùng, vô cùng đáng thương. Trong lòng y bỗng như có dòng điện chạy qua, quá khứ ùa về.

Nhà đế vương từ trước đến giờ không ít thân tình. Từ nhỏ tới lớn, thời gian ở bên phụ hoàng mẫu hậu ít, bên cạnh y chỉ có những thái giám này. Từ nhỏ y ngồi trên lưng Lưu Cẩn cưỡi ngựa, nhớ khi bướng bỉnh bị phụ hoàng trách mắng, Lưu Cẩn đã thay y chịu đánh. Y lại nhớ tới vì triều chính mà phiền não, bị ngôn quan công kích, Lưu Cẩn trăm phương ngàn kế để y vui lòng, làm cho y thoải mái, đó là người hầu từ nhỏ.

Hai mắt Chính Đức rưng lệ, rung giọng nói:

- Lưu Cẩn, Trẫm đối với ngươi có bạc đãi không? Vì sao Trẫm tin ngươi như vậy, ngươi lại hai mặt với Trẫm? Thật không ngờ lại còn bắt nạt Trẫm, làm tổn thương Trẫm.

Lưu Cẩn là người thông minh cơ trí, nghe thấy nỗi đau của y, tức giận đã bớt đi vài phần, liền khóc lóc đến không ra hơi nói:

- Hoàng thượng, lão nô ngu xuẩn. Lão nô xuất thân bần cùng nghèo khổ, được sự tin tưởng của Hoàng thượng, nhất thời nổi lòng tham, liền muốn kiếm chút tiền. Lão nô là một hoạn quan, không có được thứ của con người, trước mặt phụ lão quê hương xấu hổ không dám nhìn. Lão nô tu sửa phần mộ của phụ mẫu, chỉ là muốn khoe khoang khoe khoang.

Y khóc lặng người đi, nước mắt giàn giụa nói:

- Lão nô thực sự không có ý gì xấu, cầu xin Hoàng thượng từ bi, Hoàng thượng từ bi. Lão nô chết không có gì đáng tiếc. Lão nô vào cung nhiều năm như vậy, chỉ có Hoàng thượng là chủ tử. Lão nô xem Hoàng thượng là người thân thiết nhất, nghĩ rằng từ nay về sau không được hầu hạ bên cạnh Hoàng thượng nữa, lão nô chết không nhắm mắt!

Chính Đức rơi lệ nói:

- Lưu Cẩn, ngươi, ngươi đúng là quá phụ lòng Trẫm rồi, làm tổn thương lòng Trẫm rồi! Niệm tình ngươi hầu hạ Trẫm nhiều năm, hôm nay Trẫm mới tới gặp ngươi một lần, sau này vĩnh viễn không gặp nữa!

Chính Đức nói một cách tuyệt tình, nhưng lòng thương tiếc còn xa hơn sự phẫn nộ. Lưu Cẩn liếc thấy Hoàng thượng muốn quay người đi, liền quỳ lê mấy bước, khóc lóc cầu xin:

- Hoàng thượng, đầu xuân thời tiết lạnh giá, trong điện này càng ẩm thấp, lão nô chỉ có bộ đồ lót, lạnh run người, cầu xin Hoàng thượng rủ lòng thương, ban cho vài cái áo cũ chống lạnh!

Chính Đức dừng lại một chút, chỉ hừ lạnh một tiếng, không nói gì liền sải bước ra ngoài.

Lưu Cẩn mong chờ quỳ ở đó, hai đầu gối tê cứng, bỗng thấy hai tiểu hoàng môn bên cạnh Hoàng thượng dẫn theo hơn 10 người mang đống quần áo cũ chăn đệm tới cho y. Lưu Cẩn vui mừng nghĩ: Hoàng thượng bị lòng thương của y làm cho mềm lòng, lần này vẫn còn có hy vọng.

Y liền quỳ xuống đất liên tục dập đầu, tạ thánh ân. Hai tiểu hoàng môn này, trong đó có một người là người của y. Y vẫn quỳ rạp xuống đất không dậy nổi, Hoàng thượng ban quần áo lại bái xa tạ ân. Những lời này tiểu hoàng môn đó lại thêm mắm muối truyền tới tai Hoàng thượng, đương nhiên cũng có thêm vài phần cảm tình.

Một tiểu hoàng môn khác trở về liền bớt thời giờ tới Ti lễ giám, nói lại tất cả mọi việc cho Miêu Quỳ biết. Miêu Quỳ hiện giờ đang tọa trấn ở Ti lễ giám, nghe tiểu hoàng môn hồi bẩm, cười lạnh hai tiếng, khoát tay cho y lui xuống, sau đó tự rót cho mình một ly uống, lầm bẩm:

- Quốc công gia quả nhiên là thần cơ diệu toán. Lão khốn kiếp này còn muốn trở mình!

Y gắp một miếng thức ăn, nhấp một ngụm rượu, vẻ mặt lộ rõ nụ cười quái dị:

- Ngày mai mời Hoàng thượng tới phủ ngươi, mở mang kiến thức, có hai người bạn thân Trương Vĩnh, Mâu Bân nay giúp chuyền đồ tới nhà ngươi. Lưu Cẩn ơi Lưu Cẩn, người tính trở mình cái gì chứ? Tính toán muốn quay trở về bên cạnh Hoàng thượng dưới một người mà trên vạn người hay sao? Lão huynh ngươi lần này không được xếp vào hàng lớp tiên rồi, bay lên trời rồi, ha ha, Miêu ta viết lộn chữ xuống!

.......

Vàng bốn vạn thỏi lẽ năm vạn bảy ngàn tám trăm lượng, bạc bốn trăm năm mươi ba vạn lượng, bảo thạch hai đấu, vàng bạc châu báu khác vô số, áo mãng xà 70 bộ. Hoàng đế Chính Đức đích thân tới hiện trường tịch thu tài sản, tận mắt chứng kiến của cải như thế, không khỏi thầm tức giận:

- Lưu Cẩn, giả danh Trẫm, vơ vét nặng tay như vậy. Vốn định giáng chức hắn đi Nam Kinh nhậm chức, xem bộ dạng này, hừ! Để y quay về quê Phượng Dương làm việc vặt thôi.

Chính Đức đang thầm tức giận, lại tìm ra bắt đầu có chút không đúng: Chiến giáp ngàn chiếc, cung nỏ năm trăm, ngoài ra còn có bát trảo kim long bào 4 chiếc, Lưu Cẩn đây là muốn làm gì? Y thực sự có lòng mưu phản sao? Còn có hai chiếc quạt lông chồn lớn, không thể ngay cả một mình y cũng chuẩn bị tất cả những thứ này chứ?

Loại quạt này không phải là quạt bình thường mà là nghi thức của Hoàng đế. Chiếc quạt dài phía sau lưng Hoàng đế, dùng lông chim quang mười màu tết thành, gọi là "Phiến sáp". Sau khi cất phía sau lưng Hoàng đế, dùng để chắn bụi đất, bất phân mùa vụ đều có thể sử dụng. Nhưng mùa đông dùng là lấy lông chồn.

Trương Vĩnh ôm chiếc quạt lật lên quan sát hồi lâu mới tìm thấy cái gọi là cơ quan mà Mâu Bân báo cho hắn ta biết. Trương Vĩnh liền thử một chút quả nhiên là linh nghiệm, lập tức mang ra cho Hoàng thượng xem, nói:

- Hoàng thượng người xem xem, chiếc quạt này hóa ra là ẩn chứa cơ quan, trong đó thực sự là ác độc.

Chính Đức hiếu kỳ nói:

- Hai cánh quạt tròn có cơ quan gì?

Trương Vĩnh hưng phấn nói:

- Hoàng thượng người xem nay, chỉ cần ấn một cái!

Hắn ta nói đoạn bóp chặt lại, 'vụt" một cái phia ra một con dao nhọn mỏng như lá liễu, sắc nhọn vô cùng. Lưỡi dao màu xanh đậm, rõ ràng là có tẩm cực độc của kiến huyết phong hầu.

Chính Đức liền đứng lên, tim đập thình thịch, trong cánh quạt lại dùng để giấu tên độc sao? Lưu Cẩn quản lý Ti lễ giám, muốn đổi hai chiếc quạt cho Hoàng thượng là chuyện dễ dàng. Nếu bố trí hai tâm phúc, cầm hai chiếc quạt này, giấu phía sau y, một tiếng ám hiệu, hai lưỡi đao rơi xuống. Khoảng cách gần như vậy, lại ra tay phía sau, đó thực sự là thần tiên cũng không cứu giá nổi.

Trương Vĩnh cao hứng nói:

- Hoàng thượng, trên chiếc quạt khác cũng có cơ quan tương tự, lão nô lấy ra cho người xem!

Chính Đức cười lạnh, đứng dậy nói:

- Không cần, ngươi tịch thu tài sản của ngươi, Trẫm không xem nữa, bãi giá hồi cung!

Chính Đức quay người bước ra ngoài, trong lòng kiên quyết: Lần này, dù y nói ba hoa chích chòe cái gì, khóc lóc thế nào Trẫm cũng quyết không buông tha!

Cẩm y vệ chỉ huy sứ Mâu Bân thấy thế liền theo sát phía sau y.

Hoàng đế Chính Đức thực sự đã hết hy vọng rồi, thời tiết dù ấm áp, nhưng trong lòng y lại lạnh như băng, một hàn ý lạnh thấu xương, khiến cho nụ cười trên mặt y, giọng nói y đều lạnh lẽo vô cùng.

Y đứng cạnh Mâu Bân nghiêm nghị quát:

- Truyền dụ! Bắt Trương Thái, Lưu Vũ, Tào Nguyên, Mã Vĩnh Thành .... Canh phòng nghiêm mật, kinh doanh tiến quân vào cửu thành. Lưu Cẩn ... giao lại cho Tam ti, công khai thẩm vấn, xử phạt theo pháp luật mức cao nhất!

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 362: Lưu Cẩn đền tội

Quan viên Lục Khoa Thập Tam đạo sở trường chơi cán bút lúc này lại có đất dụng võ. Cho dù những nha môn đó đã bị Dương Lăng đánh rơi đài một nửa nhưng những người còn sót lại vẫn có lực sát thương đến kinh người. Lý Đông Dương, Dương Đình Hòa hơi ám chỉ, tập thể Khoa Đạo nha môn lên dâng thư, muôn miệng buộc tội Lưu Cẩn, tội danh vô số. Long thư án của Chính Đức hoàng để chỉ trong chốc lát đã phủ kín tấu chương.

Chính Đức không nhìn mấy tấu chương này, đã quyết định giết người, những thứ này chỉ là để cho thiên hạ một câu trả lời thỏa đáng, còn xem làm chi? Lưu Cẩn bị từ trong ngục chuyển giao chiếu ngục liền thấy có điều không ổn nhưng y vẫn không hiểu là hoàng thượng đã mềm lòng, vì sao bỗng nhiên lại quyết định xuống tay với mình như vậy.

Dương Lăng giao cho Miêu Qùy một nhiệm vụ duy nhất, chính là trông chừng Lưu Cẩn quyết không để y và hoàng đế câu thông với nhau. Bởi vì muốn hoàng đế giết y, cho dù y làm tận chuyện ác chỉ sợ cũng không dễ dàng, chỉ có phải tạo phản hành thích vua mới là phương pháp xử lý khả thi duy nhất. Cho nên căn bản là không thể để cho y biện giải với hoàng đế được.

Miêu Qùy cũng biết rõ tuyệt đối không thể thất bại trong gang tấc, Lưu Cẩn được dời đến Chiếu Ngục, Ngự Mã Giám phá lệ cho người đuổi theo. Đông xưởng Trương Vĩnh và Cẩm Y Vệ Mâu Bân cũng tự phái tâm phúc đi, cộng với nhân mã Ngô Kiệt nắm đại quyền Nội xưởng. Ba Xưởng một Vệ xuất ra các tinh anh, vây quanh Chiếu Ngục chật như nêm cối, trừ phi hoàng đế đến thì không có cách nào chứ ai cũng đừng nghĩ là sẽ vào được hay ra được.

Nhân mã của Ba Xưởng một Vệ còn chịu trách nhiệm giám sát nhau, đây đã là thời điểm cuối cùng rồi không thể bị lộ một chút nào.

Đám người Trương Thái, Lưu Vũ, Tào Nguyên, Dương Ngọc, Thạch Văn Nghĩa, Trương Văn Miện và những người thân tín của Lưu Cẩn cũng bị bắt bỏ tù. Mã Vĩnh Thành, La Tường căn bản là không thể chạy trốn, ba người khác chạy đến Trương Vĩnh ôm lấy bắp đùi của y khóc lóc:

- Đại ca, đại gia!

Khóc lóc làm cho Trương Vĩnh mềm lòng. Cũng may là Lưu Cẩn quá chuyên quyền, bọn họ cũng mò ra chút nước dầu, thật sự cũng vô cùng ác. Trương Vĩnh ra mặt nói chuyện, bảo vệ ba người này.

Lư Sĩ Kiệt vốn dĩ không sao, Đới Nghĩa sắp xếp rất tốt, nói là y sẵn sàng góp sức cho Lưu Cẩn, muốn làm phụ tá làm chút chuyện cho triều đình. Nhưng sau đó lại phát hiện ra Lưu Cẩn tham ô công quỹ, tố giác. Cứ như vậy chẳng những vô công mà còn có tội. Không ngờ Lư Sĩ Kiệt ẩn nhẫn hồi lâu rồi lại bỗng bùng phát. Vị thư sinh cuồng danh háo lợi này thà bị bỏ tù chứ cũng không muốn bán đứng chủ cũ. Tuy y vốn dĩ chịu nhờ vả của Dương Lăng lẻn vào Lưu gia nhưng lúc này y cố tình không ra khỏi cửa.

Đới Nghĩa sao đồng ý bắt y, vì thế Lư Sĩ Kiệt đã mang theo một hồ lô rượu chạy đến đại sảnh Đông xưởng, khoanh chân ngồi dưới bàn xử án. Vừa uống vừa mắng, không bắt y tuyệt đối không chạy lấy người. Trước kia Đông Xưởng luyện ngục kinh người thì lại trở thành phố Thiên Kiều sầm uất. Đới Nghĩa dở khóc dở cười, nói hay chính là khuyên y không đi, rơi vào đường cùng thì đành phải như vậy. Bắt y vào tù trước rồi dàn xếp, sau đó mới chạy đi xin chỉ thị của Dương Lăng.

Dương Lăng nghe xong không biết nên khóc hay nên cười, trong lúc cấp bách đã chạy vào ngục khuyên nhủ. Lư Sĩ Kiệt thản nhiên mỉm cười nói với Dương Lăng:

- Quốc công đừng khuyên ta, có thể giết Lưu tặc, một mạng của Lư mỗ đáng gì? Nếu ra tù như thế, không khỏi có người lên án, một mạng của Lư mỗ có đáng gì?

Dương Lăng đụng phải một con lừa bướng bỉnh như vậy cũng hết cách. Đới Nghĩa đảo mắt, thì thầm với hắn một phen. Lúc này Dương Lăng mới gật đầu đi. Đám người Lưu Vũ, Tào Nguyên bị bắt vào ngục, tự biết đầu nhập lầm chủ, cái mạng này coi như xong rồi. Trong ngục chỉ biết nằm chờ chết, không nhiều lời. Nhưng thực ra, Trương Thái, Trương Bă Miện lại không chịu.

Hai người bọn họ thông minh hơn người, người thông minh thường không cam lòng ngồi chờ chết. Trương Thái ở trong ngục biết sách suốt đêm, nói mình đã từng khuyên nhủ Lưu Cẩn không nên nhận hối lộ thế nào, đừng khắt khe, đừng nghiêm khắc với bách quan, mình là một đại trung thần. Tài văn chương của y vô cùng xuất chúng, miêu tả vô cùng sống động tình cảnh xấu hổ mình không thể không khuất phục quyền hoạn, vì triều đình, vì giang sơn xã tác tạm nhân nhượng vì lợi ích cho toàn cục.

Thực ra vị Thượng thư Bộ Lại đáng thương hại này còn không biết nguyên nhân thực sự khiến Hoàng đế trở mặt. Nếu biết hoàng đế là vì Lưu Cẩn mưu phản, có lẽ y cũng không phí công cho chuyện này. Chính vì y vẫn luôn cho rằng Hoàng đế giận giữ là vì chuyện Lưu Cẩn tham ô cho nên mới có bài văn mãnh liệt như vậy, thổ lộ sự vô tội và bất đắc dĩ của mình.

Y làm như vậy, hi vọng sống sót tuy rất xa vời, nhưng cũng có thể coi là biện pháp tốt cầu xin sự sống trong cõi chết. Nếu hoàng đế thấygiọng điệu truyền cảm, sự cuốn hút của bài văn này, chưa biết chừng lại cảm động mà tạm tha mạng cho y.

Nhưng người thông minh càng đến lúc khẩn cấp thì càng hồ đồ, cầu xin tha thứ thì cầu thôi, nhưng y vì chứng minh mình không còn cách nào mới dựa vào Lưu Cẩn. Vị mỹ nam nử trung niên đệ nhất Kinh Sư này dường như bị thần kinh, lại lấy ví dụ của Lý Đông Dương, nói Nội Các Thủ Phụ đều từng mời tiệc Lưu Cẩn, từng viết thơ chúc thọ, a dua nịnh hót quyền hoạn, huống chi là ta?

Y nói vậy cũng không sai, đám quan bám víu kia quả thực cũng lớn hơn y. Người kia hiện tại đang làm quan rất êm đềm, y thì vào ngục, nghe cũng thật khiến người ta thông cảm. Ít nhất Đới Nghĩa khi đọc bức thư hối cải này cũng xúc động sâu sắc, đêm còn cố tình thêm cơm cho Trương đại soái. Vì thế sáng sớm hôm sau, Trương Thái tiên sinh không hiểu sao đã "bệnh" mà chết.

Một người thông minh khác Trương Văn Miện, làm quan không lớn. Dù Lưu Cẩn tham ô cũng được, mà tạo phản cũng được dường như đối với nhân vật nhỏ như y đều không liên quan. Không lý do cùng cùng chết, Trương Tú Tài ngồi xổm trong ngục, vắt óc suy nghĩ cả nửa ngày mới cho rằng coi y thành chủ phạm mà bắt lại, điều giải thích duy nhất là: Người ta coi y là quân sư mưu trí của Lưu Cẩn!

Quân sư nha, không bắt ngươi thì bắt ai?

Trương Văn Miện luôn luôn tự xưng là quân sư của Lưu Cẩn nghĩ thông suốt điều này, lập tức cao hứng gọi quan sai mời Đới Nghĩa Đới Xưởng Công đến để tố giác. Nói quân sư, người nhiều mưu kế nhất của Lưu Cẩn tên là Lư Sĩ Kiệt. Là một đại tài tử rất nổi danh, xin Đới Xưởng Công nhất định phải bắt người này lại. Mình thì sao chẳng qua chỉ là bạn bè của tướng công của cháu gái Lưu Cẩn cho nên chỉ có chút quan hệ với Lưu Cẩn mà thôi.

Đới Nghĩa nghe xong rất vui mừng, vỗ vỗ vai của y khen ngợi mấy câu, bảo y ở trong tù đợi. Nói Đông Xưởng dưới sự lãnh đạo của Đới Nghĩa y đã không còn là quỷ môn quan nữa, cũng không làm án oan... Đới Nghĩa y sẽ không bỏ qua cho người xấu, cũng sẽ không làm oan cho người tốt. Đợi điều tra ra manh mối sẽ thả y ra.

Vì để chứng minh điều mình nói là thật, Đới Nghĩa nói thì phải làm, đi ngay tức khắc. Lập tức đề xuất đưa Trương Văn Miện từ một trọng tù bị nhốt một mình ra, nhốt vào nhà tù bình thường, cùng với hơn 10 phạm nhân khác nữa. Vì thế Trương Văn Miện đã cảm động nước mắt lưng tròng. Đáng tiếc là mặc dùTrương Tú Tài đã gặp được Đới Thanh Thiên nhưng mệnh của y không tốt. Nghe nói ban đêm vì tranh giành bồn cầu mà đã bị những tên tội phạm khác ấn chết tươi sặc trong bồn cầu.

Lưu Cẩn còn chưa chết, mà hai vị thông minh này còn chết sớm hơn cả Lưu Cẩn.

Nhưng ngày mà Lưu Cẩn chết cũng đang rất gần...

Hoàng đế hạ chỉ, tra tấn Lưu Cẩn Ngọ môn đình.

Tam Pháp ti nằm ở Hình đường thiết lập bên ngoài Ngọ Môn, Lục Bộ Cửu Khanh đình thẩm Lưu Cẩn, lại lệnh cho rất nhiều hoàng thân huân thần cùng đến. Lưu Cẩn ở trong ngục mặc dù nghi ngờ, bất an nhưng vẫn không nghĩ ra vì sao hoàng đế lại đổi chủ ý, công khai thẩm tra y.

Cẩm Y Vệ kéo Lưu Cẩn, bắt đến Ngọ môn. Lưu Cẩn vừa nhìn đã thấy trước mặt là Tam Pháp ti, y không hề hoang mang mà nghênh ngang đi tới. Nhìn mọi người khinh miệt, rồi cười lạnh:

- Chư vị đang ngồi, không biết là ai thẩm ta?

Không phải là Lưu Cẩn không sợ chết, y ngông cuồng làm ra vẻ ta đây như vậy là muốn lấy khí thể đế ngăn chặn dáng vẻ bệ vệ của quần thần. Để bọn họ không dám cho thẩm vấn, tốt nhất là để Hoàng đế ra mặt mới biết rõ nguyên nhân khiến tâm tình Hoàng thượng thay đổi, giáp mặt cầu xin may ra mới sống.

Những quan viên này tuy chưa chắc cùng phe cánh, nhưng Lưu Cẩn chủ trì triều chính trong đó có phụ trách kiểm tra đánh giá quan viên. Nói nhỏ, tặng lễ vật, chuyện này ít nhiều đều có. Lưu Cẩn vừa nói, đám quan viên này đã chột dạ xấu hổ, không ngờ là không ai dám trả lời.

Lưu Cẩn vừa thấy, dũng khí mạnh mẽ, hai tay giơ xiềng xích ngửa mặt lên trời cười to nói:

- Công khanh cả triều đình đều từ môn hạ của ta mà ra, kẻ nào có tư khách thẩm tra ta?

Câu này của y có hơi càn rỡ nhưng nghiêm chỉnh mà nói có rất nhiều quan viên chính là đi nhờ vả từ cửa của y mà làm quan, mưu cầu ích lợi. Lưu Cẩn vừa mới chỉ trì sát hạch, bổ nhiệm quan viên. Nói tất cả những người này đều xuất thân từ môn hạ của y cũng đúng là như vậy.

Văn võ bá quan, thậm chí là quan viên của Tam Pháp ti mặt đỏ bừng. Tuy biết hiện tại tuy Lưu Cẩn đã là tù nhân, nhưng dưới sức ảnh hưởng của y không ai dám mạo hiểm đứng đầu chỉ trích.

Hình bộ Thượng thư đỏ mặt lên, định quát lớn nhưng thấy Đô Sát Viện, Đại Lý Tự đều không nói gì thì cũng không muốn lộ diện nữa. Mà Đô Sát Viện, Đại Lý Tự cũng có đều ý tưởng, Hình Bộ nhận hình danh thiên hạ. Đô Sát Viện duy trì trật tự. Đại Lý Tự sửa sai, sơ thẩm là trách nhiệm của Hình bộ. Bọn họ đương nhiên là không muốn lộ diện.

Nhưng văn võ cả triều đình, Vương Hầu Huân khanh kệ cho một tù nhân kiêu ngạo, hơn nữa lại trước Ngọ Môn thì chẳng phải là làm tổn hại đến thể diện của hoàng gia sao? Thượng thư Hình bộ cũng phải kiên trì đến cùng, nói một câu mềm mỏng:

- Lưu... Lưu Cẩn chớ làm càn.

Lưu Cẩn hừ một tiếng kéo xích chân, bả vai rung lên bộ dạng vẫn nghiễm nhiên như lúc chủ trì nội đình bước đến trước mặt Tam Pháp Ti, liếc mắt nhìn y rồi lạnh lùng nói:

- Mang ghế ra đây!

Bỗng có người lớn tiếng:

- Ghế thì không cần, trị trước đã!

Lập tức có một người đi như bay, đằng đằng chạy đến đứng trước Tam Pháp Ti. Hai tiểu Hoàng Môn phía sau vội vàng đuổi theo, mang ghế ra. Người kia hơi cười cười rồi ngồi xuống bắt chéo chân. Cười nói chân thành:

- Lưu công công, uy phong gớm. Chúng tôi không phải suất thân từ môn hạ của ngươi, có thẩm tra được ngươi không?

Lưu Cẩn nhìn thấy người đến là Trương Vĩnh, đây chính là thấy kẻ thù thì đỏ mắt. Khi quyền thế của y cao ngút trời, Trương Vĩnh cũng dám giáp mặt với y, huống chi bây giờ y như phượng hoàng gãy cánh. Trương Vĩnh sao có thể sợ y được.

Lưu Cẩn rung khóa sắt, gầm rú nhào đến. Trương Vĩnh ngồi bắt chéo vểnh chân lên, chỉ thẳng vào y. Hai giáo úy trong đội quan binh lao ra, ghì Lưu Cần xuống.

Trương Vĩnh chậm rãi nói:

- Nào, cho ông ta chút khí lực phải hầu hạ Lưu công công tốt chứ.

Hai giáo úy lập tức ấn Lưu Cẩn ngã xuống đất, xua tay bảo nha dịch đứng hai bên dùng hình.

Lưu Cẩn giận dữ quát:

- Trương Vĩnh, tên thất phu này dám dùng hình phạt riêng với ta sao?

Trương Vĩnh đảo cặp mắt trắng dã, khinh thường nói:

- Xem kia, xem kìa, nói ngươi không học vấn, không nghề nghiệp, ngươi còn chưa thừa nhận! Tam Pháp ti hội thẩm, cần phải tra tấn phạm nhân một trầu trước, sau đó mới thẩm án. Cái này gọi là tạp trị. Giống như dân cáo quan, cáo tới Đại Lý Tự, vậy trước tiên phải lăn đinh bản sau đó mới thụ lý vụ án của ngươi, có phải không? Mấy vị đại nhân?

Ba vị Hình bộ, Đô Sát Viện, Đại Lý Tự cùng chắp tay nói:

- Trương công công nói rất chí phải.

Trương Vĩnh khì một tiếng, khuôn mặt tươi cười không còn nữa quát:

- Đánh cho ta!

Hai nha dịch giơ gậy đánh cho mông Lưu Cẩn nở hoa. Lưu Cẩn cắn chặt hai hàm răng không muốn chịu thua rụt rè trước mặt đối thủ. Bị đánh xong trận đòn, máu tươi phun đỏ vạt áo. Trương Vĩnh cười híp mắt nói:

- Văn võ bá quan, chính là thần tử của hoàng thượng, ngươi nói đều là môn hạ của ngươi, đây là đại nghịch bất đạo. Chỉ với mặt này cũng có thể định tội ngươi rồi.

Trương Vĩnh hỏi:

- Ta hỏi ngươi, tham ô hối lộ, vơ vét tài sản có hay không?

Lưu Cẩn cúi đầu suy nghĩ một lát rồi ngẩng đầu căm hận đáp:

- Có!

Trương Vĩnh chỉ vào Tam Pháp Ti há mồm trợn mắt nói:

- Ghi vào, Lưu Cẩn thừa nhận tham ô!

Lập tức lại hỏi:

- Ngươi đả kích hãm hại trung lương, có hay không?

Lưu Cẩn cười lạnh:

- Cái gì gọi là trung lương?

Trương Vĩnh cười nói:

- Như vậy là ngươi đả kích hãm hại buộc tội ngươi, ngươi không chịu phụ thuộc quan lại, có hay không?

Lưu Cẩn không chút nghĩ ngợi mà nói:

- Có!

Trương Vĩnh lại chỉ:

- Ghi vào, Lư Cẩn thừa nhận đả kích các quan viên xa lánh triều đình.

Trương Vĩnh dựa vào 30 tội lớn, 60 tội nhỏ của Triệu Phong Tử, từ nhỏ đến lớn hỏi theo thứ tự. Lưu Cẩn tránh cho da thịt đau đớn, cố nhẫn nhịn tránh đến lúc gặp hoàng thượng thì đi đời nhà ma. Y rất sảng khoái trả lời. Mãi đến lúc Trương Vĩnh quát hỏi:

- Ngươi nuôi riêng mấy trăm gia tướng, giấu diếm binh khí, áo giáp trong phủ, có không

Lưu Cẩn ngẩn ngơ nói:

- Gia nghiệp nhà ta nhiều, chiêu mộ gia tướng bảo vệ tất nhiên là có. Nhưng.... Binh khí, áo giáp để làm gì? Đâu có chuyện này?

Trương Vĩnh cười lạnh:

- Từ trong phủ ngươi tìm thấy vô số vũ khí, ngươi còn cãi chối sao?

Lưu Cẩn ngạc nhiên một lúc lâu, sau đó mới giãy dụa, quát ầm lên:

- Lão tặc Trương Vĩnh, là ngươi hại ta! Nhất định là ngươi hại ta, ta chưa từng giấu binh khí, áo giáp?

Trương Vĩnh cười ha ha nói:

- Từ trong hầm bí mật ở phủ nhà ngươi tìm thấy rất nhiều binh khí, áo giáp. Chuyện này là hoàng thượng tận mắt nhìn thấy, còn giả vờ sao?

Y quay ra chỉ, nói:

- Ghi vào, Lưu Cẩn thừa nhận nuôi riêng gia tướng, không phủ nhận giấu binh khí, áo giáp.

Lưu Cẩn tức giận nổ phổi, cưỡng từ đạo lý, tội danh ngang ngược. Trước đó không lâu, là y đã hại bách quan, lật đổ loại trừ, thường dùng kỹ xảo trả đũa. Bây giờ lại bị người ta làm lại với mình y như thế, lúc này y mới cảm nhận được cảm giác phẫn uất bi phẫn đó.

Trong lòng của y tràn đầy lo âu hoảng sợ, và rốt cuộc y đã biết vì sao hoàng đế lại thay đổi chủ ý. Thẩm vấn y ở Ngọ Môn, lần này y thực sự hết rồi, đối thủ cũng hiểu đạo lý đánh rắn phải đánh dập đầu, hậu hoạn vô cùng. Đây là muốn chỉnh y đến chết mà!

Lưu Cẩn liều mạng giãy dụa, nhưng sức của y đâu vượt qua được hai Giáo úy mặc giáp thân thể khoẻ mạnh kia? Hai tay Lưu Cẩn chống đất, đau buồn hô to về phía cửa:

- Hoàng thượng! hoàng thượng cứu thần! Hoàng thượng cứu thần!

- Ta hỏi ngươi, quạt tròn ngươi cất giấu trong phủ là có ý đồ mưu sát hoàng thượng đúng không?

- Hoàng thượng cứu mạng! Hoàng thượng, lão nô là Lưu Cẩn đây, hoàng thượng!

Lưu Cẩn hô to nước mắt cuồn cuộn.

- Ghi vào, Lưu Cẩn chỉ khóc rống chứ không dám phủ nhận.

Cung Thái Tử, hoàng đế Chính Đức mặc áo đen đánh đàn rất nhanh.

Mười nhón tay gảy đàn, tiếng đàn sầu sầu, dài dài thê lương. Miêu Qùy, Đới Nghĩa cung kính đứng đằng sau, nín thở không nói gì.

Bỗng có tiếng coong coong, dây đàn đứt đoạn. Bàn tay của Chính Đức hoàng đế trên đàn nửa thước một giọt máu đỏ sẫm chảy xuống, rơi bộp trên đàn.

Miêu Qùy, Đới Nghĩ run lên, sợ hãi cúi người đi lên. Chính Đức giận dữ quát lên:

- Cút ngay!

Hai người hoảng sợ, đứng một bên không dám động đậy. Chính Đức hoàng đế nhìn ngón tay, rồi lại nhìn giọt máu tụ lại tươi đẹp, khóe môi bỗng cười khổ bất đắc dĩ:

- Lòng người khó đoán, lòng tham không đáy. Ta đối xử với Lưu Cẩn không tồi, các ngươi nói xem, vì sao y lại đối xử với ta như vậy?

Hai người ậm ừ khó trả lời, ánh mắt của Chính Đức chợ lóe lên, đột nhiên hỏi:

- Dương Lăng đâu? Hắn đâu rồi?

Đới Nghĩa nhẹ giọng đáp:

- Khởi bẩm hoàng thượng, Uy quốc công từ sau khi hoàng thượng triệu kiến thì đã đóng cửa ở nhà, ngay cả quan viên đến thăm cũng không gặp.

Chính Đức thở dài nói xa xôi:

- Dương khanh đang trách ta nghe tin sàm ngôn, cấm hắn trong phủ đúng không? Hay vì chuyện của Lưu Cẩn, hắn lo lắng trẫm sẽ thiên vị sao?

Hai người lo lắng đề phòng không trả lời. Chính Đức sững sờ một lúc sau đó mới quả quyết:

- Không đâu, Dương khanh quyết sẽ không phụ ta. Chúng ta một đời quân thần, một đời bằng hữu... Một đời huynh đệ, hắn chắc chắn sẽ không phụ ta.

Chỗ này là cung Thái tử khi còn bé từng ở, Chính Đức lại khó kiềm chế, ngay cả cách xưng hô cũng sửa đổi. Không hề xưng là trẫm. Tín nhiệm Lưu Cẩn như vậy không ngờ Lưu Cẩn lại mưu hại y. Chuyện này đối với y mà nói quả thực là một đòn đả kích lớn, y nói như đinh đóng cột, thà nói tuyệt đối tín nhiệm Dương Lăng chi bằng nói tự khẳng định lòng tin của mình. Chu Hậu Chiêu vẫn luôn trọng tình nghĩa, rốt cuộc cũng không chịu được đòn đả kích phản bội từ sau lưng.

Đới Nghĩa, Miêu Qùy vội vàng nói:

- Hoàng thượng anh minh, hoàng thượng nói rất đúng.

Chính Đức cười ung dung, hỏi ngược lại:

- Ta anh minh sao? Ta anh minh mà lại coi một tên nịnh thần là thân tín. Giữ ông ta bên cạnh lâu như vậy, tuyệt đối tin tưởng ông ta nữa.

Y từ từ ngắm hai mắt lại, than thở:

- Ta đúng là không nghi ngờ Dương Khanh, nhưng hắn trốn tránh không ra ngoài tránh bị hiềm khích, đó là sinh lòng hiềm khích với trẫm rồi. Hắn lo lắng đến cả hắn mà trẫm cũng nghi ngờ, tâm ma đã nảy sinh thì tình nghĩa sẽ không còn nữa... Chơi với vua như chơi với hổ, định mệnh của quân vương là nên cô độc sao? Nên mãi mãi không có bằn ghữu, không có người để tin tưởng...

Một giọt máu trên đầu ngón tay rơi xuống, hai giọt nước mắt cũng lăn từ trên má xuống.

Y nắm giữ quyền lực cao nhất của thiên hạ, nhưng trên ở phương diện tình cảm y không có nhiều người thân. Thân nhất cũng chỉ có hai người, một người đã phản bội y, một người thì tránh hiềm khích mà xa y. Cảm giác trống rỗng chứa đầy trong suy nghĩ của y.

- Trẫm không muốn là người cô đơn!

Chu Hậu Chiêu giận dữ xua tay, cây đàn cổ bị hất ra ngoài. Lăn trên mặt đất, âm thanh tàn phá kia giống như nỗi lòng tang thương hiện giờ của y.

Bỗng nhiên, một tiểu Hoàng Môn nhón mũi chân đi tới, nơm nớp lo sợ nói:

- Hoàng... Hoàng thường, Uy quốc công cầu kiến!

Chính Đức nghe thấy vậy liền ngẩng đầu lên, ánh mắt mừng như điên, vừa vui mừng vừa thoải mái.

Đới Nghĩa, Miêu Qùy thở dài, vẻ mặt tươi cười thoải mái.

Một thư sinh mặc áo bào xanh xuất hiện trong ánh mắt mông lung của Chính Đức. Vóc người hắn thon dài, mặc áo bào xanh cổ tròn, đầu đội khăn nguyệt sắc tứ phương, dáng người thon dài, mặt như quan ngọc, phong thái nho nhã phong lưu. Tâm trạng của Chính Đức hoảng hốt, đột nhiên lại nhớ về chuyện hai năm trước trong cung Thái Tử.

- Dương Thị Độc!

Một tiếng gọi bật thốt lên.

Chính Đức vui vẻ gọi lên, mặc dù trong mắt vẫn còn lệ, trên mặt cười tươi tràn đầy hi vọng, nụ cười thực sự từ trong nội tâm.

Vào thời khắc này, hai người lại lần nữa gắn bó cùng nhau, đó là một tình huynh đệ thân thiết. Đương nhiên trên đời cũng chỉ có Dương Lăng mới có thể cho y cảm giác này.

- Thần đã từng học tiêu kỹ của nghĩa muội Nhất Tiên, chỉ có điều trình độ không cao. Hoàng thượng nếu có nhã hứng, thần mạo muội hợp tấu cùng hoàng thượng một khúc.

- Được! Tấu khúc nào?

- Tấu khúc Sát Biên Nhạc mà hoàng thượng phổ nhạc...

Đới Nghĩa, Miêu Qùy xem tình hình vội vàng vào trong phòng lấy ra một cây ngọc cầm và một cây tiêu.

Một khúc nhạc mãnh liệt vang lên, khí thế sung mãn. Dương Lăng thân mặc nho y, tay cầm trúc tiêu, bàn tay nhẹ nhàng hợp phách. Bàn tay trái nhẹ nhàng hợp khách, sau khi nghe thấy tiếng đàn trầm bổng, uyển chuyển quanh quẩn, đột nhiên lại dừng lại, tiêu nâng lên môi tiếng tiêu cùng hòa tấu.

Tiếng tiêu và tiếng đàn người cao ta thấp, người thấp ta cao hòa tấu với nhau như một đôi cá, du ngoạn trong nước vô vùng thong dong.

Chính Đức gảy đàn, tấu với Dương Lăng, nụ cười như bay. Kỹ thuật thổi tiêu của Dương Lăng mặc dù kém nhưng hai người khá tâm đầu ý hợp. Nhưng thấy đôi lông mày của Chính Đức nhíu lại, tiếng tiêu của Dương Lăng thấp xuống, êm tai, tiếng đàn lại cao vút lên. Nếu thấy Dương Lăng trầm xuống, tiếng đàn của Chính Đức cũng nhỏ đi hòa quyện như diều gặp gió.

Khúc tấu này mặc dù không tạo thành khúc tấu ý nhị của Đường Nhất Tiên nhưng lưu loát, ý nhạc tâm thông. Làm cho người khác cảm thấy vui sướng...

Không biết lúc nào, Trương Vĩnh lặng yên đi vào trong điện nhìn thấy cảnh này thì vội vàng cầm cả đống đồ đứng bên cạnh không dám quấy rầy. Chính Đức không coi ai ra gì, một khúc nhạc tấu xong, ấn vào phím đàn cười to tói:

- Sảng khoái, sảng khoái! Buồn bực đã hơn 10 ngày rồi, chỉ có hôm nay lúc này là trong lòng vui vẻ nhất.

Dứt lời, y nhìn sang Trương Vĩnh, không cười nữa mà bình tĩnh nói:

- Thẩm xong rồi à?

Trương Vĩnh ngạc nhiên khi nhìn thấy vẻ bình tĩnh của hoàng đế như vậy, rồi lại nhìn Dương Lăng bên cạnh y. Đám người Đới Nghĩa không hiểu hoàng đế lúc đi vào Ngọ Môn nhìn vẻ mặt còn bi thương, căm, bàng hoàng thất thố do dự sao đột nhiên lại thay đổi như vậy.

Y không dám nhìn nữa mà vội vàng khom người nói:

- Vâng, quả như hoàng thượng dự liệu. Lưu Cẩn ngang ngược ở Ngọ Môn, quát lớn giáo huấn bách quan. Không ai dám trả lời, may nhờ vào cái uy của hoàng thượng lão nô đã dẫn người đến, Lưu Cẩn có kiềm chế hơn. Tam Pháp Ti hội thẩm tổng cộng tội lớn có 35, tội nhỏ có 68. Lưu Cẩn thú nhận trực tiếp, hiện giờ đã được ghi chép sao lục.

Trương Vĩnh cung lính dâng quyển tròn lên nói:

- Đây là tội trạng, còn cần đối chiếu với nội dung thẩm tra của Tam Pháp Ti. Điều nhân viên thẩm vấn liên quan vụ án, thu thập khẩu cung, vật chứng, nhân chứng và một vài người bị hại ở các nơi trên thiên hạ đã chịu loạn chính khốc pháp này hãm hại đến tan cửa nát nhà đều đến Kinh Sư...

Chính Đức thản nhiên nói:

- Không cần nữa, chiếu theo thẩm vấn như vậy của các ngươi, lề mề quá, phải thẩm vấn đế khi nào? Số lượng vàng, bạc trắng trong nhà y rất lớn, vi phạm lệnh cấm về binh khí, áo giáp. Văn võ, quan viên bị hãm hại đến chết, loạn chính hại dân vô tội đến tan cửa nát nhà, từng chuyện, từng chuyện một đều có đủ lý do để đáng tội chết.

Y xé một mảnh giấy. Đới Nghĩa, Miêu Qùy mắt sáng lên giống như hai tên mặt quỷ đang đứng trước Diêm vương, vèo một phát nhào tới, một nghiên mực, một cây bút, đôi mắt mong ngóng vị này hạ một câu dưới bút son, ghi chép cái tên của lão quỷ kia vào sổ sinh tử.

Chính Đức cầm bút giơ cao, xoẹt xoẹt viết ba chữ to, suy nghĩ một chút rồi cắn răng lại viết ba chữ nữa. Sau đó vứt bút, phất mạnh tờ giấy về hướng Trương Vĩnh. Tờ giấy trắng bay lên, Trương Vĩnh nhanh mắt xông về phía vừa quỳ vừa bắt vào trong tay.

Nét mực còn in rõ trên tờ giấy trắng, sáu chữ to lớn dày đặc:

- Vô phục tấu, lăng trì chi!

Trương Vĩnh vừa nhìn thấy trong lòng liền mừng rỡ, trong chiếu chỉ của hoàng thượng, vậy là không cần thẩm tra nữa, lão già Lưu Cẩn chết là chắc rồi.

Ý chỉ của hoàng đế, nhất định phải thông qua Trung thư tỉnh mới có hiệu quả. Một thế hệ nữ hoàng Võ Tắc Thiên ngạo nghễ thiên hạ, cũng phải cải Trung Thư Tỉnh thành Phượng Các. Môn Hạ Tỉnh thành Loan Đài, ý chỉ không ra từ Phượng Các Loan Đài thì không được tính là mệnh lệnh. Đến Đại Minh, bỏ Trung Thư tỉnh mà xây Nội Các, ý chỉ phải truyền đạt mệnh lệnh qua Nội Các.

Nhưng luật pháp vẫn là luật pháp, sự thật vẫn là sự thật. Chỉ thị viết tay, mật chiếu của hoàng đế đều tồn tại trong bất cứ triều đại nào. Chính Đức lén lút đi Đại Đồng, ý chỉ giữ lại chính là thành trung chỉ. Dương Lăng ở Bá Châu nhận được trung chỉ. Giờ phút này ý chỉ vẫn là như thế, nếu không có người phản đối, nó có thể chấp hành, còn có người phản đối nó vẫn được chấp hành.

Vấn đề là, hạ chỉ giết Lưu Cẩn, ai sẽ phản đối?

Dương Lăng đã nhìn trộm sáu chữ kia, đối thủ đấu lâu như vậy, oan gia lúc nào cũng muốn đưa mình vào tử địa cuối cùng đã tới lúc bị chém. Trong lòng hắn có một cảm giác không thể nói rõ, thoải mái nhưng tuyệt đối không hề vui sướng.

Trương Vĩnh cầm chỉ lui một lúc lâu, Dương Lăng mới tiến lên thi lễ, nhẹ nhàng nói:

- Hoàng thượng, thần.... muốn đi hỏi thăm Lưu Cẩn một chút, xin hoàng thượng ân chuẩn!

Chính Đức xoay người dừng lại nhìn Dương Lăng, ánh mắt vô cùng kỳ lạ.

Đới Nghĩa và Miêu Qùy toát mồ hôi lạnh:

- Một nghịch tặc ý đồ tạo phản hành thích vua, ai cũng sợ trốn còn không kịp. Uy quốc công sao lại muốn đi gặp y? Đây không phải là hồ đồ sao?

Dương Lăng thản nhiên nhìn ánh mắt của hoàng đế Chính Đức. Chính Đức từ từ cười một cái đắc ý rồi đứng dậy nói:

- Được, mang chút rượu thịt và thức ăn ra đây, trẫm làm tiệc tiễn biệt ông ta.

Dương Lăng khom người nói:

- Cung tiễn hoàng thượng.

Vừa nâng người lên, Đới Nghĩa và Miêu Qùy đã đã nhắm mắt theo đuôi rời đi cùng hoàng đế Chính Đức.

Gió xuân nhè nhẹ hồ gợn sóng, hai con chim uyên ương bơi lượn. Cây tử đằng bò xanh mơn mởn, khung cảnh tươi đẹp làm sao. Dương Lăng thở dài một tiếng, rồi từ từ đi ra, cung Thái Tử lại rơi vào tĩnh lặng.

Một cái bàn nhỏ, bày đầy rượu và đồ nhắm. Lưu Cẩn và Dương Lăng ngồi đối diện nhau.

Hai người bình tĩnh, như một đôi bạn tốt đã nhiều năm không gặp lại, nhìn không hề thấy có một sự thù hằn nào.

- Bây giờ chúng ta thực sự đang nhớ lại cái ngày còn ở Chung Cổ Ty, cứ sáng sớm là có chuông, uống chén trà nóng, ăn chút điểm tâm cũng đủ, rồi cùng vui đùa với hoàng đế. Mỗi ngày đều không có chuyện gì lớn, không lo âu. Giáo phường ti năm ngày ba bận còn có chút hiếu kính, được ba năm mươi lạng bạc, cất vào trong hòm, nhìn thấy nó đầy bên trong, vui thật là vui!

Lưu Cẩn tóc đã điểm hoa râm, nhìn lên ánh sáng chiếu rọi cao cao ngoài cửa sổ. Trong tia nắng mặt trời có hạt bụi, còn có những con côn trùng lũ lượt bay tới.

Lưu Cẩn cười thảm hai tiếng nói:

- Nhìn thứ kia nhỏ bé mà vui vẻ. Còn ta, làm quan lớn, ai gặp cũng phải cúi người, oai phong làm sao! Vàng bạc chất thành đống trong nhà mà chẳng có cảm giác gì. Ta chỉ là một kẻ phế nhân, tiền nhiều như vậy để mà làm gì? Có lợi ích gì? Vì đống đồng nát sắt vụn đó mà đắc tội với người ta, bây giờ nghĩ lại thực sự là không đáng.

- Suy nghĩ của công công hôm nay có lẽ là thật nhưng nếu ngươi có thể rời khỏi nhà giam này, ngươi còn nghĩ cách quay về bên cạnh hoàng thượng, càng làm tổn hại đến thiên hạ! Suy nghĩ của con người ấy à... Ôi. Lúc trước rời khỏi Dương Gia Bình, ta muốn tích lũy ba năm trăm lượng bạc, mua một căn nhà bình thường, để ái thê trong nhà không phải lo cơm áo.

Sau đó làm quan lớn rồi, ta nghĩ không thể chỉ có quyền lực như vậy, không thể tầm thường ngồi ăn rồi chờ chết, không thể chỉ lo cho gia đình nhỏ bé của mình, mà phải được dân chúng kính nể. Suy nghĩ của con người chưa hình thành thì không thay đổi thì không.

Lưu Cẩn bị hắn vạch trần biểu hiện giả dối cầu xin tha thứ, y hung tợn trừng mắt nhìn hắn. Dương Lăng như không có chuyện gì, tự rót mà uống.

Trong mắt Lưu Cẩn hiện lên một tia giảo hoạt, y lập tức buồn bã nói:

- Ta tự gây nghiệt, lúc trước vẫn là ta đi Kê Minh dịch truyền chỉ, mời Dương địa nhân ngươi về kinh, ai mà biết ta lại tự mời sao chổi đến cho mình!

Y vỗ đùi, hận nói:

- Tố ta mưu phản? Trong nhà ta giấu binh khí, áo giáp có dùng gì đâu? Ngươi nắm trong tay Ngoại tứ gia quân, Kinh Doanh nắm trong tay Trương Vĩnh. Ngự Mã Giám là của Miêu Qùy, binh quyền vẫn là của ngươi. Trong nhà ta giấy mấy bộ áo giáp, đao, thương để làm gì? Trên dưới một trăm gia tướng, một đám ô hợp, ta có thể giết hoàng thượng sao? Ta không tin, ta không tin hoàng thượng sẽ tin.

Dương Lăng cười thản nhiên nói:

- Không tin? Đúng là không tin? Nhưng trong hoàng quyền sự thật không cần chất vấn nhiều như vậy. Hơn nữa lẽ nào Lưu công công không nhớ chuyện Tào Cát Tường tạo phản sao?

Lưu Cẩn vừa nghe đến đây, sắc mặt tái đi. Sao lại quên mất vị tiền bối này nhỉ. Tào Cát Tường đó là Đại thái giám trong năm Anh Tông, đệ nhất quyền hoạn sau Vương Chấn. Mãnh nhân này mưu kế soán vị cũng dẫn theo một đám gia tướng, chuẩn bị vào cung giết hoàng đế, sau đó cử hành đại lễ đăng cơ.

Có một vị tiền bối thiếu tâm nhãn như vậy ở đời trước làm gương, hoàng thượng có thể không tin sao?

Dương Lăng tiếp tục nói:

- Ngươi cũng biết binh quyền không ở trong tay ngươi, vì thế đã lôi kéo đô đốc Thần Anh và một đám tướng lĩnh thuộc thân tín xếp vào trong Ba Xưởng một Vệ. Vì thế đã coi thủ lĩnh Cẩm Y Vệ Dương Ngọc, Thạch Văn Nghĩa làm thân tín. Thạch Văn Nghĩa vì làm thân tín, đã nhận làm con nuôi. Ngươi ở quê tu sửa mồ mả cha mẹ, quy cách vượt cả Việt Vương hầu. Chuyện này, thủ hạ của hàn lâm Ngự Sử cũng đủ để giăng một tấm lưới không hề sơ hở. Lưu công công đừng có vọng tưởng nữa.

Lưu Cẩn nhìn thẳng vào hắn, một lúc lâu không nói được câu nào.

Dương Lăng nhắc bình rượu rót cho y một ly rồi chậm rãi nói:

- Công công, nói thật, ngươi đo đạc đất đai. Chức trách khảo sát. Thay đổi định kỳ kiểm tra khảo hạch bất cứ lúc nào. Cải cách muối, phàm những loại này với ta mà nói đều là đồng ý. Rất nhiều năm sau, cách của ngươi hôm nay chắc chắc sẽ vẫn có người dùng đến.

Nếu ngươi chỉ là vì cải cách chính sự thì dù đến chết cũng vẫn được coi là một người đàn ông, chưa biết chừng còn được ghi tên sử sách. Đáng tiếc ngươi lại làm chuyện này, cũng là vì tư lợi. Đo đạc đất đai, là vì lấy lòng hoàng hoàng đế, tự mình mưu lợi bất chính ở giữa. Rời chức khảo hạch chỉ là buộc tham quan biếu quà cho ngươi chứ căn bản không trừng phạt khiến bọn chúng càng ngày càng không coi ai ra gì.

Đổi thi ba năm một lần, sát hạch bất cứ lúc nào chỉ là loại bỏ các đối thủ của ngươi, đưa thân tín, gia nô của ngươi lên quan chức. Ngươi làm chuyện này một cách dễ dàng, tất cả cũng chỉ vì củng cố quyền lực cá nhân của ngươi để nươi nạp tiền vào phòng.

Ngươi cũng biết Lưu công công ngươi chưa từng tự tay giết chết một ai, nhưng người trong thiên hạ chết vô số vì ngươi? Ngươi cũng chưa từng tự tay hủy một nhà nào nhưng người trong thiên hạ vì ngươi mà tan cửa nát nhà, bao nhà bán con.

Ngươi, khi quân ngộ quốc, tai họa vô cùng, tội ác tày trời, thực không thể thứ.

Mặt Lưu Cẩn như màu đất, thân mình hơi run lên không nói một câu.

Giọng Dương Lăng dần trầm xuống nói:

- Không phải ngươi đang tranh giành cùng ta, nếu chỉ là bất đồng quan điểm có lẽ ta không nhẫn tâm giết ngươi. Nhưng bây giờ, ngươi đừng vọng tưởng nữa. Hôm nay ta đến, cũng là đại diện cho mình tiễn ngươi đoạn đường cuối.

Dương Lăng nói xong lấy một viên thuốc tròn màu đỏ trong người ra nhẹ nhàng để lên bàn nói:

- Đây là thuốc kịch độc của Tam bộ truy hồn, là ta đặc biệt làm cho ngươi. Trên đầu một kẻ ác có vô số oan hồn kêu rên, đó là việc tốt.

Lưu Cẩn kinh hoàng lui về phía sau, từ trên giường lui thẳng vào góc tường. Giọng run run nói:

- Ngươi... ngươi muốn làm gì? Ngươi muốn đầu độc ta? Người đâu! Người đâu..... Dương Lăng muốn giết người... mau cứu ta.

Tiếng vọng từ trong ngục ra, gần xa cũng không nghe thấy ai đáp lại. Nhìn ánh mắt thương hại của Dương Lăng, nỗng Lưu Cẩn quỳ trên giường dập đầu rối rít:

- Dương đại nhân, Quốc công gia, ngài đại nhân đại lượng, ngài đừng giết tôi, tôi không muốn chết, không muốn chết, ngài đừng giết tôi...

Dương Lăng khẽ thở dài, từ từ đứng thẳng người. Lưu Cẩn sợ đến mức rúc vào góc tường như một con chuột. Dương Lăng nhẹ nhàng nói:

- Hoàng thượng phán ngươi tội lăng trì. Lăng trì, ngươi phải biết, khổ hình đó xác thịt không thể chịu đựng nổi. Uống viên thuốc này rồi, sẽ thoải mái hơn!

- Lưu công công, cáo từ, ngươi... tự giải quyết đi.

Dương Lăng cúi đầu vái chào, rồi từ từ mở cửa đi ra ngoài. Một lát sau, có hai tên như hổ sói xông vào khóa kín cửa lại.

Lưu Cẩn nhìn thấy Phiên Tử kia cũng đi ra, vội vàng dùng cả chân tay bò đến bên bàn, cầm viên thuốc kia nhìn kỹ một lúc lâu rồi bật cười ha hả.

- Ta không tin hoàng thượng sẽ giết ta? Y và ta cùng lớn lên, ta còn không biết bản tỉnh của y sao? Ha ha, họ Dương kia, người là tiểu tặc gian trá, nhất định là hoàng thượng muốn tha cho ta, ngươi muốn lừa ta tự sát, ha ha.... Ta sẽ mắc mưu ư? Ta sẽ mắc mưu ư? Ha ha ha...

Lưu Cẩn tóc tai bù xù như quỷ đói, ném viên thuốc kia ra lăn vào đống cỏ. Lưu Cẩn nhìn ánh nắng mặt trời qua lỗ thông gió, hai mắt rạng rỡ:

- Ngày mai, hoàng thượng nhất định sẽ thả ta ra ngoài! Nhất định sẽ thả.

Đại Minh có đủ cách tử hình, nhưng loại tử hình thường dùng nhất có 3 loại. Thứ nhất là treo cổ, thứ hai là trảm, thứ ba là lăng trì. Hình phạt treo cổ nhẹ nhất, có thể dùng dây lụa buộc cổ được toàn thây, tam thu tam thả, rồi tắc thở. Tiếp theo trảm là chặt đầu, tự người nhà đi tìm thợ khâu giầy khâu đầu lại, cũng có thể coi là toàn thây. Loại thứ ba, dành cho những kẻ tội ác tày trời chính là sử dụng lăng trì.

Lăng trì còn gọi là "thái ra", tục xưng "lóc thịt", căn cứ vào sự sâu đậm của hận thù mà hành hình, phụ nữ lại gọi là "giết ngàn đao". Lăng trì là cắt từng mảng thịt trên người ra, khiến người ta đau đớn tột cùng, thảm thương cùng cực trên nhân thế. Đến mức đao phủ giết người không chớp mắt cũng phải mềm lòng.

Vì thế đao phủ hoặc là nhận hối lộ, hoặc là làm việc tốt tích đức, thường lúc đang động thủ sẽ âm thầm đâm trộm một đao vào ngực nạn nhân. Để người đó mất mạng sẽ đỡ phải chịu đau đớn hơn, khi mình lóc thịt ra thì người đó không còn sống nữa, mà tử thi, trong lòng cũng dễ chịu hơn.

Nhưng lăng trì Lưu Cẩn, ai dám làm vậy? Ngày có người lăng trì mọi người đều đổ xô ra đường. Những người bị nanh vuốt của y hại cho tan cửa nát nhà vợ con ly tán đều đến cho hả giận, người vì tu sửa Huyền Minh Cung mà rất nhiều mộ phần tổ tiên bị đào bới, thi hài bị chó hoang tha khắp nơi, con cháu không thể nhận ra thi cốt tổ tiên cũng đều đến, lại có người khoác đay để tang, cũng không phải vì y, mà là đang cầm linh vị, bát hương chạy đi cáo tể tổ tiên.

Chợ bán đồ ăn phía tây trước Tuyên Vũ môn, là nơi lúc trước Dương Lăng bị vấn tội khai đao từ sáng sớm đã tấp nập. Họ đến để xem đại gian đền tội, để phun khí dơ bẩn trong lồng ngực ra. Nhưng mãi đến gần tưa, một chiếc xe lừa đầy quan binh mới áp giải tới.

Đến tận lúc này mà Lưu Cẩn còn chưa từ bỏ ý định, y ôm cổ nhìn chằm chằm vào hoàng cung. Hi vọng lúc này hoàng đế có thể thay đổi chủ ý, có thể xá tội chết cho y. Công tác chuẩn bị đã đâu vào đấy, đao phủ kéo ván đỡ hành hình của y ra giữa sân, cởi y phục trói vào cột gỗ. Sau đó giăng một tấm lưới cá, khóa y lại bên trong rồi dùng mộc côn xoắn lại. Lúc này Lưu Cẩn không còn béo nữa, từng miếng thịt lồi lên mắt lưới, mặt y đỏ bừng lên.

Quan giám trảm là lão lão Ngụy Thân Sơn Đông thiết diện vô tư, vị nhân huynh này khuôn mặt đỏ thẫm, ghét ác như cừu, dù Vương Tôn Hoàng Thân nhưng lúc phạm tội bị xử phạt ở mức cao nhất cũng quyết không sợ thân phận của đối phương. Người hận Lưu Cẩn dù nhiều, nhưng người dám đến giám trả y vẫn thiếu chút dũng khí. Ngụy Thân việc nhân đức không nhường ai, làm một đồ tể vui vẻ nhất.

Pháo hiệu vang lên, giờ ngọ hai khắc đã đến Lưu Cẩn vẫn kéo cổ, nhìn xa xăm về phía cung thành hi vọng xuất hiện kỳ tích, lúc sắp trảm đột nhiên có ấn chiếu sửa tử hình xuống còn lưu đày. Chuyện này không phải không có, hơn nữa còn nhiều. Ngụy Thân đang sốt ruột, sợ hoàng đế mềm lòng sẽ thả tên hoạn ác tặc này.

Hai mắt ông ta nhìn chăm chú vào quầng mặt trời, trong lòng thầm cầu nguyện:

- Ngàn vạn lần đừng tới, ngàn vạn lần đừng tới, bệ hạ mềm lòng, Lưu Cẩn không chết thì sớm muộn gì cũng về cung, lại làm hại thiên hạ một lần nữa. Ông trời phù hộ! Canh giờ sao lại chậm như vậy, vẫn chưa tới!

Ngụy Thân hận là không thể tiến lên ôm lấy đồng hồ cát, đổ xuống một phát. Hàng ngàn hàng vạn dân chúng đều biết câu chuyện "đao hạ lưu nhân" không hẹn mà đến. Tất cả mọi người đều ngậm miệng lại, xoay người quay nhìn về phía hoàng cung. Nơi đó có một người, có thể quyết định sự sống chết của Lưu Cẩn, có thể quyết định thiên hạ có lại chịu bị y đầu hại nữa hay không?

Hơn một vạn người trên pháp trường không ngờ lúc này lại yên tĩnh như chết lặng. Đúng lúc đó có tiếng ngựa hí, chỉ thấy một gã Cẩm Y Vệ lao ngựa như bay từ phía hoàng cung đến. Quan lính dọc đường tránh thành đường nhỏ dẫn đến pháp trường.

Hàng vạn dân chúng không một tiếng rên, tim để trong cổ họng, hai mắt hoảng sợ, hận không thể hất cho gã Cẩm Y Vệ ngã chết ở đằng kia đi.

Trong lòng Ngụy Thân cũng thấp thỏm, bất an cuống quýt ra giám trảm đài. Chỉ thấy khoái mã chạy đến trước đài móng ngựa giơ lên. Một tiếng ngựa hí dài, Cẩm Y Vệ lấy một công văn da màu trắng từ trong ngực. Dân chúng trông mong nhìn, không rõ là gì. Ngụy Thân chủ quản hình luật chỉ cần vừa nhìn thấy vỏ không phải màu vàng mà là màu trắng, trong lòng liền mừng rỡ, lập tức quỳ gối.

Màu trắng kia không phải là ân chiếu mà là thiếp đốc thúc quan trảm lập tức hành hình. Tin này truyền ra, dân chúng hô vạn tuế ầm ầm như sấm dậy, đồng loạt hướng về phía hoàng cung bái lạy.

Ngụy Thân kích động mãi không thôi, khuôn mặt cũng đỏ lên. Ông ta nhận thiếp đốc thúc tiếp tục trở lại giám trảm đài, rút lệnh tiễn ra ném một cái rồi quát lớn:

- Khai đao!

Đến lúc này Lưu Cẩn mới sợ đến phát hoảng, chỉ có điều đao phủ sớm đã có sự chuẩn bị. Y hét một tiếng chói tai, một búi vải bị nhét vào miệng. Đao phủ đệ nhất của Hình bộ là Lưu Dã Hạ người ta gọi là Lưu Nhất Đao, có người gọi là Lưu Tiểu Đao. Đao phủ lăng trì ở Kinh Sư phần lớn đều là môn hạ của ông ta.

Hiện giờ ông ta đã hơn 50 tuổi rồi, tông đồ trải rộng khắp Lục Phiến Môn. Nếu không phải thân phận của Lưu Cẩn như vậy, ông ta cũng sẽ không phải ra tay. Chỉ thấy ông ta vung tiểu đao mỏng như tờ giấy đao pháp cực kỳ thành thạo. Hai tiếng đao vun vút vang lên, mí mắt của Lưu Cẩn đều bị cắt rủ xuống mỏng tang.

Lưu Cẩn đau đớn mắt trợn lên, nhưng hai mắt đã bị mất mí, máu tươi chảy ra có thể cảm nhận tất cả bên trong đều màu đỏ. Gọi cũng gọi không được, nhìn cũng nhìn không được, thực sự như đọa trong địa ngục ao máu. Vô cùng đau đớn.

Đao của Lưu Tiểu Đao như bay, hai tay cắt từng mảng thịt lồi trên mắt lưới đều rụng xuống, rơi bồm bộp xuống chậu. Một đệ tử bên cạnh cao giọng đếm:

- Một đao, hai đao, ba đao...

Phía sau có đồ đệ điều chỉnh sự căng, trùng của lưới. Vì lăng trì phải cắt hơn ba ngàn đao, nếu đè quá chặt chỉ gọt một lần là hết chỉ còn khung xương không được cắt. Lưu Tiểu Đao còn có bí quyết. Đệ tử bên cạnh nhân chỗ thịt còn chưa bị cắt liền lau máu và bôi thuốc tê. Vì sợ người chịu hành hình vì mất nhiều máu quá sẽ chết sớm, không thể sử dụng hết số đao này như vậy sẽ làm hỏng danh tiếng của sư phụ Lưu.

Trên đài một nhát đao thì dưới đài một tiếng náo nhiệt, rất náo nhiệt. Tuy tội ác của Lưu Cẩn tày trời nhưng khổ hình như vậy thực sự khiến người ta không đành lòng. Mới đầu còn có tiếng khen như sấm, lúc sau đao càng ngày càng nhiều. Lưu Cẩn đã thành một người máu, người phía dưới đài hơn một nửa đã che mặt. Những người này phần lớn là phụ nữ, trẻ em. Người chịu hình trên đài dù là cầm thú, nhưng trong lòng họ cũng là một trái tim bằng máu thịt, sao họ đành lòng xem?

Chỉ có dân chúng hận thù sâu sắc, bị Lưu Cẩn giết hại họ không những không đi mà còn nghiến răng nghiến lợi chờ hành hình xong để mua thịt của Lưu Cẩn về nhà cho chó ăn.

Đến lúc này Lưu Cẩn đã hiện ra thành một kẻ hung ác nhất thiên hạ, hành hình đến lúc muộn. Y chịu hành hình 470 đao không ngờ còn chưa chết, bị người ta lấy vải quấn thân đưa vào trong lao tuyên bố ngày mai tiếp tục hành hình.

Lưu Cẩn đã không biết đau nữa, mà đau quá đã rơi vào chết lặng. Huống chi Liêu Tiểu Đao còn xoa thuốc tê quanh người y. Ngơ ngác một lúc trong tù, dường như y đã khôi phục lại ý thức, y gào lên ngã gục vào đống cỏ, bắt đầu lục lọi.

Đám tử tù lăn lộn tò mò đứng ở bên nhìn chỉ thấy y chui trong đống cỏ, giống như heo ủi thức ăn dường như không biết làm gì. Qua một lúc lâu, chợt nghe Lưu Cẩm cười một trận đắc ý quái dị:

- Tìm thấy rồi, ha ha, ta tìm thấy rồi! Tìm thấy rồi.

Tiếng cười vui sướng lúc cao, lúc thấp rồi dần dần không còn nghe thấy nữa. Lưu Cẩn vẫn ở trong đống cỏ chổng mông lên, không nhúc nhích. Coi ngục gọi không thấy y trả lời nghi ngờ mở cửa ra đi vào đá một cái vào mông y.

Lưu Cẩn đứng chân lảo đão còn vẻ mặt hiện lên niềm vui thỏa mãn bất ngờ, con mắt mở to mất thần thái của người sống.

Coi ngục giàu kinh nghiệm vừa nhìn đã biết lão thái giám này tắc thở, ông ta không khỏi thở dài:

- Ôi, đáng tiếc! Lần này Lưu Tiểu Đao sư phụ mất điểm rồi!

Rốt cuộc Lưu Cẩn đã từ bỏ ý định bị áp giải lên pháp trường chịu lăng trì tiếp rồi.

Dương Lăng nghe xong tin này, chỉ nhẹ nhàng thở dài, không tỏ nhiều thái độ. Vẫn còn một chút tình cảm cố nhân với lão Lưu cho nên lúc này cũng không khỏi thổn thức.

Vì hắn có được một tin rất không hay, bọn hưởng mã tặc Bá Châu vì bị Lưu Cẩn và Lương Hồng một ở hậu phương cản trở, một ở tiền tuyến mù chỉ huy, bỏ lỡ thời kì tốt nhất tiêu diệt bọn hưởng mã tặc lúc đội ngũ hỗn loạn, hiệu lệnh không đồng nhất, binh lực bạc nhược, bây giờ đám hưởng mã tặc càng ngày càng lớn mạnh, tung hoàng không thể cản nổi.

Tin này còn chưa dậy sóng, nhưng điều khiến người ta phiền lòng chính là đám hưởng mã tặc Bá Châu phái người liên hệ với mã tặc của Thái Hành Sơn khởi sự ở Thanh Châu Sơn Đông. Thanh Châu, Bá Châu hô ứng lẫn nhau cùng giương cờ tạo phản. Người tạo phản là Dương Hổ, không ngờ cũng rất nhanh có thành tựu.

Điều này cũng thôi, mà Thành đại tiểu mưu ma chước quỷ, mưu mô chống chất nhưng đối mặt với tình hình như vậy cũng bất lực. Đành phải ấp a ấp úng nói cho hắn biết, rất có thể Hồng nương tử đang ở Thanh Châu, tạo phản chắc chỉ có mình nàng.

Dương Lăng nghe thấy tin này, ôm con trai ngồi ngẩn ngơ ở ghế. Tay nhỏ của Dương Đại Nhân tát vài cái trên mặt của Dương lão gia. Quốc công đại nhân vẫn không phản ứng chút nào...

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 363: Tranh giành đúng lúc

Vị hoàng đế đang ngồi phủi phủi ống tay áo, vị hoàng đế đang đứng cũng dưới một người trên vạn người Lưu Cẩn liền trở nên suy sụp. Nhưng việc quét sạch dư đảng của Lưu Cẩn, còn phải kéo dài hơn nữa. Những quan viên của Lưu Cẩn không phải ít, nhưng mục đích khá nhiều người chẳng qua là nước chảy bèo trôi, leo lên cây đại thụ dễ bề làm quan, tuy dựa vào quyền thế hay xu nịnh, nhưng bản thân họ vốn không có ác ý. Hơn nữa số quan viên này lại có mối quan hệ riêng, có hệ lụy riêng, cũng không thể cứ giăng lưới là bắt gọn hết được.

Trong quan trường không có quy tắc tuyệt đối, cũng chẳng có thị phi tuyệt đối.

Trách nhiệm xử lý và điều tra tính ngay gian của các quan viên đã giao cho tam đại học sĩ Lý Đông Dương, Tiêu Phương, Dương Đình Hòa và ba vị nội hoạn trừ gian đắc lực là Đới Nghĩa, Miêu Quỳ, Trương Vĩnh phụ trách. Văn võ bá quan ai nấy đều thấp thỏm lo âu, ngày ngày chăm chú quan sát Võ Anh Điện nơi mà sáu người đó nghị sự. Hằng ngày, cứ theo tin tức truyền đi từ nơi đó, là y như rằng sẽ có người bị bãi quan, có người thì thăng chức, có người thì vào ngục, hiển nhiên cũng có trường hợp những vị quan bị bãi chức sớm được ra chỉ thị phục hồi nguyên chức.

Cuộc chiến trục lợi ở Kinh Thành chẳng thấy mây mù khói lửa nhưng lại ngày càng trở nên căng thẳng, cuộc bạo loạn cùng lúc ở Thanh Châu và Bá Châu cũng diễn ra như dầu sôi lửa bỏng. Bọn hưởng mã đạo ở Bá Châu đã có hơn chục nghìn binh mã, Hứa Thái phụng mệnh tiết chế tổng cộng sáu vạn đại quân vây quét phủ đạo xung quanh.

Tuần phủ Sơn Đông cũng đang tổ chúc quan binh toàn tỉnh đối kháng với Thái Hành đạo, hằng ngày những tin tức báo về Kinh Sư liên miên không ngớt, nhưng thông thường vẫn là trước vừa báo tin một thành trì nào đó vừa bị thất thủ, thì tin tiếp theo lại là tòa thành đã được đoạt lại, bọn hưởng mã đạo tẩu tán khắp nơi, căn bản là vô tâm hay nói là bất lực chiếm cứ một thành một trì nào, cho nên xem ra đám đạo tặc lưu vong này, chẳng thể gây ra mối nguy hại to lớn nào.

Đối với bá quan trong triều mà nói, nhiệm vụ ngăn cách hoạn đảng Lưu Cẩn một ngày chưa hoàn thành, thế lực triều đình một ngày chưa bài bố thanh tẩy hoàn tất, cũng chẳng có tâm trí quan tâm đến bọn hưởng mã đạo ôm mộng chí lớn kia. Đám quan viên này trái lại không phải ai cũng nhìn vào lợi ích, hoặc giả không có con mắt nhìn xa trông rộng, chỉ có điều hoặc là không có tiếng nói ở đây, hoặc là bản thân trong tình thế khó xử.

Cũng như Lý Đông Dương, tuy rằng gã biết bọn đạo tặc tạo phản lần này có nguy hại không nhỏ, nhưng muốn diệt phỉ thì phải phái binh, phải trưng dịch, phải có lương thảo, còn phải vận hành từng nha môn một. Hiện giờ chúng quan viên đều đang chú tâm đến tiền đồ bản thân, làm sao có thể yên lòng yên dạ mà đi lo chuyện này nữa? Cho nên bọn họ đành phải tranh thủ giải quyết vụ án Lưu Cẩn, luận công ban thưởng, thưởng phạt phân minh, ổn định cục thế trở lại.

Đến lúc này nhiều vị trí quan trọng thiếu hụt bên trong nội đình, ngoại đình cũng phải cân nhắc đến, không những phí tâm sức an bài bá quan trong triều, ngay cả chức vụ thủ lĩnh Ti Lễ Giám còn trống của nội đình cũng khiến họ phải nghĩ nát óc.

Theo tình hình xử phạt hoạn đảng và sắp xếp quan liêu cấp thấp, phẩm cấp quan viên cần xử trí càng lúc càng cao, không khí nội điện Võ Anh cũng càng lúc càng căng thẳng. Lý Đông Dương và Dương Đình Hòa vốn xưa nay cùng tiến cùng lui cũng bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn, còn ba vị hoạn quan Đới Nghĩa, Trương Vĩnh, Miêu Quỳ cũng mỗi người một tâm tư, mỗi lần thương nghị đều chuyển hướng lách chủ đề đi, đến cuối cùng cũng vòng lại xuất phát điểm ban đầu chẳng thu được kết quả nào.

Lý Đông Dương vì chuyện này lòng nóng như lửa đốt, mà lúc này Dương Lăng ở nhà ngồi ôm kiều thê mỹ thiếp, con thơ cũng ngày càng xinh xắn đáng yêu, nhưng trong lòng hắn thật sự đang cháy hừng hực. Hắn ôm đầu cẩn trọng suy ngẫm rất lâu, sự kiện ở thời Chính Đức mà hắn nhớ ngoại trừ "Du long hí phượng", chỉ còn lại việc Ninh Vương tạo phản.

"Phượng" đó, hiện giờ đang ở trong nhà hắn, ngày ngày giành ôm con với hắn. Bằng không thì du xuân tầm phương với Ngọc Nhi và Tuyết Nhi, vô cùng an nhàn. Chỗ Ninh Vương, hắn cũng phái người theo dõi quan sát, hiện giờ vẫn chưa có bất kỳ động tĩnh nào.

Cuộc dân biến ở Bá Châu và Thanh Châu không biết rốt cục sẽ diễn biến đến mức nào, trong lòng hắn cũng chẳng có lòng tin chắc chắn. Theo hắn nghĩ, hoặc giả trong lịch sử đám người này chưa từng làm nên trò chống gì, hẳn đó chẳng qua là một cuộc tạo phản nhỏ nhoi, triều đình muốn tiêu trừ thì chẳng có gì khó. Nếu không sao hắn lại chẳng có chút ấn tượng nào.

Tuy nhiên hiện giờ có thêm sự can dự của bản thân, lịch sử đã thay đổi hoàn toàn. Ai mà biết được rốt cục sẽ diễn biến như thế nào? Điều khiến người ta lo lắng nhất là, hiện giờ hắn đã biết chắc chắn, Hồng nương tử Thôi Oanh Nhi đang ở Thanh Châu, trước mắt đóng quân ở trại Đường Trại Nhi, là một trong những thủ lĩnh của bọn phản quân.

Trong số nữ nhân của hắn, chỉ có Hồng Nương Tử là vốn dĩ không nên phát sinh bất cứ mối liên hệ nào với hắn, nhưng ngặt nỗi trời xui đất khiến cả hai lại xảy ra quan hệ, vị nữ nhân này và Thành Khởi Vận một văn một võ. Vốn dĩ là cường giả có năng lực nắm giữ vận mệnh bản thân mình nhất. Sự cường hùng đó tuyệt đối chẳng thua kém gì đấng mày râu, nhưng vận mệnh không thuận lòng người, trong thế giới nam nhân đã nhận đủ nỗi khổ lang thang vất vưởng.

Mỗi một cảnh ngộ mà Thôi Oanh Nhi gặp phải, đều có mối liên hệ to lớn với hắn. Trong lòng Dương Lăng, đối với nàng luôn cảm thấy có phần áy náy và thương tiếc. Hắn trăm vạn lần cũng chẳng ngờ tới, vị nữ nhân này dám liều mình được ăn cả ngã về không, không ngờ lại làm nên chuyện chấn động thiên địa thế này, đó chính là việc tạo phản.

Nghĩ đến đây, Dương Lăng hận mà cắn răng, con ngựa hoang bất tuân này, sớm muộn gì hắn cũng để nàng ta phải nếm trải lợi hại của gia pháp Dương thị, không đánh cho mông nàng tơi bời hoa lá thì không hả giận, hắn cũng không lấy họ Dương nữa!

Tức tối xong, Dương Lăng chỉ còn rầu rĩ: tai họa lớn thế này, làm sao mà bình ổn phản loạn đây? Lại làm sao có thể bảo vệ một thủ lĩnh cầm đầu như nàng ta bình an vô sự?

Thám tử phái đi nghe ngóng tin tức hiệu suất cực thấp, trong khu vực đám binh hoan mã loạn, nạn dân như nước, phỉ binh công chiến không ngừng, những thám tử phái đi muốn giữ được tính mạng mình đã khó, càng khỏi phải đề cập đến chuyện nghe ngóng tin tức tình báo hữu ích từ ai.

Không có thiết bị truyền thông hiện đại, có được tin tình báo cũng khó lòng gửi đi, có thể vật vả một thời gian, chật vật lắm mới gửi được tin tình báo đi, lúc đấy thì kẻ địch đã ở xa nghìn dặm rồi, căn bản chẳng có tác dụng gì cả.

Đối với quân tình Thái Hành quần đạo và cướp đường Bá Châu, thám tử hoàn toàn mất tác dụng, bởi vì bọn cường đạo này không những tới lui như gió, nháy mắt vượt nghìn dặm, hơn nữa ngay cả bản thân họ cũng không có mục đích cụ thể, bất luận là tiến công hay là rút lui, bất luận là công về đâu, lui về đâu, hoàn toàn không có kế hoạch chủ đích rõ ràng, khiến người khác khó mà phỏng đoán được.

Cứ như thế, tin tức mà Dương Lăng có được cũng trở nên vụn vặt, chẳng có chút giá trị, chỉ có thể biết được bọn họ đánh đến đâu, đóng trại ở đâu, sự tăng giảm số nhân mã và mức độ tàn phá tại nơi đó. Nghe thấy những tội lỗi tầy đình mà cả hai bên tạo phản đã gây nên, trong lòng Dương Lăng thầm lo lắng:

- Hồng Nương Tử à Hồng Nương Tử, nàng nghìn vạn lần đừng vì tư thù trong quá khứ mà làm nên tội nghiệt thương thiên hại lý. Nếu không, cho dù ta có tha cho nàng, trời cao cũng sẽ không tha cho nàng đâu.

Dương Lăng ngồi trong nhà nơm nớp lo âu, sáu vị lão ca trong ba ngoài ba trong điện Võ Anh cũng chìm vào trạng thái bế tắc. Mặc dù gian thần nịnh tử đã trừ, Dương Lăng đã quyết ý buông tay làm một Quốc công an nhàn, đồng thời từng bước âm thầm chuyển hóa quyền lực trong tay để tập trung tổ chức thương nghiệp, không nhúng tay vào chính sự nữa.

Lý Đông Dương xuất phát từ dự tính dài lâu của thể chế triều đình, cũng chẳng muốn tái xuất hiện một thần tử ngoài triều có quyền lực thông thiên để trái phải triều chính, nhưng đối diện với cục diện này, cũng không thể không muộn trợ lực bên ngoài đối phó, chủ động đến nhà thăm hỏi.

Chuyện trong triều không phải Dương Lăng không tỏ tường. Có lão Tiêu Phương trực tiếp tham dự trung khu, lại có nhĩ báo thần khoa cấp sự trung Dương Thận này, quan viên trong triều đình có bất kỳ sự biết động thăng tiến nào, hắn đều nắm rõ mồn một. Thế nhưng điều hắn biết chỉ là biểu tượng bên ngoài, đám người này vì lý do không thể nói ra, đôi bên nảy sinh mâu thuẫn mấu chốt, những điều này thì hắn không thể biết được.

Dương Lăng lo lắng cục diện cuộc chiến Thanh Châu, đối với tranh giành trong triều cũng cảm thấy không thể chịu nổi nữa. Cho nên lập tức vui vẻ ra đón, mời ông ta vào phủ.

Cả hai vừa ngồi xuống trong thư phòng, Lý Đông Dương cũng không hàn huyên khách sáo, lập tức đi thẳng vào vấn đề nói:

- Uy quốc công, lão phu mạo muội đến nhà, kỳ thật là bất đắc dĩ, trong triều chia phe chia phái, việc xoa dịu lòng dân thật sự không thể chậm trễ nữa...

Dương Lăng mặt nhăn mày nhó nói:

- Thế à, Lý đại nhân? Dân biến ở Bá Châu, Thanh Châu ngày một náo loạn, theo ta thấy, đây mới là việc cấp bách hàng đầu, trong triều sao còn mãi lo thưởng phạt quan viên, an bài dai dẳng không thôi?

Lý Đông Dương phất tay nói:

- Lão phu đến cầu kiến Quốc công, chính là có liên quan đến việc này. Chuyện trong triều không thể một đao dẹp gọn cỏ dại, nhanh chóng giải quyết sớm, làm sao có thể tập trung lực lượng tiêu diệt phản loạn cơ chứ?

Ánh mắt Dương Lăng hơi nhíu lại:

- Mạo muội thỉnh giáo đại học sĩ, còn có chuyện gì nan giải hay sao?

Lý Đông Dương khẽ thở dài, nói:

- Chuyện nan giải, chẳng qua là một chữ quyền mà thôi. Hiện nay ứng cử viên cho vị trí Thái giám Ti Lễ và Lại bộ thượng thư, Nội các và ba vị nội hoạn phân kỳ quá nhiều. Hai vị trí này, vô cùng quan trọng, nếu người nhậm chức không đúng người, e rằng di hoạn vô cùng. Nhưng mà, thương nghị trong điện Võ Anh nhiều ngày, đến cuối cùng vẫn không lấy được chủ ý. Uy quốc công là trọng thần quốc gia. Được hoàng thượng tín nhiệm, bất đắc dĩ, lão phu đành phải mạo muội cầu cứu người.

Dương Lăng khẽ gật đầu, như đang suy ngẫm gì đó nói:

- Đại học sĩ có người lựa chọn phù hợp không?

Lý Đông Dương nói:

- Lão phu để mắt đến hai người, một là Vương Hoa, một là Dương Nhất Thanh.

Dương Lăng trầm ngâm một lúc nói:

- Hai người này đều giỏi giang, nếu không thể quyết định được, thế thì cứ ứng cử lên trên, để hoàng thượng định đoạt thế nào?

Lý Đông Dương gượng cười nói:

- Chính là Hoàng thượng cũng lưỡng lự không quyết, lão phu mới đến cầu xin ý kiến của quốc công.

Dương Lăng nghi ngờ nói:

- Điều gì khó khăn không quyết?

Lý Đông Dương vuốt râu nói:

- Lão phu muốn dùng Vương Hoa vào vị trí Lại Bộ thượng thư. Đồng thời vào Các bái đại học sĩ, làm đại học sĩ kiêm bộ thủ. Đại học sĩ Dương mà phản đối. Ta lập tức đề cử ngay Dương Nhất Thanh nhậm chức Lại Bộ Thượng Thư. Nhưng Đại học sĩ Dương vẫn phản đối, hai người ta mỗi người chấp một câu, Hoàng thượng qua vụ án Lưu Cẩn, trở nên cẩn trọng hơn đối với triều chính, đây là việc tốt, tuy nhiên cứ thế này Hoàng thượng cũng chẳng dám quyết đoán dứt khoát, do đó qua nhiều lần đề xuất vẫn thất bại như thường, không thể thông qua.

Ánh mắt Dương Lăng chợt lóe, hỏi:

- Cả hai vị này tại sao lại có một vị giữ chức Đại học sĩ kiêm cả chức Thượng Thư, còn vị còn lại chỉ nhậm chức Lại Bộ Thượng Thư? Bên trong phải chăng còn có cách nói khác?

Lý Đông Dương cười ha hả nói:

- Đương nhiên là không giống nhau rồi. Lại Bộ Thượng Thư là người đứng đầu Lục Bộ, cũng là người đứng đầu bá quan, có địa vị ngang hàng với Đại học sĩ Nội Các. Trong Lục Bộ Thượng Thư, chiếu theo quan chế thì chỉ có Lại Bộ Thượng Thư là không phải nhường đạo khi gặp phải Đại học sĩ trên đường, chính là đạo lý này đấy.

- Cũng vì thế nên lúc Mã Đại Nhân Mã Văn Thăng còn, tuy không phải trong Nội Các, nhưng có thể đứng đầu quần chúng. Đương nhiên, thời Lưu Cẩn loạn chính thì Nội Các đều được sắp đặt bố trí, tất cả Lại Bộ của Trương Thái hoàn toàn trở thành tay sai cho Lưu Cẩn, đấy lại là một vấn đề khác nữa rồi.

- Học sĩ Vương Hoa là người khiêm tốn, suốt đời thừa hành đạo trung dung, làm việc không lộ tài năng. Tài văn phẩm tính của ông ta đương nhiên thuộc vào hàng cực giỏi, nhưng tính khí như vậy, mỗi lần gặp phải chuyện lớn, nếu có tranh chấp với người cùng quyền hành, thường không thể kiên trình định kiến bản thân, dễ dàng làm trái phải người khác, hoặc giả từ bỏ trung thành để cầu an, đây chính là điểm yếu của Vương thượng thư. Ta đề cử ông ta nhâp Các kiêm Bộ, hai quyền quy nhất, trở thành thủ phụ Nội Các, chức cao quyền trọng, tất có thể lấp đi khiếm khuyết này.

Dương Lăng nghe đến đây, trong lòng không khỏi chấn động:

" Lý Đông Dương nói vậy là có ý gì? Hiện giờ hắn đang giữ chức Nội Các Thủ Phụ, trái lại muốn nâng đỡ Vương Hoa thượng vị,.... hắn muốn thoái ẩn sao? Hơn nữa, Dương Đình Hòa vào Nội Các, vốn là kết quả ban đầu mình đã thỏa hiệp với gã, nếu gã muốn thoái ẩn, tất nhiên phải nâng đỡ Dương Đình Hòa làm Thủ Phụ mới đúng, thế nhưng ông ta lao tâm khổ trí làm vậy, nâng đỡ Vương Hoa, đây rốt cục là vì sao? Để kiềm chế, chế ngự Dương Đình Hòa hay sao?

Dương Lăng thân mình hơi hơi nghiêng về phía trước, thần sắc nghiêm nghị, hai mắt cũng tỏa ra hào quang sắc bén. Lý Đông Dương thấy thần thái hắn như vậy, khá là tán thưởng tính mẫn cảm trong chính trị của hắn, không khỏi khẽ gật đầu, nói tiếp:

- Vương Hoa vốn dĩ là Lễ Bộ Thượng Thư, từ chuyển sang Lại Bộ, kiêm chủ Nội Các cũng không phải quá đáng. Về phần Dương Nhất Thanh, vốn dĩ là Binh Bộ Tả Thị Lang, nếu tức khắc kiêm cả hai chức, không khỏi khiến người ta đố kỵ.

- Hơn nữa. Dương Nhất Thanh thông minh tháo vát, bản tính cương liệt, vả lại có uy vọng cực lớn trong quân ngũ, dù không vào Nội các, cũng đủ để phát huy, trái lại không cần phải kiêm thêm chức Đại Học Sĩ nữa.

Dương Lăng khẽ chau mày, bất an nói:

- Ý của Lý đại nhân là...chẳng lẽ ngươi muốn...ngươi muốn...?

Lý Đông Dương niềm nở cười, tiếp lời nói:

- Đúng thế. Nịnh thần đã đi, lão phu cũng không còn gì vướng mắc nữa. Hoàng thượng ngày một trưởng thành, hiện giờ trong triều cũng dần ổn định, lão phu cũng nên hồi hương dưỡng già. Tháng giêng năm nay có về qua quê nhà một chuyến, thật sự cảm giác rất yên lành, tới lui bôn ba tiếp, lão phu cảm thấy thân thể ngày một kém, đã không thể tiếp tục duy trì được nữa. Nên là lúc lui về ở ẩn, vẫn là giã từ sự nghiệp khi đang trên đỉnh vinh quang thì tốt hơn.

Dương Lăng bắt gặp ánh mắt cảm thán cô đơn của Lý Đông Dương, bất giác biến sắc, tâm niệm xoay chuyển, hắn liền hiểu ra ngụ ý của Lý Đông Dương. Văn đàn do Lý Đông Dương lãnh đạo, vốn có tiếng thơm, thời gian dài trong Nội Các, uy vọng to lớn, không ai sánh bằng.

- Lý Công mưu trí, Lưu công quyết đoán, Tạ công ưu tú ngay thẳng. Ba giá xe ngựa triều

Hoằng Trị. Nhưng sau khi Lưu Kiện, Tạ Thiên liên tiếp bị bãi truất, Lý Đông Dương lại tạm nhân nhượng vì lợi ích toàn cục, một mình ở lại trong triều, chỉ riêng việc này, đã sớm bị rất nhiều người trong sĩ lâm phỉ nhổ không ngừng, mắng ông luyến tiếc quyền vị, không biết liêm sỉ.

Sau khi Lưu Cẩn chuyên quyền, vì tận lực muốn đảm bảo triều chính được thực thi, không để vì Lưu Cẩn mà bại hoại đến mức không thể thu thập nổi, ông không thể không giữ mối quan hệ giao hảo với Lưu Cẩn, thậm chí còn có chút xu nịnh lấy lòng, hành vi này càng khiến cho rất nhiều người trong sĩ lâm coi tiết khí cao như tính mạng cảm thấy nhục nhã.

Thiên địa quân thân sư, sư giả địa vị như phụ mẫu, nhưng học trò của ông ta thậm chí còn vì vậy mà viết lá thư, tuyên bố đoạn tuyệt quan hệ sư trò với Lý Đông Dương, không muốn vì hành vi tệ hại của ông ta mà làm ô nhục thanh danh bản thân. Bị đồng đạo xưa cũ chỉ chỉ trỏ trỏ đâm sống lưng. Vị lão nhân này không biết đã chịu đựng bao nhiêu áp bức và lăng nhục?

Tri ngã giả vị ngã tâm ưu, bất tri ngã giả vị ngã hà cầu? Xấu hổ nhịn nhục, lo lắng đại cục, hiện giờ cũng xem như công đức viên mãn rồi.

(Tri ngã giả vị ngã tâm ưu, bất tri ngã giả vị ngã hà cầu: Người thấu hiểu tâm tình ta, nói rằng ta phiền muộn.

Người không thấu tâm tình ta nói ta còn mong cầu điều chi?)

Làm quan đến được chức vụ của Lý Đông Dương, đã là vị cực nhân thần, vị lão nhân còn cầu gì nữa chứ? Quyền hoạn chịu chết, ông ta cũng là đại công thần trừ gian, vốn dĩ phải được trọng dụng ca ngợi, nhưng ông ta lại chọn đúng thời điểm này từ chức hồi hương, lấy một thân vải bố để làm bằng chứng thực tế chứng minh tấm lòng mình cho toàn bộ thiên hạ thấy.

Dương Lăng bắt gặp ánh mắt kiên định của Lý Đông Dương, lời vọt tới miệng rồi lại nuốt trở vào. Hắn biết bản thân không cần thiết phải khuyên nữa rồi, vị lão nhân đáng kính này dốc hết tâm can vì giang sơn Đại Minh, thật sự đã bỏ ra quá nhiều quá nhiều rồi. Đây là tâm nguyện lớn nhất của ông ta, cũng là cơ hội duy nhất giúp ông ta rửa sạch bản thân, đổi lại là thời điểm khác từ quan, sẽ không sản sinh hiệu quả đáng có như vậy.

Dương Lăng trầm ngâm gật đầu, hỏi tiếp:

- Nếu đã như vậy, tại hạ không tiện khuyên ngài nữa. Kính xin Lý đại học sĩ thẳng thắn bẩm báo, đại nhân đã có ý hồi hương, hà tất phải hành động sắp xếp như vậy?

Lý Đông Dương khẽ mỉm cười, nói:

- Lão phu lui rồi, lão Tiêu tuổi đời còn lớn hơn ta, cũng chẳng làm được mấy năm nữa đâu, những ngày tháng sau này trong Nội các, chính là thiên hạ của Giới Phu. (Giới Phu, tự của Dương Đình Hòa)

- Ngày trước có hai vị Lưu, Tạ trong triều, chúng ta liền phát nghị luận, Dương Đình Hòa, Dương Nhất Thanh còn có Uy Quốc Công ngươi, tiểu tam Dương này nói không chừng có thể tái hiện sự hưng thịnh của đương triều Tam Dương thời Nhân Tuyên, thế nhưng, Uy Quốc Công hiện giờ tước hiển vị tôn, đã không thể vào triều phò chính, Dương Đình Hòa và Dương Nhất Thanh thì...

Lý Đông Dương chầm chậm nói:

- Cả hai người này đều có tài làm tể tướng, Dương Đình Hòa bác học uyên thâm, kiến thức sâu rộng. Luận về tài văn chương, có cả một ngày dài cũng không kể hết, nếu luận Kinh bang tế quốc, thật chẳng sánh bằng y. Tuy nhiên Dương Đình Hòa đối với đồng sự, không tránh khỏi cao ngạo. Đệ nhất thần đồng Đại Minh mà, từ nhỏ tính tình cao ngạo một chút cũng là lẽ thường, nhưng tể tướng một triều, trí tuệ khí độ cá nhân có ảnh hưởng lớn đến triều chính, đấy là khuyết điểm của y. Dương Nhất Thanh thì khiêm tốn hơn nhiều. Hơn nữa, Đình Hòa đối với những người không cùng quan điểm chính kiến, có chút hơi hà khắc, không biết dung nhẫn, cứng ngắt dễ gãy.

- Còn Dương Nhất Thanh từng bị cách chức, tính tình đã lâu trải qua rèn luyện, linh hoạt bình tĩnh hơn, Dương Nhất Thanh làm việc biết nhẫn nại khôn khéo, biết đưa đẩy nhân nhượng, biết dùng cơ hội khác để đạt mục đích, điểm này thì Dương Đình Hòa không sánh bằng. Còn nếu bàn về chính lý, tài lý, tầm nhìn sâu rộng, tài năng về phương diện này, Dương Nhất Thanh không bằng Dương Đình Hòa, cả hai người này, một người có tài trị chính, một người có thủ đoạn trị chính, ai cũng có sở trường riêng, nếu có thể hỗ trợ cho nhau, tất châu liên bích hòa.

Ông ta thấy Dương Lăng muốn mở lời lại thôi, liền cười nói:

- Ta hiểu ý của ngươi, cả hai người này xưa nay không hợp nhau, nếu có cơ hội, tránh không khỏi lục đục một phen. Tuy nhiên hai người này đều là trung thần một lòng một dạ với triều đình, chuyện nhỏ tính toán, một khi đảm nhận trọng trách Nội Các, vai gánh càng khôn Đại Minh, mức độ nặng nhẹ hẳn là hiểu rõ, sẽ không lấy quốc gia đại sự, làm thủ đoạn cá nhân để tranh chính với nhau.

Dương Lăng trầm mặc một lúc, cảm thấy Lý Đông Dương nắm rất rõ khuyết điểm của hai người này. Còn hơn quá đề cao năng lực công tư phân minh của họ, tuy nhiên hắn cũng cho rằng tính tình của Dương Đình Hòa, nếu gặp phải người như Hoàng đế Hoằng Trị, nói không chừng chính là quân thần ngư thủy, hai bên đều được lợi.

Xong đối với Chính Đức một Thiên Tử thiếu niên ít tuổi khí thịnh mà nói, một khi Dương Đình Hòa nắm đại quyền trong tay, rất có khả năng vì sự cố nào đó, dẫn đến quân thần tương tranh, trở thành mối họa. Có Dương Nhất Thanh một người tính tình trầm tĩnh từ bên trong đưa đẩy uốn nắn, cân bằng Nội Các, mạnh như một nhà độc đại, liền nói:

- Lý đại nhân muốn đi, chắc hẳn việc này Dương Đại học sĩ đã được biết, không biết Dương đại học sĩ đã từng tiến cứ ai?

Lý Đông Dương vuốt râu nói:

- Đương nhiên, Dương Đình Hòa đề cử hai người, một người nhậm Lại Bộ Thượng Thư, một người chủ chính Nội Các. Bọn họ chính là Lưu Trung, Lương Trữ. Hiện giờ đang là đại thần chuyên điển chế cáo, chính là treo hàm Lại Bộ Thượng Thư. Ha ha, cả hai người này vốn dĩ là Xuân phường giảng quan của Thái tử, là cựu thần Hoàng thượng. Phẩm trật quan chức quả thật thích hợp, chẳng trách Hoàng thượng đắng đo không quyết.

Dương Lăng vừa nghe đã hiểu, không khỏi hiểu ý mỉm cười:

Dương Đình Hòa cũng là người xuất thân từ Đông cung Xuân Phường, vốn dĩ là Thị giảng của Thái Tử. Lưu Trung, Lương Trữ cũng là thị giảng, Ba vị lão sư này nói không chừng vốn là bạn hữu đồng môn, lôi kéo họ vào, đương nhiên thuận tiện cho mình hành sự.

Dương Đình Hòa tài hoa hơn người, hùng tâm bừng bừng, vào Nội Các vốn định đại triển quyền cước, làm một vị trị thế năng thần, lưu tên sử sách. Đáng tiếc, gã vào Nội Các không hợp thời, bên trên có Lý lão phu tử đức cao vọng trọng đè nặng, chẳng tới lượt gã đánh nhịp đương gia, trong nội đình có vị Lưu Cẩn đệ nhất quyền hoạn tác quái, gã lại mất mặt đi học Lý Đông Dương xã giao công quan, cho nên từ khi vào Nội Các căn bản là vật trang trí mà thôi.

Hiện tại Lưu Cẩn bại rồi, Lý Đông Dương lui rồi, Dương Lăng ẩn dật, vừa hay là thời cơ tốt để cái cây tiểu bạch dương hơn bốn mươi tuổi như gã trưởng thành. Nếu lôi kéo hai lão đồng sự có mối giao hảo tốt, năng lực làm việc và địa vị danh vọng thua xa gã vào trong trung tâm quyền lực. Thế thì gã sẽ trở thành đệ nhất đương triều.

Dương Lăng ngẫm nghĩ một chút. Lại hỏi:

- Thế theo Lý đại học sĩ, Vương Hoa, Dương Nhất Thanh, hai người này thì ai là người thích hợp chấp quản Lại Bộ hơn?

Lý Đông Dương lộ vẻ vui mừng, biết Dương Lăng đã có quyết định, liền tức khắc nói:

- Đương nhiên là Dương Nhất Thanh.

Dương Lăng gật đầu, lại hỏi:

- Thế còn chức Ti Lễ Thái Giám, lại là ai tranh nghị với Đại học sĩ?

Lý Đông Dương gượng cười nói:

- Còn phải tranh với ta sao? Là ba vị Đới, Trương, Miêu công công môi thương lưỡi tiễn ấy, tranh giành túi bụi, cả ba đều được Hoàng thượng trọng dụng, mỗi người mỗi ý, tín nhiệm bất kỳ ai, hai người còn lại đều không phục, Hoàng thượng khó xử vô cùng, Ti Lễ Giám hiện giờ vẫn còn bỏ trống chưa quyết.

Dương Lăng nghe vậy cúi đầu im lặng, cả ba người này có mối quan hệ rất tốt với hắn, Miêu Quỳ đấy là chiến hữu từ trước đến nay, từ lúc chịu sự đàn áp của Vương Nhạc, Phạm Đình, đã là hoạn nạn chi giao, bắt được Vương Nhạc, giết chết Phạm Đình, Miêu Quỳ ngồi trấn trong cung, mới khiến hắn không có nỗi lo hậu hoạn. Lần xử trí Lưu Cẩn này, Miêu Quỳ cũng giúp sức rất nhiều.

Trương Vĩnh thì không cần phải nói, vốn dĩ là bạn hữu trong Bát Hổ, từ đầu chí cuối đều duy trì mối quan hệ bằng hữu với mình, hơn nữa còn là lão ca rất ư nghĩa khí, điểm này ngay cả Cốc Đại Dụng cũng phải thua xa. Về phần Đới Nghĩa, đấy là đồng mưu trong vụ án giếng nước chảy nước Đế Lăng, giờ cũng đồng nghĩa là thân tín thiết can của mình, cũng không thể làm tổn thương y, nghĩ đến đây, Dương Lăng cũng không khỏi cảm thấy khó xử.

Lý Đông Dương nghiêm túc nói:

- Quốc công, chức quyền Ti Lễ Giám, xưa nay phạm vị không minh bạch. Trên danh nghĩa thì Ti Lễ Chưởng Ấn Thái Giám quản lý tấu chương Nội Các và cả Khám hợp ngự tiền, Bỉnh bút Thái Giám quản tấu chương văn thư, phê chu chiếu theo Các phiếu. Trên thực tế thì chức quyền của họ, có thể quảng đại vô hạn. Quản lý tấu chương, phê chu chiếu Các phiếu, nên họ vô tình trở thành Nội Các trong Nội Các, Ti Lễ Giám cũng trở thành Tể tướng trong Tể tướng, cho nên thật sự họ còn quan trọng hơn cả ứng cử viên Nội Các đại học sĩ.

Dương Lăng trầm ngâm một lúc lâu, mới gật gù nói:

- Ta hiểu rồi, hai việc này, cứ giao cho ta.

Lý Đông Dương cực kỳ vui mừng, nói:

- Lão phu thay mặt bá tánh Đại Minh, tạ ơn Uy Quốc Công.

Dương Lăng nhớ tới Hồng nương tử của trại Đường Trại Nhi, trái lại không khỏi thầm gượng cười:

- Việc này càng quyết định sớm, trong triều không còn tranh đấu, mới có thể tập trung bình loạn hai châu! Ai dà, không biết ta có cơ hội lãnh binh xuất trận hay không, trên chiến trận, vạn thương vô nhãn, gia sự quốc sự lẫn lộn vào nhau, phải làm sao mới tốt đây?

Phía Tây Nam Thanh Châu, núi non trùng điệp sừng sững hiểm trở, trên núi chính là trại Đường Trại Nhi. Trại Đường Trại Nhi vốn có tên là trại Tá Thạch Bằng, là thời Minh sơ phật mẫu của Bạch Liên Giáo Đường Trại Nhi từng án doanh đóng trại tại đây trong thời gian dài để đối đầu với quan binh. Cho nên tuy quan phương cấm kỵ, nhưng chúng bá tánh vẫn quen miệng xưng nơi đây là trại Đường Trại Nhi.

Nhìn từ phía xa, đỉnh trại này trông giống như búi tóc trên đỉnh đầu của nữ nhân. Nó được tổ hợp thành từ nhiều đỉnh núi liên tiếp, núi không cao nhưng cực kỳ hiểm trở. Sơn trại thiết kế theo chiều hiểm trở của dãy núi, tứ đều là vách đá dựng đứng, từ đáy vực nhìn lên, không thấy đỉnh, từ đỉnh trại nhìn xuống, cao chót vót, các khe rãnh dãy núi phụ cận thu cả vào mắt, dân cư chỉ bằng nắm đấm tay.

Sơn trại này ra vào chỉ bằng hai cái thang gỗ nhỏ, cực kỳ hiểm yếu. Nhưng đỉnh trại lại khá là rộng rãi, một trại lớn lại chia làm bốn tiểu trại đông, tây, nam, bắc. Mỗi một tiểu trại đều có một đỉnh cao hình thành tự nhiên, bốn điểm cao này hô ứng với nhau, trong bốn trại này thì trại nam là cao nhất, mọc từ đất lên, hiểm trở vô cùng, Hồng Nương Tử chính là trú quân ở đây.

Một bóng dáng mạnh mẽ đang men theo con đường nhỏ bay nhanh lên núi. Áo choàng trắng như tuyết, trang phục màu xanh nhạt, vừa nhìn đã nhận ra ngay là cách ăn mặc của nghĩa quân Dương Hổ. Quân Dương Hổ vốn dĩ không có phục trang nhất định, sau khi đánh được vài phủ trấn, bọn họ thu được lượng lớn vải vóc chưa hoàn công. Vải chưa hề nhuộm màu, một loạt trắng xóa, bèn cắt may chúng, nhân thủ cũng đều dùng để làm áo choàng. Thiết kỵ khoái mã di chuyển, cứ như một áng mây trắng như tuyết, phục trang chỉnh chu, quả nhiên khí thế khác hẳn, quân Dương Hổ bèn được quan binh xưng là Bạch Y quân.

Đại quân của Thôi Oanh Nhi và quân Bạch Y bình thường có chút khác biệt, sĩ binh của nàng ta đều trùm khăn đầu màu đỏ, trong quân Bạch Y vừa nhìn bèn nhận ra là người ngựa của Hồng Nương Tử, đây là điểm khác biệt duy nhất so với các nghĩa quân khác. Hồng Nương Tử được Bạch Y quân xưng là Hoàng Soái.

Người đó xông lên sơn trại, mồ hổi nhỏ giọt tiến vào trong đại đường nghị sự của sơn trại.

Trong đại sảnh, dáng người thướt tha xinh đẹp của Hồng Nương Tử được gói gọn trong kính ý đỏ như hỏa vân, áo choàng cũng là màu đỏ, nàng ta ngồi ở vị trí chủ tọa, hai bên là sáu bảy vị tướng lĩnh, đều là nhân vật đầu não của lão trại Thôi Gia, đa phần đều là kiêu hùng một thời tung hoành phương Bắc. Sau khi quy ẩn nhiều năm cuối cùng cũng động lại đao thương.

Vị đại hán vừa leo lên trại đang báo cáo tình hình quân sự:

- Huyện Nhật, huyện Cử, huyện Nghi liên tiếp bị đại quân Dương Nguyên Soái đánh hạ. Hiện giờ đại quân của ông ta đã lên đến 50 nghìn người, thế nên chỉ huy quân binh phản công thành Thanh Châu. Phủ Hành Vương và tri phủ Thanh Châu chỉ huy trọng binh hộ thành, song phương đã kích chiến hai ngày liền, cuối cùng kiên trì bất hạ, Dương đại nguyên soái muốn chúng ta lập tức tiếp ứng.

Đôi mi thanh tú của Hồng Nương Tử nhíu lại, chần chờ hỏi:

- Tri Châu Thanh Châu Lạc Thiếu Hoa là thanh quan, sau khi bị bức điều về Kinh Sư, y phò dân an dân, vô cùng dụng tâm, công đánh thành Thanh Châu...?

Ánh mắt thoắt lóe sáng, trông thấy mấy vị thúc thúc bá bá đều lộ vẻ mặt thiếu kiên nhẫn, Hồng Nương Tử mới phát giác ra bản thân hiện giờ đang tạo phản, chẳng phải là sơn vương chiếm núi ngày xưa, còn nói gì đến thay thiên hành đạo, chỉ giết tham quan, chỉ cần là quan binh Đại Minh, đấy đều phải giết tất. Ý chí tạo phản báo thù của các thúc bá rất mãnh liệt, bản thân tuy có lòng uốn nắn, để họ ít tạo sát nghiệt, nhưng nếu mãi vẫn chẳng làm nên việc thì đấy cũng được.

Thế là nàng vội vàng nói bóng gió:

- Ở đây không có người ngoài, ta cũng không ngại nói thẳng, chúng ta binh ít, trước mắt chủ yếu vẫn là người ngựa của lão trại, thành Thanh Châu hiểm yếu, lại có trọng binh thủ thành, dựa vào đám người ngựa ít ỏi chúng ta, chỉ sợ tác dụng không lớn, hao tổn thương vong.

Các vị thúc bá đang an tọa tại đây đều biết rằng, phu thê người ta là đồng sàng dị mộng, Hồng Nương Tử và Dương Hổ thì không đồng sàng còn dị mộng nữa, mối quan hệ của cả hai đã sớm hữu danh vô thực, còn ngỡ nàng ta không nguyện giúp sức cho Dương Hổ, tuy nhiên nếu đã tạo phản, thế thì đầu thắt ở dây lưng quần liều chết một phen, há có thể an cư sơn trại thế này?

Nhị thúc Trình Lão Thực tức khắc nói:

- Hồng Soái, kế hoạch của Dương Hổ là, khuấy đảo toàn bộ Sơn Đông trước, nhân cơ hội chiêu binh mãi mã, tích lũy tiền và lương thực, sau đó hội hộp với Lưu Lục, trực tiếp tiến vào Trung Nguyên. Hiện giờ chúng ta cũng nên nhân cơ hội mở rộng thế lực, cứ mãi đóng quân trên núi, không những bất lợi với ta, mà còn dẫn tới các đường lộ binh Thái Hành nghi kỵ, cũng nên có chút hành động mới phải.

.

Lão tứ Chân Dương Qua Hổ vỗ một cái, nói:

- Nhị ca nói có lý, Oanh Nhi... à không, đại soái, chúng ta không đến Thanh Châu cũng được, nhưng cứ trú trên núi cũng khiến người khác khinh rẻ, hiện giờ người ngựa của chúng ta tổng cộng không tới hai nghìn người, cứ thế này thì làm sao giết tới Kim Lăng, lấy cẩu đầu của Chu Đức An được?

Hồng Nương Tử nói:

- Binh chú trọng tinh chứ không phải số lượng, thủ đoạn của Dương Hổ chúng ta không dùng được.

Trịnh Lão Thực nói:

- Binh đúng là chú trọng tinh nhuệ nhưng cũng không thể lấy một chọi một trăm, nay đã thành loạn thế, chỉ có xuống núi mới có cơ hội khuếch trương. Hồng Soái không muốn đến Thanh Châu, chi bằng chúng ta một đường công đến Khúc Phụ đi, thu hút quan binh trên đường đi, cũng xem như giải vây cho Dương Hổ. Thế thì hắn không còn gì để nói, hơn nữa, Tri Phủ Khúc Phụ tham tạng uổng pháp, cẩu quan đó là đảng Tất Chân, sát hại vô số bá tánh, chúng ta đi giết gã, nhất định sẽ lấy được lòng dân, gia tăng thực lực.

Lão tứ Chân Dương Qua vội vàng phụ họa nói:

- Đúng đấy, đây gọi là nhất tiễn song điêu. Chi bằng chúng ta cứ công đến Vận Hà. Hạ Trấn là nơi quan binh tập kết lương thảo, chúng ta công đến đấy, có thể có được một ít lương thực, còn có thể cắt đứt đường lương thảo của triều đình. Sau đó qua huyện Trâu công đánh Khúc Phụ, Đàm Thành.

- Nơi đó chẳng phải có cái gì Khổng Lão Phu Tử sao? Nghe nói lão Khổng gia nhiều thế hệ làm quan, bất luận ai làm hoàng đế, y đều làm đại quan, trong nhà nhất định có tiền, chúng ta chém cả nhà lão Khổng gia. Có tiền có lương thực, tất sẽ có người đến đầu quân, nhất định thanh danh đại chấn.

Lão lục Tạ Chủng Tài vỗ đùi nói:

- Đúng đúng đúng, ta cũng nghe nói gia tổ gọi là Khổng Chủng Nê. Làm quan đã làm mấy mươi đời, là đại quan rất có danh tiếng, gia đình ông ta chắc chắn có tiền, giết đến Khúc Phụ đi.

Huynh đệ song sinh của y, lão thất Tạ Chủng Bảo giọng căm hận nói:

- Bà nội nó, huynh đệ chúng ta một người tên là Chủng Tài (Trồng Tài), một người là Chủng Bảo (Trồng Bảo), kết quả chẳng trồng ra cái gì cả, gã thì tốt số, Chủng Nê (trồng đất) vậy mà lại làm quan lớn, giết cả nhà nó đi!

Chúng sơn tặc nghe vậy đều đồng thanh hô ứng, trong số đó cũng có người từng đọc sách học chữ. Biết được Lục gia, Thất gia chỉ là nói càn, căn bản chẳng biết chữ, có thể nghe nói đến Khổng Thánh Nhân đã là không tồi rồi, cho nên chỉ đánh ngậm ngùi cười, lại không dám lên tiếng chỉ ra cái sai của họ.

Hồng Nương Tử cắn môi suy nghĩ một lát, đôi mi thanh tú nhíu một cái, bỗng nhiên đứng dậy, trên gương mặt thanh tú anh khí bừng bừng kia thoáng dâng lên luồng sát khí:

- Được! Chúng ta xuống núi, nhớ lấy, người của Hồng Nương Tử ta chỉ giết tham quan ác bá, chỉ giết phú thương địa chủ, trên đường không được học Dương Hổ lạm sát người vô tội, kẻ nào gian dâm cướp đoạt, nhất quyết giết không tha!

Chúng tướng lĩnh của lão trại Thôi gia rừng rừng đứng dậy, ầm ầm chắp tay nói:

- Cẩn tuân Hồng Soái hiệu lệnh!

Thôi Oanh Nhi đột ngột phất tay:

- Phất cờ khởi trại, công đánh thành Khúc Phụ, giết nhà lão Khổng, xuất phát!

Trương Vĩnh, Đới Nghĩa, Miêu Quỳ đối với chức Ti Lễ Thái Giám đều vô cùng nhức mắt, nhưng tuy nói ba người bọn họ phân tranh chưa rõ cao thấp, nhưng chẳng một người nào tìm Dương Lăng để trợ giúp một tay. Bởi vì cá nhân cân nhắc, cả ba đều cảm thấy mình trước mặt Dương Lăng chưa hẳn đã có trọng lượng hơn đối phương, nay kiếm lợi trong cái loạn hoặc giả có cơ hội, nếu để Dương Lăng nhúng tay vào, một khi hắn quyết định được người hắn giúp không phải mình, trái lại hoàn toàn không có hy vọng.

Do đó cả ba đều ngầm hiểu mà duy trì cục diện tinh vi trước mắt, không ai đi cầu cứu Dương Lăng giúp sức. Nhưng sau khi Lý Đông Dương thăm viếng Dương Lăng, Dương Lăng lập tức nhập cung, mời hoàng đế cưỡi ngựa xem hoa, đến Tứ gia ngoại quân xem diễn võ luyện binh, sau khi về tiểu hoàng đế liền có quyết định của mình, tức thì hạ chỉ ý.

Dương Nhất Thanh từ vị trí Binh Bộ Tả Thị Lang đòi làm Lại Bộ Thượng Thư, Lương Trữ nhập các nhậm chức Văn Hoa Điện Đại Học Sĩ, Lưu Trung đảm nhiệm Hộ Bộ Thượng Thư, đôi bên mỗi người cho một quả táo ngọt, coi như tạm thời đạt được thế quyền lực quân bình.

Tuy nhiên như thế này, Binh Bộ Thượng Thư lại khuyết chỗ, chúng văn thần võ tướng xoa tay ôm quyền, vừa đúng lúc muốn liều một phen, nhưng miếng bánh lớn này lại bất ngờ rơi vào tay một người mà ai cũng không ngờ tới được, vị phúc tinh này, chính là Tuyên Phủ Tuần Phủ Lục Hoàn.

Vị nhân huynh này chính là người vào kinh tặng lễ vật cho Lưu Cẩn, nhưng vì đến trễ nên bị Lưu Cẩn mắng mỏ một trận; tiếp theo đó là do trong triều phòng rảnh rỗi không có gì làm, nói giúp hoàng thượng vài lời nói tốt, khuyên gã đừng vì chuyện hoàng thượng không để mọi người quỳ gối trước thái hoàng thái hậu mà ép hoàng thượng quá mức, kết quả làm hư việc tốt của Lưu Cẩn, lại bị mắng một phen.

Lão lục buồn bã vô cùng, thế là đi thăm viếng Dương Lăng một phen, không ngờ chuyện này bị Lưu Cẩn biết được, lại lần nữa gọi y đến, như đứa cháu hư hỏng vậy, y bị mắng một trận thối đầu.

Lưu Cẩn mắng ba lần, mắng đến tính thổ của người tượng này được bộc phát ra, Lục đại nhân trở n cứng đầu, hiên ngang rời khỏi phủ Lưu, chuẩn bị cuốn gói cút đi. Ai ngờ sau đó cuộc tranh đấu Lưu Dương trở nên căng thẳng, cả triều chăm chú, đường đường Tuyển Phủ Tuần Phủ Lục đại nhân liền bị người ta lãng quên mất đi.

Mãi đến hôm nay, Lục Hoàn mới có cơ hội kiến giá báo cáo. Chính Đức vừa nghe y báo danh, có ấn tượng khá tốt với y, bởi vì những lời ngày đó y đã nói trong triều phòng, có người đã học lại với hoàng thượng. Theo đà Lưu Cẩn ngã đổ, liên quan đến việc Lục Hoàn không sợ hoạn quyền, chính diện đối kháng Lưu Cẩn. Không dâng hối lộ, hiên ngang dõng dạc bước ra từ nhà Lưu gia, sự tích anh hùng đại nghĩa lẫm liệt, thông qua sự tiêm nhiễm của bản thân cũng được truyền bá đi.

Y là ngày ngày ngồi xổm tại phòng triều chờ hoàng thượng triệu kiến, ở nơi đó uống nước trà gặm răng, suốt ngày thổi phồng với đám quan triều, cũng có kẻ nhiều chuyện vô tình đem chuyện nhắc cho hoàng thượng nghe, cho nên y vừa báo danh quan chức. Chính Đức liền nhớ ra hai chuyện, lập tức long nhan vui mừng, bèn vui vẻ trò chuyện vài câu với y.

Nói đến cuộc chiến loạn phỉ lúc đấy, Lục Hoàn là Tuyên Phủ Tuần Phủ, nơi đấy gần như năm nào cũng đánh trận, người này đối với quân sự cũng có chút tài mọn, thế là cùng hoàng thượng bàn luận một phen, kiến thức độc đáo. Rất được sự thưởng thức của Chính Đức, thế là Chính Đức một tiếng hạ lệnh:

- Tuyên Phủ ngươi không cần trở về nữa, cứ lấp vào chỗ trống vị trí Binh Bộ Thượng Thư đi, chủ trì đại kế diệt phỉ.

Ngoại đình đến đây xem như đã bình định trở lại, mọi ánh mắt giờ chỉ đổ dồn vào vị trí Ti Lễ Thái Giám. Ba người Miêu Quỳ ngồi không yên rồi. Bọn họ biết ngoại đình có thể bố trí người nhanh như vậy, tiểu hoàng đế tuyệt đối là nghe theo ý kiến của Dương Lăng, nhưng lại không biết Dương Lăng có an bài như thế nào đối với nội đình.

Giờ ngoại đình đã định, hoàng thượng đối với thủ lĩnh Ti L Thái Giám đến cuối cùng vẫn chưa có biểu hiện gì. Ba người đứng ngồi không yên, đã không chịu nổi nữa rồi, Đới Nghĩa cầm theo hậu lễ, người đầu tiên đến tìm Dương Lăng, muốn làm cuộc dò thám cuối cùng.

.

Lúc Đới Nghĩa đến, Dương Lăng đang ôm đứa con trắng trẻo mập mạp trong hoa viên chơi câu cá. Hai con cá vàng to tướng bị vớt vào trong chậu thanh hoa đáy cạn, miệng mở lớn hớp nước thổi bong bóng, đại thiếu Dương gia mở căng hai con mắt to đen nhánh, trông có vẻ vô cùng thích thú.

Đợi khi Đới Nghĩa vừa đến, bắt đầu lảm nhảm không ngớt bày tỏ lòng trung thành với ỗi khổ riêng, nhấn mạnh vào chỗ bản thân không có công lao cũng có khổ lao, không có khổ công cũng có mệt nhọc, Dương đại thiếu gia đành không xem cá nữa, cậu trừng hai mắt to, hiếu kỳ nhìn người trước mặt đang treo mãi nụ cười không ngớt, miệng thì một mở một khép lại không biết thổi bong bóng. Nhìn một lúc lâu, đến khi mệt nhoài rồi, bò vào lòng cha chầm chậm chìm vào giấc ngủ. Dương Lăng mới vỗ vỗ mông của con, trầm mặt nhìn Đới Nghĩa rồi thở một hơi dài.

Đới Nghĩa thấy thế bèn khẩn trương, vội nói:

- Sao thế? Chẳng lẽ quốc công... không không không, là hoàng thượng đã có an bài rồi sao?

Dương Lăng chậm rì rì bước đến cái giá nhỏ, từ trên ngăn đá lấy một tấm thảm mỏng đắp lên cho con, sau đó ngồi xuống ghế nói:

- Đới công công, ngồi...

Đới Nghĩa cẩn thận ngồi xuống bên cạnh, nghiêng người nghe hắn nói. Dương Lăng thấp giọng nói:

- Đới công công, nghĩ chắc ngài cũng biết, hoàng thượng tín nhiệm nhất, chính là ta và Lưu Cẩn.

- Không sai không sai.

Đới Nghĩa bồi cười gật đầu:

- Nay Lưu Cẩn đền tội, ngài là hồng nhân đầu tiên đi theo hoàng thượng, nhất ngôn cửu đỉnh, không ai sánh bằng.

Dương Lăng thản nhiên cười, nói:

- Đới công công, người có biết không? Lưu Cẩn có được sự tín nhiệm của hoàng thượng như vậy, hoàng thượng không những coi gã như nội thần của bản thân, còn là người thân của mình nữa, nhưng lật ra mấy mươi tội trạng Lưu Cẩn, thật sự khiến hoàng thượng đau lòng, hoàng thượng là thiên tử, là quân thượng, trái lại bị Lưu Cẩn đùa giỡn trong tay, lừa gạt lâu như vậy, hoàng thượng thật sự rất kích động.

Đới Nghĩa có chút cảm giác, cẩn trọng hỏi:

- Ý của quốc công là...?

Dương Lăng hít sâu một hơi, một trận gió đến, mang theo hương thơm thanh mát của cỏ cây, hương gió dìu dịu, lướt qua những cọng tóc mai trên trán con. Dương Lăng yếm yếm góc chăn giúp con, nhẹ giọng nói:

- Đới công công không phải người ngoài, ta sẽ nói thật cho ngài nghe vậy, chức nội đình Ti Lễ Thái Giám, treo lâu không động đến, đấy là mồi nhử của hoàng thượng...

- Mồi nhử?

- Không sai, một con mồi để câu cá. Đến hiện giờ, ta vẫn được hoàng thượng tín nhiệm như vậy, đấy là vì ta đã trở thành quốc công, sẽ không đụng đến quốc chính. Các người thì sao? Hoàng thượng tín nhiệm nhất, Lưu Cẩn lớn lên chung với hoàng thượng còn tham quyền gạt chủ, hoàng thượng sẽ không nghi ngờ sao?

Đới Nghĩa sợ hãi kinh tâm, sắc mặt biến sắc nói:

- Quốc công muốn nói là... hoàng thượng treo chức Ti Lễ Thái Giám đấy, chính là muốn xem bọn ta ai đi giành lấy, ai là người muốn có được chức vị này?

Dương Lăng khẽ gật đầu, Đới Nghĩa kinh hoàng nói:

- Thật may, thật may là ta chưa từng đề cập với hoàng thượng.

Y thoắt chốc đứng phắt dậy, thi lễ với Dương Lăng, cảm kích nói:

- Tâm tư của hoàng thượng, cũng chỉ có quốc công mới hiểu rõ. Cũng chỉ có người, mới chịu nói rõ cho ta nghe như vậy, Đới Nghĩa thật sự khắc cốt ghi tâm.

Dương Lăng cười cười nói:

- Ngồi, ngồi xuống, mối quan hệ của chúng ta không hề tầm thường, ta không nói cho ngài nghe còn có thể nói với ai?

- Đới công công, ngươi nói Vương Nhạc quyền lực to lớn phải không? Độc quản mười hai đoàn doanh, hai xưởng một vệ, là nội thần được tiên đế tín nhiệm nhất. Lúc đầu tam lão trong nội các, lục bộ cửu khanh, văn võ cả triều ý đồ giết ta, giết Bát Hổ, còn phải nghĩ trăm phương ngàn kế để lấy lòng y, mượn sức nội đình, thế nhưng bọn họ lại là người xui xẻo trước nhất, trong một đêm trở thành phạm nhân dưới trướng, ngươi nói ai có bản lĩnh này?

Đới Nghĩa nịnh hót nói:

- Lúc đấy ta ở Ti Lễ Thái Giám, tỏ tường việc này, đương nhiên là quốc công gia người khéo léo diệu kế, ngăn cơn sóng dữ. Quốc công gia ra thủ đoạn sấm chớp, trong một đêm san bằng nội đình, đợi đến trời sáng, mười hai đoàn doanh, xưởng vệ Ti Lễ Thái Giám đều nắm gọn trong tay, đợi khi văn võ bá quan lên triều, cũng chỉ có lực bất tòng tâm mà thôi.

Dương Lăng lắc đầu nói:

- Sai rồi! Nếu không phải Lưu Cẩn dẫn theo Bát Hổ khóc lóc cầu xin, xoa dịu hoàng thượng, làm sao ta hồi kinh kịp? Nếu không có Miêu Quỳ bắt được Vương Nhạc. Chặn đứt ý nghĩa điều động Kinh Doanh thanh quân của bọn họ, bọn họ há có thể bó tay chịu chết như vậy?

- Còn lần này, Lưu Cẩn một triều thất thủ, nếu không có Đới công công người và Miêu Quỳ, Trương Vĩnh còn có Mâu Bân khéo léo thi triển diệu kế, làm sao diệt trừ được Lưu Cẩn? Chỉ sợ giờ phút này hoàng thượng nguôi giận, y lại bị xá hồi triều đình dương oai diễu võ.

Đới Nghĩa chớp chớp mắt, hơi không rõ ý tứ của Dương Lăng.

Dương Lăng nói:

- Nội đình hung hiểm, vĩnh viễn đến từ chính cung vua. Nếu không có Bát Hổ và Miêu Quỳ, Vương Nhạc sẽ không đổ. Nếu không có ngài Đới công công và Miêu Quỳ, Trương Vĩnh. Lưu Cẩn cũng sẽ không đổ. Lúc đấy bọn họ, trên được lòng hoàng thượng, dưới ép quần thần, đắc tội đồng liêu nội đình, đều rơi vào kết cục như vậy.

- Còn hiện tại thì sao, hoàng thượng kiêng kị chức Ti Lễ Thái Giám, coi nó như miếng thử vàng thạch, thử tấm lòng trung thành của thần tử, là một miếng mồi dùng để câu kẻ có dã tâm hừng hực. Nếu muốn chiếm vị trí này, trước tiên mất lòng tin thánh thượng, nhưng một khi lên chức, dưới lại có những vị nội quan khác tay quản xưởng vệ và kinh doanh, bất luận lý lịch, quyền lực, thánh sủng đều tương đối ngang nhau, ngài nghĩ xem chức thủ lĩnh Ti Lễ Thái Giám này, há chẳng phải là lò lửa chí mạng hay sao, trên dưới trái phải, tứ phía là lửa, ai chịu nổi chứ?

Đới Nghĩa càng nghĩ càng sợ. Đây nào phải nội tướng, đây rõ ràng là lệnh bài Diêm La câu hồn. Đới Nghĩa cảm kích đến rơi nước mắt nói:

- Đa tạ quốc công chỉ điểm, nếu không Đới Nghĩa đần độn, chỉ sợ bản thân chết thế nào cũng không hay biết. Đa tạ quốc công gia, ta an tâm ở lại trong Đông Xưởng, thành thực một lòng làm việc cho hoàng thượng, chỉ cần hoàng thượng sủng tín, thế thì ở đâu cũng vậy thôi.

Dương Lăng mỉm cười nói:

- Chính là đạo lý này, tuy nhiên nếu hai vị còn lại, chiếm chức Ti Lễ Thái Giám, thế chẳng phải đã làm hại bọn họ rồi sao? Ta quả thật không đành lòng. Huống hồ chỉ cần bọn họ an phận, chức vụ và bản phận hiện giờ của họ, thế thì đó là bạn hữu đắc lực của ngài, sẽ không nảy sinh hiềm khích, đoạn tuyệt giao tình, ngài cũng không muốn bọn họ chân bước vào chỗ chết, sau đó thay vào đấy là một thái giám không chút giao tình làm Tây Xưởng hoặc thủ lĩnh Kinh Doanh chứ?

Đới Nghĩa gật gật đầu, vội hỏi:

- Quốc công có diệu kế gì?

Dương Lăng cười nói:

- Hôm nay ngươi có thể đến đây, ngày mai bọn họ hẳn cũng sẽ đến, đến lúc ta lại đêm tâm tư của hoàng thượng ám thị một phen, bọn họ sẽ không còn ý niệm tham lam nữa. Thế nhưng chức Ti Lễ Thái Giám cũng không thể bỏ trống. Ta thấy chi bằng các người đề cử một nội giám trung thực trung hậu làm thủ lĩnh Ti Lễ, như vậy các người đều sẽ bình an vô sự, bình bình an an.

- Cũng giống như Vương Nhạc, Phạm Đình bọn họ, Vương Nhạc là Ti Lễ Thái Giám, nắm giữ nội đình mấy mươi năm, bên dưới đám đại thái giám Phạm Đình ai lo phận nấy, vừa không chịu bó buộc, lại không sợ bị người khác tước quyền, nếu không phải bọn họ chịu sự mê hoặc từ bên ngoài, bức cung loạn chính, giờ chẳng phải vẫn bình yên ngồi đấy sao, làm sao đến phiên người khác lên ngôi? Ngài vốn là một trong tứ đại thủ lĩnh Ti Lễ Thái Giám, đối với việc này hẳn đã tỏ tường rồi.

Đới Nghĩa nhớ lại chuyện Vương Nhạc làm Ti Lễ Thái Giám lúc bấy giờ, các đại thủ lĩnh đều tường an vô sự, không khỏi gật đầu liên tục.

Dương Lăng dường như không có việc gì nói:

- Ngươi không ngại thì làm theo lệ này, chủ động đề cử một người trung thực trung hậu với hoàng thượng, nội giám không có dã tâm nhậm chức thủ lĩnh Ti Lễ Thái Giám, như vậy đối với quyền lực hiện giờ của ngài không có ảnh hưởng gì, lại có thể bày tỏ lòng trung thành với hoàng thượng, biểu hiện tấm lòng trung thành và không chút dã tâm của ngài, vui vẻ cả nhà hà tất không làm nhỉ? Ừm... ta thấy tên Đỗ Phủ cũng không tệ, thật thà chất phác, lý lịch cũng chẳng kém ngươi.

- Được! Đa tạ quốc công gia chỉ điểm, giờ ta sẽ hồi cung, đề cử thủ lĩnh Ti lễ với hoàng thượng.

Đới Nghĩa kích động đến cả mặt đỏ bừng:

- Vạn hạnh thật là vạn hạnh, may mà ta đi chuyến này, nếu không đã mất thánh sủng, mất cả tính mạng, bản thân cũng không hiểu tại sao, chuyến lần này thật đáng, lễ vật này thật đáng mà.

Đới Nghĩa vội vàng cáo tạ rời đi, vội vội vàng vàng quay trở vào cung, sợ rằng có kẻ giành trước y bày tỏ tấm lòng trung thành đại công vô tư với hoàng thượng.

Miêu Quỳ đem theo lễ vật đến trước cửa nhà.

Dương Lăng đang nằm lỳ trên giường, hưởng thụ thủ thuật xoa bóp của Cao Văn Tâm, hắn khoác áo choàng, đi ra ngoài, ngồi trong phòng khách với Miêu Quỳ. Hai người hàn huyên một lúc, Dương Lăng thành thật với nhau mà nói:

- Miêu công công không phải người ngoài, ta cũng xin nói thật với ngài, nội đình Ti Lễ Thái Giám, bỏ trống đã lâu không động đến, đấy thật ra là mồi câu của hoàng thượng...

...

Miêu Quỳ kích động mà rời đi, mang theo cảm giác hạnh phúc vì không rơi vào cạm bẫy.

Trương Vĩnh tiếp đó đến, sau đó cũng hạnh phúc vui mừng rời đi...

Chức thủ lĩnh Ti Lễ Thái Giám nội đình, bất ngờ rơi vào gã Đỗ Phủ trung thực trung hậu. Điều khó có hơn nữa là, hoàng thượng đột nhiên quả quyết, điều chỉnh ứng cử viên nội các Đại Học Sĩ và Lục Bộ Thượng Thư, ngoại đình vẫn dư âm nhộn nhạo, nghị luận liên miên, nội đình tam thần đều một lời, đồng lòng nhất ngôn, Đỗ Phủ làm nội tướng, thế không thể đỡ.

Cuộc tranh giành quyền lực trong triều đình cuối cùng cũng có hồi kết, triều đình phái Miêu Quỳ làm giám quân lại đến Bá Châu, cùng với Hứa Thái điều khiển sáu vạn đại quân ở các phủ lân cận, bắt đầu tiêu diệt bọn Hưởng Mã đạo. Tuần Phủ Sơn Đông điều binh khiển tướng, Tuần Phủ Thiên Tân, Tuần Phủ Bảo Định mỗi bên phụng mệnh dẫn quân tiến vào Sơn Đông, liên thủ diệt phỉ.

Cuộc thi giang hồ tranh bá, khói thuốc nồng nặc tứ phía...

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 364: Ai Bắt Ve Nấy .

Tuy rằng chiến sự chưa lan đến kinh thành, triều đình cũng không tin hai đội loạn phỉ này dám tấn công Kinh Sư, nhưng thành cấm vẫn trở nên nghiêm ngặt hơn. Cửu thành tuần tra, quan binh thủ môn được tăng cường gấp ba lần, quan binh vội vã qua lại, phóng tầm mắt đi vẫn là một mảng phong cảnh yên bình phồn hoa của mọi người, thiên hạ thì đang đánh trận.

Dương Lăng tiễn Lư Sĩ Kiệt ra khỏi thành Nam, một cỗ xe ngựa đen, bốn thị vệ kị mã thân hình cường tráng đang chờ. Dương Lăng nói với Lư Sĩ Kiệt:

- Lư huynh, chiến hỏa tuy chưa đến sông Bắc, Sơn Đông, nhưng đường xá xa xôi, dù sao cũng không được an toàn cho lắm. Bốn thị vệ này phụ trách bảo vệ người an toàn đến Giang Nam, Cốc Đại Dụng, Nghiêm Tung sẽ sắp xếp thuyền chiếc tiễn người đến Đông Doanh đảm nhận Văn Tuyên Sử Đại Minh.

Hiện giờ Giang Nam tài tử Đường Bá Hổ đang ở bên kia, rất được Đông Doanh đại danh các nơi tôn trọng, sau khi Lưu huynh đến, có thể cùng Đường Bá Hổ truyền bá văn hóa Trung Nguyên ta, giáo hóa vùng đất Man Di, ở bên đó nghỉ ngơi một năm hơn, sau khi quen thuộc, vẫn xin Lư huynh mời nhiều sĩ lâm bằng hữu, tới lui giữa Trung Nhật, trong mối giao dịch thương mại, giáo thụ văn hóa hai bên.

Lư Sĩ Kiệt là tham mưu của Lưu Cẩn, nhưng chỉ có vài người bên cạnh Lưu Cẩn biết được điều này, những người này hiện giờ đều đã bị đem đi chém đầu, những người khác cùng lắm chỉ biết Lư Sĩ Kiệt và Lưu Cẩn là đồng hương, hai bên quan lại thân mật một chút mà thôi, dù có thông tin như vậy, cũng bị Đới Nghĩa bôi xóa từ trong bản ghi chép thông tin của Xưởng Vệ.

Kỳ thật Lư Sĩ Kiệt có thể ở lại kinh thành làm quan, nhưng lần ở Tứ Xuyên Vọng Trúc Khê, Lư Sĩ Kiệt giả điên tự phụ, sau khi bị Dương Lăng châm chọc một phen, trái lại dường như đã khai sáng vui vẻ hơn, thật sự không còn ý định làm quan nữa. Dương Lăng cố níu giữ hết lần này đến lần khác, Lư Sĩ Kiệt vẫn cố chấp muốn rời đi, vạn bất đắc dĩ, Dương Lăng liền đành đề xướng mời gã đến Đông Doanh để truyền bá văn hóa Trung thổ.

Thật không ngờ điểm này thì Lư Sĩ Kiệt lại đồng ý nhanh gọn, gã cũng nghe nói tài tử Giang Nam Đường Bá Hổ hiện giờ có tiếng tăm lừng lẫy ở Đông Doanh, đại danh lan truyền khắp nơi, tướng quân đối với y kính như thần minh, không dám có chút khinh nhờn, là một văn nhân, có thể được đối đãi như vậy, còn cầu gì hơn?

Lư Sĩ Kiệt mỉm cười chắp tay nói:

- Quốc công yên tâm, Lư mỗ tất không phụ lòng ngài trọng vọng, giờ tại hạ khởi hành.

Dương Lăng cũng mỉm cười đáp lễ, mắt tiễn Lư Sĩ Kiệt lên xe đi xa, mới nói với Đại Bổng Chùy:

- Đi, đến Binh Bộ. Xem xem tình hình chiến sự mới nhất như thế nào.

Trước mắt Dương Lăng còn kiêm cả chức vụ phó soái Ngoại Tứ gia quân, có trách nhiệm bảo vệ Kinh Sư, đồng thời trong khoảng thời gian hai năm lại đây, hễ triều đình có việc ngoài là Chính Đức lại dùng Dương Lăng ra mặt. Lần này hai vùng Bá Châu và Thanh Châu loạn dân tạo phản, một là chưa gây được chú ý từ y, hai là y cũng không nhẫn tâm để Dương Lăng suốt ngày bôn ba khắp nơi, cho nên mới để hắn phụ trách bảo vệ Kinh Sư, đồng thời tham tán quân cơ, thường xuyên đến Binh Bộ tọa trấn.

Binh Bộ, vốn dĩ là nha môn thanh nhàn nhất trong Lục Bộ, nay lại là nơi bận rộn nhất, những người ra ra vào vào đều là nhân viên trạm dịch. Truyền đạt quân tình, đưa đẩy lương thảo, dịch phụ, xe ngựa vân vân... lại từ Bộ Binh truyền đạt đến các Bộ Ti khác, người của Binh Bộ tới lui rộn ràng không ngớt.

Dương Lăng vội vàng đi vào chính đường của Binh Bộ, chỉ thấy trong đại sảnh rộng rãi bày biện hai bộ bàn cát. Trên tường còn treo tấm bản đồ to tướng, một số nhân viên tham tán, tham nghị ríu rít bận bịu, căn cứ vào tin tình báo mới nhất vừa truyền về mà thay đổi chỉnh sửa ký hiệu.

Binh Bộ Thượng Thư Lục Hoàn ngồi nghiêng sau bàn Bát Tiên, công văn trên bàn chồng chất thành núi, gần như che cả mặt mũi, người đứng bên cạnh đang nói gì đó với y, thấy Dương Lăng đến, người đó cao giọng gọi một tiếng:

- Quốc công gia!

Dương Lăng nhìn kỹ, thấy là Giang Bân, không khỏi cười nói:

- Giang Bân, sao ngươi lại ở đây?

Giang Bân cười hì hì chạy ra đón chào nói:

- Hoàng thượng ủy thác cho ta chức tham tướng, mạt tướng phải dẫn binh giết về Bá Châu, tìm tên Lưu Lục đại chiến cao thấp.

Nói rồi lại nhỏ giọng nói một câu:

- Ngài cũng biết rồi, còn có vị tiểu thiếp mới nạp của ta, mỹ nhân xinh đẹp mỹ miều như vậy, giờ cũng không biết tiện nghi cho ai. Mẹ nó, không đi tìm cho ra ta không cam tâm nha.

Dương Lăng nhịn cười, nói:

- Ừ, ngươi dẫn binh diệt phỉ, trái lại cũng là nhân vật khiến người khác yên tâm. Khi nào thì xuất phát?

Giang Bân cười cười nói:

- Giờ chẳng phải đang bái kiến Thượng Thư đại nhân sao, quân tình khẩn cấp, xin tướng lệnh liền đi ngay, quốc công gia còn có gì dặn dò chăng?

Lục Hoàn cũng đứng lên từ sau bàn công vụ, cuống quít vượt qua chắp tay thi lễ nói:

- Bái kiến quốc công gia.

Dương Lăng vội hỏi:

- Miễn lễ miễn lễ, ta tới là muốn biết một chút về quân tình gần đây, thổ phỉ hai nơi hoạt động thế nào?

Lục Hoàn vừa nghe, nhíu mày nói:

- Quốc công gia, cuộc chiến thế này, bản quan quả thật chưa từng thấy qua. Dù là Thát Tử quan ngoại, muốn xâm chiếm biên giới liền công thành chiếm đất, đại chí là muốn công đến đâu, binh lực có bao nhiêu, chỉ cần đánh vài trận, dù sao cũng sẽ có một ước lượng cho thực lực và ý đồ tác chiến của chúng, nhưng bọn Hưởng Mã đạo Bá Châu, Bạch Y quân Thanh Châu thì...

Gã cười khổ hai tiếng nói:

- Căn bản khiến người ta không biết đường mà suy đoán mục đích hành động của họ. Bọn họ công thành chiếm đất, hoàn toàn lấy cướp đoạt là chính, đồng thời bức ép lượng lớn bá tánh tham dự bạo loạn, dường như căn bản không có dự tính lâu dài.

Gã chỉ chỉ hai cái sa bàn nói:

- Trên thực tế, những thứ này đều không có tác dụng gì, bọn Hưởng Mã đạo tốc độ cực nhanh, cho dù đại quân có gấp rút đuổi theo cũng đuổi không kịp, những tin tinh báo đưa về đã sớm quá hạn. Căn cứ vào tình báo thám mã có được, Hưởng Mã đạo Bá Châu hiện giờ tầm một vạn tám trăm người hơn, đều là kị binh là chính.

- Mã hộ bản định ở Bá Châu, nhà nhà nuôi ngựa, cho nên bọn họ dễ dàng có được lượng lớn ngựa tốt. Ngoài ra, bọn họ công chiếm thành trì, cướp đoạt nhà giàu, cũng có được lượng lớn ngựa cưỡi, một vạn tám trăm người này, có khoảng ba vạn chiến mã hơn, mỗi kị binh có từ hai đến ba con chiến mã, luân phiên thay đổi, tới lui đi sấm chớp, đại quân của Hứa Thái căn bản không tài nào tìm ra điểm yếu của bọn họ.

Giang Bân vuốt cằm bực tức nói:

- Phái thêm mấy đường đại quân, hợp vây tứ phía, còn sợ chúng mọc cánh mà bay lên trời ư?

Lục Hoàn lắc đầu nói:

- Vùng đất bằng phẳng, căn bản không cần có đường, nơi đâu cũng là đường, phải điều động bao nhiêu quân đội? Nếu có thể triệu tập nhiều quân đội như vậy, thế không cần bọn Hưởng Mã tạo phản, chỉ dựa vào lương thảo cho quân ta cũng đủ làm triều đình suy sụp.

Giang Bân ấp a ấp úng, không còn gì để nói.

Dương Lăng hỏi:

- Sơn Đông bên đó như thế nào rồi?

Vừa hỏi đến Sơn Đông, sắc mặt của Lục Hoàn càng nghiêm trọng hơn, nói:

- Tin tìnhcó giá trị bên Sơn Đông không nhiều, chủ yếu là cục thế quá loạn. Vốn dĩ Dương Hổ làm sơn tặc thì cướp hoàn cướp, nhưng chuyện chọn những nhà giàu có bất nhân hoặc tham quan ô lại mà hạ thủ, nhưng giờ gã trở nên tàn độc nhẫn tâm lạ thường, hành sự bất chấp thủ đoạn.

- Tặc tử này sau khi khởi binh cố ý phái một số loạn binh phóng hỏa đốt nhà, hủy hoại đồn điền, khiến cho những bá tánh chạy nạn lẩn trốn chiến tranh không còn nhà để về. Lúc đấy gã lại giữ người mang theo lương thực chiêu mộ bá tánh tạo phản, bá tánh không còn đường sống chỉ đành thuận theo. Dương Hổ dùng cách này, ép bức vô số bá tánh, tính toán sơ bộ, chỉ vẻn vẹn một tháng ngắn ngủi, đã có hơn tám vạn người. Thanh Châu có hơn mười huyện trấn, nay đã bị hủy hoại thối nát triệt để, rất nhiều thôn trang hoặc chết hoặc chạy hoặc theo tặc tử. Lão ấu còn lại không đến một nửa.

- Rầm!

Dương Lăng một đấm đánh mạnh lên bàn, mắt nảy lửa, sắc mặt tái xanh, cắn răng nói:

- Dương Hổ!

Hắn vạn lần không ngờ, Dương Hổ vì được việc, lại có thể tán tận lương tâm, dùng tuyệt hậu kế trên người bá tánh vô tội, bức họ phải theo mình tạo phản. Phương thức này, rất nhiều kẻ khởi nghĩa đã dùng qua, cuối đời Đường đại tướng Xung Thiên Hoàng Sào cũng đã từng sử dụng qua cách tương tự, sau khi thất bại lui về từ Trường An, gã thậm chí còn bắt người bỏ vào trong bàn mài ép thành bánh thịt mang theo, đồng thời bắt lượng lớn bá tánh sung làm quân lương, gọi là Lưỡng Cước Dương. Quân Thái Bình sau khi công chiếm ba trấn Vũ Hán, cũng dùng cách đốt giết cướp đoạt, bức cho bá tánh không còn nhà để về, buộc phải theo gã tạo phản.

Những kẻ tạo phản này ban đầu hoặc giả chịu sự bất công, chịu đàn áp thái quá, nhưng sau khi bọn họ khởi sự, một khi nắm quyền sinh sát trong tay, vì để thành đại sự, vì để chiêu binh mãi mã, liền trở nên tham lam vô độ, ép buộc, lạm sát, bất chấp thủ đoạn, khiến cho bá tánh sinh linh đồ thán.

Trong cơn tức giận, trong lòng Dương Lăng bỗng lóe lên một ý nghĩ đáng sợ:

"Hành động bất nhân bất nghĩa như vậy, Hồng Nương Tử có cùng chí hướng với gã không? Nếu nàng ta cũng làm ra những chuyện như vậy, thiên lý bất dung, bản thân làm sao có thể dung thứ?".

Nghĩ đến đây, Dương Lăng tức thì trở nên mơ hồ.

Lục Hoàn thấy hắn thần sắc miên mang, bất giác gọi:

- Quốc công gia, quốc công gia?

- Hở?

Dương Lăng chợt hồi thần lại, Lục Hoàn cười trà nói:

- Quốc công gia có chỉ giáo gì chăng?

Dương Lăng tâm niệm nhanh như chớp:

- Không được, lần này nhất định phải nghĩ cách lãnh binh xuất chinh, ngăn cản Dương Hổ tạo nhiều sát nghiệt. Thế nhưng, thân phận hiện giờ của ta, ta không tài nào chủ động xin đi giết giặc, nhất định phải chờ đợi một cơ hội thỏa đáng, thỉnh cầu hoàng thượng để ta chủ trì tiêu diệt loạn phỉ.

Trong lòng của hắn tính toán, thuận miệng nói:

- Chiến sự cụ thể, để tướng lĩnh lâm chiến tự mình phát huy, thời cơ chiến đấu thay đổi khôn lường, Thượng Thư đại nhân tọa trấn trung khu, vạn lần không được độc đoán chuyên quyền. Nhìn về đại cục, Dương Hổ đến từ Bá Châu, hẳn có mối quan hệ muôn nghìn với bọn cướp đường, phải phòng hờ hai luồng đạo tặc hợp tác với nhau.

Lục Hoàn cũng cho là vậy, gật đầu nói:

- Kinh kỳ trọng địa, hỏa lực tập trung hai trăm ngàn quân, chủ yếu tập trung ở kinh thành, sắp tới hạ quan sẽ điều độ một bộ phận nhân mã làm ba đường phòng tuyến, ngăn chăn hai đường thảo khấu bao vây.

Dương Lăng lại nói:

- Nếu Dương Hổ bức ép lượng lớn bá tánh làm giặc, trong thời gian ngắn ắt hẳn thanh thế vang dội, nhưng cứ thế này hắn sẽ có một vấn đề khá nan giải, đấy chính là lương thảo. Sơn Đông vốn dĩ là mảnh đất cằn cỗi, lúc này lại là mùa xuân, lương thực tích trữ không nhiều, cho dù bị hắn vét hết đi nữa, chỉ sợ cũng không chống đỡ nổi sự sinh tồn của đại quân, nếu người này không hợp tác với bọn cướp Bá Châu, vì lương thực, ắt sẽ phải đánh xuống phía Nam, hai mảnh đất Hà Nam, Giang Tô phải tăng cường phòng bị.

- Còn nữa, Giang Nam là kho lương của Đại Minh, nguồn thu thuế phú, nơi này tuyệt đối không thể loạn, nếu mất Giang Nam, giang sơn Đại Minh sẽ gặp nguy. Giang Nam cần bố trí trọng binh, phòng thủ nghiêm ngặt, nếu phản binh thật sự phá vây từ núi mà ra, cũng nghìn vạn lần không thể để chúng đánh hạ Giang Nam.

Lục Hoàn vâng vâng đồng ý. Dương Lăng nhìn Giang Bân một cái nói:

- Ngươi vẫn là mau chóng đến Bá Châu, hợp binh với Hứa tổng binh, Miêu công công, tranh thủ tiêu diệt giặc phỉ Lưu Lục, Lưu Thất bên Sơn Đông thì...

Hắn hít vào một hơi thật dài nói:

- Bỏ thối rữa một chút, không thể thối rữa một mảnh, tranh thủ đem Bạch Y quân kéo ở Sơn Đông, diệt cùng lúc, tận lực đừng cho bọn họ phá vòng vây, cứ như vậy, chỉ cần dựa vào quan binh bản địa Sơn Đông và nhân mã viện trợ ở Thiên Tân, Bảo Định chưa chắc làm được, còn cần phải điều động nhân sự.

Lục Hoàn trầm ngâm nói:

- Theo ý quốc công, Giang Nam phải bố trí trọng binh canh phòng, thế thì muốn điều binh chỉ còn cách điều từ ba nguồn, một là quân biên phương Bắc, hai là Kinh Doanh, ba là Đông Nam và Tây Nam, bất luận là điều binh từ Đông Nam hay Tây Nam, cũng cần có thời gian dài, chỉ sợ nước xa không cứu được lửa gần, chỉ có điều binh từ quân biên hoặc Kinh Doanh mới thiết thực hơn cả.

- Tuy đại quân Kinh Doanh chỉ có hơn chục vạn binh mã, nhưng cần bảo vệ xung quanh Kinh Sư, dưới chân thiên tử, vạn lần không thể xảy ra chuyện, hiện giờ Hứa Thái đã dẫn một đường quân đi, không dễ điều động nữa. Tại biên thùy có lượng lớn quân đội tinh nhuệ đóng quân, người xem nếu điều động từ biên thùy trọng trấn đến Sơn Đông tác chiến thì thế nào?

Dương Lăng gật đầu nói:

- Ta chỉ cho ngươi một số kiến nghị, cụ thể an bài thế nào ta không tiện bao biện làm thay, việc này ngươi cứ bàn bạc kỹ lưỡng với nội các. Lại Bộ Dương Thượng Thư quen thuộc tình hình quân biên, nếu muốn điều động quân biên, có thể xin ông ta tham tường giúp đỡ một chút.

Hắn ngẫm nghĩ, tự nhủ:

- Thát Đát quan ngoại, bộ tộc Ngõa Lạt tranh đấu không ngừng, đại tướng dưới trướng Bá Nhan là Gia Tư Bố lại dẫn binh độc lập, Bá Nhan bản thân lo chưa xong, đã không còn dư lực tập kích biên cương, hiện giờ biên giới rất bình yên, hoặc giả... điều động binh mã từ biên giới, là thủ đoạn duy nhất trước mắt rồi.

Binh qua Trung Nguyên đã dậy, Tứ Di khắp nơi, chư lão trong ngoài đang rục rịch hành động?

Chín vùng biên giới, thật sự bình yên vậy sao?

Thảo nguyên Ngột Lương Cáp.

Sau một cơn mưa mới, trời thanh đất xanh, không khí tươi mát, chân trời treo một cầu vồng rực rỡ, cứ như một cây cầu cong cong bảy sắc. Thảo nguyên mênh mông vô bờ đã mọc lên hoa cỏ xanh mướt cao nửa thước, ở giữa còn xen lẫn những đóa hoa hoang dã đầy mu sắc. Xa xa những ngôi nhà bằng bạt của Mông Cổ đang phát sáng dưới ánh nắng mặt trời, cứ tựa như những cây nấm đang rớt xuống thảo nguyên vậy.

Nương theo tiếng vó ngựa thoăn thoắt, đại thủ lĩnh của Đóa Nhan Tam Vệ Hoa Đương, đi cùng vài thủ lĩnh bộ lạc đang chậm rãi rong ruổi dưới bầu trời xanh thẳm, bầy ngựa dưới sự chăn dắt của mục dân, di chuyển như dòng chảy của đám mây trên thảo nguyên. Đứng trên một sườn núi cao, nhìn ra xa thảo nguyên, một con sông ánh bạc tựa như dây đai bằng ngọc đang uốn lượn ngang qua thảo nguyên, đối diện chậm rãi dựng lên những ngọn núi cao, trên núi là rừng bạch mọc vừa cao vừa khít, dưới ánh thái dương lóe lên một mảnh màu bạc sáng rỡ.

Ngựa Mông Cổ không cao, lông bờm cũng không đẹp, nhưng ngựa thấp bé khỏe mạnh, chịu lực cực giỏi. Hoa Đương vuốt râu, nhìn đàn ngựa ngày càng hùng tráng, khóe môi lộ ra nụ cười mãn nguyện. Bên cạnh đàn ngựa đang đi chuyển, có một con ngựa lông đỏ đang chạy về phía y. Hoa Đương mỉm cười, tay cầm cây bổng hướng về phía bên đó, sau đó vui vẻ cười rộ lên:

- Ồ, là con trai ta A Nhĩ Tư Lăng, nó về rồi.

Khoái mã lao lên sườn núi. Hoa Đương đá bụng ngựa, cũng nghênh lên vài bước.

- Xuyyyy!

A Nhĩ Tư Lăng ghì ngựa lại, phụ thân hai người họ thân thiết ôm nhau trên lưng ngựa, Hoa Đương cười ha hả nói:

- A Nhĩ Tư Lăng, cuối cùng thì con cũng đã về, có chuyện gì mà vui vậy?

A Nhĩ Tư Lăng cười nói:

- A ba, con nghe được một tin tức tốt, Bá Nhan muốn khởi binh xâm chiếm biên giới Đại Minh.

Hoa Đương ngẩn ra. Nhíu mày nói:

- Thật là một đứa trẻ liều lĩnh. Gia Tư Bố soái lĩnh bộ tộc y dời đến Ngạc Nhĩ Đa Tư, bằng mặt không bằng lòng với Bá Nhan, bất tuân hiệu lệnh. Hỏa Si và bộ tộc Ngõa Lạt lại thường xuyên nảy sinh tranh chấp với y, Bá Nhan bận đến sứt đầu mẻ trán, giờ thực lực y bị tổn hao nhiều, còn cả gan đi tấn công Đại Minh sao?

A Nhĩ Tư Lăng mặt đỏ lên nói:

- A Ba, tin này của con là thật đấy. Là An Đáp của con có được từ bộ tộc La Đặc, Đại Minh hiện giờ đang xảy ra chuyện, phía Hà Bắc và Sơn Đông đều đồng thời xảy ra phản loạn, lúc này bọn họ không tài nào bận tâm đến biên giới.

- Theo tin con có được, Bá Nhan hiện giờ ở trong tình thế vô cùng gian nan, mùa đông này không thể không giết lượng lớn bò dê để qua ngày. Hiện giờ xuân về, bọn họ ngay cả bò dê và ngựa để chăn thả cũng không có, làm như vậy cũng hơi miễn cưỡng.

Tướng lĩnh dưới trướng Hoa Đương là Ba Nhã Nhĩ giục ngựa đến bên cạnh Hoa Đương nói:

- Chuyện này có chút kỳ quái, với thực lực và hoàn cảnh hiện giờ của Bá Nhan, thực tế không thể nào xuất binh càn quét Đại Minh, hắn đã dùng bao nhiêu nhân mã?

A Nhĩ Tư Lăng xoa ngực thi lễ nói:

- Ba Nhã Nhĩ thúc thúc, Bá Nhan tập hợp những dũng sĩ trung thành ở các bộ tộc, tổng cộng một vạn sáu trăm người, lúc con về đại quân đã tập kết xuất phát, xác thực là hướng đến Tuyên Phủ, theo hướng Đại Đồng mà đi.

Ba Nhã Nhĩ nghi hoặc nói:

- Vương gia, chẳng lẽ Bá Nhan cùng đường bí lối, thật sự đi đến bước đường này? Trước đó hắn đã thua thiệt ở Đại Minh, lúc bò dê bộ lạc thiếu hụt, đều sẽ tấn công chúng ta, cướp đoạt lương thực từ tay chúng ta, lần này lại vứt dễ chọn khó, lựa chọn Đại Minh. Với binh mã một vạn sáu trăm người đấy, muốn công đánh thành trì kiên cố của người Hán, e rằng tài vật có thể lấy được cũng rất có hạn.

Hoa Đương kiêu ngạo cười nói:

- Tuy nói đánh Đại Minh khó khăn, nhưng hắn ít nhất không cần phải lo lắng người Hán sẽ đuổi tới thảo nguyên đến báo thù hắn. Hiện giờ Bá Nhan đã không còn là bá chủ thảo nguyên, nhân tâm nội bộ bất ổn, sau khi bộ tộc Hỏa Si và Ngõa Lạt liên minh với nhau, binh lực đã vượt hơn hẳn hắn.

- Gia Tư Bố tự lập môn hộ, lại mang đi một chi tinh binh, lực lượng của hắn yếu hơn. Nghe nói hoàng hậu Mãn Đô Hải không chết, hiện giờ đang ở trong quân của Gia Tư Bố, vài tay bộ tộc dưới trướng Bá Nhan đã lén lút đi đầu quân cho Gia Tư Bố, giờ Bá Nhan tứ phía là địch. Còn dám động thủ với chúng ta, gây thù kết oán với Hoa Đương ta sao?

Bạch Âm nghe vậy giục ngựa lên trước. Thân hình y hơi ốm yếu một tí, trông chẳng có chút nổi bật trong đám tộc người cường tráng, nhưng y lại là một vị thủ lĩnh chủ chốt của tam bộ Ngột Lương Cáp, là huynh đệ kết bái của Hoa Đương. Nghe mấy người nói chuyện, ánh mắt của y không khỏi lóe sáng, như có tâm tư nhìn chằm chằm vào A Nhĩ Tư Lăng, mỉm cười nói:

- A Nhĩ Tư Lăng, Bá Nhan xuất binh Đại Minh, tại sao ngươi lại nói là một tin tốt?

Trên mặt A Nhĩ Tư Lăng trẻ tuổi tỏa ra thần thái cổ quái lạ thường, lớn tiếng nói:

- Bạch Âm thúc phụ, người không biết đó là một cơ hội tốt sao? Tộc người chúng ta chịu đủ sự áp bức của tộc người Bá Nhan, giờ hắn suy tàn, chỉ cần đánh bại hắn, chúng ta sẽ có thể xưng bá thảo nguyên. Đây là cơ hội tốt cho chúng ta đấy.

Y nhìn sắc mặt của phụ thân, nói tiếp:

- Nhân lúc Bá Nhan lén lút điều động lượng lớn tinh nhuệ đến Đại Minh, chúng ta một kích đánh hạ bộ tộc của chúng, liền có thể chiếm được vùng thảo nguyên rộng lớn hơn để chăn thả, đến lúc đó thực lực của chúng ta gia tăng. Thảo nguyên rộng lớn, có thể thu hút lượng lớn bộ tộc đến đầu quân, chúng ta lúc đấy sẽ có thể cùng phân tranh cao thấp với Hỏa Si và Ngõa Lạt. Phụ thân, người có cơ hội trở thành Khả Hãn của đại thảo nguyên rồi.

Hoa Đương vừa nghe tim đập thình thịch, ngắm nhìn vô ngần ốc đảo, tưởng tượng bản thân trở thành người đứng đầu thảo nguyên, trong lòng y không khỏi nóng hừng hực, nhưng nghĩ đến uy danh của Bá Nhan và Hỏa Si, làm thủ lĩnh của một bộ tộc, trường kỳ sống trong tâm lý đề phòng cảnh giác khiến y lại do dự trở lại.

Dù sao, qua nhiều năm như vậy. Hình ảnh anh dũng bất khả chiến bại của hai người đó đã mọc rễ trong lòng ông ta, những xung đột ngày thường như tranh giành nơi chăn thả hay nảy sinh mâu thuẫn với bộ lạc nhỏ thì ông ta chẳng sợ, nhưng nếu nhân lúc Bá Nhan dẫn binh ra ngoài, cướp đoạt bộ tộc, gia súc và phụ nữ của gã, thế thì rõ ràng là triệt để tuyên chiến với Bá Nhan, hổ chết uy không đổ, Bá Nhan... đấy là một kiêu hùng nha.

Bạch Âm cười ha hả, tán thưởng mà nói:

- Tiểu tử giỏi. Có chí khí!

Gã quay đầu nói với Hoa Đương:

- Vương gia. Xem ra, Bá Nhan chẳng những nhân tâm ly tán, hơn nữa còn ở trong tình cảnh vô cùng gian nan, nếu chẳng phải hắn không thể chống đỡ nổi, hắn sẽ không mạo hiểm như vậy. Vương gia, hiện giờ binh mã chúng ta cường tráng, đủ để trực chiến với Bá Nhan, nay Bá Nhan điều động tinh nhuệ đánh chiếm Đại Minh, chúng ta đoạt địa bàn của hắn, chặt đứt đường lui của hắn, thế thì có thể đánh bại hắn.

- Người Hỏa Si và Ngõa Lạt, thậm chí là Gia Tư Bố, đều có dã tâm muốn trở thành chủ nhân thảo nguyên. Người cũng là đại anh hùng của thảo nguyên, cơ hội tốt thế này sao không nắm bắt nó? Thế lực của hắn cho dù rơi vào tay ai, cũng sẽ trở thành kẠđịch cường mạnh mới của chúng ta, chúng ta hạ thủ trước vẫn hơn.

Ba Nhã Nhĩ nhướn đôi mày rậm, nói:

- Có lý, có câu nhân ngươi bệnh, lấy mạng ngươi, hiện giờ đang là lúc cường địch của chúng ta, Bá Nhan đang trọng bệnh, hẳn là thời cơ định đoạt đây.

Những người còn lại vây quanh, lần lượt lên tiếng hưởng ứng. Hoa Đương do dự, trầm mặc hồi lâu, ông ta mới dùng roi nhẹ nhàng gõ lên yên ngựa trầm giọng nói:

- Các vị, nên biết rằng cứ thế thì chúng ta sẽ thành tử thù của Bá Nhan, lạc đã ốm chết còn to hơn ngựa, nay... chúng ta nắm chắc bao nhiêu phần thắng đối phó với Bá Nhan?

Bạch Âm nói:

- Vương gia, chỉ cần chúng ta tập kích lãnh địa của Bá Nhan, Hỏa Si và Ngõa Lạt nghe tin, thậm chí là Gia Tư Bố đều có khả năng gia nhập để cướp đầu dê béo bở này, Bá Nhan còn có mối nguy nào nữa chữ? Nếu từ bỏ cơ hội này, chúng ta chỉ có được sự yên bình chốc lát, một khi bọn họ ngồi vững, sẽ trở thành Bá Nhan thứ hai, chúng ta vẫn sẽ trở thành mục tiêu bị cướp đoạt và ức hiếp, Bá Nhan khinh kị tinh binh tập kích Tuyên Phủ Đại Đồng, thời cơ trôi qua tức thì, vương gia phải sớm ra quyết định ạ.

Hoa Đương nhìn về phía chúng tướng lĩnh, đám anh hùng trên thảo nguyên này đều tay cầm chuôi đao, trên mặt hiện rõ thần khí quả quyết và khát máu. Hoa Đương cúi đầu ngẫm nghĩ, dứt khoát nói:

- Được, chúng ta trở về bàn tính kỹ lại, trước tiên phái người đến lãnh địa Bá Nhan, làm rõ hành động thật sự của hắn, tránh trúng quỷ kế của hắn ta. Nếu Bá Nhan thật sự đi đến Đại Đồng, Tuyên Phủ, chúng ta sẽ lập tức khởi binh.

Bạch Âm mỉm cười nói:

- Còn phải gửi bức thư cho Chỉ Huy Sứ Liêu Đông Đại Minh, cứ nói vương gia thân là Thuần Minh vương, trung thành cẩn cẩn với Đại Minh, nghe tin Bá Nhan đột ngột tái xâm chiếm biên thành, phẫn nộ xuất binh thảo phạt. Như vậy bất luận thành công hay thất bại thì...

Hoa Đương bừng tỉnh, cười ha hả nói:

- Không sai, được, có thể giải tỏa cảnh giác của Đại Minh, sau này nếu có dậy chiến với Hỏa Si và Ngõa Lạt, có thể có được sự ủng hộ của Đại Minh, nếu như thất bại, thì kéo Liêu Đông Vệ xuống nước, bọn họ dám thấy chết mà không cứu, các nước chư hầu thuần phục Đại Minh cũng sẽ lạnh răng.

Ba Nhã Nhĩ cười to nói:

- Diệu kế, như vậy chúng ta sẽ không còn mối lo về sau. Tuy nhiên theo ta thấy đây hoàn toàn là động thái dư thừa, Bá Nhan nay đã không còn như trước, chúng ta nhất định sẽ thành công. Vương gia, làm Thuần Minh vương, chung quy vẫn không bằng làm bá chủ uy phong trên thảo nguyên, ngài nhất định sẽ trở thành Khả Hãn của đại thảo nguyên, Ngột Lương Cáp chúng ta sẽ trở thành chủ nhân của thảo nguyên này.

Nãi Nhẫn Đài đến gần vui vẻ nói:

- Đến lúc đó, đại thủ lĩnh Hoa Đương thống nhất đại thảo nguyên. Nói không chừng có thể tái hiện thần uy anh minh của Thành Cát Tư Hãn, có được thiên hạ rộng lớn này.

- Ha ha ha...

Quần hùng cười một cách thích thú. Hoa Đương giương roi ngựa, lớn tiếng cười vang:

- Đi!

Đi trước dẫn đầu, phi lên thảo nguyên phía trước, những kiện mã còn lại theo sát phía sau, vó ngựa vùn vụt, cứ như trận gió mát.

Mọi người vừa mới phi ngựa đến trước chiếc lều lớn, còn chưa xuống yên ngựa, phía xa lại có một con ngựa phi đến, ngựa màu đỏ, đỏ như lửa. Người trên ngựa lại mặc áo choàng trắng, cao cao đứng trên lưng ngựa, hai tay giang ra như hứng mây, mái tóc đen nhánh phía sau đón gió mà cuộn sóng.

A Nhĩ Tư Lăng cười nói:

- Là Ngân Kỳ. Nha đầu kia, lại đang nghịch ngợm rồi.

Hồng mã tích tắc đã bay đến, người trên ngựa quả nhiên là một cô gái trẻ, áo choàng màu trắng rộng rãi, nhưng gió thổi mạnh, áo choàng bó sát vào người, đường cong lả lướt của nữ tử trình diện cả ra, tóc nàng ta không buộc không cột xõa sau vai. Cứ như phi thiên nữ thần, mắt sáng răng trắng, nét mày như vẽ.

Ngựa đến nơi, nàng đột nhiên thấp người ngồi xuống lưng ngựa, tay kéo ghì dây cương, cười hì hì gọi:

- Phụ thân, đại ca!

Hoa Đương xuống ngựa, cười ha hả ôm con gái xuống ngựa, nói:

- Nha đầu này, sau cơn mưa cây cỏ trơn trượt, đi ngựa không vững, cẩn thận té từ trên ngựa xuống, đã là đại cô nương rồi, sao còn tinh nghịch như vậy.

Ngân Kỳ le lưỡi, hướng phụ thân làm mặt quỷ, nói nhỏ:

- Con không phải tinh nghịch ấy, ra khỏi cửa thì phải cưỡi ngựa, ngày nào cũng phải cưỡi ngựa, đùi sẽ tròn vo, mông sẽ to ra đấy, con mới không muốn trở thành hình dạng giống người đâu.

Thân hình Hoa Đương cao lớn, mắt to mày rậm, lúc đi lại tướng đi như long hành hổ bước, vô cùng uy phong, nhưng đích thật ông ta có một đôi chân vòng kiềng. Kỳ thật bọn họ tung hoành thảo nguyên, hầu như ai ai cũng là chân vòng kiềng, nữ tử thì ngoại trừ con nhà giàu có, không phải ngày ngày cưỡi ngựa chăn thả, nếu không thì đại bộ phận đều như vậy cả.

Nghe con gái nói vậy, Hoa Đương cười khoái chí, nói:

- Được được được, hôm nào phụ thân tặng con một cỗ xe ngựa, con không được chê phiền phức, mỗi lần ra khỏi nhà cứ ngồi xe là được rồi... ha ha ha... ai da... đừng bám theo đại ca con, chúng ta có chuyện phải bàn, đi lấy rượu sữa ngựa cho phụ thân đi.

Ngân Kỳ nghe xong không vui trừng mắt nhìn ông ta, tung ta tung tăng chạy đến sau lều. Tù trường Bạch Âm đưa mắt tiễn nàng ta rời đi, mỉm cười nói:

- Kỳ Kỳ Cách sắp thành đại nữ nhân rồi, dáng vẻ cũng ngày càng trở nên xinh đẹp lung linh.

Hoa Đương thở dài, nói:

- Đúng vậy, con cái đều lớn cả rồi... à phải, con trai ngươi Tô Hách Ba Lỗ được mười tám tuổi rồi nhỉ?

Bạch Âm cười nói:

- Đúng vậy, nó đó còn cường tráng khỏe mạnh hơn ta nhiều, vốn dĩ còn lùn hơn con ngựa, nay, quả thật đã như một con mãnh hổ. Phải rồi, vương gia, lần trước chuyện kết thân ta đề cập với người...?

Hoa Đương cười ha hả nói:

- Không vội, không vội, ta chỉ có một đứa con gái, sang năm nó mới mười sáu tuổi thôi, tính tình con trẻ con, để ta nuông chiều đến chẳng ra sao. Chuyện này ta còn chưa nói với nó, nếu nó không đồng ý, người làm phụ thân như ta cũng hết cách.

Thấy Bạch Âm sắc mặt không vui, Hoa Đương cười to, khoác vai y nói:

- An Đáp của ta, đừng nóng vội mà, Tô Hách Ba Lỗ là dũng sĩ khó có, kỹ thuật cưỡi ngựa, bắn cung đều là nhất tuyệt, Ngân Kỳ chính là thích anh hùng thiếu niên như vậy. Như vậy đi, đại hội Đạt Mộc năm tới, ta sẽ công khai chiêu thân cho con gái, con trai ngươi nếu đã là mãnh hổ thảo nguyên, thì cứ để nó tự mình giành lấy.

Bạch Âm vừa nghe thì áng mây tối trên mặt liền biến mất, vui vẻ trở lại nói:

- Tốt tốt tốt, nhất ngôn cửu đỉnh. Ha ha, ta quay về nói nó nghe, tên tiểu tử này nhất định vui mừng lắm, thả mắt nhìn cả cái Ngột Lương Cáp này, tài cưỡi ngựa bắn cung, đấu vật có thể so bì với con trai ta chẳng có mấy ai, ừm... lần này vì để sớm ngày cưới được người thương, nó phải dày công tập luyện rồi.

Hai người vui vẻ khoác vai nhau mà đi, bên ngoài lều đang có hai nữ tì đang giết một con nai mập ú, tiểu đao sắc bén trong tay linh hoạt cắt từng miếng thịt, sau đó cho chúng vào chiếc nồi lớn, nước trong nồi đang sôi sùng sục.

Trông thấy chủ nhân và các vị thủ lĩnh đã trở về, hai tì nữ vội vàng cong người thi lễ, mãi đến khi các thủ lĩnh bước vào trong doanh lều, mới buông rèm xuống, tiếp tục công việc dở dang của mình.

Miếng thịt nai to tướng được cho vào nồi nước sôi, củi dưới đáy nồi đốt đến đỏ bừng bừng, đầu nai bị cắt đứt, đặt ở cái giá gỗ bên cạnh, còn trừng đôi mắt to, nhìn ngọn lửa phừng phừng, luộc nấu thân thể mình.

Trong doanh lều Hoa Đương, kế hoạch xuất binh chinh phạt bá Nhan Mãnh Khả được bàn bạc một cách khẩn trương, đang dần hoàn thiện.

Một con nai đến thảo nguyên, cuối cùng trở thành lương thực trong bụng người đi săn, một con nai đến Trung Nguyên, bị săn giết khắp mọi nơi. Xong con nai ở Trung Nguyên, ai sẽ là kẻ đi săn? Ai lại là con nai chờ bị giết đây?

Hưng, dân chúng khổ. Vong, dân chúng khổ, tranh giành thiên hạ, bất luận ai là kẻ đi săn, ai trở thành thịt nai. Cứ thế người cuối cùng chịu khổ vẫn là bá tánh vô tội.

Nước trong nồi thiết đã phun bọt máu, bên dưới có tiếng lửa đốt xòe xòe, là chiếc ghế đã bị đập nát, đều là loại gỗ đỏ, gỗ Hoàng Dương thượng hạng, cái nhóm lửa là văn chương lễ nghi, đề thơ bích họa. Trong đại sảnh có khả nhiều binh sĩ bị thương đang nằm ngổn ngang.

Thiên niên lễ nhạc quy đông lỗ.

Vạn cổ y quan bái tổ vương...

Khúc Phụ, Khổng phủ!

- Vừa rồi ta có đi xem thử, trong phòng tuy còn hoa mỹ hơn bên này, bên trong một chút tài bảo kim ngân cũng không có. Đấy là miếu của người ta, đào mồ hủy miếu, người vô liêm sỉ, chúng ta tuy là đạo tặc, nhưng đạo tặc có nguyên tắc của đạo tặc. Căn dặn dưới, không được đến cái... đi phá hoại cái miếu Khổng bên đấy.

Hồng Nương Tử vừa đi vừa nói.

Bên cạnh là một gã đại hán lưng mang đại đao đầu quỷ, áo choàng trắng, đầu đội khăn đỏ đang chắp tay dạ vâng, xoay người vội vàng rời đi.

Đây là hàng xóm phía đông của miếu Khổng - Khổng phủ. Khổng phủ không phải là nơi ở của Khổng Tử, mà là phủ đệ của thế tập duệ trưởng tôn Diễn Thánh Công của thế đại Khổng, quy mô to lớn, kiến trúc trong nhà có hơn bốn trăm phòng, là đại phủ đệ thua sau hoàng cung, khí thế hoành tráng, vượt qua cả khí thế của vương phủ.

Phía trước là tam đường lục sảnh, chính là quan nha. Thiết kế gồm có đại đường, nhị đường, tam đường. Còn có Quản Câu sảnh, Bách Hộ sảnh, Tri Ấn sảnh, Chưởng Thư thính, Điển Tịch thính, Ti Nhạc thính, trung lộ tiền viện của đông nam ngung còn có thiết kế cả hình ngục. Bên phía cửa đông còn có lô cốt dùng để phòng ngự. Sau nhà là nội trạch và hậu hoa viên. Vốn dĩ là nơi trang nghiêm, giờ lại khắp nơi là binh lính.

Quân đội của Hồng Nương Tử cũng là người người cưỡi ngựa, thậm chí còn có hai con ngựa, ba con ngựa, hai bên phía đông và tây của Khổng phủ còn có nhà kho đông, nhà kho tây, trại ngựa, khung xe, củi vườn vân vân, căn bản không có chỗ, cho nên trong viện ngựa nhiều hơn người, có một số con người không được buộc, mặc kệ thả rong đi gặp cây cỏ trong vườn.

Khổng phủ gia đại nghiệp đại, tuy rằng trước khi quân đội của Hồng Nương Tử đến, bọn họ đã mang theo kim ngân và văn phẩm quan trọng, tất thảy cũng phải mười mấy chiếc xe ngựa, toàn bộ dọn đi trốn, nhưng không tài nào mang theo gạo lương chất như núi còn có một số tài vật xa xỉ dâng tặng không cho Hồng Nương Tử. Ngoại trừ để quân đội thực dùng và tận khả năng bản thân lấy được, còn lại nàng đều mệnh lệnh dán cáo thị, mở kho phát lương, dùng để giúp đỡ bá tánh nghèo khổ.

Qua nhiều đời số ruộng đất mà Khổng gia được hoàng thượng ban tặng lên đến cả triệu mẫu, mỗi năm có bạch ngân hơn trăm nghìn lượng, tài vật hùng hậu, không gì sánh nổi, tùy tiện dọn dẹp đáy kho, cũng đủ để quân đội ba nghìn người của Hồng Nương Tử ăn trong nửa năm.

Tri phủ đã bị Hồng Nương Tử bắt được, tham quan tuy tham tiền, nhưng càng sợ chết. Gã muốn chạy, nhưng bản thân gã cũng biết một khi chạy thì chỉ có con đường chết, nghe nói đám nhân mã giết tới đây không tới ba nghìn người, hơn nữa trên đường không quấy rối bá tánh, chỉ vơ vét lương thảo tiền tài của phú hộ hào sảng, ngoại trừ trực diện tác chiến với quân đội ra, người chết trên tay họ lác đác không nhiều, ngẫm nghĩ cũng không quá ghê gớm, liền ôm tâm lý may mắn củng cố thành trì, điều động dân chúng lực lưỡng, ý đồ liều mình một phen.

Vốn dĩ Khổng phủ rất hào phóng, bản thân còn nuôi quân đội, trang phục và trang bị quân đội chẳng khác nào quân chính quy, nhánh lực lượng này cũng có thể sử dụng để hộ thành, nhưng đáng tiếc đội phòng vệ này quân riêng của Khổng phủ, muốn bảo vệ Diễn Thánh Công đại nhân, căn bản không nghe theo gã sai khiến. Đợi khi đại quân của Hồng Nương Tử đến, gã tri phủ này mới biết thì ra lực lượng tác chiến của người ta lợi hại đến mức nào, cho dù là có nhánh quân của Diễn Thánh Công, chỉ sợ cũng chống đỡ không nổi một canh giờ.

Tri phủ bó tay chịu trói, người của Hồng Nương Tử triệu tập bá tánh, kể tội tham bần trái pháp luật của gã tri phủ này, gã cấu kết quan tham, rầm rộ tù oan, đồng thời tác oai tác quái thay cho Đông Trấn Thú thái giám Tất Chân, đánh thuế phú nặng chèn ép dân lành. Chặt đầu tại chỗ, tịch thu hết gia sản của gã. Sau đó mở cửa nhà giam, thả phạm nhân, đồng thời dán cáo thị, thu hút cường dân nhập ngũ.

Những việc này đều làm xong cả rồi, nàng mới vội vàng quay về Khổng phủ. Khi vừa đến đây, nàng còn chưa đánh giá tỉ mỉ thì đã đi công thẩm Tri Phủ rồi, giờ mới rảnh rỗi quan sát kỹ. Sau khi đi qua tam đường, Thôi Oanh Nhi nhíu mi nói:

- Gia đình này chẳng phải làm quan lớn hay sao? Sao cửa lại nhỏ như vậy? Bên trong cũng vậy, con đường đi qua sao mà hẹp quá?

Bên cạnh là một sĩ binh vừa gia nhập vào quân đội của nàng, tên gọi là Trịnh Đại Ngưu, vốn dĩ là tôi tớ của Khổng phủ, do địa vị thấp kém, không ai dẫn y theo, Bạch Y quân vừa đến, trong lúc hoảng loạn vì để tự bảo toàn tính mạng nên đã gia nhập nghĩa quân. Thất gia Tạ Chủng Bảo thấy tiểu tử này có sức khỏe, lại là người bản địa, quen thuộc tình hình, bèn giữ y ở lại.

Vừa nghe Hồng Soái hỏi tới, Trịnh Đại Ngưu cuống quít tiến lên vài bước. Cung kính nói:

- Hồng Soái, vào cánh cửa này chính là nội trạch, quy tắc của Khổng phủ, người không phận sự tất cả đều không được vào nội trạch. Cửa nhỏ dễ trông coi, con đường này hẹp, kỳ thực những con đường bên trong đều hẹp như vậy, chỉ đủ một người đi, tránh để hạ nhân nấp trên lối đi nhỏ to huyên thuyên.

Thôi Oanh Nhi cười lạnh nói:

- Gia đình giàu có quy củ thật đúng là nhiều, đầu óc dùng cả vào đây. Ai da, cái động bên kia để làm gì vậy?

- Cái kia, gọi là Thạch Lưu. Người gánh nước không được phép vào nội trạch, gánh nước đổ vào thạch tào, chảy vào nội trạch, bên trong có người lấy nước.

Thôi Oanh Nhi nghe xong vừa thấy kinh ngạc vừa hiếu kỳ, nàng chưa từng nghe nói qua trong đại hộ gia đình lại có nhiều quy tắc lợi hại như vậy, thế thì phụ nữ bị coi ra gì nhỉ? Kỳ thật điều Trịnh Đại Ngưu biết được cũng có hạn, quy củ nghiêm khắc ngu muội, làm sao chỉ có bấy nhiêu? Giữa năm Quang Tự, người Trung Quốc đã bắt đầu tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Dân phong cũng mở mang hơn nhiều, nhưng lúc đó nội trạch Khổng phủ xảy ra trận cháy lớn, cũng chính vì quy tắc không cho người ngoài ra vào, không thể cho người vào cứu hỏa, thế là mặc cho ngọn lửa lớn thiêu rụi ba ngày ba đêm, bảy tòa đại lầu hào phóng bị thiêu thành tro tàn, những quy tắc còn lại xem ra cũng như thế.

Thôi Oanh Nhi lắc đầu, không muốn đi tiếp vào nội trạch, nàng xoay người hướng về phương viên, trước cửa bên tay phải của cánh cửa vuông có tảng đá lớn màu xanh, tảng đá hằn lên nhiều vết xe, dường như là tấm bản giặt quần áo khổng lồ, vừa hay có hai sĩ binh đến lấy nước, đang xì xì xào xào giặt quần áo.

Trông thấy Hồng Nương Tử đến, cả hai vội vàng đứng dậy thi lễ, hai người này là người của lão trại Thôi gia, Hồng Nương Tử tuy không nhớ rõ, nhưng trông khá quen mắt, liền nói:

- Các người dặn dò xuống dưới cho ta, bảo các thủ lĩnh trói buộc bộ hạ, đừng quậy phá đến nơi này lung ta lung tung, nhìn xem, đâu đâu cũng là phân ngựa, chúng ta còn phải nghỉ ngơi ở đây vài hôm, nhìn cái cảnh này ngày mai thật chẳng tài nào ở nổi nữa.

Một vị đại hán cười hì hì đáp lời, chà xát lên vạt áo, vội vàng rời đi, còn hán tử còn lại thì cười nói:

- Hồng Soái, vẫn là nhà người ta giàu có có khác, cái bàn giặt này cũng phải dùng đá thạch để làm, cứ chà xuống đây, dùng tiện lắm đấy ạ.

Trịnh Đại Ngưu vừa nghe, ngượng ngùng giải thích nói:

- Vị đại ca kia, ngươi... ngươi nói sai rồi, đó không phải là bàn chà quần áo... đó là... bản phạt quỳ, hạ nhân phạm phải gia quy, liền bị quỳ thẳng lên bản thạch đầu đó để chuộc tội đấy.

- A! Còn có chuyện này nữa?

Gã đại hán kia lắc lắc đầu, cười khan nói:

- Mẹ nó, chúng ta ở đây có một ngày, cứ lấy nó giặt đồ thôi... hè hè... hè hè...

Chính vào lúc này, người vừa đi ra ngoài truyền lệnh "làm vệ sinh xung quanh" lại vội vội vàng vàng quay trở lại, từ phía xa đã kêu lên:

- Hồng Soái, Trịnh nhị gia đang tìm người.

Hồng Nương Tử quay đầu lại nhìn, chỉ thấy Trịnh Lão Thực dẫn theo một người vội vàng tiến đến, vừa nhìn qua, áo choàng trắng, xem cách ăn mặc người đó là tướng sĩ trong quân Dương Hổ, gương mặt xinh đẹp của Hồng Nương Tử tức thì lạnh tanh.

Mãi đến khi hai người tiến đến trước mặt, Hồng Nương Tử mới nhận ra người đó là một trong những thủ lĩnh đi theo Dương Hổ ở sơn trại Bá Châu, tên là Hàn Bách. Người này có quan hệ tốt với Hồng Nương Tử, chỉ là sau khi Hồng Nương Tử và Dương Hổ căng thẳng với nhau, cả hai đã không còn cơ hội gặp mặt nữa.

Vừa trông thấy y, sắc mặt Thôi Oanh Nhi mới dịu lại một chút. Hàn Bách vội vàng tiến lên hai bước, giành trước Trịnh nhị gia ôm quyền thi lễ, cung kính nói:

- Tiểu đệ Hàn Bách, ra mắt đại tẩu.

Hồng Nương Tử hừ một tiếng nói:

- Đừng gọi ta là đại tẩu, ta và Dương Hổ ai đi đường nấy, hắn đi đường Dương Quan của hắn, ta qua cầu độc mộc của ta, ngươi cũng đâu phải không biết.

Hàn Bách cười gượng gạo hai tiếng, không biết nên xử sự thế nào, Thôi Oanh Nhi liếc gã một cái, hỏi:

- Sao ngươi lại đến Khúc Phụ? Thanh Châu đánh hạ chưa?

Thần sắc Hàn Bách căng thẳng, chần chờ nhìn tứ phía, nói:

- Đại tẩu... à! Không không, Hồng Soái, xin mượn một bước nói chuyện, tiểu đệ có chuyện quan trọng cần bẩm báo.

Hồng Nương Tử nghi hoặc nhìn gã một cái, dẫn gã đi đến một gốc cây hòe đứng, hỏi:

- Rốt cục chuyện gì?

Hàn Bách thấp giọng nói:

- Hồng Soái, Dương đại ca bây giờ không có ở Thanh Châu... ngài ấy... các người xuống núi, sau khi đi đến Khúc Phụ, Dương đại ca dài lâu công Thanh Châu không thành, thế thì chuyển công Trâu Bình, Truy Bác, vượt qua Tế Nam giết Phì thành, hiện giờ, ngài ấy đã đến Lương Sơn.

Hồng Nương Tử ngạc nhiên, hiếu kỳ nói:

- Gã đến Lương Sơn làm gì? Lại chiếm núi xưng vương ần nữa sao?

Hàn Bách cười khổ nói:

- Hồng Soái, đại ca đến Lương Sơn, chỉ là tạm thời nghỉ ngơi, đồng thời tấn công Quyên Thành, Hà Trạch, huyện Phong phụ cận, nhưng điều quan trọng là... quan trọng là... ngài... ngài ấy còn làm một chuyện lớn.

Ánh mắt Hồng Nương Tử nghi hoặc, hỏi:

- Muốn làm chuyện lớn? Ngươi nói nghe xem, đường đường nam tử hán, đừng có ấp a ấp úng thế kia.

Hàn Bách bất an xoa xoa tay nói:

- Chuyện này ít ai biết, đại ca chỉ tin tưởng ta, mới nói cho ta nghe. Theo lý mà nói, ta không nên để người khác biết, nhưng mà... chuyện này ta càng nghĩ càng thấy không ổn, chuyện bên lề cũng thôi đi, quan bức dân phản mà, chúng ta cũng vì mạng sống, chẳng thể màng sống chết kẻ khác. Cùng lắm sau này có được thiên hạ rồi, lại đối xử tốt với họ một chút thôi.

- Nhưng điều đại ca muốn làm, chuyện đó kỳ thật... tiểu đệ cũng chỉ dám nói với đại tẩu, tiểu đệ cảm thấy có chút thương thiên hại lý, làm như vậy chúng ta còn có thể thành đại sự nữa không? Một khi lan truyền ra ngoài, đó sẽ là đại họa thiên đại, ta cũng đã khuyên đại ca, nhưng đại ca giờ quá tin tưởng Mộc Vân, cũng chính Mộc Vân đã đề xuất chủ ý này cho y.

Hồng Nương Tử trừng đôi mắt lên, giọng chua chát nói:

- Từ khi nào mà ngươi nói chuyện dông dài như đàn bà vậy, rốt cục có chuyện gì! Dài dòng.

Hàn Bách khẽ cắn môi. Khẩn trương nói:

- Đại tẩu, mặc kệ tẩu và Hổ ca gây nhau đến nước nào, dù sao cũng là một gia đình, tẩu đi khuyên đại ca đi, đừng phạm phải lỗi hồ đồ như vậy.

Hồng Nương Tử bị gã dông dài đến mày liễu dựng đứng cả lên, nàng vừa muốn phát tiết uy phong, Hàn Bách cuối cùng cũng chịu vào chủ đề chính:

- Hổ ca bị Mộc Vân xui khiến, muốn đào đê Hoàng Hà, dìm Sơn Đông.

Giọng của gã run rẩy nói:

- Tẩu tẩu, nếu thế thì số người chết còn hơn mấy chục triệu người, đến lúc đó nạn dân vô số, chúng ta lập tức có thể lôi kéo mấy trăm nghìn đại quân khống chế Sơn Đông... nhưng... nhưng chuyện lớn như vậy, sớm muộn cũng sẽ truyền ra ngoài, chuyện này khác với cái cớ đánh giặt đốt nhà, chà đạp điền trang, đây rõ ràng là giết cả nhà người ta. Tin tức truyền đi, mấy trăm nghìn đại quân lập tức sẽ trở thành kẻ thù không sợ chết, quay ngược con dao lại đối phó chúng ta, không thể làm như vậy!

- Rầm!

Bàn tay ngọc vỗ lên cây hòe, tức thì thân cành lay động, lá cây tuôn rơi. Hàn Bách giật nảy người, chỉ thấy sắc mặt Hồng Nương Tử tái xanh, đôi mắt như phun ra lửa phẫn nộ:

- Tên súc sinh này, lương tâm bị chó tha rồi à! Đập đê vỡ bờ Hoàng, gã không sợ thiên lôi đánh hay sao!

Ánh mắt Hồng Nương Tử chợt lóe, hỏi:

- Hắn chuẩn bị động thủ ở đâu?

Hàn Bách lần đầu thấy nàng nổi nóng dữ dội như vậy, nơm nớp lo sợ mà nói:

- Hổ ca muốn... muốn trước khi đào đê sẽ càn quét phụ cận một phen, sau đó tấn công đến Vi Sơn Hạ Trấn, men theo con sông, tìm kiếm chỗ hạ thủ thích hợp tiếp theo.

- Đi, dẫn ta đi gặp hắn!

Hàn Bách lúng ta lúng túng mà nói:

- Chị dâu, ngươi có chuyện gì thì từ từ nói, nhưng đừng cãi nhau với Hổ Ca, y nhất định nghe theo lời khuyên của ngươi mà.

Thôi Oanh Nhi cắn răng nói:

- Ngươi yên tâm! Ta nhất định sẽ... khuyên bảo y thật tốt!

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 365: Hướng Bắc .

Cái gì là quyền lực? Đây chính là quyền lực.

Dương Hổ ngồi trên lưng ngựa, dương dương tự đắc nhìn về phía đội quân đông đúc hoành tráng kia, gần mười vạn quân đấy. Khi xuống núi còn có một vạn thổ phỉ Thái Hành sơn. Hiện trong tay nắm giữ mười vạn binh tráng kiện, công thành cướp đất, chém giết bắt bớ, còn kẻ nào dám nói Dương Hổ ta không đoạt được thiên hạ?

Sơn Đông là vùng đất thực thi mã chính, người dân phải có trách nhiệm nuôi dưỡng ngựa chiến cho quan phủ. Chính vì thế nên Dương Hổ có thể trong thời gian rất ngắn cướp được một lượng lớn chiến mã. Gần một vạn mã phỉ kiếm sống trong Thái Hành sơn, bọn chúng đều kiêu hùng thiện chiến, say mê chém giết. Có những sư phụ khát máu, thủ đoạn tàn khốc như vậy truyền thụ, lại cộng thêm những trận chiến nảy lửa tàn khốc, chỉ có hai sự lựa chọn hoặc sống hoặc chết, tất cả những thứ đó đã khiến cho những người đàn ông trong gia trang vốn dĩ hiền lành, chất phác thậm chí còn là nhút nhát như đám cừu non yếu ớt chẳng mấy chốc đã trở nên hung hãn y hệt như đám thổ phỉ.

Sức chiến đấu của đại quân Dương Hổ ngày càng được nâng cao lên một cách thần tốc, binh sĩ kẻ nào kẻ nấy tựa như hổ như sói. Quan binh của quan lại địa phương thật khó mà có thể đối chọi lại được với đám giặc hung hãn ngông cuồng này. Cứ như vậy, bọn chúng công thành cướp đất, ngoại trừ những thành hào cao lớn vững chãi có đại binh canh giữ bảo vệ, khó có thể công phá thì Dương Hổ cũng chẳng muốn tiêu tốn quá nhiều binh lực đi đánh chiếm làm gì. Còn trong chiến dã trận thì chưa có một đội quân triều đình nào có thể ngăn lại bước chân của bọn chúng.

Đại quân của Dương Hổ thu được rất nhiều binh khí từ quan binh, không những trang bị và lương thực đầy đủ, thậm chí những cận vệ quân của y còn được trang bị cả súng. Dương Hổ vì muốn duy trì sức chiến đấu hừng hực, xúi giục đám quân lính bê tha của y tiếp tục tận trung nghe lời, y đã từ bỏ đi nguyên tắc đã cố gắng duy trì khi còn là sơn tặc: Không cướp bóc sát hại người già và trẻ nhỏ, không hãm hiếp phụ nữ. Kỷ luật trong đại quân của Dương Hổ trở nên thối nát vô cùng. Tất cả những nơi mà bọn chúng đi qua chỉ còn lại là một đổ nát hoang tàn, biết bao nhiêu những phụ nữ bị bọn chúng làm nhục cho đến chết.

Người dân thời loạn thân chẳng bằng con chó, mức độ thê thảm những người dân này nào đâu chỉ có dừng lại là những người ăn bữa nay chưa biết bữa mai?

Kẻ mạnh thời loạn rất có thể chỉ là những người dân đê hèn không bằng con chó trong thời thịnh vượng thái bình. Bọn họ cầm đao thương lên là đã có trong tay quyền quyết định sống chết của kẻ khác, nhưng đồng thời cũng là đang tăng tốc đến bờ vực thẳm.

Hơn nữa, nỗi thống khổ của bách tính muôn dân đâu chỉ có dừng lại ở đó. Trong quân đội triều đình cũng có những tên lính bê tha bại hoại kỷ luật, đặc biệt là những đám tàn quân bại trận, bọn chúng không còn chịu sự khống chế và giám sát của triều đình. Đám quân lính đó cũng trở nên tàn nhẫn và tham lam như đám giặc Bạch Y quân của Dương Hổ.

Bạch Y quân vì phải tránh sự truy kích của quan quân cho nên chỉ vội vàng quét qua một lượt, cướp được những gì mà bọn chúng nhìn thấy, thỏa mãn được cái thú tính của chúng bèn rời khỏi đi luôn. Còn chính đám quan quân biến chất đến sau kia mới là những kẻ cướp ngông cuồng nhất, cũng cùng một thủ đoạn như lũ giặc cướp thực thụ mà tàn phá, hủy hoại đời sống của lão bách tính.

Những hành động của đám quan quân biến chất đó càng khiến cho nhiều người dân lương thiện bị ép buộc phải lựa chọn con đường gia nhập vào Bạch Y quân. Bọn họ bỗng chốc từ một người dân hiền lành lương thiện, thoắt một cái biến thành một lũ cầm thú lang sói, bắt đầu đi tàn sát những người dân lương thiện khác. Bọn họ cũng chỉ vì để được sinh tồn nên mới bị ép buộc trở nên hung hãn đến như vậy, chỉ vì cái tương lai mờ mịt mà sự sống chỉ còn được đếm theo từng ngày đó đã khiến cho bọn họ trở lên vô lại, ác độc. Một vòng tuần hoàn ác tính đã đẩy những con người vốn dĩ lương thiện nhút nhát trở thành những kẻ mặt người dạ thú thối nát.

Những sự tình đó, Sơn Đông Tuần Phủ không phải là không biết. Nhưng trước tình hình hỗn loạn như vậy, riêng việc điều binh khiển tướng để đối phó với đám Bạch Y quân cũng đủ để khiến cho quan lại có chức trách phải đau đầu nhức óc rồi. Nào đâu còn tâm trí để mà chỉnh đốn lại đám quan quân bại trận, phá hoại kỷ luật trở thành những kẻ giặc mang mũ quan như vậy. Đối với bọn chúng bên phía Tuần Phủ chỉ còn đành giả câm giả mù coi như không hay biết gì để tránh có binh biến, khiến cho thế cục trở lên hỗn loạn thêm.

Tình hình ở Sơn Đông cũng chính vì thế mà ngày càng trở nên phức tạp hơn. Chẳng còn một ai ôm hy vọng hão huyền có thể nhanh chóng bình định được phản loạn nữa. Những người có tiền đã sớm tìm đường sông, tẩu tán tài sản và gia đình của mình trốn nạn lên Kinh Sư rồi.

Đại quân của Dương Hổ hành động quá nhanh, bọn chúng lên phía trước chặn đầu. Trên đường đi đã có rất nhiều lần Bạch Y quân bắt gặp những địa chủ ôm theo vàng bạc, châu báu, gia tài kếch xù đang lao ra phía bờ sông để tìm đường tháo chạy. Kết quả là những người đàn ông trong gia đình thì bị giết chết hết không còn một ai; phụ nữ thì bị bọn vô lại đó làm nhục; vàng bạc châu báu thì quả đúng coi như là đã gói ghém sẵn mà đang dâng lên cho bọn chúng sung vào quân khố của chúng.

Nhưng chỉ từng đó thôi thì vẫn chưa phải là đủ. Tiền bạc của cải chỉ là một phần là nguồn động viên kích thích cổ vũ tinh thần chiến đấu làm phản của bọn chúng, song bên cạnh đó cũng chính là nguồn vốn để đầu tư cung cấp những vật phẩm thiết yếu cho đội quân của Dương Hổ. Nhưng hiện các ổ thổ phỉ của toàn bộ khu vực Sơn Đông đều đang nổi lên làm loạn làm phản, đâu đâu cũng là chiến tranh chém giết khiến cho hệ thống kinh tế bị gián đoạn hoàn toàn. Tuy là có tiền bạc trong tay nhưng bọn giặc đó cũng chẳng tìm được chỗ nào để mà mua lấy những vật phẩm thiết yếu để phục vụ cho quân đội.

Bạch Y quân không tự cung sản xuất lấy tất cả những nhu yếu phẩm hàng ngày, bọn chúng chỉ biết phá hoại những gì sẵn có. Mười vạn đại quân, năm vạn chiến mã, toàn bộ lương thực cung cấp để cho bọn chúng sinh tồn hoàn toàn đều do cướp bóc mà có được. Bách tính lê dân, những người sản xuất ra vật phẩm để sinh sống hàng ngày, hoặc đã bị chết, hoặc đã chạy trốn, hoặc thì đã gia nhập vào hàng ngũ của bọn chúng. Đất đai Sơn Đông này còn bao nhiêu lương thực để cho bọn chúng có thể cướp bóc nữa?

Bên trong thành trì có thể vẫn còn rất nhiều vật tư mà bọn chúng cần. Nhưng hiện giờ tất cả các thành trì đều đã tăng cường phòng thủ, binh lính canh giữ đông đúc và nghiêm ngặt. Có thể ở bên ngoài thành dã chiến chính là địa bàn của Bạch Y quân, nhưng chỉ cần quyết định công thành, đặc biệt là những thành cao hào sâu thì đám giặc đó cho dù có muốn đánh cũng buộc phải hy sinh một lượng lớn đám binh sĩ vừa mới được rèn luyện. Dương Hổ không thể chấp nhận trả một cái giá quá lớn như vậy.

Mùa xuân đã đến, xuân nở hoa khai, đồng ruộng vốn dĩ phải đang vào mùa bận rộn. Nhưng đâu đâu cũng chỉ là cánh đồng mạc hoang tàn, chết chóc. Đám binh sĩ của Bạch Y quân vẫn chưa cảm nhận được thấy điều này, nhưng với vai trò là chủ soái tam quân, Dương Hổ đã cảm nhận sâu sắc áp lực mà việc thiếu thốn lương thực đang cận kề. Có lương mới có binh, chỉ cần không cung cấp được cho binh sĩ đủ những nhu yếu phẩm hàng ngày thì hậu quả thật đáng lo lắng. Vậy nên giờ chỉ có hai lựa chọn, hoặc là vượt sông xuống phía Nam, hoặc là khai đường Hà Nam nam tiến, tiến vào Trung Nguyên đến những vùng đất trù phú hơn.

Bóng dáng của những thị trấn, xóm làng đang ẩn hiện từ đằng xa. Đám giặc như một lũ chó khát máu, từ trong tâm can đã cảm thấy bắt đầu hưng phấn.

Trước mặt có thành có nghĩa là bọn chúng lại có thể đi cướp bóc được những món tiền lớn, có thể cướp được những người phụ nữ đẹp, có thể hưởng thụ những món ăn ngon, còn việc có phải dùng mạng sống để đổi lấy những thứ đó hay không thì bọn chúng đều mặc xác không quan tâm. Không đánh nhau, không đi lính, không làm người xấu thì lẽ nào có thể sống được tiếp hay sao? Nếu đã như vậy rồi thì cứ sống cho đã đời đi.

Cuộc đời con người cũng chỉ tựa như hoa lá một mùa, chẳng biết lúc nào là ngày kết thúc. Biết là như vậy rồi thì tại sao không cố gắng mà hưởng thụ đi? Cái tâm lý cần phải hưởng thụ ngay những gì mình có khiến cho đám quân giặc đang mệt mỏi chán nản đó nhanh chóng phấn chấn trở lại, sĩ khí của bọn chúng lại trở nên hùng hực. Bọn chúng đi nhanh hơn, đám kị binh càng hưng phấn reo hò ầm ĩ hơn.

Dương Hổ nhìn thấy sát khí đang hừng hực của bọn thuộc hạ thì không kìm được mà cười một cái, tiếp tục cùng với một số tên tướng tâm phúc thảo luận cho kế hoạch tiếp theo.

Mộc Vân hiện đã là tướng lĩnh được Dương Hổ tin tưởng nhất. Đại quân của Dương Hổ phân thành năm lộ quân: Tiền, Hậu, Tả, Hữu, Trung. Mộc Vân chỉ huy trung quân, là người đứng đầu trong Ngũ Hổ Tướng. Y cúi đầu nói:

- Công hạ Cự Lộc, sau đó chiếm Tế Ninh, cứ như vậy lương thực có thể sẽ duy trì thêm được hơn nửa tháng. Lợi dụng quãng thời gian đó, vây binh đoạt lấy thành Từ Châu, chắc chắn sẽ trấn uy được thiên hạ.

Chủ soái hữu lộ quân Dịch Thần Phong, tướng lính Bá Châu Sơn Trại, là kẻ trước giờ luôn đi theo Dương Hổ, nghe thấy vậy bèn nghi hoặc hỏi:

- Mộc tướng quân, việc này chỉ e là có chút khó khăn. Đánh Tề Ninh thì hay chừng còn có chút hy vọng, còn Từ Châu... Từ Châu được tập trung binh lực để bảo vệ, dựa lưng Hoàng Hà vậy nên không có những mối lo bị tấn công từ phía sau. Thậm chí quân đội Đại Minh còn có thể tiếp binh tiếp lương bất cứ lúc nào theo đường thủy. Nếu như đánh Từ Châu thì trong thời gian ngắn chắc chắn là không thể được. Còn đánh trong thời gian dài thì đám quan quân đánh tới từ phía sau, chúng ta xem như ba mặt đều bị bao vây. Thật quá nguy hiểm.

Chủ soái Tiền lộ quân Hàn Bách thừa cơ được đánh tuyến trên, mau chóng thông báo cho Hồng Nương Tử biết kế hoạch phá đê đào sông, lợi dụng thủy lực để chiến đấu. Xong xuôi đâu đấy, y nhanh chóng quay lại doanh trại, hiện đang được Dương Hổ triệu gọi đến bàn bạc kế hoạch lớn, nghe thấy mọi người đang bàn bạc như vậy thì ngay lập tức tán thành nói:

- Được đó, nguyên soái. Kế hoạch ban đầu của chúng ta là làm loạn vùng Sơn Đông này lên, chiêu binh thu tích lương. Xem ta đến thời điểm này thì mục đích của chúng ta đã đạt được rồi.

Ta kiến nghị nên nhanh chóng liên lạc với Lưu Lục, Lưu Thất ở Bá Châu để hợp binh, nhanh chóng đánh úp Kinh Sư, công kích trực tiếp vào trung tâm của Đại Minh. Trong doanh trại quân đội của kinh thành thì có đến hơn một nửa là bộ binh, chưa hẳn đã có thể đối đầu được với chúng ta. Cho dù có thất bại đi chăng nữa thì chúng ta cũng vẫn có thể ngay lập tức lùi binh, tiến thẳng vào Trung Nguyên. Tới lúc đó trời cao đất rộng, quân lực hùng hậu, còn ai có thể làm gì được chúng ta?

Tiến đánh Từ Châu không những nguy hiểm mà mặt khác đại quân của chúng ta quân số quá nhiều, đặc biệt là năm vạn chiến mã, để qua sông chẳng há khó tựa như đăng thiên hay sao. Cho dù có qua được sông rồi, dọc đường đi, nào những Giang Tô, Triết Giang sông ngòi chằng chịt, là yếu tố không thuận lợi cho hàng vạn kị binh của chúng ta tác chiến. Kế hoạch này không thực thi được.

Địa hình của các vùng Giang Tô, Triết Giang đại đa số đều là sông, ngòi, hồ nước, không thuận tiện cho kị binh đánh trận. Bạch Y quân vốn chỉ ỷ vào cái thế có được đội vạn quân kị binh thiện chiến hùng hậu. Nay Dương Hổ thấy vậy thì không tránh có phần do dự.

Chủ tướng hữu lộ quân Lý Dạ Ẩn, là một trong ba vị tài phiệt vùng Thanh Châu đầu quân cho Dương Hổ, tuổi đã tầm bốn mươi, râu mọc lún phún, cặp mắt xếch sắc lạnh, tuấn tú đĩnh đạc. Vì võ nghệ của y cao cường xuất chúng nên được phó thác là thống soái tả lộ quân.

Nhìn thấy Dương Hổ đang có vẻ do dự, Lý Dạ Ẩn cười ha hả thật lớn một tiếng rồi nói:

- Bất kể ra sao nếu có thể đánh hạ được Từ Châu, uy danh của quân đội ta tất sẽ gây trấn động thiên hạ. Nếu Nam tiến không thích hợp thì ta có thể rút quân về phương Bắc cũng không muộn. Bây giờ chẳng phải là đã phái người đi liên lạc với Lưu Lục rồi hay sao? Cũng phải đợi xem tình hình bên đó ra sao rồi mới tiện bề thương thảo chiến sách nam tiến Trung Nguyên.

Thống Soái Hậu lộ quân Đậu Hủ Lang là một tên thổ phỉ hung hãn vùng Thái Hành, đang cưỡi lên trên lưng một con ngựa đen làm biếng nói:

- Lý đại tài chủ à, khó! Quá! Người của chúng ta chỉ quen với dã chiến, không giỏi kiên trì công tiến. Đánh Thanh Châu còn chẳng đánh được, đánh Đức Châu cũng bị đánh bại, Từ Châu dễ đánh đến như vậy sao?

Theo ý của ta thì cái vùng Sơn Đông này chẳng còn màu mỡ gì cho chúng ta nữa rồi, cứ sớm rời đi thì tốt hơn. Chúng ta sớm rời đến Trung Nguyên, vùng Giang Nam đất đai trù phú, con gái Giang Nam đẹp tựa như hoa, người nào người nấy tươi trẻ xinh xắn, so với đám phụ nữ của chúng ta... ồ! Ả kia thật đẹp...

Đậu Hủ Lang hai mắt nhìn đờ đẫn, chằm chằm ngóng theo hướng đường núi trước mặt, nước miếng muốn rớt hết cả ra ngoài. Đám đông nhìn thấy cảnh tượng ấy thì bèn nhất loại quay đầu về phía đó nhìn theo.

Phía trước mặt, bên trái là một triền núi trọc lông lốc, chỉ có một vài bụi cây thấp nhỏ sinh trưởng trên đó, bên phải là một vùng bình nguyên. Trên triền núi có một con ngựa trắng tráng kiện, trên lưng nó là một người con gái mặc đồ màu đỏ, khoác lên mình chiếc áo choàng màu đỏ, quàng một chiếc khăn màu đỏ, mạng che mặt cũng màu đỏ. Tuy không nhìn thấy rõ gương mặt và hình dáng của nàng ta, nhưng cái eo thon và bộ ngực đẫy đà động lòng người như vậy thì rõ ràng phải là một người phụ nữ vô cùng gợi cảm rồi.

Ngựa hí dài lên một tiếng, người cưỡi ngựa trắng cũng dựng người lên theo, sau đó hai vó ngựa to nặng đặt uỳnh xuống đất tựa như những thỏi sắt đổ sầm lên nền đất, đứng yên bất động. Người con gái mặc áo đỏ cưỡi lên trên lưng ngựa đỏ ngoảnh đầu lại nhìn về hướng những người đang đứng ở phía dưới gò kia. Tuy khoảng cách khá xa nhưng mỗi người trong bọn họ đều có cảm giác dường như cặp mắt sáng như sao đó đang nhìn mình.

Đám binh sĩ như hùm như sói bắt đầu reo lên mừng rỡ. Nhưng bọn chúng cũng đã cảm nhận thấy khí thế cao ngạo lạnh lùng của người con gái đó, cùng với thanh đoản kiếm mà nàng ta dắt ở thắt lưng. Kiếm chưa được rút ra khỏi bao nhưng sát khí của nó đã khiến cho người ta phải cảm thấy run sợ. Cuộc sống dài ngày gắn bó với chém giết đã khiến cho bọn chúng có được bản năng nhận thức được rằng người con gái này không dễ gì có thể xem thường làm nhục được. Không một kẻ nào dám xông lên, nhưng đám quân giặc thì đã bắt đầu xôn xao.

Sau khi Dương Hổ nhìn thấy người phụ nữ này thì dáng vẻ tự phụ tự mãn đã biến mất, sắc mặt của y trở nên vô cùng khó coi. Những người từ Dương gia đại trại ở Bá Châu xung quân vào đây, và những nhân vật quan trọng trong đám giặc cướp ở Thái Hành sơn đều đã nhận ra người này. Hàn Bách mắt sáng rực lên, ngay lập tức kìm nén lại dáng vẻ kích động của mình, dựt giây cương ngựa chạy qua bên cạnh Dương Hồ, nói nhỏ:

- Hổ ca, là đại tẩu.

Dương Hổ khổ sở đáp lại:

- Ta biết rồi.

Hàn Bách nhìn sắc mặt của y, ha ha cười nói:

- Thật không hiểu nổi huynh, hai người đang êm ấm như vậy, vì chuyện gì mà khiến cho mọi việc căng thẳng như thế. Đây, nay đại tẩu đến tận nơi để tìm huynh rồi này, chưa biết chừng còn muốn hòa giải với huynh đó, còn không mau đi ra gặp tẩu ấy.

Dương Hổ cười hắt ra được một tiếng lạnh lùng. Nghĩ ngợi một lát rồi cuối cùng cũng gật đầu, thúc ngựa lên núi.

Đậu Hủ Lang chỉ gặp mặt Hồng Nương Tử có đôi lần, nhìn tình hình này thì đã đủ biết người đàn bà đó là ai rồi. Độc phá Thái Hành sơn, Hồng Nương Tử, đó là một bông hồng đầy gai. Đậu Hủ Lang sao có thể dám động tới được. Y huýt sáo một cái âm thanh cao vút nhọn sắc, rồi nói:

- Toàn quân nghỉ ngơi tại chỗ.

Đám quân giặc nhìn thấy đại nguyên soái một mình cưỡi ngựa lao lên trên núi, thì chẳng cần nghe qua Hồng Nương Tử là người nào cũng đủ biết rằng người phụ nữ này chắc chắn có quan hệ gì đó với Dương đại nguyên soái rồi. Bọn chúng đành thất vọng xuống ngựa ngồi bệt xuống đất. Có tên lăn người vào đám cỏ mà nằm, chẳng may có tên khác lại đi tiểu ngay bên cạnh đó, tiếng cười tiếng chửi náo nhiệt ầm ĩ cả tứ phía.

Mộc Vân cưỡi trên lưng ngựa, hai mắt nhìn chằm chằm vào hai bóng người đang ở trên sườn núi đó. Ánh mắt của y long lanh, cũng chẳng biết là đang nghĩ gì trong đầu. Đôi lúc đụng phải ánh nhìn của Lý Dạ Ẩn, hai đôi mắt nhìn nhau bèn nhanh chóng nhìn ra chỗ khác.

Trên sườn núi, Dương Hổ đi chậm lại, từ từ đến lại gần Thôi Oanh Nhi. Oanh Nhi dùng một chiến khăn tơ che mặt, chỉ lộ ra cặp mắt đẹp, chiếc mũi cao, đôi môi mỏng đỏ, những đường cong yêu kiều hé lộ ra dưới tấm khăn tơ đó.

- Oanh Nhi, nàng... sao nàng lại ở đây?

Dương Hổ lắp bắp hỏi.

Thôi Oanh Nhi ngó xuống dưới núi nhìn lũ giặc thổ phỉ dưới kia một cái, rồi nhẹ nhàng nói:

- Dương đại nguyên soái thật lợi hại, khi ta rời khỏi Đường Trại Nhi thì cũng là lúc ngài đi đánh Thanh Châu. Ta công đánh Khúc Phụ thì ngài cũng đồng thời đánh đến Lương Sơn, thật là binh đi thần tốc, vậy giờ ngài đang tính đi đâu vậy?

Nghe thấy cái cách mà nàng xưng hô với mình, ánh mắt của Dương Hổ tức thì trở nên ảm đạm, giọng nói cũng trở nên lạnh lùng hơn:

- Còn đi đâu được nữa? Đương nhiên là đi đánh Cự Dã.

- Ngài dẫn theo mười vạn đại quân, lặn lội đường xa chỉ để đánh một thành nhỏ nhoi là Cự Dã hay sao?

- Đương nhiên là không phải rồi, chiếm được Cự Dã, thì sẽ tiến đánh Tế Ninh, có được tòa đại thành đó rồi, bọn ta nhất định sẽ tích trữ được nhiều lương thảo và quân yếu phẩm hơn nữa, chiêu nạp binh sĩ, tích lũy nhiều lực lượng hơn nữa để đánh ra khỏi đất Sơn Đông, chiếm toàn thiên hạ!

- Chiếm Tế Ninh có là gì chứ? Tiếp tục Đông tiến, nếu như đánh được Từ Châu, thậm chí còn có thể qua sông Nam tiến, đoạt lấy Giang Nam, đó chẳng phải tốt hơn sao?

Dương Hổ cảm thấy có chút kỳ quái, nhìn Oanh Nhi lấy một cái, nhất thời không thể đoán ra được dụng ý của nàng là gì, chỉ đành cẩn thận đáp lại:

- Từ Châu tường cao thành dày, có nhiều binh lính canh gác. Nếu chúng ta công phá thành thì quân Minh có thể chi viện quân binh và lương thực bằng đường thủy, hạ Từ Châu không phải là chuyện dễ dàng. Hơn nữa cho dù quân triều đình không tới bao vây thì lương thực mang theo không đủ, chúng ta cũng khó có thể cổ gắng cầm cự lâu dài trong trận chiến đó.

Thôi Oanh Nhi lạnh lùng cười một cái rồi nói:

- Nếu như lưu chiến một trận ở những khu vực xung quanh đây, sau khi khai xuân lượng mưa sẽ trở nên nhiều hơn, tiến hành phá vỡ các đê đập ở vùng Trường Viên, Đồng Minh, Lương Sơn hoặc những vùng lân cận trước đài thì sẽ ra sao nhỉ? Nước đổ xuống vùng hạ lưu sẽ nhấn chìm tất cả, trăm vạn bách tính sẽ trở thành những oan hồn, Hoàng Hà đổi dòng, Từ Châu trở thành một cô thành. Tới lúc đó không chỉ dễ dàng đánh chiếm được Từ Châu, thậm chí còn có thể bỏ thành, Hoàng Hà lúc đó chỉ còn là một đường sông cạn, qua sông chỉ là chuyện dễ như trở bàn tay, chẳng phải như vậy sao?

Dương Hổ nghe xong mặt biến sắc, ánh mắt lóe lên sự hung ác, trầm giọng nói:

- Nàng đang nói bậy gì vậy?

Thôi Oanh Nhi khẽ rủ bờ mi xuống, nhìn một cách đầy khinh miệt cái bàn tay của y đang nắm chặt lấy chuôi đao, giọng điệu đầy châm chọc hỏi:

- Sao vậy, muốn giết người diệt khẩu sao?

Toàn thân Dương Hổ run lẩy bẩy, trong lòng suy nghĩ một hồi thật lâu. Cuối cùng y cũng từ từ buông tay ra khỏi chuôi đao, lạnh lùng nói:

- Ta hiểu rồi, là Hàn Bách, nhất định là y. Ta lệnh cho y đi làm tiên phong thăm dò tình hình phía trước. Y biết rõ chuyện này, và cũng chỉ có Hàn Bách mới có thời gian đi tìm nàng. Thật uổng công ta đã tin tưởng y, thật không ngờ Hàn Bách lại dám bán đứng ta!

- Bán đứng ngươi?

Thôi Oanh Nhi hỏi vặn lại một câu, bật cười lắc đầu nói:

- Dương Hổ à Dương Hổ, đến bây giờ mà ngươi vẫn bị hư lợi làm cho mờ mắt. Ai tốt với mình, ai đang hại mình, ngươi đều không phân biệt được ra. Phá đê đào sông, nhấn chìm Sơn Đông, quả đúng chỉ có ngươi mới có thể nghĩ được ra. Đúng lắm, làm như vậy thì Sơn Đông nhất định sẽ đại loạn.

Nhưng ngươi có từng nghĩ tới rằng khi ngài động binh đánh Từ Châu, trùng hợp đúng lúc đó Hoàng Hà đổi dòng, cho dù ngươi có muốn giấu giếm cỡ thì cũng không thể qua mắt được những người khác có đầu óc suy nghĩ. Chuyện này nếu như bị phát hiện ra thì Dương Hổ ngươi sẽ là tội đồ của toàn thiên hạ. Chưa cần nói đến việc có làm được hoàng đế hay không, ngươi ngay lập tức sẽ thân bại danh liệt, thê thảm như một con chuột đi đến đâu cũng bị người khác tìm cách đánh đập.

Lúc này Dương Hổ nào đâu nghe vào tai được câu nào nữa, nghe thấy vậy chỉ cười nhạt đáp lại:

- Vậy ra Hàn Bách phụ lòng tín nhiệm của ta, bán đứng ta là vì muốn tốt cho ta sao? Thôi đại tiểu thư nàng đến đây tìm ta ngăn cản ta hành động cũng là vì muốn tốt cho ta sao?

Hồng Nương Tử hất cằm lên, kiêu ngạo đáp lại:

- Thôi bỏ đi, ngươi sớm đã chẳng thèm biết phân biệt phải trái rồi, ta không dư hơi để nói chuyện với ngươi. Ta đến để nói cho ngươi biết chuyện phá đê Hoàng Hà, ngươi đừng hòng có thể làm được!

Dương Hổ cười nhạt nói:

- Hồng Nương Tử, ta nói cho cô biết, đừng có mà lên mặt chỉ cho ta phải làm như thế nào. Nay trong tay ta có mười vạn thiết kị, khắp thiên hạ này ai dám coi thường ta chứ? Ta chỉ cần vung tay lên một cái, máu chảy thành sông; ta chỉ cần hạ lệnh một cái, vạn nghìn người rơi đầu mất mạng. Cô dựa vào cái gì mà định đấu với ta? Dựa vào võ nghệ của cô hay dựa vào hơn một nghìn đám tàn binh bại tướng của Thôi gia đại trại?

Hồng Nương Tử trỏ ngón tay về phía Bắc, điềm nhiên nói:

- Quay về!

- Hả?

Dương Hổ bị sự khinh miệt của Hồng Nương Tử trọc cho tức điên cả người, thét lên:

- Cô đừng quên, ta mới là thống soái ba quân! Cô lại dám ra lệnh cho ta?

Hồng Nương Tử thúc ngựa, đáp lại lạnh lùng:

- Quay về! Đừng có ý định phá đê Hoàng Hà! Bằng không ta sẽ ngay lập tức thông cáo toàn thiên hạ rằng Hoàng Hà là do Dương Hổ ngươi phá đê đào sông! Ba nghìn binh mã sao? Ta có thể nhanh chóng kéo về ba mươi vạn người, ba mươi vạn quân của ta sẽ đối đầu với quân của ngươi!

Dương Hổ tức điên người, thét lên:

- Ngươi điên rồi sao? Ta nổi loạn ở Sơn Đông, cơ bản là không muốn dựa vào binh lực của Thôi gia nhà các ngươi. Ta cũng không thèm gì lực của Thôi gia nhà ngươi. Là ngươi! Là các ngươi đã tìm đến ta, muốn tham gia tạo phản cùng ta. Dương Hổ ta không chấp nhặt mà cho bọn ngươi nhập hội, giờ ngươi lại muốn cản đường của ta sao?

Thôi Oanh Nhi lạnh lùng nhìn một cái khinh miệt rồi đáp lại:

- Cản đường của ngươi sao? Nếu như không phải là ngươi thì Thôi gia trại sao lại bị lôi kéo vào chuyện này? Thống soái tam quân? Thật quá nực cười! Nói cho người biết, không có ta, ngươi tạo phản được sao! Nếu không có ngươi, thúc bá của ta vẫn có thể tạo phản như thường. Ta chịu gia nhập vào hội của ngươi là vì họ là thúc bá của ta, bọn họ muốn trả thù cho cha ta. Giữa chúng ta và ngươi chẳng qua chỉ là mối quan hệ lợi dụng, đôi bên cũng có lợi mà thôi.

Phá đê đại hồng thủy, tán tận lương tâm. Ngươi có biết đại hồng thủy sẽ dìm chết bao nhiêu người không? Sau nạn thủy tai là nạn dịch bệnh ôn dịch hoành hành, sẽ có bao nhiêu người bệnh mà chết không? Giờ đang là mùa xuân, nhưng khắp nơi công việc đồng áng đều đã bị ngưng trệ rồi, năm nay chẳng có thu hoạch gì rồi. Năm nay thậm chí là năm sau sẽ có bao nhiêu người phải chết đói đây? Ngươi quả đúng là điên rồ, mất hết nhân tính!

- Ha ha ha ha...

Dương Hổ vừa chỉ vào Oanh Nhi vừa cười lớn:

- Hồng Nương Tử, ngươi còn tạo phản cái gì nữa. Ngươi đi mà làm Bồ Tát cho rồi đi.

Hồng Nương Tử nhìn y chăm chú rồi từ từ nói:

- Bồ Tát có gì là đáng cười hay sao? Trên thế gian này, quả đúng có người lòng dạ lương thiện, hành việc đại thiện. Dương Hổ nhà ngươi chẳng bằng một cái móng chân của họ!

Tiếng cười của Dương Hổ vụt tắt, bị Oanh Nhi sỉ nhục cho tức giận đến độ đỏ bừng cả mặt. Hồng Nương Tử nhìn về phía đằng xa mà nói:

- Ta không phải là Bồ Tát, ta chỉ là một người phụ nữ quá ư ngu ngốc. Những điều ta làm cũng chẳng phải là hành thiện, nhưng phàm là những người còn chút nhân tính đều sẽ không làm ra những chuyện ác độc như vậy. Dương Hổ, những gì cần nói ta đã nói hết rồi, nên làm như thế nào, ngươi hãy tự mình quyết định!

Oanh Nhi liếc nhìn Dương Hổ một cái sắc lạnh rồi nói:

- Người của ta đã đến phương Bắc, ta cần phải quay về, quay về Bá Châu. Dương Hổ, ngươi hãy nhớ lấy, chỉ cần Hoàng Hà bị vỡ đê thì tội danh của ngươi sẽ được thông cáo toàn thiên hạ. Thôi Oanh Nhi ta sẽ là người đầu tiên không tha cho ngươi!

Hồng Nương Tử nói xong thì hai chân bèn thúc nhẹ vào bụng ngựa một cái. Con bạch mã hí dài một tiếng rồi tung vó lao như bay tới một sườn núi ở hướng khác. Dưới núi có hơn hai mươi kị sĩ đang lặng lẽ đợi ở đó, nhìn thấy Thôi Oanh Nhi đã xuống núi thì bèn nhanh chóng xoay người leo lên lưng ngựa, lao như tên bay theo hướng bình nguyên mà nàng ấy đang đi. Từng chiếc áo choàng trắng tung bay trong gió tựa như những đám mây đang bao quanh lấy một ngọn lửa cháy.

Dương Hổ vẫn một mình đứng trên núi, buồn bã nhìn theo hướng đi của Hồng Nương Tử, mãi cho đến khi bóng dáng của hơn hai mươi kị sĩ đã khuất dần khỏi tầm mắt thì y vẫn cứ mãi ngây người bất động đứng nhìn. Mộc Vân không ngồi yên được nữa bèn trèo lên ngựa lao đến trước mặt y, nhìn thấy Dương Hổ đang đờ đẫn nhìn về phía đằng xa, thần sắc hoảng hốt, thì bèn nhẹ nhàng gọi:

- Nguyên soái! Nguyên soái! Hổ ca?

Dương Hổ khẽ giật mình tỉnh lại, nghiến chặt răng nói với Mộc Vân:

- Đi! Đánh lấy Cự Lộc, đại quân quay trở lại phía Bắc!

Mộc Vân ngạc nhiên hỏi:

- Sao cơ? Chúng ta không đi đánh Từ Châu, chặn đứng dòng chảy Hoàng Hà nữa sao?

Dương Hổ nhìn Hàn Bách ở dưới chân núi, trong ánh mắt lóe lên một sự uất hận vô biên, rít lên:

- Không đi được nữa rồi! Ả ta... đã biết được kế hoạch của ta. Hoàng Hà mà vỡ đê thì ả ta sẽ thông cáo toàn thiên hạ, làm hại đại sự của ta!

Mộc Vân trước giờ vẫn không hiểu đôi vợ chồng này vì sao lại mâu thuẫn đến nỗi này, dường như trở thành hai người xa lạ. Nếu như đã đồng lòng cùng tạo phản thì sao Hồng Nương Tử lại còn muốn cản đường Dương Hổ. Nhưng uy danh của Hồng Nương Tử thì quả thật Mộc Vân đã từng nghe qua. Nói được là làm được, lời hứa ra đáng giá ngàn vàng, là trang hảo hán giang hồ nhất ngôn cửu đỉnh. Nếu như nàng ta đã chấm dứt tình cảm với Dương Hổ, thì tuyệt nhiên có thể làm đến bước đường đó thật. Chỉ e là một đại cục tốt đẹp vừa mới vẽ ra lại phải phá bỏ rồi.

Mộc Vân suy nghĩ một hồi lâu, đột nhiên cười nham hiểm nói:

- Nguyên soái không cần phải sầu lòng, chúng ta vốn cũng không định nhanh chóng quá nhiều binh lực đến như vậy. Vì bắt buộc nên mới phải dùng đến cách đó. Chúng ta hiện có trong tay mười vạn tinh binh, dọc đường tiến phương Bắc sẽ tiếp tục chiêu binh mãi mã thêm nữa, đủ tiềm lực để chống đối lại quân triều đình. Nếu như số binh mã chiêu mộ nhiều thêm hơn một chút thì áp lực lương thực của chúng ta lại càng khó giải quyết hơn.

Mộc Vân liếc nhìn Dương Hổ một cái rồi nói tiếp:

- Thuộc hạ có kế này, chúng ta có thể chỉ huy quân đánh lên hướng Bắc, cố gắng gặp được Lưu Lục, sau đó phá một lỗ hổng ở Hà Nam, đánh thẳng vào giữa Trung Nguyên. Tất cả quân của chúng ta đều là kị binh, hành động nhanh chóng, gọn lẹ, có thể nhân cơ hội quân Đại Minh còn chưa kịp chi viện thì đã có thể công chiếm Nam Kinh. Tiếp sau đó lấy một tên vô dụng nào đó trong đám hoàng tộc tông thân của Minh triều đứng lên xưng làm hoàng đế, trực tiếp đối đầu với Chính Đức. Đợi đến khi thời cơ chín muồi thì chúng ta sẽ giết tên hoàng đế vô dụng kia đi, đưa nguyên soái ngài lên thay thế, tới lúc đó chúng ta sẽ có thể Bắc phạt Đại Minh. Lỡ không may có phải rút lui thì cũng có thể chia đôi giang sơn mà cai trị, ngài thấy sao?

Dương Hổ cười gằn một tiếng rồi nói:

- Nay thì cũng chỉ còn có cách đó thôi. Đi, chúng ta tiến đánh Cự Lộc trước đã, rồi sau đó chỉ huy quân đánh tới Đức Châu, cố gắng liên lạc với đám huynh đệ của Lưu Lục.

Ánh mắt của y sắc lạnh, nói tiếp:

- Ta phải thử một phen, tốt nhất là có thể đoạt lấy được kinh thành, giết chết Chính Đức và lấy cái đầu chó của Dương Lăng!

Dương Lăng vô cùng quan tâm đến tình hình chiến sự ở Sơn Đông, nhưng tin tức thì luôn không được cập nhật kịp thời. Ngược lại lại đồng thời nhận được tin tức từ hai miền Bắc Nam. Phía Bắc báo tin rằng Tuyên Phủ đã bị thiết kị Thát Đát tấn công. Dương Lăng quả không ngờ rằng trước tình cảnh bốn mặt là quân địch đe dọa mà Bá Nhan vẫn có thể điều động tinh binh tấn công Đại Minh.

Hoặc có thể là binh mã của Bá Nhan đã không còn cường mạnh được như trước nữa. Đợt tấn công này của y chỉ là muốn lợi dụng đặc điểm cơ động linh hoạt của kị binh để thần tốc đánh chiếm được những thị trấn, thôn xóm nhỏ. Nếu có gặp phải sự phản kháng của quân đội chủ lực triều đình thì bèn rút lui tháo chạy, cơ bản không có ý định chiến đấu lâu dài. Hiện tại bọn chúng đã dần di chuyển về hướng Đại Đồng, Sơn Tây, xem chừng thì không còn đe dọa quá nhiều đến triều đình nữa. Chỉ cần các đạo quân triều đình đều canh phòng nghiêm ngặt, bọn chúng ắt hẳn sẽ không chiếm được quá nhiều món hời. Chỉ có điều làm vậy sẽ khiến cho binh mã của biên quan không thể điều động được.

Tình hình phương Nam lại là một cảnh tượng thịnh thế thái bình. Mùa đông vừa mới qua thì tàu bè thương buôn các nước đã tấp nập giao thương trên các vùng Tô Hàng và Phúc Châu, Tuyền Châu, tiền thuế hải vận liên tục được thu về. Có thể nói hiện nay đó chính là nguồn thu lớn nhất cho triều đình.

Bên Phật Lang Cơ có một đội thương buôn nhỏ tới đây, mang theo tin tức từ Tây Ban Nha. Chiến hạm viễn chinh của đất nước đó đã quay trở về nước, vì mất đi sự bảo vệ võ trang cường mạnh của chiến hạm nên trên đường đã bị lũ hải tặc nức tiếng khủng bố cướp thuyền đến ba lần. Sau khi về được đến nước mình thì số người chỉ còn lại chưa đến một phần ba tổng số ban đầu, người nào người nấy quần áo rách rưới, mặt mày xanh xao, gầy gò hốc hác, trông còn chẳng bằng kẻ ăn mày.

Triều đình nước đó lại được một phen tranh cãi ghê gớm, nên điều binh đi báo thù hay nên thay đổi chiến lược, giao dịch cùng với Đại Minh, vấn đề này đã trở thành tiêu điểm tranh luận của triều đình bên đó. Nhưng nhìn nhận vấn đề trên phương diện thực tế, hơn nữa được chứng kiến sự lợi hại của hải quân Đại Minh thì cái ý tưởng viễn chinh đánh phương Đông gần như chỉ còn là nhưng ảo tưởng có thể mơ mà không thể thực hiện được. Cuối cùng phe cầu hòa dưới sự hậu thuẫn của quốc vương đã dành được chiến thắng. Tây Ban Nha đang tiến hành đóng đại tàu, xem chừng nhanh nhất cũng phải đến đầu thu năm nay mới có thể xuất phát.

Bên phía Giang Nam, Mã Liên Nhi và A Đức Ni cũng quản lý rất tốt, chuyện làm ăn của Nội Xưởng rất thịnh vượng, Dương Lăng lấy làm vui lắm. Sức mạnh to lớn mà hắn tách ly ra từ Nội Xưởng vẫn còn đang giấu giếm hoàng thượng. Nguồn tiềm lực này cũng không thể nộp lại cho triều đình, không thể nói thật cho hoàng thượng được biết. Đó cũng thể hiện rõ ràng rằng lúc đầu bản thân hắn đảm nhận trọng trách quốc công là để chuẩn bị một đường lui. Hơn nữa nếu như quốc gia bước vào vòng quay ổn định thì Dương Lăng cũng không muốn để cho triều đình có được một tổ chức đặc vụ cường mạnh đến như vậy.

Nhưng tổ chức này, những nhân lực này cũng buộc phải sắp xếp cho bọn họ những đầu ra. Cùng với sự phát triển của thương mại, Dương Lăng có ý định từng bước khiến cho bọn họ phát triển thành một tổ chức thương mại cường thịnh thông xuyên Nam Bắc, liên kết giao thương được với cả hải ngoại.

Xem xong thư của Mã Liên Nhi và A Đức Ni, Dương Lăng khẽ chau mày, rồi nói:

- A Đức Ni nóng vội quá, nàng ấy khuyên ta nên di dân ra hải ngoại. Nhanh chóng chiếm lấy những tiểu quốc hoặc nhưng mảnh đất vô chủ là thuộc địa của mình. Nàng ấy không hiểu được tình hình trong nước của Đại Minh, cũng như không hiểu trạng thái địa lý của Đại Minh.

Thành Khởi Vận chớp chớp mắt nói:

- Ta thấy nàng ấy nói rất có lý.

Dương Lăng lắc đầu nói:

- Ta cũng mong sẽ được bá chủ lục địa và hải dương. Nhưng biên cương lãnh thổ Đại Minh rộng lớn như vậy, tài nguyên dồi dào, những nhu cầu trao đổi hàng hóa với các nước thực dân trong một khoảng thời gian rất dài cũng sẽ không trở thành nhu cầu chủ yếu. Giao thương với các nước thuộc địa muốn thành công được thì cần phải tốn công sức của rất nhiều thế hệ. Nếu không có nhu cầu mà cứ cố gắng gượng ép thực hiện thì sẽ khó có thể đạt được mục đích.

Bức thư này của A Đức Ni được gửi đi khi chưa hề hay biết tin tức về thế cục của vụ tạo phản Sơn Đông, Hà Bắc. Nhưng cho dù là không có những lý do đó đi chăng nữa thì ý kiến mà nàng ấy đưa ra cũng không thể thực hiện được. Sau khi Mông Nguyên tàn tách phân rời, nhìn thì có vẻ như không còn mối nguy hiểm nào đe dọa được đến sự sinh tồn của Đại Minh nữa. Nhưng đánh rắn không chết, hậu họa khôn lường. Chỉ cần một ngày kia khi bọn chúng liên kết lại được với nhau thì sẽ gây ra những ảnh hưởng không hề nhỏ đối với Trung Nguyên. Từ giờ đến trước lúc đó, sao có thể tính được đến chuyện tập trung tiền tài và nhân lực để tiến hành kế hoạch di dân được chứ?

Muốn khuếch trương quy mô thì việc đầu tiên cần phải giải quyết đó chính là giải quyết triệt để các vấn đề ở Bắc Cương, lấy lại được quyền khống chế Tây vực. Ngoài ra còn có thể chế nội bộ của triều đình Đại Minh. Thông thương giao dịch với các nước thuộc địa, mục đích chính là vì tiền bạc và đất đai. Những việc này không thể để cho triều đình một tay ôm hết tất cả được. Còn nếu giao lại cho đám thương buôn tài phiệt đi làm thì thương nhân, đặc biệt là hải thương sẽ có trong tay quyền lực vô cùng lớn, liệu triều đình có chịu ngồi yên mà không khống chế ngặn chặn sự xuất hiện của một thế lực mới không?

Quốc gia của A Đức Ni là do quý tộc cầm quyền, đám quý tộc đều sở hữu những mảnh đất và dân chúng của riêng mình. Bọn họ muốn tiến hành thuộc địa hóa các nước khác vừa có thể khuếch trương được thế lực của bản thân mình, lại vừa có lợi cho quốc gia. Nhưng Đại Minh là một triều đình thống nhất do một người thống trị, vì thế nên yêu cầu về sự ổn định và quyền khống chế tuyệt đối là vô cùng lớn.

Muốn thay đổi nhận thức này thì trước tiên phải phá bỏ sự gò ép giao thương buôn bán. Bắt đầu từ việc mở rộng giao thương, phát triển công thương, tích lũy phát triển nguồn tài chính. Thế lực của công thương từng bước phát triển và được nâng lên, hòa lẫn vào từng ngóc ngách trong thế giới chính trị, cho đến khi nhu cầu phát triển kinh tế có thể yêu cầu hệ thống thể chế chính trị buộc phải thay đổi tất cả những hạn chế gò bó. Đó không phải là chuyện có thể giải quyết được trong một trăm năm, không phải là chuyện của một lớp người có thể làm được.

Dương Lăng thở dài một cái rồi nói:

- Một người dù có nhìn ra xa đến đâu cũng không thể nào chuyển động được cả thế giới này, ngay cả khi người đó có là một bậc quân vương anh minh sáng suốt. Có thể thử thay đổi hướng đi của nó, khiến cho nó đi theo đúng phương hướng quỹ đạo. Cũng không thể trong vài chục năm giới hạn ngắn ngủi của mình có thể vọt bước tiến hành những chuyện siêu việt của thế giới hàng trăm năm.

Thành Khởi Vận cười lên hai tiếng rồi nói:

- Nói thật là đại nhân ngài có lúc nói chuyện thật thần bí kỳ lạ, tiểu nhân nghe mà chẳng hiểu chút nào hết.

Dương Lăng nghe xong mà không nhịn được cười, Thành Khởi Vận cười khanh khách nói tiếp:

- Những gì mà đại nhân nói ta chẳng hiểu gì hết. Đại nhân hãy nghe ta nói thử xem sao. Công việc làm ăn của chúng ta phát triển một cách nhanh chóng, hiện tại trong tay chúng ta đã có đất đai, nhà cửa, cửa hàng nhiều không sao kể xiết. Nếu như đem những tài sản ấy chuyển đổi thành bạc thì đại nhân ngài quả thật giàu ngang với một quốc gia rồi.

Hiện tại công việc kinh doanh mới chỉ vừa mới bắt đầu, ngươi hãy đợi đó mà xem, tầm này năm sau thì sẽ là cái cảnh tiền đẻ ra tiền, lợi đẻ ra lợi, bạc và ngân lượng sẽ tự dưng mà đến ầm ầm. Vu Vĩnh quả đúng là một thiên tài, không cần nhờ đến thế lực của triều đình cũng có thể tìm ra được một con đường phát tài hay đến như vậy. Thực lực hiện tại của chúng ta đã vượt qua được đám hào môn gia tộc của vùng Giang Nam, Cự Lộc.

Dương Lăng gật đầu nói:

- Ừm, nhớ chia lợi nhuận cho đám người Vu Vĩnh, cần phải xây dựng một mối quan hệ bền vững. Lợi nhuận càng nhiều thì mới có thể càng cùng tiến cùng lui, gắng sức hơn nữa.

Hắn cười liếc nhìn Thành Khởi Vận một cái. Cái hũ dựng bạc này cầm quyển sổ lên, hi hi cười, chăm chú thích thú nhìn. Chiếc áo ngực màu đỏ đang lộ ra đằng sau trước áo ngắn nhạt màu. Một khe hở hút ánh nhìn người khác đang áp lên quyển sổ, bị đè nén hơi có phần vào cả bên trong.

- Nói đi, công của nàng cũng không nhỏ, nàng muốn có mấy phần nào, hũ đựng bạc kia?

Thành Khởi Vận lườm hắn một cái, rồi khéo léo nói:

- Lòng tham của ta rất lớn đó, có thật là muốn bao nhiêu thì được bấy nhiêu không?

- Được, nàng cứ nói đi, chỉ cần ta có thể có để cho nàng.

Thành Khởi Vận ném cuốn sổ xuống, tựa như một con mèo nhỏ nhanh chóng chui vào lòng của hắn quấn quýt, dùng ngón tay vẽ một vòng tròn lên trên ngực của hắn rồi tươi cười nói:

- Ta à, ta muốn có tất cả của chàng. Tất cả của chàng đều là của ta.

Dương Lăng cười nói:

- Vậy chẳng phải quá đơn giản hay sao? Có lần nào là không phải ta giành hết tất cả cho nàng cơ chứ? Tất cả lợi nhuận... từng phần từng phần một đều được nàng lấy hết sạch sành sanh, đến một chút cũng không còn.

- Có thật không?

Thành Khởi Vận mặt đỏ ửng lên nói, không biết từ lúc nào đã bò lên người của Dương Lăng, cắn nhẹ vào tai của hắn nói nhỏ:

- Vậy tại sao hôm qua chàng đã chọn người ta lại còn đi tới phòng của Văn Tâm, có phải là ta không khiến cho chàng được thỏa mãn?

Cặp mông đang ngồi lên đùi Dương Lăng của Thành Khởi Vận không ngừng chuyển động đã nhanh chóng kích thích hắn. Dương Lăng ôm lấy bầu ngực của Thành Khởi Vận đang tính vui đùa một phen thì Tuyết Lý Mai bất ngờ xông vào phòng. Nhìn thấy tình cảnh đó nhất thời không biết làm thế nào, đứng ngây người đờ đẫn. Mối quan hệ giữa Dương Lăng và Thành Khởi Vận khắp nơi trong phủ này ai nấy đều đã biết, nhưng chẳng qua chỉ như là một trắng giấy mỏng chắn song the, dù gì thì cũng cần có người đâm thủng nó. Giờ thì chứng kiến tận mắt rồi, làm thế nào cho đúng đây?

Thành Khởi Vận muốn nhảy ra khỏi lòng Dương Lăng, vừa mới cho được hai chân xuống thì bèn bị hắn kéo lại ngồi xuống trên đùi của mình. Dương Lăng thấy Tuyết Nhi đang ngượng đỏ cả mặt định lùi bước, thì bèn ho khan lấy một tiếng rồi điệu bộ nghiêm túc nói:

- Chẳng còn cách nào khác, nhà chỉ có một chiếc ghế, đành chấp nhận ngồi như vậy thôi.

- Á?

Tuyết Nhi ngây ngô cười lên hai tiếng, liếc nhìn sang bên cạnh một cái rồi nói:

- Vậy bốn cái chân kia thì không biết là vật gì vậy...

- Qua đây, tới trước mặt lão gia ta!

Dương Lăng làm ra vẻ trịch thượng nói.

"Không thể e dè được, ta là lão gia, ta cần phải cứng rắn hơn, để cho mọi người đều thấy có vẻ tự nhiên hơn. Nếu như ta để lộ ra thì bọn họ cho dù bất giác để lộ ra một chút thần sắc không ổn nào đó thôi thì Vận Nhi nhìn thấy sẽ không khỏi đau lòng".

Dương Lăng thầm nghĩ trong lòng như vậy. Tuyết Nhi đã rón rén đi đến trước mặt, lướt nhìn Thành Khởi Vận một cái, bốn mắt họ đối diện nhau, bất giác cả hai đều đỏ bừng cả mặt.

Trước mặt thiếp của Dương Lăng mà lại thân mật ngồi trên đùi hắn như vậy, hơn nữa cô gái đó chỉ là một tiểu nha đầu bằng nửa tuổi mình, dù Thành Khởi Vận tầm mắt rộng rãi cũng cảm thấy vô cùng xấu hổ: Hôm nay ta thật là thẹn đến chết mất.

Tuyết Lý Mai cũng vô cùng cảm thấy mất tự nhiên, vất vả lắm mới đi được ra đến bên cạnh Dương Lăng, bị hắn ôm lấy, nàng ta khẽ kêu lên một tiếng, rồi thoắt cái cũng đã ngồi lên trên đùi bên cạnh của hắn. Hai người phụ nữ mặt đối mặt nhìn nhau, đột nhiên cùng đồng thời cười lên một tiếng, dáng vẻ ngại ngùng đã tạm thời biến mất.

Dương Lăng ôm trong lòng hai mỹ nhân, một lớn một nhỏ, hai tay bắt đầu cùng sờ soạng, từ từ chạm lên hai bầu ngực, gương mặt vui mừng nói:

- Nhà ta chỉ có một mình lão gia ta là cái ghế thôi, các nàng đại mỹ nhân, tiểu mỹ nhân đều phải chịu thiệt thòi một chút vậy, ngồi xích lại cùng nhau vậy, ha ha. Vội vội vàng vàng chạy vào đây là có chuyện gì vậy?

Tuyết Lý Mai ngại ngùng nói:

- A, người ta tới đây là để báo với lão gia, hoàng thượng có chỉ yêu cầu lão gia và Vương Thượng Thư bên Lễ Bộ đi tiếp đón một người. Vương Thượng Thư đang ở trong tiền sảnh dùng trà chờ lão gia đó.

- Tiếp đón một người?

Dương Lăng khẽ chau mày:

- Đang trong thời binh loạn lạc như này, là sứ giả của nước nào đến thăm viếng hay là phiên vương hồi triều mà lại yêu cầu ta và Vương Thượng Thư đi nghênh đón?

- Nghe nói là Diễn Thánh Công vào kinh, khó khăn lắm ông ta mới tới có một lần, hoàng thượng vì muốn thể hiện sự long trọng nên mới hạ chỉ cho lão gia và Vương Thượng Thư đi nghênh tiếp. Bằng không, ông ta là nhị đẳng Công tước, lão gia ngài cũng là nhị đẳng Công tước, hà tất phải đi đón ông ta.

- Ồ... ra là vậy... Diễn Thánh Công à, ừm... sao ông ta lại vào kinh vậy?

Dương Lăng đang vuốt ve eo thon hông căng của hai người phụ nữ, động tác tức thì chậm lại, trong đầu đang suy nghĩ thật nhanh:

- Diễn Thánh Công? Cũng là nhị đẳng quốc công, ai vậy cơ chứ, ở đâu ra vậy, sao ta từng nghe nói chứ?

Dương Lăng đang gấp gáp suy nghĩ thì Thành Khởi Vận bắt đầu mở miệng nói, giọng đầy khinh miệt:

- Thành Hóa năm thứ năm, Diễn Thánh Công bị truất tước làm thường dân, sau khi lủi thủi rời khỏi kinh thành thì ngoại trừ lúc truyền lại tước vị cho hậu duệ đời sau của mình, y đâu có mặt mũi nào mà vào kinh nữa. Lần này quay trở lại trừ phi là chuyện binh loạn ở Sơn Đông chăng?

Những lời đó đã khiến cho Dương Lăng ít nhất cũng biết người đó đến từ đâu rồi, nhưng hắn còn chưa biết vị công gia này có lai lịch xuất sứ ra làm sao, bèn vờ như rất có hứng thú tiếp tục hỏi chuyện:

- Thành Hóa năm thứ năm... đã xảy ra chuyện gì vậy?

Thành Khởi Vận vừa định mở miệng nói tiếp thì đột nhiên sực nhớ ra Dương Lăng là người đọc sách, cũng là môn đồ của thánh nhân, nói ra chỉ e là sẽ khiến cho chàng ấy khó xử. Vậy nên cứ do dự mãi không chịu đáp lời.

Nhưng Tuyết Nhi lại không tính toán được đến như vậy, thấy lão gia có vẻ hứng thú nghe chuyện thì bèn tranh, nói:

- Chuyện này thiếp biết, Diễn Thánh Công Khổng Hoằng tám tuổi vào kinh phong tước, ở lại Kinh Sư không về. Sau này trưởng thành thì lấy con gái của Đại Học Sĩ Lý Hiền làm vợ. Diễn Thánh Công phẩm hạnh bất chính, dâm đãng với hơn bốn mươi người phụ nữ, bạo ngược ngang tàng, đã từng vô cớ bóp chết bốn người dân vô tội, chính vì vậy nên mới bị truất tước.

Thành Khởi Vận nhướn mày, lạnh lùng nói:

- Tội ác tày trời như vậy, coi mạng người như cỏ rác, nhưng chỉ vì là hậu duệ của Thánh Nhân cho nên chỉ bãi tước nhưng vẫn tiếp tục được hưởng vinh hoa phú quý, hơn nữa con trai của y trưởng thành lại còn được tiếp tục thừa kế tước vị, hừm! Công đạo ở đâu? Thiên hạ bất công.

- A!

Dương Lăng kêu lên một tiếng.

Lúc này thì có ngờ nghệch đến cỡ nào thì cũng phải hiểu được đó là nhân vật như thế nào rồi. Tuy tước vị ngang nhau nhưng người đó là hậu duệ của danh môn đó.

Tuyết Nhi hi hi cười nói tiếp:

- Tỷ tỷ đừng tức giận, lần này tỷ có thể hả cơn giận được rồi. Ta nghe Vương Thượng Thư kể lại rằng, Hồng Nương Tử đang tạo phản ở Sơn Đông, công đánh thành trì, xông vào đánh chiếm Khổng gia, đại đường để nuôi ngựa, nhị đường để nấu cơm, hoa viên là nông trại. Cả nhà Diễn Thánh Công đều sợ hãi hoảng hốt di dời vào kinh thành, tất cả lương thực đầy kho trong nhà đều bị bọn giặc chiếm mất.

- A!

Dương Lăng lại kêu lên một tiếng.

Hắn giương hai tay ra, nhất thời trợn mắt há mồm ra ngạc nhiên, tiếng kêu nghe chừng nguy cấp.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 366: Ngũ Tinh Thượng Tướng .

Hoa nở đầy cây, cành lá xum xuê. Trên tảng đá nhỏ dưới bóng cây, mấy con chim bồ câu béo múp đang thong dong đi đi lại lại, khi Dương Lăng đi qua, chúng uể oải bay lên, rơi xuống núi đá giả trong hồ cá.

Đám thê thiếp trong phòng sau đang tán gẫu với nhau. Ấu Nương nằm ở trên giường La Hán, dựa lên chiếc chăn gấm kê cao, miệng gặm hạt dưa, cắn nát rồi đưa đến miệng con trai. Tiểu tử kia túm lấy vạt áo của mẹ, ra sức muốn bò đến, chỉ đáng tiếc vóc dáng không cao của nó giống như một ngọn núi khó vượt qua được.

Tiểu tử kia mất bao công sức leo lên được một tý, chỉ buông lỏng cái là đã trượt xuống theo chiếc chiếu trơn bóng. Tiểu tử đó hổn hển định ngoạc mồm ra khóc to thì mẹ nó đã kề môi tới thơm một cái. Dương Đại Nhân không từ chối nhận lấy hạt dưa đã cắn nát, lại tiếp tục cố gắng đứng lên.

Cao Văn Tâm nhìn sang, đau lòng ôm con trai, sẵng giọng với Ấu Nương:

- Coi muội kia, cứ toàn đùa nó làm gì, hành nó mệt thế.

Hàn Ấu Nương chống cằm cười khanh khách:

- Tỷ tỷ, trẻ con mà, phải hiếu động chứ. Tỷ không cho nó dùng hết sức lực, buổi tối sẽ ngủ không ngon, tý lại tỉnh giấc.

Lúc này Dương Lăng đi tới, mọi người trong phòng e ấp đứng dậy, vui vẻ cười nói:

- Lão gia.

Dương Lăng ừ một tiếng, thấy Thành Khởi Vận cũng ở trong phòng, đang lặng lẽ nhìn hắn, không khỏi bật cười ha hả nói:

- Các nàng nhàn rỗi, không có việc gì thì ra ngoài đi, nhà chúng ta ít phép tắc.

Hắn ngồi xuống bên lò sưởi, mấy vị mỹ nhân cũng ngồi xuống theo. Dương Lăng ôm lấy đứa con trai từ trong tay Văn Tâm, thơm lên má nó:

- Ồ, cái mặt đầy nước miếng này, chao ôi, bảo bối của ta, con giặt quần áo à? Vạt trước ướt đẫm rồi.

Hàn Ấu Nương ngồi dậy, sửa sang phần tóc mai rối bời, gắt giọng nói:

- Không phải một lũ các nàng sao, cả ngày thơm hết bên này bên kia, trẻ con thơm nhiều thường chảy nước miếng.

Đường Nhất Tiên cười nói:

- Ơ ơ ơ, Ấu Nương tỷ, lần đầu làm mẹ hình như đã hiểu biết hơn nhiều, Văn Tâm tỷ tỷ là thần y. Tỷ nói xem.

Hàn Ấu Nương trừng mắt nhìn nàng:

- Còn nói nữa, chính muội thơm nhiều, con trai ta đã sắp trở thành con trai muội rồi.

Đường Nhất Tiên tiến đến trước mặt Dương Lăng, vuốt ve khuôn mặt nhỏ nhắn của cậu nhóc, đắc ý cười nói:

- Vốn là như thế, ừ... sớm muộn gì cũng là con nuôi của ta.

Nàng cười tươi như hoa đùa với Dương Đại Nhân:

- Tiểu tử kia, nói cho dì biết, có phải bị dì thơm đến chảy nước miếng không? Nhất định phải trả lời đấy, bằng không ngươi chính là đại sắc lang, giống cha ngươi.

Đám đàn bà trong phòng bất chợt cười vang, Dương Lăng tức giận trừng mắt nhìn nàng.

Thành Khởi Vận biết Hồng Nương Tử có địa vị nhỏ nhoi trong lòng Dương Lăng, Diễn Thánh Công bị Hồng Nương Tử đuổi vào kinh. Giờ biết được tin tức xác thực của Hồng Nương Tử, trong lòng hắn nhất định lo lắng, bèn hỏi:

- Diễn Thánh Công đã sắp xếp ổn thỏa chưa?

Dương Lăng tắt nụ cười, gật đầu. Sau đó nằm lên sập, để con trai sà vào ngực mình, tiểu tử kia giãy giụa hai cái, lăn lông lốc xuống, rồi lại bấu vạt áo của mẹ, gắng sức đứng lên.

Dương Lăng gối đầu trên một cánh tay, nhìn lên bầu trời như thoáng chút suy nghĩ bèn nói:

- Lễ Bộ Vương Thượng Thư, còn cả Hàn Lâm Viện Chính, Thái Tử Tế Tửu, mấy vị đại nhân đã đi đón gã, giờ Lễ Bộ đã sắp xếp chỗ ở. Ngày mai tấn kiến hoàng thượng. Kỳ quái, đó là hậu nhân của Khổng thánh mà, sao cũng chẳng thấy những đại nhân này quá mức kính trọng.

Cao Văn Tâm cười đáp:

- Người đám sĩ tử tôn sùng là Khổng thánh nhân, hậu duệ của ông ta đâu có tiếng tăm lớn thế? Phu tử đã tồn tại như một vị thần ở trong lòng mọi người rồi, hậu nhân mà ông truyền lại trong nhân thế không còn quan trọng.

Dương Lăng lắc đầu nói:

- Điều ta khó hiểu không phải thế, trong triều, nếu có hành động bất kính với thánh hiền, không tuân theo lễ nghi thánh nhân, bá quan thà chết cũng không nhượng bộ. Có khi thực sự ngu mục, nhưng hiện giờ Khổng phủ bị Bạch Y quân chiếm đóng. Sao không thấy đám sĩ tử phẫn kích?

Ngọc Đường Xuân nói xen vào:

- Chúng là tặc, là cường đạo mà, nếu cường đạo cũng biết lễ, cũng kính thánh nhân thì còn là kẻ trộm không? Bọn chúng không như thế mới là kỳ quái, đám sĩ tử sao có thể tự hạ thân phận, đi nói đạo lý với lũ cường đạo?

Thành Khởi Vận biết hắn đang lo Hồng Nương Tử gặp đại họa, mỉm cười nói:

- Thánh nhân là do đế vương gia tôn lên, cho dù là ai có được thiên hạ cũng đều tôn kính Khổng thánh nhân, là để thu phục lòng sĩ lâm. Đám sĩ lâm kính Khổng thánh như thần, cũng là để nâng cao địa vị vô thượng của người đọc sách.

Trong triều đình nếu có gì bất kính. Mỗi lời nói hành động đều liên quan đến chuyện trọng đại, ảnh hưởng đến địa vị và phúc lợi của người đọc sách, do đó nhất định phải tranh giành, một bước cũng không nhường. Còn về chuyện đạo tặc gây nên, nói không hạ thấp mình đi so đo với chúng, không uy hiếp tới họ, không làm lung lay địa vị của họ? Nói thẳng ra, bất kể là làm gì, luôn có người sẽ có mục đích, không phải vì danh thì là vì lợi!

Chuyện của Hồng Nương Tử không gây nên hậu quả nghiêm trọng khiến sĩ tử tụ họp lại khiển trách, Dương Lăng đã thở phào nhẹ nhõm, cách nói của Thành Khởi Vận có cực đoan hay không, hắn chẳng buồn so đo. Dương Lăng đang suy nghĩ, tay theo bản năng xoa cặp đùi tròn căng của Ấu Nương, trầm ngâm nói:

- Sơn Đông bây giờ hoàn toàn là thiên hạ của đạo tặc, sức mạnh của triều đình chỉ có thể dùng để bảo vệ một số đại thành đại phụ, cơ bản là phòng thủ, không thể tiến công hiệu quả, nói gì đến bao vây tiễu trừ.

Số lượng bọn Hưởng Mã ở Bá Châu mặc dù ít hơn nhiều so với Bạch Y quân ở Sơn Đông, nhưng tinh nhuệ hơn, chiến lực cũng cao hơn nhiều, hơn nữa ít người thì qua lại sẽ nhanh chóng, Hứa Thái, Giang Bân mặc dù dũng mãnh, nhưng chỉ có thể theo sau chúng thu dọn tàn cục, cứ thế, đám đạo tặc càng ngày càng hống hách kiêu ngạo, đừng thấy nơi khác vẫn yên bình, e rằng chiến hỏa chẳng mấy sẽ lan nhanh, ở khu vực biên giới Bá Nhan Mãnh Khả dẫn người tập kích, hiện giờ mặc dù hành động chưa lớn, nhưng gã đã tới thì sẽ không thể ít gây ầm ĩ, cũng không thể không khinh thường, ôi, nghĩ đến thật khiến người ta phải lo lắng.

Dương Lăng thân mật ở ngay trước mặt đám thê thiếp cũng được, nhưng bên cạnh còn có Thành Khởi Vận và Đường Nhất Tiên, Hàn Ấu Nương lập tức ngượng ngùng, nàng mắc cỡ đỏ mặt đẩy tay chồng ra, nói:

- Trong triều còn có Đại Học Sĩ và chư vị đại nhân nữa, họ nhất định sẽ nghĩ cách, tướng công đừng lo lắng quá, giờ chàng là quốc công, luôn không nên can thiệp quá mức vào triều chính.

Dương Lăng hỏi một đằng trả lời một nẻo, mỉm cười đáp:

- Lại bắt đầu luyện công phu à? Đùi rắn chắc hơn nhiều đấy.

Chúng nữ cười khanh khách, Đường Nhất Tiên nhếch mũi lên, nói:

- Xem kia, ta nói hắn là đại sắc lang mà, chỉ quan tâm đến chuyện này. Tuy nhiên Ấu Nương tỷ tỷ không đúng rồi, quốc công cũng ăn bổng lộc triều đình. Quốc gia gặp nạn, sao có thể bỏ mặc không lo? Hoàng thượng gần đây cũng vì chuyện này mà phiền lòng, đại ca ra tay, xưa nay đều bất bại, ta thấy những quan thần triều đình đó đều bất tài, đại ca huynh giúp hắn nghĩ kế đi.

Ngọc Đường Xuân bĩu môi nói:

- Con gái lớn không dùng được mà, đây còn chưa xuất gi đã một lòng hướng về tướng quân rồi. Lão gia từ khi vào triều làm quan. Cả ngày bôn ba bên ngoài, chẳng lẽ lại phải lãnh binh xuất chinh? Tuy nhiên, ta cũng thấy các quan trong triều đình thật quá vô dụng.

Dương Lăng lắc đầu nói:

- Không phải vậy, từ xưa đến nay, khó tiêu diệt nhất chính là lưu đạo, thời cơ tốt nhất để tiêu diệt chúng chính là khi chúng vừa mới khởi sự, lúc đó nếu có tướng tài, một đòn tiêu diệt sẽ nhanh chóng bình định. Đáng tiếc lúc ấy trong triều đình đang là lúc đấu tranh nội bộ gấp rút nhất, không rảnh để ý tới chúng, cho bọn chúng cơ hội, để chúng thừa cơ lớn mạnh.

Hiện chúng đã đủ lông đủ cánh. Chúng không có cứ điểm, không chiếm thành trì, lưu lạc khắp nơi, lại không cần cung cấp hậu cần, cho nên tốc độ hành quân cực nhanh. Hơn nữa gần như không thể nắm bắt được điểm yếu gì, cũng không có yếu hại gì phải phòng thủ.

Đám lưu đạo này thường ngươi mạnh thì ta tránh, ngươi yếu thì ta tấn công, căn bản không có gì vướng bận. Ưu thế của chúng chính là điểm yếu của triều đình, mà triều đình gần như không có ưu thế gì, kể cả chúng toàn là bộ tốt, rẽ dường nhỏ, đi khe núi cũng đủ xuất quỷ nhập thần. Huống hồ kẻ tạo phản bức ép rất nhiều quân mã, chủ lực đến rồi đi như gió, kị binh nhanh lẹ, đuổi không kịp, đón cũng không kịp, đại quân triều đình thậm chí không thể suy đoán được phương hướng chúng sắp tấn công, kể cả tương tự đều là kị binh cũng hoàn toàn lực bất tòng tâm.

Thành Khởi Vận biết hắn nói thật, từ xưa đến nay phàm là những kẻ tạo phản không cần cứ điểm, chỉ tấn công không phòng thủ, dù có là tướng lĩnh anh minh thần vũ cũng không thể dẹp yên phản loạn trong thời gian ngắn được. Bởi vì căn bản không thể tìm được chủ lực của chúng để bức chúng quyết chiến, giang sơn là của ngươi thì chủ định ngươi phải phòng thủ trước, sau đó mới được tấn công, nếu toàn lực tấn công với cường đạo, quên mất phòng thủ, từ bỏ trách nhiệm, mặc cho giang sơn thối nát thì chỉ có thể bức ép càng nhiều dân chúng bất mãn hơn nữa, kế đó mà gia nhập loạn quân, làm thực lực của chúng lớn mạnh.

Quả nhiên, Dương Lăng chậm rãi nói:

- Phân tích từ đại thế, bách tính hoặc nhiều hoặc ít đều luôn có chút bất mãn với triều đình, đầu tiên khi xảy ra bạo loạn, tâm lý phát tiết này sẽ làm họ thấy rất vui vẻ, thậm chí chỉ mong sao người khác làm ầm lên, để triều đình coi trọng sự tồn tại của họ, điều này sẽ cổ vũ cho khí thế của kẻ tạo phản.

Nhưng cùng với hành động phá hoại của lũ tạo phản càng lúc càng lớn, lợi ích thiết thân bị tổn thất mà không đoạt được, dân chúng sẽ buồn chán, phản đối, lũ tạo phản giống như một đỉnh lũ trong con sông dài, khí thế không thể chống đỡ lúc ban đầu của chúng sẽ dần yếu đi, chỉ cần triều đình làm tốt công tác trấn an, sẽ không châm củi tăng lương cổ vũ lũ tạo phản, đồng thời giữ vững thành trì, cố thủ ở các nơi hiểm yếu của đại thành, bao vây tiễu trừ các nơi, không để cho chúng dắt mũi đi, như thế mới có thể phân cắt thế lực của chúng, từng bước tiêu diệt.

Cho nên, triều đình không được tự loạn trận cước, một là không được nóng vội mong thành công, phải làm từng bước một, thong dong điều hành. Hai là không được coi thường công tác động viên ở khu vực gặp tai họa, nếu không đó chính là nguồn gây họa mới, họ sẽ không căm hận lũ cường đạo, mà giận lây sang triều đình, cho rằng triều đình không quan tâm tới họ, từ đó trở thành người ủng hộ kiên định cho Bạch Y quân. Ba là không được chỉ tập trung vào cục bộ, điều hết trọng binh vào Sơn Đông, triều đình không truy bức, họ cần cung cấp lương thực, tất nhiên sẽ mở rộng ra bên ngoài, nếu trọng binh đều phân bố ở Sơn Đông thì Trung Nguyên trống rỗng, họ thừa dịp đó mà tiến vào, nhưng Sơn Đông không có đủ binh lực, lại không thể tận lực tiêu diệt bọn họ, chừng mực này nhất định phải được nắm bắt được chừng mực này.

Đường Nhất Tiên thuật lại tỉ mỉ một lượt lời của hắn trong lòng, tin chắc mình nhớ được tám chín phần, bèn vui mừng cười nói:

- A, y hẹn muội tới Báo viên, muội lại quên mất, đại ca, muội đi trước đây.

Nói xong bỗng vội vàng né ra ngoài.

Dương Lăng ngồi dậy, nhìn theo bóng nàng khẽ mỉm cười. Thành Khởi Vận thấy vậy, không khỏi lắc đầu nhè nhẹ, thầm nghĩ: "Chàng không nhịn được, rốt cuộc lại liên lụy trong đó, ôi, kế sách này vừa đưa ra đã xuất phát từ mồm chàng, chỉ sợ... chỉ sợ hoàng thượng lại phải phụng hành. Tập trung toàn cục, phân binh điều hành, nói thì dễ nhưng nếu chủ soái không đủ uy vọng, không đủ quyền hành thì đại tướng ở các vùng biên cương làm sao chịu cúi đầu nghe theo? Đến lúc đó nói không chừng, chàng... lại phải dẫn binh xuất chinh".

Thành Bá Châu, đại quân tụ họp, tuy nhiên thành trì đã vô cùng rách nát. Quan binh rời khỏi, bọn cướp đường liền tiến vào, quan binh quay về, bọn Hưởng Mã đạo lại rút đi, lên xuống như thủy triều. Trong thành từ lâu đã bị cướp sạch bong.

Giang Bân dẫn quân giết về Bá Châu, dân chúng trong thành chỉ còn lác đác, nhà Vương Mãn Đường cũng không biết đã trốn đi đâu, Giang Bân căm tức trong lòng không có chỗ trút xuống, đành hợp binh một chỗ cùng Hứa Thái và Miêu Quỳ, bao vây tiễu trừ bọn Hưởng Mã đạo.

Nhân mã của Lưu Lục, Lưu Thất đã phát triển tới hơn ba vạn người, mấy tên đầu lĩnh dẫn quân tung hoành Hà Bắc. Tiến tới tiến lui, làm người khác khó nắm bắt. Hứa Thái có được hổ tướng Giang Bân thì vô cùng vui sướng, vì thế đã bàn bạc với gã, áp dụng chiến thuật nam bắc giáp công, Hứa Thái, Miêu Quỳ đôn đốc quân tấn công Cố An, còn Giang Bân dẫn quân đánh úp Tín An.

Đại quân của Hứa Thái rời khỏi Bá Châu vừa đi được một nửa, liền nhận được tin tức. Lưu Lục dẫn binh lách qua chủ lực của Hứa Thái, đã công hạ về phía thành Bá Châu, Hứa Thái lập tức điều quân trở về, vứt bỏ quân nhu đại đội, chỉ dẫn kị binh gấp rút tiếp viện thành Bá Châu. Họ chiến đấu kịch liệt nửa ngày với Lưu Lục, Lưu Thất ở ngoài thành Bá Châu, đại bại được Lưu Lục.

Lưu Lục dẫn quân rút lui, không ngờ lúc này lại truyền ra tin tức, kỳ quân của Tề Ngạn Danh xông ra, nhân lúc Hứa Thái quay về viện binh, đã cướp đồ quân nhu lương thảo của gã, Hứa Thái chiếm được thành trì, nhưng mất đồ quân nhu, buồn phiền không dứt, may mà rất nhiều lương thảo vẫn để trong thành Bá Châu, chỉ là lần này Hứa Thái không dám rời khỏi Bá Châu, xuất binh phải giữ lại một đội tinh binh giữ thành, đề phòng địch nhân cơ hội.

Quân đội của Giang Bân tấn công TÍN An đã giành được toàn thắng, Hình Lão Hổ, Triệu Toại căn bản không có ý định tử thủ, cuộc chiến vừa lui, Giang Bân chiếm được một tòa thành trống chẳng có tác dụng gì, bèn dẫn quân tấn công Cố An, tới Trịnh Các Trang của Cố An thì bị bọn cướp đường Phong Lôi ngăn lại, hai người đều là mãnh tướng, chiến đấu kịch liệt một phen đều có thương vong. Đợi Tề Ngạn Danh hoàn thành nhiệm vụ cướp lương thảo, dẫn quân trốn đi thật xa. Phong Lôi mới dẫn quân rút lui, Giang Bân nghe nói đại chiến Bá Châu khép lại, tiếp tục bay tới Bá Châu chi viện, chạy một vòng lại quay về điểm khởi đầu.

Đại quân của Lưu Lục lui tới cầu Bát Lý, đúng lúc gặp Vệ chỉ huy Thông Châu là Cận Thắng Tại và tham tướng Viên Bưu của Hà Gian phủ được điều đến chi viện, trong lúc không đề phòng, bất ngờ bị hai quân kẹp đánh, lần này tổn thương mới thật sự thê thảm, vậy là xua quân trốn xuống phía nam. Cận Thắng Tại và Viên Bưu hành động không kịp mau lẹ như Lưu Lục, hơn nữa kị binh của đại quân Lưu Lục ở phía trước, bộ tốt ở phía sau, nếu có người bị bao vây, căn bản không phân binh cứu viện, vì thế đại đội trốn thoát được.

Cận Thắng Tại và Viên Bưu áp giải hơn ngàn tù binh tới gặp Hứa Thái, đại quân các lộ tụ họp để bàn bạc kế tiêu diệt thổ phỉ, nhưng điều khiến họ lo lắng là, họ mãi mãi chỉ có thể theo sau bọn Hưởng Mã đạo, lương thảo của họ tập trung ở Bá Châu, Bá Châu không thể không phòng thủ, huyện thành các nơi bị chiếm, họ càng phải phân binh cứu viện, thế nhưng bọn cướp đường lại không e dè như thế, vì vậy đám Hứa Thái, Giang Bân mặc dù ai nấy dũng mãnh, nhưng đối diện với kẻ địch hơi tí bỏ đi này, võ công toàn thân không được thi triển, đành kiên trì tiếp tục thỉnh cầu triều đình tăng binh.

Lúc này, bọn Hưởng Mã đạo cũng bắt đầu tới Hùng huyện, tập trung ở một vùng An Tân. Triệu Phong Tử tới Hùng huyện trước tiên, Huyện Lệnh Hùng huyện Hà Sĩ Trinh tổ chức hương binh dân tráng chống lại bọn cướp đường, kết quả vừa xông lên đã sụp đổ, Hà Sĩ Trinh bị bắt sống.

Triệu Phong Tử thúc ngựa vào thành, theo sau là xe của gia quyến, y thấy dân chúng chạy trốn tán loạn, kêu cha gọi mẹ, bèn lớn tiếng nói:

- Người đâu, hiểu dụ dân chúng trong huyện, kể cả nhân mã của Triệu Phong Tử ta, không hại dân lành, nhưng tất cả ai quy thuận đều không đụng đến một sợi lông. Triệu tập thân sĩ danh lưu, mỗi hộ chỉ thu một nửa tiền lương thực, không được làm tổn hại sức khỏe, trong quân nếu có kẻ nào dám dâm nhục đàn bà con gái, đánh chết ngay lập tức!

Triệu Hạo nghe lệnh rút đi, Triệu Phong Tử sắp xếp vợ con ổn thỏa, xách roi ngựa bước nhanh vào trong bát phẩm chính đường, phỉ binh hai bên đứng san sát. Triệu Phong Tử đập thước, quát:

- Người đâu, áp giải tên Hà Huyện Lệnh dám to gan dẫn theo ba ban nha dịch, một đám người cường tráng chống lại đại quân của ta lên đây nào!

Hà Huyện Lệnh là một thư sinh nho nhã, khuôn mặt trắng nõn, coi bộ dạng mới chỉ hơn ba mươi tuổi, cả nhà bị trói gô cổ áp giải lên công đường. Triệu Phong Tử dò xét một lượt, bật cười ha hả:

- Hà Tri Huyện nhà ngươi giỏi lắm, cũng thật ngu xuẩn, tay không cũng dám làm xe, giờ nhìn thấy Triệu Phong Tử ta, lại không chịu quỳ xuống sao?

Hà Huyện Lệnh dáng người gầy yếu, nhưng dũng khí lại không yếu, ngang nhiên không quỳ, nghe thế y gắt một cái, giận dữ mắng:

- Triệu Toại, tên thủ lĩnh phản loạn nhà ngươi, uổng công ngươi còn có công danh chư sinh, đọc qua nhiều sách thánh hiền, lại dám khởi binh tạo phản, gây họa cho dân chúng, bọn tôm tép nhãi nhép các ngươi chỉ có thể càn rỡ nhất thời, một khi đại quân triều đình tới sẽ sụp đổ ngay. Ta đường đường là thất phẩm chính đường của Đại Minh, sao có thể quỳ trước tên cường đạo ngươi?

Phong Lôi hét lớn một tiếng, quát:

- Tên Huyện Lệnh thối tha này, thật to gan, lại dám nói như thế với Triệu đại ca ta, đợi ta chém cái đầu chó của ngươi nhé!

Nói xong liền xách đao lên.

Triệu Toại vội xua tay, mỉm cười nói:

- Hà Huyện Lệnh, ngươi nhìn bọn ta đi, khởi binh chưa được hai tháng mà giờ đã binh cường mã tráng, người đi theo đông đảo, có thể thấy xu hướng của lòng dân hướng về đại thế, vận số Đại Minh đã hết rồi. Đương kim triều đình hủ bại, một Trương Bác Bì đã hại vô số người ở Bá Châu phải ly tán vợ con, lại thêm một Lương Hồng, vẫn là như vậy, mặc dù triều đình tiêu diệt được gian tặc Lưu Cẩn, lẽ nào thiên hạ đã trong sạch rồi sao? Ta thấy ngươi là nam tử hán, sao không nhập bọn, sau này gây dựng công nghiệp, cắt đất phong hầu, cũng là người có công khai quốc!

Hà Sĩ Trinh ngửa mặt lên trời cười lớn:

- Triệu Phong Tử, mặc kệ ngươi lưỡi nở hoa sen, nói lời đường mật. Hà mỗ ta là trung thần của Đại Minh, muốn đầu của ta không khó, nhưng muốn ta tạo phản thì tuyệt đối không thể!

Phong Lôi dữ tợn cười một tiếng, nói:

- Triệu đại ca. Làm gì phải nhiều lời với y, đợi ta giải cả nhà lớn bé của y ra đại đường, giết tế cờ.

Hà Sĩ Trinh bình thản không sợ hãi, ngẩng đầu lãnh đạm nói:

- Muốn giết cứ giết. Không cần nhiều lời.

Triệu Phong Tử nói:

- Người đâu, ra đường bắt mấy người dân về đây, ta sẽ hỏi xem tên Hà Huyện Lệnh này đối nhân xử thế ra sao.

Lập tức mấy tên lính xông ra, chỉ chốc lát đã lần lượt dẫn về mấy người dân, họ vừa nghe thấy phỉ binh hô to với dân chúng, không làm bị thương, không cướp bóc, đang lúc bán tín bán nghi thì bỗng nhiên bị bắt đi, không khỏi sợ hãi mặt cắt không còn chút máu. Triệu Toại chỉ vào Hà Sĩ Trinh hỏi dân chúng thái độ đối nhân xử thế của y, dân chúng bị túm về đều nơm nớp lo sợ, đại thể trả lời nhất trí rằng, Huyện Lệnh này làm quan thanh liêm chính trực, thương dân, là một thanh quan.

Triệu Phong Tử nghe xong mặt giãn ra, mỉm cười nói:

- Người này trung trực đáng khen, yêu dân như con, là một vị quan tốt, thả cả nhà hắn ra. Không được gây khó dễ.

Hà Sĩ Trinh ngạc nhiên nhìn y. Triệu Phong Tử chắp tay cười nói:

- Ta giờ là phỉ, đại sự thành hay không vốn chưa thể định, ngươi không muốn theo ta, ta cũng không làm khó dễ ngươi, đợi sau này chúng ta có được thiên hạ, tính kế cho dân chúng, vẫn hy vọng Hà huynh có thể ra mặt làm quan.

Hà Sĩ Trinh nhìn quanh, thấy y thật sự muốn thả mình ra, liền hừ một tiếng, dắt vợ con đi, không nói lấy một từ cảm ơn. Phong Lôi giận dữ:

- Triệu đại ca đối xử với tên quan khốn kiếp này quá khách khí đấy!

Triệu Phong Tử cười đáp:

- Muốn thành đại sự phải được lòng dân, không được một mực sát phạt, chúng ta giờ là nghĩa quân, không còn là bọn cướp đường, Phong lão đệ nhớ lấy!

Phong Lôi tuy rằng dũng mãnh, nhưng Triệu Phong Tử cũng có võ nghệ siêu quần, điều đáng quý hơn là y văn thao võ lược vô cùng xuất chúng, bọn cướp đường mấy lần đại chiến, những hành động như đùa bỡn Hứa Thái và Giang Bân theo đuôi phía sau, nhưng lại không thể gây tổn thương tới y, thậm chí phân binh tập kích thành Bá Châu, giương đông kích tây chiếm đoạt lương thảo, đều là chủ ý của Triệu Phong Tử, bởi thế Phong Lôi cực kỳ sùng kính y, nghe thế không nói thêm gì nữa.

Triệu Phong Tử nói:

- Phong lão đệ, điều toàn bộ đại quân vào thành, trói buộc bộ hạ, không được đốt giết cướp bóc, không được có chút xâm phạm tới dân thường. Với thế gia vọng tộc, hãy hỏi dò dân chúng xem, nếu làm giàu bất nhân, ức hiếp người khác thì hãy tịch thu tài sản chém đầu, nhà lương thiện chỉ thu tiền lương, không được xâm hại!

Phong Lôi nhận được quân lệnh, dẫn theo một đội quân đi. Triệu Phong Tử tới hậu trạch, lát sau Triệu Hạo vội vàng chạy về nói:

- Đại ca, Lưu đại ca tắm máu Định Hưng, Từ Thủy, giờ đã giết tới An Tân, quân tiên phong đã tiến vào cửa tây Hùng huyện, vừa vào thành đã đốt giết khắp nơi, bị ta ngăn lại rồi. Tề Ngạn Danh tập kích Lang phường, qua Thiên Tân, cũng đốt giết dọc đường, Văn An là quê của Lưu đại ca, không quấy rầy nhiều, chạy tới theo đường vòng, hôm nay cũng sẽ đến!

Triệu Phong Tử vừa nghe đã không vui, đáp lại:

- Hành vi của bọn họ như thế, sao được lòng dân? Tiếp tục như vậy, binh mã nhiều hơn nữa vẫn là thổ phỉ cường đạo, ngay cả quan binh nhất thời cũng không làm gì được, sớm muộn gì cũng thất bại. Trước khi xuất phát ta đã nhắc nhở kỹ càng, họ vẫn không nghe.

Triệu Hạo thấp giọng nói:

- Đại ca, cả nhà chúng ta đã lên thuyền giặc thì không xuống được nữa, nhưng đã làm thì sẽ gây dựng nên nghiệp lớn. Theo đệ thấy, Lưu Lục, Lưu Thất mặc dù dũng mãnh, nhưng không phải là người làm nên đại sự, chỉ là quân kỷ binh mã trên đường của chúng ta nghiêm minh, sao có được lòng dân? Nghĩa cử của đại ca, bị họ mạt sát hết rồi.

Triệu Toại trừng mắt nhìn gã, không lên tiếng.

Triệu Hạo nhìn hai bên một lát, chỉ thấy có hai thân binh ở cửa, là gia đinh trước đây của Triệu gia, bèn khẽ khuyên nhủ:

- Đại ca, nhị ca nói phải, chúng ta mặc dù bị ép nhập bọn, nhưng nhìn quan binh vô năng hiện giờ, khi chúng ta khởi binh cũng không quá nghìn người, hai tháng ngắn ngủi tập trung được mấy vạn tinh binh, nếu kinh doanh cẩn thận, nói không chừng thật sự có thể giành được thiên hạ, nhưng Lưu đại ca nói như thế, mất hết lòng dân, chúng ta...?

- Chớ có lên tiếng!

Triệu Toại nghiêm nghị xua tay ngăn huynh đệ lại, không nói câu nào, yên lặng ngồi trở lại ghế. Y bất mãn phẫn uất với triều đình hủ bại này biết bao, tuy nhiên chưa bao giờ nghĩ đến sẽ khởi binh tạo phản, cho đến khi vì tính mạng của vợ con, buộc phải phục tùng Lưu Lục, nhưng khi thật sự tiến vào trong đám kẻ tặc, y mới nhận ra, triều đình dường như không lớn mạnh như trong tưởng tượng, nhìn xu thế này hẳn sẽ giành được thiên hạ, tâm trạng càng thêm phấn khích.

Tuy nhiên giống như việc đám Lưu Lục gây ra, căn bản không phóng tầm mắt ra xa, đi đến đâu đốt giết đánh cướp đến đó, lạm dụng uy quyền, hành động này quá mất lòng dân, như thế nữa sao thành sự được? Muốn làm nên đại sự, văn nhân, thân sĩ phải đối đãi khác nhau, đợi đến khi thế lực lớn mạnh, trong đó không thiếu kẻ đầu cơ, có dã tâm, hoặc bị tình thế ép buộc tới nương tựa vào nhau, giờ không phân tốt xấu một mực cướp sạch, giết sạch, chỉ có thể buộc những người này kiên định đứng về phía triều đình, tất cả đối đầu với nghĩa quân, tiếp tục như thế, thanh thế bây giờ cũng chẳng qua là phù dung sớm nở tối tàn mà thôi.

Nhưng đề nghị của huynh đệ cũng không khả thi, nghĩa quân vừa mới khởi binh, chưa tới mấy vạn nhân mã, đã bắt đầu sinh dị tâm, nghi kị cho nhau, điều đó cũng không cần triều đình đánh nữa, chỉ là tự tàn sát lẫn nhau, phải tan thành tro bụi. Thế nhưng nhân nhượng Lưu Lục cũng không phải là cách, gã lại không chịu nghe lời mình khuyên bảo, nên làm thế nào cho phải?

Triệu Toại đứng lên, chậm rãi dạo bước một lúc trong phòng, ánh mắt khẽ hoạt động, suy nghĩ một lúc, y mới chậm rãi nói:

- Chuyện này, vi huynh tự có tính toán. Hai ngươi nhớ lấy, những lời này nhất định không được nói ra! Vĩnh viễn không được, hiểu chưa?

Bạch Y quân của Sơn Đông một lần nữa đánh úp Hạ trấn, chiếm đoạt hơn bốn mươi thuyền lương thực, đốt hơn ba trăm con thuyền lớn bé, sau đó chỉ huy lên phía bắc, Kinh Táo trang, Lâm Nghi, Phí huyện, Bình ấp, Mông Âm, Tân Thái, lao thẳng tới Thái An.

Cùng lúc đó, bọn Hưởng Mã đạo của Hà Bắc tập trung lại một chỗ, tránh chủ lực của Hứa Thái, xua quân xuôi nam tấn công Thương Châu. Hai bên chiến đấu ác liệt gần mười ngày, triều đình vội điều động binh mã các trấn như Thiên Tân, Sơn Tây, đồng thời đại quân của Hứa Thái cũng rời khỏi Bá Châu gấp rút đi tiếp viện trong đêm tối.

Đại quân của Lưu Lục phá thành vô vọng, xung quanh cường địch áp sát, vậy là Triệu Toại đề nghị chia quân ra hai đường, Hình Lão Hổ, Triệu Toại dẫn Lôi Phong, Lưu Nhập Thất dẫn tám ngàn tinh binh, chạy điên cuồng hơn hai trăm dặm suốt đêm, xuyên qua từ trong khe hở của đại quân Hứa Thái, đi Thanh huyện, vượt Tình Hải, giết về Cố An, giương mắt hổ nhìn thẳng vào kinh thành.

Kinh kỳ vì thế chấn động, Chính Đức hoàng đế hạ chỉ giới nghiêm, Trương Vĩnh vội vàng ra lệnh mười hai đoàn doanh tập trung quân hỏa lực ở trong thành Bắc Kinh. Hứa Thái nghe tin kinh hãi, vội vã quay về kinh thành, không ngờ Triệu Toại chỉ làm bộ tấn công Kinh Sư, tới sông Thiên Đường còn chưa kịp chạm tới quân tiên phong của doanh trại kinh thành đã đổi hướng tây bắc, men theo Trác Châu, nhân lúc trọng binh của triều đình tập trung ở giữa Thương Châu và kinh thành, bất ngờ tập kích thành Bảo Định.

Triệu Toại trên đường qua thành trảm tướng, thiêu hủy quan nha, phá nhà tù, thả phạm nhân, mở nhà kho phát lương thực, tuyển quân mua ngựa, hơn nữa quân kỷ nghiêm minh, không hề gây khó dễ cho dân thường, ngay cả đám thân sĩ bị vơ vét tài sản cũng nói Phong Tử y không điên, rất có khí phách của Nho gia.

Khi Triệu Toại giết đến Bảo Định, tôn Hình Lão Hổ làm đại nguyên soái, tự bổ nhiệm mình làm phó nguyên soái. Hình Lão Hổ tác chiến dũng mãnh, nhưng luận về mưu trí thì thua xa Triệu Toại, cho nên y mới là thủ lĩnh thật sự của đội quân này. Triệu Toại tạm thời chia một vạn năm ngàn quân thành năm doanh trại, quân tiên phong do Phong Lôi chỉ huy, hậu quân thuộc về Quản Tứ, tả quân của Lưu Nhất Thất, hữu quân của Mã Võ, cũng được gọi là đô đốc, cùng giương cờ hai mặt, trên đó viết:

- Ba ngàn quân Hổ Bí, đến thẳng vùng U Yến; Phong phi cửu ngũ, mở lại trời đất hỗn độn.

Đây là chiến kỳ khi thái tổ khởi binh phản kháng Đại Nguyên, chỉ có điều Triệu Toại đã đổi hai chữ Đại Tống thành "hỗn độn" mà thôi, dã tâm của y từ đó có thể thấy được lờ mờ. Lý Hoa ở Sơn Đông vốn là sơn đại vương, thấy tình cảnh này không quen mắt, thực sự nghĩ rằng thiên hạ sắp thay đổi lớn, bị thuộc hạ xúi giục, có lòng muốn làm công thần khai quốc, mưu cầu địa vị Vương hầu, vậy là y khởi nghĩa vũ trang, tấn công huyện thành, cướp khố phủ, công bố tạo phản. Triệu Toại nghe được tin này, lập tức dẫn quân chạy tới Sơn Tây. Còn đám Lưu Lục, Lưu Thất và Tề Ngạn Danh dẫn một đội khác tiến vào Sơn Đông từ phía đông, họ vòng qua Thương Châu, thẳng tới Đức Châu, phối hợp chặt chẽ với Thái An và Dương Hổ, thành Tế Nam bị kẹp ở giữa, nguy cơ cận kề.

Hứa Thái đánh mãi không lập được công, lũ phản loạn trái lại càng lúc càng lớn mạnh. Hứa Thái hối hả ngược xuôi cũng rất ít có cơ hội buông tay đánh một trận, khiến gã nổi trận lôi đình, đành tấu thẳng lên trên:

- Kẻ tặc đều cướp được ngựa dân gian, suốt đêm chạy mấy trăm dặm, trong khi đó quan quân ít ngựa, không thể đuổi theo địch, xin Sơn Đông và Trực Lệ chuẩn bị ngựa cho.

Trực Lệ và Sơn Đông còn có ngựa sao? Ngựa của Trực Lệ có thể cướp được đều đã bị Lưu Lục cướp đi sạch. Mà tình hình Sơn Đông hoàn toàn nằm trong tay Dương Hổ, biên quân Đại Minh và trong doanh trại không thiếu ngựa khỏe, thay vào đó quân đội hai nơi này một bảo vệ Kinh Sư, một ngăn nơi biên giới, hai vùng đều tuyệt đối không được để mất.

Chính Đức hoàng đế nhìn thấy tấu chương của y, thiếu chút nữa nổi cáu:

- Đây là đánh cái gì chứ, đánh mấy tháng trời rồi, làm ầm ĩ lên khá hăng hái, hóa ra quan binh luôn ở phía sau mông bọn Hưởng Mã đạo để bén rễ, căn bản không đánh nhau nghiêm chỉnh.

Bọn Hưởng Mã đạo cuối cùng đi ra khỏi Hà Bắc, trước tiên tập kích Hà Nam, giành được Sơn Tây, chiến hỏa đã lan tràn, đại quân của Lưu Lục nhào về phía Đức Châu. Nếu Đức Châu mất, Tế Nam sẽ nguy hiểm, Tế Nam lại mất, toàn bộ Sơn Đông sẽ rơi vào trong tay Bạch Y quân. Mà lúc này Triệu Toại lại từ Sơn Tây quay về, đại quân hai vùng Sơn Tây và Sơn Đông thường xuôi theo sông xuống phía nam, Kinh Sư đã bị bóp cổ thành một khu đất hoang, cắt đứt liên hệ với toàn bộ giang sơn.

Lúc trước Đại Minh lấy "Thiên tử thủ quốc môn", xây dựng Kinh Sư ở đây. Chính là chống đỡ tù binh người Thát ở phương bắc, nhưng chưa từng xem xét sẽ xuất hiện tình huống này, nếu Sơn Đông, Sơn Tây, Hà Nam rơi vào trong tay Bạch Y quân, đại thế thực sự đã mất rồi. Không ai ngờ được lũ trộm cướp ven đường trước đây và chưa được để trong tầm mắt lại có thể uy phong như ngày hôm nay.

Lục Hoàn thảo luận với nội các, theo đường thủy gấp rút chuyển binh mã lương thảo tới Đức Châu, lúc này đã là tháng sáu tháng bảy, đúng dịp thời tiết nhiều mây, vì thế nước chảy quá nhanh, giúp binh lực Đức Châu nhanh chóng được bổ sung.

Lúc này, đối với hơn một vạn nhân mã của Triệu Toại ở Sơn Tây, rõ ràng Sơn Đông mới là vùng trọng tâm của trọng tâm. Sơn Đông mà mất, vận tải đường biển nam bắc sẽ bị cắt đứt đầu tiên, bọn Hưởng Mã đạo Sơn Đông có thể nắm thế chủ động, phía bắc xâm lược Kinh Sư, phía nam đánh Trung Nguyên, phía tây hợp binh với Triệu Toại. Phía bắc Đức Châu ngăn không cho bọn Hưởng Mã đạo tiến vào, phía đông Tế Nam chống lại Bạch Y quân, bởi thế nơi này trở thành tiêu điểm thiên hạ, ai nấy đều chú ý.

Lúc này, Lý Đông Dương đã từ chức Đại Học Sĩ Thủ Phụ nội các. Tuy nhiên do chiến sự căng thẳng, nên vẫn không rời khỏi Kinh Sư, nội các cũng mời vị lão thần này về, cùng tham gia chiến cục. Dương Nhất Thanh tuy là Lại Bộ Thượng Thư, do giỏi binh pháp nên cũng được mời đứng trong hàng ngũ, chiến lược tiêu diệt thổ phỉ của gã đại khái tương đồng với của Dương Lăng, nhưng đó đều là suy nghĩ cho đại cục, trù tính chung để điều chỉnh, với chiến lược tiêu diệt phản loạn triệt để, mà việc cấp bách cần giải quyết ngay lại là thế cuộc khẩn trương của Sơn Đông.

Dương Nhất Thanh sau khi nghe giới thiệu quân tình xong, hai hàng lông mày nhíu chặt, lúc lâu sau mới nói:

- Thủ lĩnh phản loạn chưa chắc có tầm nhìn này, có thể sớm định ra chiến lược đông tây hô ứng, khóa giang liên thuyền, bóp chặt cổ họng của Kinh Sư, bọn chúng hối hả ngược xuôi, vốn không tính toán lâu dài, có điều lần này vô tình cắm liễu, lại trùng hợp hình thành được cục diện có lợi cho chúng.

Hiện Triệu Phong Tử đi Sơn Tây, còn Dương Hổ, Lưu Lục lần lượt dàn trọng binh ở Đức Châu, Thái An, mấy ngày liền công thành không nghỉ, điều này khác với thói quen trước đây của chúng là không đánh thành kiên cố và thôn xóm lớn, ta nghĩ thủ lĩnh phản loạn hẳn là cũng chủ ý tới cục diện này có lợi cho họ. Do đó mới muốn chiếm lấy Đức Châu, Thái An, hợp sức tấn công xế Nam.

Điều này rất nguy hiểm với chúng ta, tuy nhiên cũng là một cơ hội, bọn cướp đường luôn không tác chiến chính điện với chúng ta, chúng ta muốn đánh mà không được, giờ bọn chúng muốn đánh hạ Đức Châu, nhất định tử chiến ở đây, điều này sẽ tạo cơ hội để chúng ta tiêu diệt Bạch Y quân và bọn cướp đường trên quy mô lớn, bất luận là vì bảo vệ Đức Châu hay tiêu diệt bọn cướp đường, triều đình đều phải lập tức phái một tướng lĩnh đi Sơn Đông chủ trì đại cục. Trận chiến này can hệ trọng đại, thắng, chính là cơ hội xoay chuyển xu thế công thủ! Bại, sẽ rơi vào nguy khốn!

Dương Đình Hòa trầm ngâm một lúc lâu mới trầm giọng nói:

- Như vậy, người nào trong triều... có thể đảm nhận trọng trách này?

Mưa rơi xuống mặt nước, trời đất nối liền một dải. Mực nước kênh đào lại tăng cao, may mà như thế, nếu không bọn cướp đường đã quăng rất nhiều chướng ngại vật trên sông, khó tránh khỏi sẽ gây trở ngại tới hành trình. Tuy nhiên mặc dù như thế, số lượng tàu thuyền qua lại trên đường sông của triều đình cũng giảm mạnh, bởi vì bọn Hưởng Mã đạo từ Đức Châu xuôi xuống phía nam, đã chiếm lĩnh được các nơi như Ngô Kiều, Cảnh Huyện...

Đức Châu là một bến tàu lớn cuối cùng của Đại Vận Hà trong lãnh thổ Sơn Đông, là một tòa thành lớn nhất ở phía tây bắc Sơn Đông. Phía đông thành Đức Châu là Vệ thành, có Đức Châu vệ đóng quân, binh mã của Đức Châu tả vệ. Phía nam thành là bến tàu An Đức, hiện chủ yếu là tàu từ phía nam lên phía bắc đến đây thì quay về, tiếp tục hướng lên phía bắc đã là địa bàn của bọn Hưởng Mã đạo, cơ bản đều dừng lại không qua sông.

Nơi này vừa là trung tâm vận chuyển đường thủy nam bắc, đồng thời cũng là trung tâm đường bộ từ Tế Nam tới Kinh Sư, bến tàu thủy bộ danh thực tương phù. Cho dù bây giờ khắp nơi đều là binh lính, không khí vô cùng khẩn trương, nhưng vẫn có thể nhìn ra được vẻ phồn hoa của nó.

Thành Đức Châu vững chắc, hào đào sâu, binh hùng tướng mạnh, đại quân Dương Hổ từng tấn công Đức Châu không đánh mà lui, giờ Lưu Lục dẫn bọn Hưởng Mã đạo Bá Châu một lần nữa thử tấn công thành, binh đinh tuần tra nối liền không dứt, các yếu đạo hoàn toàn bước vào giai đoạn quản chế quân sự. Quân đội thay thế quan phủ địa phương quản lý tất cả.

Lúc này, từ phía tây đã có một đội quan binh vào thành, đội quan binh này đều là kị binh, thân hình ai cũng dũng mãnh, vũ khí phi thường, mã đao cán dài thuần một màu, chứng tỏ đội quân này là tinh binh chuyên phụ trách chém giết trên chiến trường, chứ không phải được sai tới cố thủ thành trì.

Ngoài giáp trụ ra, họ còn mặc chiến bào màu vàng sáng bóng. Chỉ hành động này đã đủ để thu hút ánh mắt của tất cả mọi người, khiến ai nấy đều kính nể, sắc vàng, duy chỉ có người trong hoàng thất và cấm quân thiên tử mới được dùng, đây là đội quân gì, chẳng lẽ thiên tử đã tới Đức Châu? Nhưng không giống, nếu thiên tử đã tới, người hẳn phải đi về hành cung của hoàng đế ở phía bắc mới đúng.

Mũ tua đỏ của đội quân này cũng không giống bình thường, trên đỉnh mũ của binh lính đều cắm một sợi lông thiên nga. Thỉnh thoảng cũng thấy có người cắm hai sợi, thậm chí ba sợi, đó đều là tướng lĩnh cao cấp như tham tướng, phó tướng, Đức Châu vệ chỉ huy và các lộ tướng lĩnh trước sau tới tiếp viện đều tụ tập dưới một mái nhà, đứng ở cửa thành cung kính chờ đợi.

Rốt cục, chỉ thấy một đội ngũ mấy chục con ngựa đặc biệt cường tráng, thân hình dũng sĩ trên ngựa cũng càng hùng tráng hơn, bên thắt lưng thậm chí có cả súng lửa đi qua. Những người này trông sát khí đằng đằng, chắc chắn kinh qua chiến trường nhiều năm, là dũng sĩ bách chiến tắm qua cuộc chiến sinh tử đã nhiều, họ không phải tướng tá, nhưng trên đầu ai cũng đều có song linh, chứng tỏ phân phận họ khác với mọi người.

Lúc này, trong đội ngũ xuất hiện một con ngựa trắng, một viên tiểu tướng trên ngựa, toàn thân mặc áo giáp dây xích bạc sáng bóng, tư thế hiên ngang. Mắt sáng như sao, dưới sườn là một thanh kiếm xanh khẽ đung đưa, ba sợi lông thiên nga trên đầu phấp phới không ngừng trên đầu. Đúng là người phong lưu.

Đức Châu vệ chỉ huy La Quang Quyền phấn chấn tinh thần lên, lập tức dẫn các lộ tướng quân tiến lên trước chào đón, khom người thi lễ chào theo nghi thức quân đội:

- Ty chức đợi Uy quốc công đại giá đã lâu.

Tiểu tướng trên ngựa giật mình, vội vã thúc ngựa tránh sang trái, La Quang Quyền không khỏi ngẩn người, lập tức thấy phía sau tiểu tướng là một tiểu tướng áo bào trắng, mặc áo giáp sáng bóng dưới sườn đeo loan đao, môi hồng răng trắng, mặt mày như vẽ, tuấn tú hơn nhiều so với tiểu tướng trước đó, trên đầu y cũng có ba cọng lông vũ trắng nõn.

Trong lòng La Quang Quyền thầm thấy kỳ lạ:

- Chẳng lẽ vị này mới là Uy quốc công? Cũng quá tuấn tú, chẳng trách vạn tuế gia yêu quý như thế.

La Quang Quyền đang định thi lễ lần nữa, vị tiểu tướng quân này đã thúc ngựa, vọt sang bên trái, chỉ thấy phía sau lại xuất hiện một người đàn ông trẻ cưỡi ngựa đen, người này toàn thân mặc áo bào vân mãng xà dệt kim màu đen, đầu đội mũ trung tĩnh ngọc bích tơ vàng, trên mũ cắm năm sợi lông thiên nga trắng như tuyết. Người này lưng thắt đai ngọc, không mang binh khí nhưng trông rất uy nghi.

La Quang Quyền thấy thế than một hơi:

- Đây... nhất định là Uy quốc công, không sai được nữa.

Dương Lăng ngồi trên lưng ngựa, đỡ mũ trung tĩnh, chỉ sợ gió lớn sẽ thổi bay cái lông cài trên mũ đi, hắn vừa mỉm cười lệnh các tướng bình thân, vừa oán thầm không ngừng:

- Cấm quân thiên tử thì cấm quân, mặc áo bào vàng là được rồi, còn cắm thêm lông thiên nga làm gì, ta đây được coi là gì chứ, ngũ linh thượng tướng sao?

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 367: Chuẩn Bị Chiến Tranh, Xuất Chinh .

- Quân mã, tráng đinh hiện đóng ở thành Đức Châu tổng cộng có sáu vạn người, trong đó đóng bên trong thành Đức Châu là ba vạn, cách thành mười dặm có một vạn quân binh của mười hai liên thành đóng ở quan đạo (đường sá để xe ngựa của các quan viên triều đình đi), xa hơn một chút, ngoài Tang Viên khẩu bốn mươi dặm là thành cổ của huyện trống An Lăng, hiện tại nơi đó cũng có một vạn binh mã trú đóng, ngoài ra ở các nhà kho chứa lương thực của các trạm lũ, trạm dừng chân dành cho quan lại cũng có lính đóng quân, tổng cộng là một vạn người. Tuy nhiên vì kế an toàn, chúng ta đã đem phân nửa lương thảo đưa đến thành Đức Châu.

La Sĩ Quyền giới thiệu:

- Sáu vạn người này là lính địa phương ở Đức Châu vệ, Đức Châu tả vệ, Thiên Tân, Bảo Định và còn một phần là quan binh ở các huyện Tề Hà, Lâm Áp, Huệ Dân, trên danh nghĩa thì do mạt tướng thống lĩnh nhưng trên thực tế bởi vì có sự chi phối, không hề quen biết cho nên điều động hết sức khó khăn.

Chỉ Huy Sứ Đức Châu vệ La Sĩ Quyền do dự một chút, vốn định bẩm báo hết những chuyện vi phạm quân kỷ, nhân tâm tán loạn, binh sĩ sợ chiến, không nghe hiệu lệnh thậm chí trộm cắp lừa gạt gây loạn ở làng xã, tuy nhiên các quan tướng của những binh sĩ ấy đều đang ở đây, nếu như nói ra những lời như vậy sẽ kết mối hiềm khích với người, cho nên do dự một chút, chỉ nhấn mạnh chuyện bởi vì đều có sự chi phối cho nên điều động khó khăn.

Dương Lăng ngồi ở phía trên, đã thay đổi nho sam (quần áo thanh lịch) một thân lụa trắng điểm thêm hoa mai, đầu đội khăn bình định tứ phương, chỉ có nho nhã, phong thần như ngọc chứ không hề có vẻ uy nghiêm của một tướng soái cầm binh. Ngồi cùng còn có các quan văn, ngoại trừ quan sứ cai quản ở đây còn có các đặc sứ ở những nơi khác tới như Tế Nam, Thái An vân vân chờ đợi chỉ thị tiêu diệt quân phiến loạn, có những quan văn này làm nền, Dương Lăng càng giống như hạc giữa bầy gà, vô cùng xuất chúng.

Dương Lăng sau khi nghe xong cười dài, chỉ gật gật đầu không tỏ thái độ gì. Trên thực tế tình hình có liên quan tới Đức Châu, hắn còn chưa tới nơi thì thủ hạ đã bẩm báo về, cho nên hiểu biết tình hình thực tế ở nơi này còn hơn hẳn so với giới thiệu của La Sĩ Quyền.

Hắn nhìn về phía các tướng lĩnh đang ngồi nghiêm chỉnh, hỏi:

- Nghe nói Kiều tham tướng Kiều Tứ Hải đang thủ ở Đức Châu, vì sao lại không thấy hắn?

Lúc này La Sĩ Quyền mới nhớ tới việc khi bình Oa ở Giang Nam Kiều Tứ Hải tăng binh Chiết Giang, từng là thủ hạ của Dương Lăng đi đánh giặc, vội đáp:

- Bẩm quốc công, mười hai liên thành vốn có quân trú đóng tuy nhiên chỉ có hơn ba ngàn người, vì kế an toàn nên mạt tướng đã phái Kiều tham tướng tiếp viện cho mười hai liên thành, quốc công muốn gặp hắn, mạt tướng lập tức cho gọi hắn tới.

Dương Lăng vội khoát tay nói:

- Không cần, đối đầu với kẻ địch mạnh, chủ soái không thể tự ý rời khỏi. Chúng ta hãy nghị sự trước đi. Đức Châu hào sâu tường dày, binh hùng tướng mạnh, các vị anh dũng thiện chiến, đã từng bị Dương Hổ công kích ba lần mà vẫn vững vàng không hề suy chuyển, ở kinh kỳ bản quốc công cũng đã từng nghe nói qua.

La Sĩ Quyền cùng các tướng vừa nghe vậy, trên mặt của bọn họ đều lộ vẻ tự hào. Kỳ thật Dương Hổ công thành ba lượt, vì sao chỉ cần lương thảo đó là điều mà y chưa hiểu rõ ràng mục tiêu chiến lược của chúng, căn bản không có ý định đánh hạ chỗ này liên tiếp từ nam tới bắc, xuyên qua cả trọng trấn ở vùng tây đông. Cho nên công không được, liền chuyển sang cướp bóc ở nơi đó, chiến sự cũng coi như không quá kịch liệt.

Còn lần này không giống vậy, theo sự hiểu biết của Dương Lăng, Dương Hổ này chí lớn nhưng tài mọn. Ở trong lục lâm tuy có uy danh, hơn nữa võ công cũng được, tuy nhiên mưu lược dụng kế hành quân đánh giặc thực không phải là sở trường, lúc này đây biểu hiện của Bạch Y quân lại khác thường. Không còn lén lút trốn chạy không có mục đích nữa mà là bày ra tình thế bắt buộc đối với Đức Châu, Tế Nam, hơn nữa phối hợp chặt chẽ với Hưởng Mã đạo ở Bá Châu, trong ngoài giáp công, hiển nhiên song phương đã liên lạc được với nhau, cũng đã đạt được thỏa thuận nhất trí trong hành động quân sự.

Từ chỗ lén lút đổi sang ý đồ chiếm lấy Sơn Đông, Sơn Tây, coi đây là căn cứ địa. Lại có ý đồ với Hà Nam, đem kinh kỳ ở Hà Bắc biến thành một vùng đất bị cô lập, kế hoạch lớn như vậy Dương Hổ không nghĩ ra được, đám Hưởng Mã đạo kia cũng không có kiến thức loại này, đoán chừng tám chín phần mười là xuất phát từ chú ý của Triệu Phong Tử, tuy nhiên hiện tại thế lực của Bạch Y quân ở trên Hưởng Mã đạo, lại có thể biết nghe lời phải, xem ra dưới tay của Dương Hổ cũng có người tài ba, chẳng những đồng ý việc bố trí quân sự của Triệu Phong Tử, hơn thế nữa còn ảnh hưởng tới Dương Hổ.

Ở phương diện này, đây là chiến lược của thủ hạ phản tặc có tài mưu lược bày ra, về phương diện khác, đây cũng là hướng phát triển tất yếu của một đội ngũ ngày càng lớn mạnh, bọn họ cần thành lập một cứ điểm, một căn cứ địa rồi. Cho dù là không có ai bày mưu, hiện giờ Dương Hổ không thể nghĩ tới nhưng theo đội quân của y càng ngày càng lớn mạnh vấn đề này sớm muộn gì y cũng sẽ ý thức được.

Dương Lăng biết rằng, hai đội quân phản tặc này đã thành cái họa tâm phúc của triều đình rồi, nhưng mà Đại Minh trước mắt bất kể là về mặt tài lực hay là quân sự, đối với đặc điểm hành quân của Bạch Y quân đều khó có khả năng triệu tập được một lực lượng quân đội to lớn ở trong nước để tiêu diệt địch ở một góc Sơn Đông rồi.

Chiến lược của triều đình chính là khi nhân địa tùy lúc mà thay đổi, khi lực lượng của Bạch Y quân suy yếu, Dương Lăng và nội các nhất trí ý kiến là phá hỏng lối thoát của Bạch Y quân, nhất định phải đánh toàn lực, dù cho Sơn Đông bị thương tổn nặng nề cũng phải tiêu diệt toàn bộ bọn chúng ở Sơn Đông.

Nhưng mà, từ khi lực lượng của Bạch Y quân càng ngày càng hùng mạnh, sói đã biến thành hổ, mà triều đình lại không thể mà cũng không có thời gian đem quân lực tinh nhuệ và tài lực của cả nước đều tập hợp lại mà dùng cho Sơn Đông, thậm chí ngay cả khi quyền thống trị của triều đình ở Sơn Đông hoàn toàn bị tê liệt, nơi này có xu thế trở thành núi rừng tụ tập các mãnh hổ lại với nhau thì cũng đành phải bức hổ rời núi, không cho bọn chúng có khả năng xây dựng căn cứ địa mà thôi.

Lưu phỉ (quân trộm cướp không ổn định ở một nơi) dù cho có là tai họa lớn hơn nữa cuối cùng cũng chỉ là lưu phỉ, cũng không thể nào dao động đến sự thống trị của quốc gia, nhưng khi bọn chúng có được căn cứ địa cho riêng mình, vậy thì tiếp theo bọn chúng sẽ thành lập thống trị, thành lập chế độ chính trị và luật pháp, thành lập hậu cần, và xây dựng, cải tạo lại những gì đã bị phá hỏng, đó mới là điều đáng sợ nhất.

Triều đình đã phân ra những nơi thực hiện vườn không nhà trống, lên kế hoạch cho các phủ các đạo các ti tiêu diệt phiến loạn, đuổi hổ rời núi. Tuy rằng Bạch Y quân rong ruổi khắp Trung Nguyên, gây họa cho các địa phương ngày càng nhiều, nhưng trước tiên phải đuổi bọn chúng ra khỏi Kinh Sư trọng địa, không để cho Kinh Sư là nơi ở của thiên tử tùy thời phải rơi vào nguy cấp; thứ hai tránh cho bốn tỉnh xung quanh Kinh Sư là Sơn Đông, Hà Nam, Hà Bắc, Sơn Tây bị bọn họ phá nát hoàn toàn, sức sản xuất mất vài chục năm cũng không thể khôi phục, như vậy binh tai còn có thể theo đó mà xuất hiện.

Mà đuổi sói chạy đi nhưng binh lực tinh nhuệ không đủ, ý chí chiến đấu không có, lại phải hạn chế thương tổn đến mức thấp nhất, sau khi tiêu diệt phỉ lại còn phải khôi phục kinh tế nhanh chóng, đồng thời phải tập trung thật nhiều tài lực, vật lực và binh lực ở các nơi lại để cùng nhau tiêu diệt cướp.

Quyết định này chỉ có những nhân vật trọng yếu của triều đình mới biết được, quyết định tàn khốc như vậy là không thể nào nói cho địa phương biết. Nếu để cho địa phương biết ở trên vì để tránh cho nền tảng lập quốc bị dao động, vì để phát huy toàn bộ lực lượng của cả nước tiêu diệt phỉ mà cố ý ép buộc bọn họ, những địa phương đã bị xâm hại khó tránh khỏi sinh ra oán trách thậm chí dân tâm cũng vì vậy mà thay đổi.

Nhưng mà, đây cũng là phương pháp xử lý bất đắc dĩ. Đứng cao nhìn xa, có đôi khi, khổ tâm của cái nhìn toàn cục, quyết định vì lợi ích chung ở địa phương chưa chắc có thể hiểu được. Hơn nữa xuất phát từ ích lợi của địa phương, bọn họ cũng không nguyện ý chấp hành. Sơn Đông, Sơn Tây, Hà Nam, Hà Bắc cho dù là biến thành địa ngục trần gian, các quan dân thân sĩ không bị thiệt hại sẽ không có một ai tình nguyện cung cấp tài lực vật lực.

Nếu các nơi đều ứng phó tiêu cực, đợi cho phản tặc phương bắc thừa cơ lớn mạnh, như vậy thương tổn phải chịu càng khó mà đoán được, không làm như vậy, có được bao nhiêu người sẽ có tầm nhìn xa chứ?

Nhớ lại những năm cuối triều Minh thành Bắc Kinh sắp bị phá, triều đình thậm chí không có quân lương xin điều binh chi viện, mà các quan lớn những nhà giàu có khi đọc qua thư dù trong nhà của cải chất cao như núi nhưng lại vẫn không chịu xuất ra dù chỉ một xu. Tầm nhìn hạn hẹp ngồi chờ thành phá bị người xét nhà đã thấy qua rồi.

Chiến lược vĩ mô này đương nhiên Dương Lăng sẽ không nói cho những tướng lĩnh này nghe, trước tiên hắn khen ngợi sự anh dũng của những quân binh thủ thành một phen, sau đó nói:

- Trước mắt Triệu Phong Tử đưa ra khẩu hiệu 'Kiến quốc phù hiền', miệng thì nói phản tham quan không phản hoàng đế nhưng thật ra chỉ là để mê hoặc dân tâm mà thôi.

Y tây tiến Sơn Tây chỉ có một vạn người, tuy nhiên theo ta thấy đây mới là đại họa trong lng. Một đám thô lỗ Lưu Lục, Lưu Thất và Dương Hổ sao có thể sánh bằng, cho nên mặc dù Đức Châu tràn đầy nguy cơ nhưng đại quân Hứa Thái vẫn được triều đình phái đi tiêu diệt, không được để cho y sống yên ở Sơn Tây. Nhóm lửa lửa cháy lan ra đồng cỏ. Cho nên lần này bản quốc công tới, chỉ có mấy ngàn tinh kị thị vệ, ngoài ra không có một binh một tốt nào nữa.

Ánh mắt của hắn trở nên linh hoạt, sắc bén, nghiêm nghị nói:

- Nói cách khác, vây khốn ở Đức Châu, khó khăn ở Sơn Đông, các ngươi không có ngoại lực nào để có thể mượn dùng, hoàn toàn cần phải nhờ vào chính mình. Bản quốc công mang đến đây chỉ có một cái đầu để cùng tiến cùng lui với các ngươi thôi!

Lời nói này vô cùng nghiêm nghị, vừa nói cho các tướng lĩnh ở đây nghe mà cũng vừa để cho các quan viên châu phủ của các thành bị cô lập đang nghển cổ đợi chờ viện binh nghe đấy. Bọn họ nghe xong không khỏi kinh sợ.

Các tướng lĩnh đầu tiên là ngẩn ra, ngay sau đó đều đứng dậy, dõng dạc bày tỏ trung thành. Dương Lăng thản nhiên cười, giơ tay trấn an nói:

- Mời các vị tướng quân ngồi, thật ra tuy bọn Bạch Y quân, Hưởng Mã đạo hiện tại mạnh mẽ nhưng không hẳn là không thể đánh bại. Ta từ kinh thành đến đây cũng đã nghe qua rất nhiều ý kiến khác nhau đối với bọn Bạch Y quân và Hưởng Mã đạo.

Có ý kiến nên nghị hòa, họ cho rằng chiêu an là tốt nhất. Bản quốc công đã từng chiêu an hai lần, một lần ở Giang Nam thành công. Một lần ở Bá Châu, đã thất bại. Lúc này ta lại không tán thành chiêu an, sĩ khí của quân phiến loạn đang lên, một khi thất bại không có lực uy hiếp đủ mạnh làm sao có thể ép bọn chúng ký hiệp ước chứ? Chiêu an chỉ có thể làm tăng thêm sự kiêu ngạo của bọn chúng, bọn chúng căn bản không có thành ý.

Hơn nữa, nuôi binh ngàn ngày, dùng binh một khắc. Ở kinh kỳ bọn Lưu tặc ngang ngược hoành hành, gây hại quá nhiều. Triều đình vừa ra tay lại phải vỗ về, hễ là những người có tâm huyết không khỏi hết sức đau đớn. Từ đó bọn chúng càng thêm kiêu ngạo, quan binh triều đình cũng mất hết cả thể diện. Cho nên triều đình đã quyết định phải đánh, đánh đến cùng, không lý do gì mà nhượng bộ!

Dương Lăng thấy quan viên ở các phủ huyện bị cô lập, thậm chí rất nhiều tướng lĩnh, sợ Bạch Y quân, Hưởng Mã đạo dũng mãnh, đồng thời bởi vì Dương Lăng đã từng chiêu an bọn Hưởng Mã đạo, cho nên đều ôm lấy hy vọng triều đình sẽ chiêu an bọn chúng, sẽ hiểu được điều khó khăn của mình, cho nên một vài tướng lĩnh và quan viên thủ thành có thái độ trông chờ, không chịu tác chiến, do dự không dứt khoát, cho nên những lời nói chắc nịch như đinh đóng cột vừa rồi biểu thị quyết tâm của triều đình đã đánh mất ảo tưởng của bọn họ.

Sau đó Dương Lăng nghiêm nghị đứng lên, nói:

- Trước tiên bản quốc công nói một chút về thế cục trước mắt, sau đó sẽ tuyên bố kế sách tiêu diệt phiến loạn, an dân của triều đình.

Dương Lăng từ từ bước đi thong thả đến chính giữa đại sảnh. Đức Châu là nơi có tầm quan trọng về giao thông, xuyên qua nam bắc tây đông, thương mại phát đạt, thuế phú rất nhiều cho nên quan phủ địa phương mới bố trí nơi này cũng đồng thời là thành trì trọng yếu để luyện binh, nơi đây vẫn lấy chế độ quân nhân là chính, phủ nha ở đây chính là quan nha Chỉ Huy Sứ Đức Châu vệ, đại sảnh thật là rộng lớn.

Dương Lăng vừa động, các quan văn võ đều đứng lên, kính cẩn nín thở lắng nghe.

Dương Lăng nói:

- Hưởng Mã đạo và Bạch Y quân dùng binh vẫn có một điểm giống nhau, chính là tác chiến hung hãn xảo trá, các đội quân lúc phân lúc hợp, hành tung mơ hồ, hơn nữa không có chỗ ở cố định, có thể chiến thì chiến, không thể thì trốn tránh, cho nên quan binh triều đình không thể đánh vào chỗ yếu hại được, không thể giáng một đòn sấm sét, một đòn đánh tan.

Hơn nữa, toàn bộ đồ dùng của bọn chúng là do cướp bóc mà có, phần lớn bộ hạ là loạn dân bị bức ép, một khi đại quân triều đình bao vây tiễu trừ, bọn chúng có thể không chút do dự vứt bỏ tất cả đồ quân nhu, chiến mã, thậm chí cả đội quân nhỏ đang bị vây, sau đó bỏ trốn mất dạng, có cơ hội lại ngóc đầu trở lại, giống như sài lang chó hoang, không thể đuổi, khó mà phòng.

Bọn đạo phỉ đến đi như vậy, quả thật đại quân triều đình rất vất vả, chúng ta phải kiếm lương thảo, vận chuyển đồ quân nhu, cần phải tìm chủ lực của bọn chúng, cần thủ hộ từng cái thành trì và giao thông trọng yếu, cần có thời gian tinh lực để tìm cách phối hợp, còn phải mất rất nhiều công sức để xử lý vấn đề an ổn cuộc sống của lưu dân sau đó.

Phá hoại, vĩnh viễn dễ dàng hơn so với xây dựng. Được cái này mất cái khác. Quả thật có chút chó cắn con nhím, không thể nào mở miệng. Nếu một đội nhỏ tinh kị truy kích, ngay cả đuổi theo, cũng như muối bỏ biển không làm nên chuyện gì. Quan binh các nơi đều có khu vực phòng thủ, rất khó điều động, chủ yếu là lợi dụng, bởi vì bị chi phối cho nên quyền dụng binh không giống nhau, tập trung điều hành khó khăn rất lớn.

Ngoài ra, trăm vạn quân Đại Minh vừa phải trấn thủ biên cương vừa phải thủ thành, hơn nữa quan binh nội địa bởi vì phí tổn rất nhiều khó có thể đảm đương, có rất ít chiến đội kị binh hoàn toàn, dù có kị binh cũng là lấy bộ kị pha trộn là chính, vô cùng ỷ lại vào việc cung ứng đồ quân nhu lương thảo. Cái này đã định trước Du Kích chiến không phải sở trường của ta, sở trường của chúng ta là giỏi về xây công sự để ngừa đại công.

Vì vậy mới để cho bọn Hưởng Mã đạo, Bạch Y quân nhất thời càn rỡ, nhân cơ hội mà lớn mạnh. Hiện tại thế lực của bọn chúng ngày một phát triển, hoàn toàn dựa vào cướp đoạt, hoàn toàn dựa vào lối đánh du kích, đã không còn thích hợp với một đội quân ngày càng khổng lồ, vì thế bọn chúng cần phải chiếm một địa phương, cần phải có một căn cứ riêng để tiếp tục phát triển, tấn công Đức Châu, Thái An, binh vây Tế Nam, ý đồ nắm trọn Sơn Đông trong tay chính là thử nghiệm đầu tiên của bọn chúng.

Như thế cũng là cấp cho chúng ta cơ hội, có thể phát triển sở trường chuyên về thủ của chúng ta, đối với thủ chiến sẽ cố gắng làm tiêu hao binh lực kẻ thù, áp chế nhuệ khí kẻ thù, khiến cho quân tâm tiêu tán. Điểm này phải truyền đạt lại cho tất cả các châu phủ huyện lị để chấp hành.

Dương Lăng thở dài, nói tiếp:

- Đây là yêu cầu chủ yếu của chiến sự, còn có một việc quan trọng hơn so với chuyện này, chính là những nơi bị Bạch Y quân phá hoại, quan viên các châu phủ không được chỉ lo giữ gìn thành trì mà bỏ mặc các địa phương bị hủy hoại không còn giá trị nữa.

Phải khôi phục thôn xóm, tìm mọi biện pháp gom góp các giống lương thực giao cho thôn dân gieo trồng, cần phải gieo trồng gấp. Có thể thu được hạt nào hay hạt đó, có hy vọng, dân chúng mới sẽ không bị bức bách đi theo Bạch Y quân chém giết. Phải điều động quan viên đúng lúc, những địa phương có điều kiện phái quân đội trú đóng. Đối với Bạch Y quân không cần quá mức lo lắng, hiện giờ dã tâm của bọn chúng càng lúc càng lớn, quân đội cũng càng ngày càng khổng lồ, sẽ không để ý đến một thôn xóm rách nát đã bị đánh cướp vài lần rồi.

- Ngoài ra...

Thanh âm của Dương Lăng nghiêm nghị lại, các tướng lĩnh và các quan văn ở trên công đường chấn động, chỉ nghe Dương Lăng lạnh lùng nói:

- Một bộ phận quân đội của chúng ta sức chiến đấu thấp, quân kỷ bại hoại, thậm chí gây hại cho dân chúng chẳng khác gì so với thổ phỉ cường đạo, đừng tưởng rằng bản quốc công không biết.

Hiện tại ta tuyên bố: Đối với những chuyện này, nếu như lại còn vi phạm, các quan ở những nơi đó phải xử lý nghiêm khắc, đại ác đại tội phải công khai xử phạt, nặng thì chém! Đội quân của chúng ta trở nên bại hoại, hám lợi, gian dâm phụ nữ thì làm sao tiêu diệt cướp? Chính mình mới là cướp!

Lại còn những người ngồi không hưởng quân lương, phải thừa dịp chiến sự mà nhanh chóng thanh lý, những binh lính già yếu bệnh tật loại bỏ toàn bộ hết, những người này ngay cả lên chiến trường cũng chỉ là đuổi dê cho hổ quần, chịu chết. Bản quốc công đã xin ý chỉ thánh thượng, các nơi có thể tùy cơ ứng biến, chiêu nạp một phần tân binh, tráng đinh nhập ngũ, nghiêm chỉnh huấn luyện thêm, lấy chiến luyện binh. Quan viên, tướng lĩnh chỉ huy điều hành gây bất lợi, một khi thẩm tra ra, giết không tha!

Dương Lăng nói đằng đằng sát khí, hai mắt lộ hung quang, các quan văn võ hoảng sợ thất sắc, không tự chủ được chắp tay vâng dạ. Mới vừa rồi bọn họ bị bề ngoài nho nhã của Dương Lăng lừa gạt, chỉ cảm thấy vị quốc công này không hề làm cao, nói chuyện nhã nhặn, mãi cho đến lúc này bọn họ mới đột nhiên nhớ lại đủ loại sự tích liên quan đến vị quốc công này.

Dương chém đầu, Dương Sao Chổi, nơi nào đi qua sẽ có gió tanh mưa máu. Ở bên trong thành Phúc Châu, một ngày bêu hơn trăm ngàn cái đầu, một thiên sát tinh như vậy, cái chổi lớn, ma đầu máu lạnh giết người không chớp mắt, vì lẽ gì mà vừa rồi ngơ ngẩn không nhớ ra chứ?

Rất nhiều quan viên sợ hãi, không khỏi âm thầm ra một thân mồ hôi lạnh.

Dương Lăng trầm giọng nói:

- Lại còn có địa phương là nỗi vướng bận rất lớn của hoàng thượng và triều đình, đối với loạn phỉ, triều đình cũng không nhất định phải dùng hình phạt thật tàn khốc. Bản quốc công hiện tại tuyên bố, sau khi các ngươi trở về phải dán bản cáo thị thông báo cho mọi người được rõ: Giặc cỏ trộm cướp, hễ ai tự thú sẽ được vô tội, hoặc giả như lâm trận đầu hàng cũng coi như tự thú, cũng không có tội. Đồng thời, cho dù trong triều phải dụng binh liên tục mấy năm, tiền bạc thiếu thốn, hoàng thượng vẫn hạ ân chỉ, miễn thuế một năm cho Sơn Đông.

Điều này là triều đình lo lắng cho dân chúng, các vị đặc sứ sau khi trở về phải nhớ kỹ báo cho quan lại địa phương miễn thuế ruộng, kiểm soát dịch bệnh, lũ lụt, không được tùy tiện trưng dụng sức người, sức của của dân chúng. Trộm cướp loạn lạc, rất nhiều dân chúng phải mất nhà hết cửa, trở nên trắng tay, mọi người sống không nổi nữa, nếu quan phủ không thể trấn an lo lắng, ngược lại lại nhân lúc chiến sự mà đua nhau bóc lột thì chính là bức dân làm cướp. Bạch Y quân có thể tập hợp được một trăm ngàn đại quân nhanh như vậy không thể không kể đến "công lao" của các quan lại này, quả thực là tự mình dâng thêm binh cho giặc cướp. Ngược lại những binh lính đó lại muốn đầu của bọn họ, thật quá ngu xuẩn.

Giọng điệu của Dương Lăng trở nên hòa hoãn, nói:

- Vụ mùa năm nay ở Thiểm Tây được bội thu, những lương thực mới này vừa có thể để ăn lại vừa để gieo trồng tiếp, trồng muộn một ít cũng không sao, hơn nữa dân chúng rối loạn không còn lòng dạ nào để mà chuyên tâm cày cấy, đúng lúc những cây nông nghiệp này cũng dễ sống, không cần phải chăm sóc nhiều.

Bản quốc công đã thông báo cho Thiểm Tây bắt đầu vận chuyển lương thực. Bởi vì đường bộ trộm cướp hoành hành không được an toàn, cho nên vì để tiết kiệm nhân lực, tài lực, ta quyết định chọn tuyến đường đi Giang Nam, từ sông rồi vào biển, lại từ đường biển đưa đến Sơn Đông, lương thực vừa đến dân tâm liền ổn, địa phương có trợ giúp lớn sẽ mau chóng ổn định lại. Các vị, hiện giờ tình thế ở địch mà không ở ta. Ta cùng các vị đồng tâm hiệp lực cùng nhau an dân tiêu diệt trộm cướp, nhất định chúng ta có thể sống qua cửa ải khó khăn này!

Các quan viên đồng loạt chắp tay, nghiêm nghị nói:

- Vâng, chúng tôi xin nghe theo hiệu lệnh của quốc công. Đồng tâm hiệp lực, cùng vượt qua khó khăn!

Dương Lăng gật đầu, phất tay áo một cái nói:

- Hưởng Mã đạo đã hai lần tấn công thành Đức Châu, bản quốc công mới đến. Bọn chúng không biết thực hư, lúc này mới tạm thời kiềm chế, đợi khi xác minh ta chưa mang theo binh mã, nhất định lại công. Các vị quan viên tướng lĩnh phải lo tròn bản phận, chức trách của mình, luôn chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc chiến. Sáng sớm ngày mai, bản quốc công sẽ duyệt binh ở giáo trường, các bộ ti hãy chuẩn bị!

...

Một tiếng kêu to chói tai, một bóng trắng nhanh như tên bắn từ trên không lướt xuống. Nhanh nhẹn rơi xuống trên bả vai to lớn của Hoa Đương, hai móng vuốt sắc bén bám chặt vào miếng da lót vai, nghiêng đầu một bên, liếc nhìn chủ nhân một cái.

Lông dài rộng nhanh nhẹn, giống như chim đến từ Hải Đông. Đây là một con Hải Đông thanh, lớn cỡ chim thước, nhưng bản tính hung mãnh, có thể bắt giết ngỗng trời, cáo và cả những con thú nhỏ. Bởi vì không dễ bắt cho nên có câu "Cửu tử nhất sinh. Nan đắc danh ưng"... ở thời kỳ này thậm chí có quy định như thế này: Hễ ai mà phạm tội bị trục xuất đến Liêu Đông, ai có thể bắt được Hải Đông thanh dâng lên có thể được tha tội, được phóng thích.

Con Hải Đông thanh này là loại cực phẩm, bộ lông toàn một màu trắng, hơn hẳn cả ba loại nổi danh là Ngọc Trảo, Thu Hoàng, Ba Hoàng. Hoa Đương âu yếm vuốt ve lông con Hải Đông thanh, đút cho nó một miếng thịt tươi, mỉm cười nói:

- Phía trước đã phát hiện được doanh trại của bộ lạc Bá Nhan, mọi người cẩn thận một chút.

- Vâng!

Trải qua lặn lội đường xa, tất cả mọi người đã có chút mệt mỏi, nghe mệnh lệnh này không khỏi hưng phấn lên. Con trai của y là A Nhĩ Tư Lăng lớn tiếng truyền lại mệnh lệnh ra phía sau. Hoa Đương chỉ về phía trước nói:

- Doanh trại của bọn chúng ở phía tây nam, cách nơi đây không quá mười dặm. Ba Nhã Nhĩ, ngươi dẫn theo ba nghìn kị binh đi vòng qua, ngăn chặn đường lui của bọn chúng, hiện giờ gặp phải doanh trại, có lẽ đều là bộ lạc bên ngoài của Bá Nhan, không thể để cho bọn chúng chạy trốn, sẽ để lộ hành tung.

- Vâng!

Ba Nhã Nhĩ liếm liếm cái môi thật dày, nắm chặt cây đinh ba bằng sắt trong tay, dẫn theo ba nghìn kị binh chạy theo hình vòng cung nhanh như điện chớp hướng về phía trước. Đại đội nhân mã của Hoa Đương do Bạch Âm, A Nhĩ Tư Lăng và bản thân của y chia làm ba đội, giống như một cái đinh ba hướng về phía doanh trại bộ lạc Bá Nhan xông tới.

Bầu trời xanh biếc, đồng cỏ rộng lớn, một màu xanh ngăn ngắt liên miên ngút ngàn. Phía chân trời vầng thái dương đỏ tươi như máu, đại quân Hoa Đương dưới ánh nắng đỏ rực tốc độ chợt nhanh hơn, vạn mã lao nhanh, như sấm sét cuồn cuộn.

Con chó vàng lớn kêu "gâu gâu" xua đuổi đàn trâu bò và bầy ngựa vào chuồng, phía trên lều đã lan tỏa từng làn khói bếp. Trải qua mùa đông khó khăn, cuối cùng lại có hy vọng. Bởi vì thức ăn chủ yếu hằng ngày chính là thịt dê bò, hơn nữa sinh lão bệnh tử vốn là qui luật tất yếu của cuộc sống, một nhà nếu như không có một đàn hơn hai mươi con dê là rất khó mà sinh tồn.

Ba Vượng là tộc trưởng của cái bộ lạc nhỏ này, trong nhà y cuộc sống tương đối dư dả, nhưng hiện tại bầy cừu dư ra cũng chưa tới ba mươi con rồi, đến nỗi hiện tại y không dám tùy ý giết dê bò, thức ăn hằng ngày ngoại trừ thú hoang săn được còn trộn thêm rất nhiều rau dại, hoa màu, lại còn tranh thủ thời tiết năm nay thật là thuận lợi, đồng cỏ và cây thủy sinh tốt tươi để cho dê bò hết sức sinh sản thật nhiều.

Y mới bốn mươi lăm tuổi, dáng người cao lớn khỏe mạnh, dù rằng năm trước theo Bá Nhan Khả Hãn xâm nhập biên giới Đại Minh, đang lúc công thành bị lôi mộc đập cà thọt một chân, nhưng ngồi trên lưng ngựa cũng không gây khó cho y chăn thả bầy cừu.

Y hướng về thảo nguyên mênh mông ở hướng nam nhìn một cái, khẽ thở dài một tiếng:

- Năm nay con ta lại cùng Khả Hãn xuất chinh, đã xuất phát hơn hai mươi ngày rồi, cầu trời phù hộ cho họ, chỉ mong con ta bình an vô sự, có thể đoạt được tài vật, lương thực và nô lệ nhiều một chút mang về.

Hóa ra, lúc lương thực, của cải, nô lệ thiếu cứ đến chỗ của người Hán đoạt lấy là cỡ nào dễ dàng a, bọn người Hán ngoan ngoãn giống như con cừu không biết phản kháng, bọn chúng chỉ biết xây dựng thành trì, lo lắng đề phòng mà chờ cung cứng tên nhọn của chúng ta, tùy ý để chúng ta cướp lấy, mà năm ngoái...

Y khẽ lắc đầu:

- Chỉ mong con ta không nên đụng đến người kia. Bá Nhan Khả Hãn bách chiến bách thắng, là dòng dõi chính tông của gia tộc Hoàng Kim, là chiến sĩ dũng cảm tôn quý nhất cũng bị binh mã của hắn truy đuổi bỏ chạy mất dạng, tính mạng của hơn một vạn chiến sĩ nha, chúng ta có khi nào lại thất bại thảm hại như vậy? Nếu mình không bị thương ở chân, trở thành người may mắn đầu tiên áp giải tù binh và tài vật trở về, trong số những người chết thảm có lẽ sẽ xuất hiện tên của mình rồi.

Y thở dài, cố sức bò xuống ngựa. Một tiểu cô nương gầy teo yếu ớt nhút nhát chạy tới cầm lấy dây cương. Đây là cô gái năm trước cướp được ở Đại Đồng mang về, tên gọi Tiểu Thúy Nhi, ước chừng mười lăm mười sáu tuổi, vốn trắng trẻo hết sức dễ nhìn, ở nơi này bị trở thành nô lệ ngày đêm sai khiến, khuôn mặt cũng biến thành đỏ thẫm, tuy nhiên vẫn nhìn ra được mặt mày thanh tú, cốt cách tinh xảo.

Nàng là nữ nô của Ba Vượng, cũng là công cụ tiết dục của y. Nhưng Ba Vượng sẽ không bởi vì nét đẹp của nàng mà thương xót một chút. Tháng trước nàng thấy dê cừu đánh nhau, còn nhỏ lực yếu lại không biết nên làm thế nào để tách chúng nó ra, kết quả một con dê bị đâm chết, Ba Vượng nổi trận lôi đình đánh nàng đến hấp hối, mắt thấy sẽ tắt thở.

Ba Vượng không chút nào thương tiếc mà đem nàng vứt bỏ ở ngoài lều, hoàn toàn không cứu trị, chuẩn bị khi vừa dứt hơi sẽ ném lên thảo nguyên làm mồi cho sói lang. Nhưng nô lệ ti tiện này lại có sức sống mãnh liệt, ba ngày liền nàng không hề ăn uống nhưng không ngờ lại chịu đựng được, vì thế còn phải tiếp tục làm nô dịch cho Ba Vượng, ban ngày ra sức làm việc cho y, tối đến thời điểm y cần còn phải chịu đựng thân thể to lớn gần hai trăm cân của y tàn phá.

Ba Vượng chui vào cái lều, thê tử đã chuẩn bị xong cơm chiều. Trước kia trong nhà thức ăn vô cùng phong phú. Có thịt đầu, đùi cừu nướng ngon vô cùng, váng sữa, sữa đậu hũ, rượu sữa ngựa, nhưng mà hiện tại chủ yếu là trà sữa, cơm rang, rau dại. Thỉnh thoảng mới có thể ăn mặn.

Y ngồi xếp bằng ở trên chăn, vừa mới bưng lên một chén rượu sữa ngựa, bỗng dưng trong chén rượu bắt đầu gợn sóng dữ dội, mặt đất rung chuyển giống như tiếng sấm liên tục gầm rú. Thanh âm đông đúc, là một người từ nhỏ đã sống trên lưng ngựa, là một chiến sĩ thực thụ, y lập tức nhận biết được đó là tiếng vó ngựa, ít nhất ước chừng cả một vạn con chiến mã đang chạy như điên.

Trên đại thảo nguyên, chiến mã tuy nhiều, thậm chí khi giàu có nhất, một gia đình để lại ít nhất mấy chục con ngựa để nuôi dưỡng, nhưng là vì đồng cỏ, từng bộ lạc đều phải chia ra rất nhiều bộ lạc nhỏ, bình thường đều tự tách ra chăn thả, ai có thể tập trung số lượng bầy ngựa lớn cùng lúc chạy như điên như thế? Chỉ có hắn, chỉ có Bá Nhan vĩ đại, chẳng lẽ là đại quân của hắn đã trở lại? Nhưng lúc này thật sự là quá nhanh đi.

Ba Vượng hưng phấn mà nhảy dựng lên, đỡ cái chân què khập khiễng chạy ra ngoài lều, chỉ thấy nữ nô Thúy nhi ôm một bó củi trong lòng ngực ngơ ngác đứng ở trong sân, cái miệng nhỏ nhắn mở ra, ngây ngốc mà nhìn phương xa. Ba Vượng theo bản năng mắng:

- Chết tiệt, làm việc của ngươi đi.

Nếu không phải còn cách vài bước, y sẽ nhảy tới hung hăng tát một cái tát, mà hiện tại y chỉ mắng một câu liền vội vã nhìn về phía có tiếng vó ngựa. Vừa thấy, Ba Vượng liền ngẩn ngơ, đầu tiên là một con chim ưng trắng như tuyết như một mũi tên xẹt qua lều, theo sát sau là vô số con chiến mã đồng loạt hí vang, giống như một cơn sóng lớn phá hủy mọi thứ lướt qua bên cạnh y.

Thân hình cao lớn cường tráng của Ba Vượng giờ phút này giống như một chiếc lá giữa cơn sóng lớn, nếu không phải thiên quân vạn mã kia có ý tránh lều và cả người lẫn vật, y sẽ bị đạp thành một mảnh nhầy nhụa. Thúy Nhi run rẩy co rút ngồi xổm trên mặt đất, hai tay ôm đầu, sắc mặt bị hoảng sợ trở nên tái nhợt.

Tiếng gầm xa xa bay tới hội tụ thành một mảnh khủng bố, với thanh thế này đã khiến vài chục nam nhân ở đây hoàn toàn mất đi dũng khí phản kháng. Bọn họ đều là những người già yếu không thể theo đội quân viễn chinh, mặc dù không phải như thế thì bọn họ cũng không có năng lực đối kháng một đội người ngựa cường đại như thế.

Mặc dù đều là hậu duệ Mông Nguyên, nhưng lối ăn mặc, sử dụng cung tiễn đao mâu vẫn còn có chút khác biệt. Ba Vượng là chiến sĩ có kinh nghiệm chiến trận, cũng từng đi theo Bá Nhan t宠công Đóa Nhan Tam Vệ, y nhận ra đó là người của Đóa Nhan Tam Vệ.

- Ông trời ơi! Nhiều người như vậy, Đóa Nhan Tam Vệ đã dốc toàn bộ chiến sĩ tinh nhuệ rồi, bọn họ dám tấn công... không, đây hoàn toàn là đoạt lấy, đoạt lấy bộ tộc của Bá Nhan!

Ba Vượng hoàn toàn tuyệt vọng.

Nhân mã phía sau rõ ràng thả chậm tốc độ, cho dù chỉ là một bộ lạc nhỏ nhưng thói quen của bọn họ chính là như vậy. Quân tiên phong chỉ lo việc tấn công, xông tới ngăn cản mọi sự chống cự của kẻ địch, sẽ không vì sự chiếm đoạt mà làm cho trận hình công kích của cả đội ngũ phải chịu ảnh hưởng, công việc chiếm đoạt chiến lợi phẩm đã có người ở phía sau phụ trách.

Hai con ngựa dừng lại trước mặt. Người trên ngựa mặc áo choàng Mông Cổ màu vàng, vạt phải, vạt áo xéo, cổ áo cao, áo có tay, chân mang ủng, thắt đai lưng, vô cùng cao lớn nhanh nhẹn dũng mãnh. Đao của bọn họ còn cắm ở bên hông, trong tay chỉ cầm roi ngựa, dáng vẻ ung dung tự tại.

- Ngươi, bắt đầu từ bây giờ là nô lệ của chúng ta.

Kị sĩ lập tức dùng roi ngựa chỉ vào tiểu cô nương Thúy nhi đã sợ đến ngã trên mặt đất. Sau đó lại chỉ vào Ba Vượng:

- Còn ngươi nữa, giao ra đao và cung tiễn của ngươi. Từ hôm nay trở đi, ngươi cũng giống như cô ta, cũng là nô lệ của chúng ta!

Mấy cây cung, mũi tên và đao Mông Cổ, còn có một cây đinh ba dùng để quơ cỏ đuổi sói, những vật dụng nào có thể làm vũ khí đều bị vơ vét hết, còn có nữ nhân và nô lệ của y. Những người trong tộc của y cũng bị tập trung lại, bởi vì lều của y là lớn nhất trong cái bộ lạc nhỏ có mười mấy người chăn nuôi này.

Ngựa cũng đã bị lấy đi trở thành vật cưỡi của chiến sĩ Đóa Nhan Tam Vệ. Tiếp theo đó, Ba Vượng đau lòng mà nhìn tài sản của y, đàn dê được nuôi nấng cẩn thận bị các chiến sĩ dùng một con dao nhỏ giết chết dễ dàng, cạo tróc da, bỏ nội tạng, sau đó chia thịt thành từng khối nặng vài cân, tiếp theo ở ngay tại bếp lò vẫn còn ấm trong nhà của y bỏ vào nồi nước nấu lên.

Tất cả dê, một con cũng không còn. Bọn họ là chiến sĩ chỉ biết cướp đoạt, không hề mang theo thức ăn.

Trong mắt Ba Vượng ảm đạm, lúc này mà các chiến sĩ của Đóa Nhan Tam Vệ thả cho y chạy trốn y cũng không biết phải làm thế nào để sinh tồn, không còn số dê bò đó cả nhà y chỉ có đói chết, hoặc là... làm nô lệ.

Ba Vtheo bản năng mà nhìn về phía Thúy nhi cô nương vẫn bị y không coi là người, trên mặt hiện lên một nụ cười thê thảm tuyệt vọng. Y yên lặng gục đầu xuống, sau đó có một đôi ủng da đi tới ở trước mặt y,

Tiếp theo, y nhìn thấy một chiến sĩ trẻ tuổi cười dài hỏi y:

- Này, huynh đệ, nói cho ta biết phương hướng ước chừng của các doanh trại của những bộ lạc khác. Nhất là... doanh trại của hoàng hậu Tắc Lý Mộc Trác Nhĩ, nghe nói đệ nhất mỹ nhân trên thảo nguyên của chúng ta không có đi cùng với lão già Bá Nhan kia xuất chinh?

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 368: Khua Chiêng Gõ Trống .

Phía trên công trường đối diện phủ Uy quốc công hừng hực khí thế, từng tòa đền điện lầu các mọc lên, huy hoàng tráng lệ, nguy nga lộng lẫy, có hồ nhỏ để chèo thuyền du ngoạn, đảo giữa hồ, giả sơn cũng đã đơn giản về quy mô.

Huyền Minh cung trục xuất vô số thị dân để chiếm đất xây dựng được một nửa đã bị hoàng đế Chính Đức lửa giận vạn trượng hạ chỉ hủy bỏ, tất cả nhân công vật liệu toàn bộ đổi lấy bạc dùng cho tòa am này, ngân lượng được quy thì đều dùng để xây dựng lại nhà dân cho dân chúng. Người dân đã từng bị Lưu Cẩn đuổi ra khỏi kinh thành không có chỗ ở hoặc cả nhà chen chúc ở một căn nhà nhỏ đều hoan nghênh ủng hộ.

Bởi vì có sẵn nhân công và vật liệu ở đây, tốc độ xây dựng hoàng am tiến triển cực nhanh, Ngụy Bân bận rộn đầu tắt mặt tối. Lưu Cẩn sụp đổ khiến cho vị nội hoạn từng đi lại khá mật thiết với Lưu Cẩn này làm việc gì cũng vô cùng thận trọng, để cầu xin bù đắp vị trí trong mắt hoàng thượng, có gã cả ngày giám sát xây dựng trên công trường, các bộ phận đốc công làm sao có thể không dốc sức.

Bởi vì Hà Bắc Sơn Đông chiến loạn, rất nhiều lưu dân chạy trốn tới kinh thành, những người này ổn định đến trị an trong kinh thành khó đảm bảo được, vả lại thời tiết nóng dần lên, số lượng lớn lưu dân vào kinh, một khi xảy ra ôn dịch không phải là chuyện nhỏ. Nhưng lưu dân chưa ổn định thì triều đình chưa làm tròn bản phận, hơn nữa lưu dân đi đến đường cũng sẽ khó đảm bảo sẽ không xảy ra rắc rối.

Theo mưu kế của Thành Khởi Vận, Ngụy Bân cầu kiến hoàng đế, xin đưa toàn bộ lưu dân chuyển đến ngoại ô phía tây, thanh niên khỏe mạnh thì sung vào đại quâ xây dựng, những việc trồng hoa nhổ cỏ phụ nữ trẻ em cũng có thể làm được, còn có thể sắp xếp một bộ phận làm thuê cho địa chủ ở gần đấy, như vậy sử dụng được rất nhiều lao động giá rẻ, bọn họ có việc làm, có cơm ăn cũng không gây chuyện rắc rối, có thể nói một công đôi việc.

Chính Đức cho rằng là chủ ý của Ngụy Bân rất thích hợp, lại nhìn gã với một con mắt khác, còn thực sự khen ngợi gã vài câu, khiến Ngụy Bân mừng đến vò đầu bứt tai, thấy Thành Khởi Vận cũng ngày càng tôn kính. Lúc này, gã đang bận rộn trên công trường, trong vườn hoa phía sau phủ Uy quốc công cũng là một cảnh bận rộn.

Cao Văn Tâm đã gả vào Dương phủ, bởi vì biểu đệ đang học ở Thái Học, Cao Văn Lan để tiện chăm sóc cậu ta đã chuyển đến sống trong thành, như thế mà sau nhà ngang trước đây liền bỏ trống không. Hàn Ấu Nương tìm người dỡ tường thấp bao quanh, dọn ra ba phòng sau nhà ngang sắp xếp cho chủ tớ Thành Khởi Vận ở, lại phái cho nàng mấy nha đầu để sai khiến.

Không ở khách phòng, thư phòng mà là phòng ở riêng biệt ở hậu hoa viên, dụng ý của Hàn Ấu Nương không cần nói thành lời. Thành Khởi Vận thông minh sao lại không rõ? Dù là nàng gian trá xảo hoạt, ngoại trừ trong lòng có Dương Lăng, nhìn ra thiên hạ, chỉ có ta phụ người, không cho phép người phụ ta, nhưng đối với Hàn Ấu Nương vẫn là tôn kính từ trong lòng.

Hiện giờ Dương Lăng là thân phận gì? Hàn Ấu Nương lại là thân phận gì? Đến con trai của nàng ấy đều là nghĩa nhi của hoàng đế làm điện hạ, cả nhà Dương thị đã là tân quý đứng đầu trong kinh thành, Hàn Ấu Nương bày tỏ thái độ này, cho dù thành hay không thành, nhưng nàng vẫn cảm động đến rơi nước mắt đối với hành vi của Hàn Ấu Nương.

Thành Khởi Vận có tiền, không nói đến số tài sản kếch xù của nàng có thể sánh ngang một nước mà nàng khống chế trong tay, thậm chí có thể dùng để kéo một đội quân bất cứ lúc nào. Chính là số tiền riêng trước đây nàng tích lũy được, nếu muốn đặt mua sảnh viện quy mô như phủ Uy quốc công cũng dư dả, nhưng nàng muốn ở trong Dương phủ cho dù chỉ là một chỗ nhỏ, nhưng nếu không được Hàn Ấu Nương gật đầu, thì tuyệt đối không thể đấy.

Gian nhà này là Hàn Ấu Nương cho, phòng ở, bày bố sân vườn, lại là một tay Thành Khởi Vận sắp xếp. Với tầm mắt của nàng, bố trí sảnh viện tự nhiên cao nhã hào phóng, không giống bình thường. Một gian nhà vườn nho nhỏ bố trí hết sức tinh xảo tỉ mỉ, vô cùng thú vị. Đến đám nữ tử Cao Văn Tâm, Ngọc Đường Xuân hiểu nhiều biết rộng cũng thán phục không thôi.

Thư phòng là một buồng lò sưởi tinh xảo, cửa sổ đã làm lại, rộng hơn gần gấp đôi, ánh sáng vô cùng tốt, lúc ánh mặt trời nhiều nhấtphòng sáng sủa, nhưng ánh sáng lại dịu dàng không hề chói mắt. Lúc này, Thành Khởi Vận đang ngồi trước bàn sách gỗ hoa lê trước cửa sổ. Bên tay trái một chồng văn án, bên tay phải nhuận mực óng ánh, một cây bút lông sói cán sừng trâu tử đàn đặt trên giá bút dễ với tay lấy.

Hơi khép một tấm thiếp lại, Thành Khởi Vận chau đôi mày thanh tú trầm ngâm một lát, nói:

- Linh nhi, giao tấm thiếp này đem cho phòng kế toán ghi lại, rồi chuyển cho phòng tổng toán tính toán, bạc phải nhanh chóng trích cấp đúng chỗ, lập tức bắt đầu đi thu mua lương thực.

Triều đình muốn từ khu vực nội lục như Thiểm Tây trưng lương đông vận, do Sơn Tây, Hà Nam, Sơn Đông bị loạn Hưởng Mã đạo, bọn họ phải vận chuyển theo đường sông, vận chuyển đường sông trực tiếp ra Đông Hải, sau đó lại vận chuyển đường biển gián tiếp đến Sơn Đông.

Triều đình hiệu lệnh vị trí thu mua lương thực, lại xếp xe vận chuyển về phía nam, sau đó vận chuyển đường sông, đường thủy, đường biển, phải đi qua nhiều nha môn, nhiều loại thủ tục, không chỉ tốn thời gian và công sức mà còn đẩy cao giá thành. Chúng ta có thương hiệu sẵn, cửa hàng có thể thu mua, có xe vận chuyển, tàu vận chuyển thậm chí có bến tàu của riêng mình, nhà kho, nếu chúng ta tiếp tay, còn tiết kiệm hơn gấp rưỡi tiền bạc so với triều đình vận chuyển, hơn nữa tốc độ còn nhanh hơn trên nửa tháng.

Triều đình đang thiếu tiền, khoản tiền này bọn họ sẽ không tính toán không rõ, người của cửa hàng chúng ta đang hoạt động ở Hộ Bộ, Hộ Bộ Thượng Thư Lưu Trung Cương vừa nhậm chức, đang muốn có thành tích, chúng ta chỉ cần một nửa lợi nhuận, tiết kiệm một phần bạc cho triều đình, ông ta chỉ cần thêm chút quyền hành, nhất định sẽ đồng ý điều kiện này.

Nhưng một khi tin tức truyền ra, những cửa hiệu lớn khác nhất định nghe tin hành động, ít nhất giá lương thực của Thiểm Tây nhất định sẽ tăng lên, sớm ra tay một bước thì có thể kiếm thêm một chút bạc. Nhân cơ hội này, chúng ta cũng có thể thuận theo con đường vận chuyển hàng hóa dọc duyên hải nội lục, nhân cơ hội phát triển thương hiệu lương thực của chúng ta, phát triển quy mô vận chuyển đường thủy nội lục.

Nàng nhìn lên trên ghế, cười xinh đẹp nói:

- Triều đình nhất định không có bạc đưa cho chúng ta, tám chín phần mười là Hộ Bộ sẽ dùng kế sách khai trung nạp túc, dựa vào số lượng gạo chúng ta vận chuyển để cấp muối, trà, như vậy chúng ta lại có thể nhân cơ hội nhúng tay vào nghề muối, nghề trà, trong hai ngành nghề lợi nhuận kếch xù này nhanh chóng mở ra cục diện, lại mở ra tài nguyên, ừ, nhất cử tứ đắc.

- Đúng vậy tiểu thư.

Sở Linh hé miệng cười, nói:

- Nếu Vu lão gia biết suy nghĩ của người, nhất định sẽ khen người là vị nữ tài thần đấy.

Thành Khởi Vận mỉm cười nói:

- Vu tài thần, ta không dám sánh, loại ý nghĩ này ta vẫn là học ông ta đấy. Thật không biết đại nhân làm sao tìm được bảo bối này. Thiên hạ chiến loạn vốn không phải là việc tốt, nhưng trong chiến đấu kiếm lời, đối với thương nhân mà nói, chỉ cần hành động thích đáng, trước giờ đều là món lợi kếch sù.

- Ôi! Ai bảo đại nhân làm quan trong triều chứ, tim ta cũng mềm rồi, không ngờ không đành lòng kiếm bạc của quan gia, nếu không, chỉ dựa vào việc những thuyền lương thực của chúng ta so với triều đình có thể sớm đến nửa tháng, kiếm trọn một phần rưỡi số tiền tiết kiệm được chúng ta sẽ áy náy, sớm nửa tháng giải quyết được bao nhiêu vấn đề? Chết ít đi bao nhiêu người? Trên đường giảm bớt nửa tháng, phí nhân công vận chuyển lại có thể tiết kiệm được bao nhiêu? Hộ Bộ không đồng ý mới lạ.

Sở Linh thản nhiên nói:

- Nhưng nói ra thì, Vu tài thần chính là người làm ăn nói chuyện làm ăn, có thể kiếm được thì kiếm, đúng rồi, triều đình đánh giặc, cần lượng lớn ngựa, doanh trướng, áo giáp, binh khí, cung tiễn và dược liệu. Ngoại trừ dược liệu đã được phân phó cho những cửa hàng dược liệu của chúng ta gia tăng thu mua, những thiết bị khác chỉ có đến từ Liêu Đông.

Ở đó không chỉ có số lượng lớn nguyên vật liệu giá rẻ có thể lập tức chế tạo, hơn nữa chất lượng hoàn mỹ, Vu tài thần chạy đến đó xây xong mấy xưởng quy mô cực lớn, nhưng là tuệ nhãn cao siêu, có phải là vận dụng lực lượng bí mật của chúng ta, ảnh hưởng một chút đến ý đồ mua bán của triều đình?

Thành Khởi Vận do dự một chút, nói:

- Không cần. Hiện tại trong triều vừa dọn sạch nhất đảng Lưu Cẩn, Đô Sát viện, Hàn Lâm viện thanh lưu lại chiếm thế thượng phong, bách quan thận trọng chặt chẽ, sợ có chút sai lầm, dù có tham quan cũng không dám phát quốc nạn tài địa. Nơi sản xuất binh khí, giáp trụ, cung tiễn của xưởng binh giáp Liêu Đông chúng ta đều là chất lượng tốt nhất, giá cả cũng hợp lý, hẳn sẽ là lựa chọn hàng đầu của Binh Bộ. Không cần bại lộ quan hệ giữa bọn họ và chúng ta.

Sở Linh dạ một tiếng, Thành Khởi Vận nghĩ một chút lại nói:

- Còn nữa, nói với Vu tài thần, cố gắng hết sức thu mua mua ngựa của người Mông và người Nữ Chân nhập quan, ngựa trong trại nuôi của chúng ta cố gắng không động đến. Năm ngoái cả mùa đông tuyết lớn. Năm nay nước cỏ nhiều, chính là thích hợp nuôi một bầy ngựa lớn, không thể vì cái nhỏ mà mất cái lớn, phải nhìn xa trông rộng.

Còn có, chiêu nạp thêm nhiều người chăn ngựa, nhiều một chút cũng đừng lo, quan ngoại có người Nữ Chân, người Thát Đát, Đóa Nhan Tam Vệ, quân hộ Liêu Đông còn có Hưởng Mã đạo, đủ loại thế lực rắc rối phức tạp, một khi xảy ra chuyện gì, những người này sẽ có thể nhanh chóng tổ chức thành một nhóm thiết kị được huấn luyện có tố chất, cung mã thành thạo, đây là bảo đảm vũ lực cho các loại sản nghiệp của chúng ta ở quan ngoại.

Hai tên buôn lậu súng ống đạn được càng nói càng vui vẻ, đang mặt mày hớn hở, Ngọc Đường Xuân có vẻ không vui đi đến, Thành Khởi Vận vội giành lấy cái chặn giấy, đè lên tấm thiếp trên bàn, đứng dậy cười nói:

- Ngọc Nhi đến rồi, mau ngồi đi. Linh Nhi pha trà, Ngọc Nhi không vui vì chuyện gì thế?

Ngọc Đường Xuân ngồi trên ghế, thở dài sâu kín:

- Cũng không có việc gì, lão gia binh phát Đức Châu. Hiện giờ ở nhà, tình hình gì cũng không biết thì cũng thôi, thỉnh thoảng nghe người ta nói đến thì lại càng thêm bận tâm.

Nàng liếc nhìn Thành Khởi Vận một cái nói:

- Vừa mới cùng Tuyết Nhi đến công trường đối diện xem xây xong nhà địa chủ. Nghe những lưu dân từ Đức Châu chạy trốn đến đây nói, thành Đức Châu đã từng ba lần bị Bạch Y quân công kích, lúc đó Bạch Y quân vừa khởi binh, mới hơn một vạn nhân mã, kết quả không công kích được mới chuyển hướng qua nội địa, hiện giờ bọn Hưởng Mã đạo nghe nói có ba vạn người rồi, nghe mà thực sự khiến người ta lo cho lão gia quá.

Thành Khởi Vận vừa nghe đến việc này, bất giác cười nói:

- Ngươi ấy, không cần lo lắng vớ vẩn, nếu để phu nhân thấy, không khỏi khiến người cũng lo lắng thêm. Theo ta thấy, sẽ không có việc gì, quốc công hiện giờ thân phận tôn quý, không thể để ngài xách thương thúc ngựa, tự mình chinh chiến sa trường, chỉ là chỉ huy cư trung, điều hành toàn quân mà thôi.

- Thành Đức Châu hào sâu thành cao, từ trước là nơi đóng quân, luyện binh của triều đình, binh lính ở đó vẫn là mười phần thiện chiến, hơn nữa hiện giờ thành Đức Châu trú đóng sáu vạn đại quân, gấp đôi Hưởng ã đạo, dùng bồi quân thủ thành, quả thực không có gì đáng lo lắng cả.

Ngọc Đường Xuân nghe xong thoáng thở phào, nhẹ nhõm nói:

- Vẫn là Vận tỷ tỷ biết an ủi người khác, ta nói tâm sự của mình với Tuyết Nhi, nàng ta lại chỉ nói "không sao đâu, lão gia chỉ huy thiên binh vạn mã như định, chính là người trong giang hồ đi tới đi lui, dựa vào một thanh thần hỏa thương cũng diệt được hai rồi, hậu nhân của Dương gia tướng mà, anh minh thần võ giỏi giang", thực là bị nàng ta làm cho tức chết mà.

Sở Linh nghe xong khanh khách cười, vừa muốn nói một câu "lão gia nhà ngươi anh minh thần vũ, giỏi giang như thế nào? Hay là vì tự mình nhận ra được sự lợi hại của Dương gia thương?" chợt nhớ đến quan hệ của tiểu thư của mình và Dương Lăng, lần trêu chọc khó bảo toàn này sẽ không khiến nàng ấy cũng trở nên buồn bực, cho nên vội vàng ngậm miệng lại.

Ngọc Nhi kinh ngạc giương mắt nhìn Sở Linh vô duyên vô cớ bật cười sau đó lại một bộ dạng nghiêm trang, sau đó hỏi Thành Khởi Vận:

- Vận tỷ tỷ, vậy theo tỷ thấy, bọn Hưởng Mã đạo liệu có biết khó mà lui, từ bỏ việc tấn công Đức Châu không?

Thành Khởi Vận trầm ngâm một lát, sắc mặt ngưng trọng lại, nói:

- Sẽ không, chiếm cứ Sơn Đông, Bắc ách Kinh Sư, Nam khống chế Trung Nguyên, hẳn là kế sách đã định của người có trí tuệ trong bọn phản tặc. Sơn Đông thủy vận quá quan trọng đối với Kinh Sư, vận chuyển đường sông một khi bị chặt đứt cũng có nghĩ là chặn đứt mệnh mạch của Kinh Sư, khiến cho Kinh Sư trở thành hòn đảo đơn độc nhẹ nhàng, điều này gây ra sự phá hoại đối với triều đình càng nghiêm trọng hơn nhiều so với việc Hưởng Mã đạo Bá Châu ở gần kinh kỳ giết qua giết lại.

Ngoài ra, Triệu Phong Tử tiến quân Sơn Tây, một khi đứng vững nhất định phát binh phản đông, lúc đó đông tây hô ứng, lấy được Hà Nam, cổ họng Kinh Sư bị kềm kẹp chặt chẽ, lương thảo không vào được, thuế phú không vào được, đại quân hơn mười vạn không lương không quân không công tự tán, phản tặc dễ dàng liền có thể lấy được đầu não Đại Minh.

Đây chính là nguyên nhân Dương Lăng kiệt lực muốn tiêu diệt Bạch Y quân hoặc là đuổi ra khỏi Sơn Đông. Kỳ thực Dương Lăng vẫn còn một sự lo lắng mà không muốn người khác biết: hoàng thượng không có con, hiện tại Đông cung không có thái tử. Nếu tùy ý phản tặc thành lập căn cứ địa ngay trước mắt, ngộ nhỡ phản tặc thực sự có thể kị binh phá thành, hoàng thượng có sơ xẩy gì, phiên vương tranh đích, thiên hạ lại không thể vãn hồi, vậy thì hắn cũng chỉ có thể lực bất tòng tâm thôi.

Thành Khởi Vận trầm ngâm một chút, lẩm bẩm:

- Phản tặc đã ý thức được điểm này, lấy Đức Châu. Đó là một phép thử, cho nên bọn chúng nhất định sẽ hết sức toàn lực. Nhưng... bọn Hưởng Mã đạo Bá Châu ba vạn thiết kị, cố nhiên khiến người ta đau đầu, nhưng nguy cơ chính thức vẫn là đại quân mười vạn của Dương Hổ.

Mặc dù Lưu Lục đánh hạ Bá Châu, chỉ dựa vào ba vạn thiết kị cũng không thể khống chế toàn cảnh Sơn Đông. Muốn chiếm cứ Sơn Đông, còn phải dựa vào nhân mã của Dương Hổ, ta nghĩ có lẽ hắn chống đỡ được ba vạn Hưởng Mã đạo Bá Châu tấn công chỉ là muốn tiêu diệt đại quân Dương Hổ, thì khó đấy.

Đối diện với bọn Hưởng Mã đạo đến đi như gió, vô tung vô tích, triều đình giống như giơ búa nặng ngàn cân đập bông, có lực không dùng được, một khi không cẩn thận còn làm đau eo. Ngoại trừ gặp chiêu phá chiêu, thực không có cách nào hay. Cho nên ngươi không cần lo lắng sự an nguy sống chết của đại quân, muốn lo cũng nên lo hắn sẽ gặp chuyện không tấn công được, không có cách nào dẹp giặc.

Đại nhân bình Bắc, bình Oa, bình Di, bình Man, có dùng trí, có lực địch, dùng vũ lực, có chính mưu, có thể nói diệu kế xuất hiện nhiều lần. Nhưng bọn lưu tặc mã phỉ này căn bản không có lối mòn, muốn gặp chiêu phá chiêu như thế nào? Câu cửa miệng nói loạn quyền đánh chết sư phụ già, bọn Hưởng Mã đạo Bạch Y quân này chính là dùng loạn quyền.

Sở Linh thở dài nói:

- Ôi! Ước gì bảo đao của Dương sư phụ không bao giờ cùn, thần thương không ngã!

Ngọc Đường Xuân nhướng mày liễu lên, bật thốt lên:

- Lão gia nhà ta đương nhiên bảo đao chưa cùn...

Thành Khởi Vận đón nhận ánh mắt của Ngọc Đường Xuân. Hai cặp con ngươi tràn đầy sóng mắt, tỏ ra cảm thông cảm giác của nhau. Anh thư sở kiến, đại lược tương đồng.

...

Quân đội Hoa Đương đi vào sâu trong nội địa thảo nguyên, nhìn ra xa, bốn phía đều là thảo nguyên mênh mông, trời đất trống trải, dường như chỉ có sự tồn tại của bọn họ. Dọc đường, tập kích phá trại, địa doanh lớn nhỏ thuộc Bá Nhan bị nhổ bỏ, hành quân rất nhanh.

Bởi vì Bá Nhan bí mật chiêu mộ tướng sĩ các bộ xuất binh Đại Đồng, doanh trại hậu phương cực kỳ trống không, y trước đóphong tỏa nghiêm ngặt tin tức, để phòng bị bộ tộc Ngõa Lạt hoặc Đóa Nhan Tam Vệ biết được. Do thảo nguyên rộng lớn, mặc dù cùng lệ thuộc một bộ tộc, xưa nay cũng khó gặp mặt, khó nắm bắt tin tức của nhau, về lý mà nói, đợi kẻ địch khác biết được lúc hắn phòng thủ trống không đối với bộ tộc, liền có ý muốn tiến công, y cũng đã dẫn quân bắc phản rồi.

Chỉ có điều y không bao giờ ngờ được, đường đường là con trai của Hoa Đương, trở thành con trai của tộc trưởng bộ tộc đối địch, không ngờ mật kết với huynh đệ trong bộ tộc của y, hơn nữa còn nhận được tin tức chính xác y xuất binh ra ngoài, càng không ngờ được Hoa Đương nhát gan sợ phiền phức trước giờ mà dã tâm lại to lớn lên, không ngờ dám chủ động xuất binh, cướp sạch doanh trại quân đội của y.

Bá Nhan có lý do không thể không xuất binh, không thể không mạo hiểm, để che giấu tai mắt của người khác, thậm chí y giữ người vợ yêu từ trước đến giờ như hình với bóng để an lòng dân, sau đó hiện giờ xem ra, y mạo hiểm đã thất bại rồi. Một bước thua, từng bước thua, bao năm chinh chiến chiến trường đoạt đất chiếm nông trường, đang bị Hoa Đương nuốt mất.

Hiện tại, Hoa Đương đã từng bước đẩy mạnh đến đại bản doanh của y rồi.

Mỗi chiến sĩ đều đoạt lấy lượng lớn của cải, đã tìm một bộ phận chiến sĩ áp giải trở về rồi, lòng tham của bọn họ càng ngày càng lớn, đối với đại bản doanh giàu có nhất bộ lạc Bá Nhan, nhất định phải được.

Trời đầy sao, cây cỏ tươi tốt, một vòng trăng lưỡi liềm bóng loáng như gấm phát ra hào quang yếu ớt trên mặt đất. Đội mã của hơn một vạn người, giống như một đám mây đen dưới ánh trăng, chậm rãi di chuyển trên thảo nguyên, chỉ có tiếng bước chân đạp nhẹ.

Phía trước là đội nghìn người của Nãi Nhân Đài, đây là một nhóm bộ đội mũi nhọn cách đại đội khoảng ba dặm, phụ trách tìm kiếm và cảnh giới. Uy danh Bá Nhan bên ngoài, cho dù đã có tin tức xác thực, nói y đã đem người chạy đến phủ Đại Đồng nhưng là để tích uy. Hoa Đương vẫn là cẩn thận mấy lần, đã tiếp cận hang ổ lâu năm của Bá Nhan rồi, ông ta không thể không cẩn thận.

Đột nhiên, phía trước truyền đến một loạt tiếng chém giết kêu la, trong lòng Hoa Đương căng thẳng, lập tức lệnh đại quân đứng tại chỗ đợi lệnh, phái Ba Nhã Nhĩ dẫn ba nghìn kị binh thám thính kết quả, để thận trọng, ông ta lại phái đội hơn ngàn người, phân phó người cảnh giới trong vòng hơn dặm, trận hình trong đêm tối xem ra giống như chim ưng giương cánh.

Nhân mã phi trên đồng cỏ, tiếng chém giết nổi lên bốn phía. Trong đêm tối, từng mạng ngườigần như không thể thấy hàn quang mà thiệt mạng. Tiếng rống giận dữ của đàn ông, tiếng kêu khóc của phụ nữ và trẻ em, tiếng va chạm của binh đao sắt thép, còn có tiếng ngựa hí dê kêu, tiếng trâu rống chạy trốn tứ phía hỗn tạp với nhau.

Ba Nhã Nhĩ vừa mới xông đến tinh thần chấn động:

- Nghe động tĩnh này, bộ lạc này không nhỏ, hơn nữa cực kỳ giàu có, thế này lại có thể vơ vét một khoản lớn rồi!

Y căn bản không sợ hãi, vừa vung cái cương xoa trong tay, đồng thời hung hãn quất lên mông ngựa, hét lớn:

- Nô lệ, dê bò, của cải và phụ nữ Trường Sinh Thiên ban cho chúng ta đang ở trước mặt, xông lên!

Ba nghìn thiết kị dũng mãnh xông đến. Trong bóng tối không dùng cung tiễn được, từng thanh đao cong sáng loáng lặng yên giơ cao trong tay, theo bước chân ngựa chạy ầm ầm, nhìn xa xa, dưới ánh trăng một mảng hàn quang khó coi kinh người.

Vẫn là tấn công như đỉnh lũ, nơi chiến mã đi qua, sóng phân gió nứt, cả một đội kị binh như một thanh đao nhọn, cắt đôi hai bên đang hỗn chiến, cứ xông đến giết, lao đến bên ngoài cả doanh trướng, sau đó lại lượn quanh hình vòng cung, yểm thân giết tới. Lúc này, binh lính theo sát phía sau đã giao phong chính diện với kẻ thù rồi.

Doanh trại quân đội này đã là doanh địa quý tộc quan trọng trong lòng bộ lạc của Bá Nhan rồi, nơi đóng quân cách đại doanh của Bá Nhan ba mươi dặm, trú đóng khoảng hơn hai nghìn người, để bảo vệ cho trọng địa căn bản, binh lính của bộ lạc này không bị điều động xuất chinh, bọn họ chịu trách nhiệm bảo vệ hoàng hậu, ban đêm phái sĩ tốt mang theo mục dương khuyển đi tuần tra.

Chính là bọn họ phát hiện đội quân tiên phong của Hoa Đương lặng yên tới gần trước tiên, sau đó điều này cũng chỉ giúp chiến sĩ trong đại doanh tranh thủ chút thời gian để nắm lấy vũ khí, nhảy lên ngựa, lập tức lẫn vào đám hỗn chiến. Lúc ba nghìn thiết kị của Ba Nhã Nhĩ như một luồng nước lũ từ giữa bọn họ xuyên qua, sau đó lại quay lại, cắt bao, đánh trận tiêu diệt, bọn họ liền biết đại thế đã mất rồi.

Sau đó bọn họ không thể không đánh, Ba Nhã Nhĩ mượn sức xông lên và chống đỡ của chiến mã, cương xoa trong tay mang theo kình phong khiến người ta nổ da đầu, một tiếng "ô" quét ngang qua, đẩy bốn cán trường mâu đâm trực tiếp tới, trong đó hai cán đã có tiếng gãy, lập tức hung hăng sóc một cái về phía trước, mượn xung lực, đâm một tên kị sĩ nhảy khỏi ngựa.

Đoạt lại cương xoa, lại giống như độc long vừa nuốt vừa phun, ba cái lỗ trên ngực tên kị sĩ trên bụng ngựa đã bị nhảy lên đâm vào mông ngựa, máu nóng phun điên cuồng, chưa kịp kêu một tiếng liền ngã khỏi ngựa, tiếp đó dòng chiến mã như đèn kéo quân nghênh ngang, vó ngựa to như bát ăn cơm không hề cố kị, giẫm cơ thể to lớn của hắn thành một khối thịt nát.

Số lượng chiếm ưu thế, công kỳ vô bị, đột nhiên giống như công kích dạng mũi dao nhọn, khiến cho bốn nghìn thiết kị phát huy vô cùng nhuần nhuyễn, công kích hung ác mãnh liệt, chỉ trong một lát liền làm đối phương vội vàng ứng chiến, giết sạch hơn nghìn chiến sĩ không hề có trận hình và sự phối hợp.

Có chiến sĩ bị rơi khỏi ngựa, có người bị thương, có người hoảng loạn chạy trốn trong bầy ngựa, không biết lúc nào hoặc ở phía trước, hoặc ở phía sau, hoặc ở hai bên, thì sẽ có một con ngựa lao đến, kị sĩ lập tức nhấc mông đứng dậy, giơ cao đao thép trong tay, mang theo một xâu huyết châu mạnh mẽ chém xuống.

Chém vai treo lưng, chém kẻ địch bị ngã khỏi ngựa thành hai mảnh. Quá là nhanh, có chiến sỹ thậm chí còn có thể nghe được tiếng đao thép cắt vào xương sọ mình, tiếng xương vỡ vụn, mà lúc này, một nửa thân người hắn hoặc là cả cái đầu mang theo một cánh tay đã rơi xuống đất.

Chiến đấu vô cùng kịch liệt, kết thúc cũng sạch sẽ gọn gàng. Lúc đại quân của Hoa Đương hiểu rõ tình hình chạy tới, Ba Nhã Nhĩ và Nãi Nhân Đài đã bắt đầu vơ vét tất cả của cải, gom dê bò, phụ nữ, người già và trẻ em đứng chung một chỗ, không phân cao thấp đắt rẻ, bọn họ bây giờ hết thảy đều là nô lệ.

Hoa Đương đơn giản hỏi rõ tình hình, biết đại doanh của Bá Nhan ở ba mươi dặm phía trước, lập tức tinh thần chấn động, ra lệnh:

- Để lại một ngàn người trông coi tù binh, tất cả của cải và vật dụng ngựa đều để ở đây, kị sĩ mang đồ nhẹ nhàng tiến lên trước, nhất định có người chạy đến báo cho đại doanh Bá Nhan rồi, tất cả nhanh chóng xuất kích!

Hoa Đương vốn rất cẩn thận thận trọng. Vào thời điểm mấu chốt này ông ta lại quyết định nhanh chóng, lập tức hạ quyết định: Được thua thành bại là ở lúc này, nếu dễ dàng chiếm được doanh này, chứng tỏ lúc trước cẩn thận tìm tòi, tin tức quét sạch doanh trại quân đội căn bản không có truyền đến đây, phía trước không thể lại có cạm bẫy nữa.

Nơi này là tiền tiêu của đại doanh, mặc dù vừa rồi không có người chạy trốn, bọn họ cũng nhất định có cách liên lạc với đại doanh, cần phải toàn lực tấn công, không cho đại doanh của Bá Nhan có cơ hội thong dong chuẩn bị chiến đấu.

- U... u... u

Tiếng kèn hiệu đang kêu dài không dứt, đã không cần che giấu hành tung nữa rồi, đây là quyết chiến cuối cùng!

Hoa Đương kích động vạn phần:

- Bắt tất cả của Bá Nhan đi, khi đại quân của hắn quay về thảo nguyên, ngoại trừ thần phục đầu hàng, con đường duy nhất chỉ có chết đói. Hiện tại, ta và Hỏa Si có địa vị ngang nhau, thậm chí còn mạnh hơn hắn, ta sẽ trở thành vua trên thảo nguyên!

Tiếng kèn hiệu ngân nga hùng hồn không thôi, đại quân của Hoa Đương đột nhiên tăng tốc, giống như một mũi tên nanh sói lớn sắc bén, từ trong quân xông ra, hai cánh hỗ trợ, lao thẳng tới bản bộ doanh trướng của Bá Nhan.

Đại doanh của Bá Nhan đã nhận được tin tức do phi kị đưa đến, nhưng kị binh này biết sự việc quan trọng, vừa gặp địch mạnh lập tức phi đến báo, về phần người đến là ai thì hắn cũng không biết.

Cho dù như thế, có chức trách, Mạc Nhật Căn với tư cách làm chủ tướng do Bá Nhan sắp xếp lưu lại đại doanh nhưng không dám khinh suất, lập tức thổi kèn hiệu, mệnh lệnh tất cả chiến sĩ tập hợp nghênh địch. Các chiến sĩ vội vàng lên ngựa. Bọn họ ở bên ngoài những doanh trại nhà bạt khổng lồ vừa bày xong trận hình, ở xa xa, dưới ánh trăng tinh quang truyền lại một trận tiếng gầm quái dị.

- U ao...

Giống như tiếng sói tru dưới trăng, nhưng lại hùng hồn vô cùng, đó là tiếng gầm đáng sợ của vô số kị sĩ đồng thanh hô hào hình thành. Dưới ánh trăng nhàn nhạt, vô số bóng đen chi chít từ phía trước nhào đến, giống như sóng triều bốc lên. Ba đào mãnh liệt. Trời rung đất chuyển.

Nhìn thấy thanh thế kinh người này, Mạc Nhật Căn đột nhiên biến sắc. Quay đầu nhìn ba nghìn tinh kị đang vội vàng tập hợp, gã không khỏi tuyệt vọng. Nghênh diện đến không phải là một đám cừu, mà là lực sĩ dũng mãnh không thua kém mãnh sĩ của bọn họ, mà nhân số của đối phương tính sơ sơ ít nhất cũng đến một vạn hai nghìn người.

Gã quay đầu rống to với thân tín bách phu trưởng:

- Nhanh, bảo vệ Tắc Lý Mộc Khả Đôn lập tức rời đi, các dũng sĩ, quyết không lùi bước, xông lên thôi!

Bọn họ quen tiến công, không có thói quen phòng thủ, cũng không có điều kiện phòng thủ. Đại doanh Bá Nhan có mấy trăm cái doanh trướng, chỉ có vương cung Bá Nhan ở chỗ trọng yếu nhất, xung quanh lều vải Mông Cổ Đại Hãn cực lớn mới có một bức tường đất không cao.

Đại quân Bá Nhan bày ra trận hình đầu mũi tên, hướng lên trên phía đối diện. "Chiến thuật đục thủng" là trận hình công kích có hiệu quả mà Thành Cát Tư Hãn căn cứ vào đặc điểm tấn công của thiết kị Mông Cổ mà tổng kết ra, cùng xuất một mạch, tự nhiên đều hiểu chiến thuật này, vậy còn phải xem mũi dao của ai càng sắc bén hơn.

Đại quân của Hoa Đương coi trọng tâm niệm tất thắng và binh lực hùng mạnh, còn người giữ chốt Mạc Nhật Căn chỉ có bốn trăm kị binh trong ba nghìn thiết kị. Vũ trang trọng kị chuyên sự tấn công, thân hình bọn họ cao lớn cường tráng, ngựa cũng là những chiến lực khỏe mạnh cường tráng nhất giống thế, nhân mã toàn thân đều mặc khôi giáp da, dùng vũ khí là trường mâu, xiên thép và gậy nanh sói cũng là binh khí cực lớn nặng.

Trọng kị đột tiến, khinh kị đi kèm theo đuôi cánh, xông đến phía bọn cường địch lớn mạnh gấp mấy lần.

Tiếng vó ngựa rõ ràng là có chút bất đồng, tuy rằng bóng đêm thâm trầm, Hoa Đương vẫn lập tức cảm giác được đây là trọng kị binh của Bá Nhan. Trên chiến trận, dùng trọng kị binh để phá vỡ trận doanh sắt thép kiên cố không thể lung lay của quân địch, sau đó khinh kị binh đột tiến, tấn công trung tâm, đích thực là chiến pháp sắc bén cực kỳ, vấn đề là: Tác dụng của bọn họ chỉ dừng lại ở tấn công. Hiện tại, bọn họ vẫn còn đủ binh sĩ phối hợp, mở rộng khu vực trọng kị binh tấn công, yểm hộ những bất lợi cho trọng trang kị binh đánh tại chỗ lâu sao?

Kèn hiệu lại gióng lên, đại quân sắp hình mũi đao nhọn của Hoa Đương chia thành năm nhánh, hai cánh đại quân bên ngoài cũng giống như hai thanh loan đao sắc bén, tránh trọng kị của Bá Nhan ra, bổ về phía đại doanh không chút phòng bị, chân ngựa dẫm đạp khắp nơi, ánh lửa bốc lên bốn phía, tiếng cười độc ác, tiếng la khóc nối tiếp nhau vang lên...

Trọng trang xuất kích, có đi không về, bây giờ đã không còn quan tâm đến đại doanh nữa, ba nghìn kị sĩ ngập tràn bi phẫn, hy vọng duy nhất là cố hết sức chém giết quân thù. Ba đội nhân mã ở giữa của Hoa Đương không sợ chết mà tiến lên, dẫn đầu chính là Hoa Đương.

Hai bên vẫn chưa tiếp xúc, mũi tên đã bay xiên xuống như mưa. Bọn họ đều là những cao thủ có kỹ thuật về bắn tên cưỡi ngựa, vừa thông suốt đối xạ, mưa tên dày đặc vừa bắn, không ít người dính tên ngã ngựa. Sau đó thế xông lên của hai bên lại không có chút đình trệ.

Lúc ba nhánh kị binh của Hoa Đương đuổi theo đón đầu, hai nhánh tách ra tả hữu vượt lên, tách đôi mũi nhọn của trọng kị binh, lao thẳng đến sát phía sau khinh kị, giống như gọng kìm kiềm chặt chẽ lại, cắt đứt sự phối hợp của khinh trọng kị binh, ưu thế số lượng tuyệt đối, không thua kém vũ lực, khiến cho thắng bại trong khoảnh khắc liền thấy được manh mối.

Vô số đem quơ mã đao, trường mâu. Phát ra tiếng leng keng, phát ra tiếng kim loại khắc vào cơ thể, tiếng chửi mắng, rống rít bên tai không dứt, lại nghe thấy ít tiếng kêu thảm thiết tuyệt vọng khi chết.

Cung tiễn và dây thừng, tạo ra những khốn nhiễu nhất định cho vũ trang trọng kị, nhưng là uy hiếp cũng không hề lớn, bọn họ quả thực cắt đôi trận doanh của kị binh Hoa Đương, khí thế không thể ngăn cản mà liều chết xông lên, vấn đề là không có người đi theo vào.

Lúc khí thế xông lên của bọn họ đã suy giảm, bọn họ phát hiện bốn phía chạy đi đều là khinh kị của Đóa Nhan Tam Vệ, trước mặt bọn họ đã không có đủ không gian để bọn họ chạy nữa, hết sức phát huy phối hợp hoàn mỹ tốc độ và trọng lượng, lực lượng. Trọng kị thế không thể ngăn cản khiến người ta lo sợ đã biến thành chậm chạp, chiến sỹ bốn phía túm năm tụm ba, giống như một bầy sói hoang, không chút do dự mà xông đến giết.

Đây là một trận hỗn chiến ác chiến, song phương cài răng lược, giằng co với nhau. Giận dữ rống to, máu tươi phun trào, sau đó người của Hoa Đương rõ ràng chiếm thế thượng phong. Lúc vũ lực tương đương, nhân số chính là nhân tố quyết định tuyệt đối phần thắng.

Kị binh của Hoa Đương biết đây là trận chiến cuối cùng, mỗi người đều dũng khí tăng gấp bội, bọn họ chạy đi giằng co, hung hãn chặn đánh, xa đánh gần cướp, phối hợp ăn ý. Ba nghìn thị vệ tinh kị không ngừng giảm bớt. Sự sụp đổ đầu tiên chính là bốn trăm tên trọng kị binh vốn cương mãnh vô cùng, cứng thì dễ gãy, cổ xưa đã có giáo huấn rõ ràng...

Na Bố Kỳ vội vàng hấp tấp đi vào đại trướng Khả Đôn, vội kêu to:

- Khả Đôn, đại quân của Hoa Đương đánh lén doanh trại của chúng ta, bọn chúng người đông thế mạnh, tướng quân Mạc Nhật Căn lập tức sẽ rời khỏi đây, thân vệ bách phu trưởng Thiếu Bộ của ông ấy đang đợi bên ngoài, chúng ta nhanh đi thôi.

Tắc Lý Mộc Trác Nhĩ vẫn căng thẳng đứng trong doanh trướng đợi tin tức, nàng đã biết có bộ lạ đánh lén, nhưng vẫn không biết kẻ địch đến từ đâu, Bá Nhan viễn chinh bên ngoài, cho dù tin tức phong tỏa nghiêm mật, nhưng là một vạn tám trăm tinh binh viễn chinh, tin tức không giấu được bao lâu.

Đã hơn hai mươi ngày rồi, hiện tại tin tức hẳn là sẽ từng bước lan truyền ra, theo phỏng đoán của nàng, hai đại cường địch Hỏa Si và Hoa Đương nhận được tin tức, lại phái người kiểm chứng, cho dù lập tức phá vỡ toàn diện dụng binh, vậy thì lại thông báo các bộ lạc tập hợp binh mã, đến tận khi xuất chinh, nhanh nhất cũng phải khoảng hơn hai mươi ngày, trước sau gần hai tháng, Bá Nhan cũng nên trở về rồi.

Nhưng bây giờ lại có báo động đột ngột, sao lại có thể như thế?

Trên khuôn mặt xinh xắn trắng trẻo của Tắc Lý Mộc Trác Nhĩ mang vẻ trang nghiêm khẩn trương, nàng hy vọng tốt nhất là sợ bóng sợ gió một hồi, tốt nhất là một bộ lại phụ thuộc vì thiếu lương thực mà to gan phạm phải nào đó, chỉ cần không phải là hai người Hỏa Si và Hoa Đương dám ngang ngược đùa nghịch với Bá Nhan kiêu hùng, thì không phải là nguy nan gì ghê gớm cả.

Nhưng mà hiện giờ những lời nói của thị nữ bên người Na Bố Kỳ, lại dập tắt ảo tưởng của nàng. Trác Nhĩ tái mặt, đôi môi mỏng mà hồng cắn chặt, đã cảm nhận được mùi vị ngai ngái.

Na Bố Kỳ nhìn nàng ngẩn người, vội vàng lắc cánh tay nàng nói:

- Khả Đôn, Khả Đôn, nhanh đi đi, còn chần chừ sẽ không kịp nữa.

Trác Nhĩ hơi lắc đầu, đẩy tay nàng ta ra:

- Không, Na Bố Kỳ, không kịp nữa rồi, Hoa Đương tấn công doanh trại của chúng ta, sẽ không thể không cử người ngăn cản con đường bỏ trốn của chúng ta, chỉ dựa vào mấy trăm dũng sĩ Thiếu Bố thì không thể xông ra được.

Ánh mắt của nàng chợt lóe lên, hít một hơi sâu nói:

- Truyền lệnh của ta, tất cả mọi người không cần chống cự vô nghĩa, chúng ta tiếp nhận sự an bài của vận mệnh, ta... mệnh lệnh bộ tộc, đầu hàng!

Na Bố Kỳ kinh ngạc há to miệng, hồi lâu sau mới lẩm bẩm nói:

- Để người Thiếu Bố phân tán tứ phía chạy, tất có người có thể chạy thoát, nên nhanh chóng kêu Khả Hãn hồi binh...

- Câm miệng cho ta! Lập tức truyền đạt mệnh lệnh của ta, không được chọc giận Hoa Đương!

Trác Nhĩ dung mạo thanh tuyền xinh đẹp nho nhã, giống như đóa tuyết liên thuần khiết, lúc này giận dữ lại có một luồng khí chất run người. Na Bố Kỳ giật nảy mình, vội vàng thi lễ, nhanh chóng ra ngoài truyền lệnh.

- Nếu biết ta bị người ta bắt đi, Khả Hãn nhất định sẽ lập tức hồi sư. Nhưng là hiện tại hồi sư thì đã trễ, chỉ có thể khiến hắn thêm suy sụp. Khả Hãn đang làm đại sự, có thể tái khởi Đông Sơn hay không, đều nằm ở việc này. Mãn Đô Hải có thể phụ tá hắn thành tựu bá nghiệp thì Tắc Lý Mộc Trác Nhĩ ta cũng có thể!

Trác Nhĩ nắm chặt hai nắm đấm, móng tay cắm sâu vào lòng bàn tay, nhưng thua xa nỗi đau đớn trong tim nàng.

Mệnh lệnh của nàng truyền đạt đã quá muộn rồi, ba nghìn tinh kị binh mã đang đánh nhau bên ngoài doanh trại chưa về. Lúc hai đội kị binh của Hoa Đương phá doanh trại xông vào, lại giết rất nhiều người già yếu bệnh tật gấp gáp phản kháng. Tinh binh của Thiếu Bố bị ép phản kháng, nhanh chóng bị dẫm nát thành bùn dưới chân ngựa, Na Bố Kỳ giật mình đến trắng bệch mặt, mệnh lệnh của hoàng hậu căn bản không ra khỏi doanh trướng Khả Hãn.

Mười hai doanh trướng Đại Hãn Mông Cổ của Cáp Na, với tư cách là chiến sĩ trên thảo nguyên làm sao có thể không biết? Thiết kị sẽ vây quanh chiếc lều vải cực lớn màu trắng, nhưng không ai có gan dám đi vào bên trong quấy nhiễu.

Na Bố Kỳ thấy thế trong lòng an tâm một chút, nàng vội vàng chạy về trong trướng, muốn báo cáo tin tức hiện nay cho Khả Đôn, vừa mở rèm trướng lại phát hiện Khả Đôn ngồi ở trước trường kỷ cạnh màn che, đang chải mái tóc như mây. Nàng thay một bộ áo ngủ tơ tằm màu ngà khảm đường viền hoa. Nửa bộ ngực sữa lộ ra, eo thon nhỏ nhắn, lụa mỏng che người, không thể che hết những đường cong tròn trịa bên mông.

Na Bố Kỳ đầu tiên ngẩn người ra, tiếp theo là giật mình, cuối cùng là sự khinh miệt thật sâu...

Đại quân Hoa Đương trở thành chủ nhân mới của đại doanh Bá Nhan, tù binh phụ nữ và trẻ em bị giam riêng biệt, súc vật dê bò trong doanh trại và những của cải khác phải đến ngày mai mới kiểm kê, ngoại trừ binh khí cung tiễn... trước hết gom lại, đại quân mệt mỏi liền chiếm đại doanh của Bá Nhan, nhóm lửa thổi cơm, chuẩn bị nghỉ ngơi một đêm thật tốt.

Bạch Âm vô cùng cẩn thận, sắp xếp cảnh vệ khắp nơi trong doanh trại, Hoa Đương cũng phái con trai là A Nhĩ Tư Lăng đi ra, dẫn đội thân binh của y cảnh giới tầng tầng lớp lớp xung quanh, để phòng bị người khác đánh lén.

Khi mọi thứ đều sắp xếp ổn thỏa, y mới đến trước đại trướng của Khả Hãn, binh lính bao vây ở đây lần lượt chắp tay thi lễ với hắn. Hoa Đương thỏa thuê mãn nguyện nhìn lều lớn màu trắng, trên lều vải thêu đầy trang sức xinh đẹp, hoa lệ mà trang nghiêm. Giờ phút này có vô số cây đuốc đang chiếu rọi. Bóng dáng bọn tướng sỹ và binh lính in lên lều vải trắng mờ ảo, vặn vẹo biến hình, giống như những con ác quỷ đang giương nanh múa vuốt.

Hoa Đương hơi cười, đi đến trước lều vải dừng lại một chút, sau đó mở vải rèm, ngước mắt nhìn khắp nơi, trên mặt đất trải thảm mềm mại, được dệt hoa văn hoa lệ rối ren. Đây là doanh trướng khởi cư của Khả Hãn, một chiếc giường cực lớn, đặt đằng sau bức rèm mềm nhẹ mông lung, phía trước rèm là một ngai vàng, trước ngai vàng là một trường kỷ, bên trên đặt mấy đĩa hoa quả tươi, điểm tâm, còn có hai lọ hoa tươi.

Phía bên phải sát ngoài rèm che ánh đèn ảm đạm, ở đó có một bàn trang điểm xinh đẹp, một mỹ nhân dung mạo thanh tao lịch sự đang ngồi ngay ngắn, che chiếc đèn trên bàn trang điểm. Ánh đèn xuyên qua áo bào mềm mại trắng trong suốt, tôn lên dáng người uyển chuyển cao lớn, tuyệt đẹp khiến người ta thèm chảy nước miếng.

Trên thảo nguyên có được mấy mỹ nhân đặc biệt mỹ lệ như vậy? Đây chính là Tắc Lý Mộc Trác Nhĩ, mỹ nhân vang danh thảo nguyên, hoàng hậu mà Bá Nhan Khả Hãn sủng ái nhất? Hô hấp của Hoa Đương trở nên nặng nề, trong mắt cũng phát ra ngọn lửa cực nóng.

Tắc Lý Mộc Trác Nhĩ duyên dáng đứng dậy, từng bước từng bước đi tới, dáng người đẹp đẽ dưới lớp lụa mỏng đong đưa nhẹ nhàng theo eo mông nàng, quyến rũ mê người, trong lều vải nhất thời dậy lên không khí dâm mĩ kiều diễm. Một cặp sóng mắt như nước mùa thu của Trác Nhĩ hơi buông xuống, đến trước mặt Hoa Đương sợ hãi quỳ xuống.

Hoa Đương nhẹ nhàng cúi người xuống, nâng cằm mềm mịn của nàng lên, nhìn chằm chằm hồi lâu vào mỹ nhân tuyệt sắc này, sau đó ôm hai vai nàng đỡ dậy. Ông ta cười rồi, cười vui vẻ, dường như ông ta bây giờ đã là vua trên thảo nguyên.

Trên thảo nguyên, bất luận ngươi vốn là tầng lớp cao quý nào, chiến bại rồi thì tất cả của ngươi đều thuộc về kẻ chiến thắng, tất cả của ngươi chính là những thứ mà hắn muốn gì thì lấy. Tù trưởng, thê thiếp của Khả Hãn trong chiến tranh của đàn ông giống như hàng hóa trong tay kẻ chiến thắng, những người chiến thắng trước những người chiến thắng không ngừng lưu động qua lại, vốn là chuyện thường.

Mẫu thân của Bá Nhan Khả Hãn, đã từng bị thủ lĩnh một bộ lạc khác cướp đi trong chiến tranh. Bá Nhan Khả Hãn cho đến khi trưởng thành, đánh bại bộ lạc đó mới cướp được mẫu thân về, nhưng lúc này mẫu thân của y đã sinh mấy người con với thủ lĩnh đó. Phụ nữ trên thảo nguyên giống như lục bình không rễ, chỉ có thể dựa dẫm vào người mạnh hơn thôi.

Lúc này, hoàng hậu xinh đẹp nhất, cao quý nhất của Bá Nhan cũng thần phục dưới chân ông ta, thừa nhận ông ta mới là anh hùng thảo nguyên vĩ đại nhất, là kẻ mạnh nhất trên thảo nguyên, Bá Nhan đã như chó nhà có tang, còn có thể làm gì nữa chứ?

B ngoài doanh trướng, đuốc vẫn còn không ngừng chiếu sáng. Không biết lúc nào, Na Kỳ Bố khom lưng hơi lui ra, sau đó hạ màn trướng xuống, tự mình quỳ bên cạnh màn che.

Bãi cỏ và tất cả con dân đều trở thành sở hữu của người khác, Bá Nhan Mãnh Khả đáng thương, lúc y hồi sư, hai bàn tay trắng, chỉ có thể giải tán đại đội, dẫn thân tín theo mình trở thành Hưởng Mã đạo trên thảo nguyên sao?

Hỏa Si cùng Hoa Đương đột nhiên dốc toàn lực xuất động, nhân lúc hậu phương Bá Nhan trống trải, một lần hành động lấy luôn vùng này, đại cục đã định, thời gian đã trễ. Xem ra, vốn dĩ đối thủ vẫn còn loại hợp tác ăn ý nào đó, nhanh chóng liền trở thành đối thủ cạnh tranh mới.

Trước khác nay khác, kẻ địch vốn cường mạnh như Bá Nhan đã không đáng nhắc đến nữa. Hai người cần đánh giá lại một chút thực lực chính thức của đối thủ chính.

Bọn họ vừa tích lũy lực lượng, vừa yên lặng chờ đợi. Đợi đến ngày hai bên xung đột vũ trang. Đồng thời cũng đợi Bá Nhan, chờ đợi màn biểu diễn cuối cùng của người anh hùng mạt lộ này. Là hoạt kê hay là bi tráng đây? Hy vọng, cường nhân đã từng mạnh nhất này sẽ không khiến bọn họ thất vọng.

Cho dù nói thế nào, trên thảo nguyên coi như tạm thời rơi vào cảnh yên lặng trước bão táp...

Khâm Sai Tổng Đốc, Uy quốc công gia Dương Lăng, trú viên trong Diễn Võ đường trong thành Đức Châu. Hậu trạch trước Diễn Võ đường là một dinh thự lớn mà sâu, trước sau tam tiến viện lạc, trái phải còn có xa mã đỗ lại, bố trí tạp dịch lấp nhà ngang. Do quân sự công sở cho nên tường cao hào sâu, rừng cây trong viện râm mát.

Đã trung tuần tháng sáu, thời tiết khô nóng, hôm qua vừa mưa, không lâu sau, không khí mát mẻ liền biến mất, tiếng kêu to kết thành một mảng, sáng sớm liền huyên náo không ngớt, quả thực không có một khắc thanh nhàn.

Dương Lăng buộc bào quấn khăn, đai ngọc quấn eo, chỉnh đốn một hồi mới thu dọn sẵn sàng. Ngũ Hán Siêu vừa giúp hắn đeo bội kiếm, vừa nhíu mày:

- Quốc công, chiều hôm qua ta đưa những người này đi dạo một vòng quanh thành, lại đến Tang Viên khẩu và mười hai liên thành, không ngoài dự liệu của quốc công, quân đội không chỉ là đều có lệ thuộc hơn nữa quân kỷ bại hoại, khắp nơi là du binh tán dũng.

Hiện giờ có viện quân của Thiên Tân, Bảo Định, mà địa binh bản địa Đức Châu cũng phân trung vệ và hữu vệ, về phần dân tráng đinh dũng cũng đều có Đoàn luyện sứ, về phần sĩ khí những tán binh từ mấy huyện Tề Hà, Lâm Áp, HuỠDân càng suy sụp, vô cùng tản mạn.

La chỉ huy chỉ là một người phụ trách trên danh nghĩa, sự thực rất nhiều tướng lĩnh không coi hắn ra gì. Những người này mỗi người đều có xảo quyệt, quân đội dụ lệnh khó làm, lại phân trú ba nơi, muốn làm được việc chi viện cho nhau, hai bên phối hợp, hai bên tín nhiệm, lệnh hành thống nhất chỉ sợ vô cùng khó khăn. Tuy tổng binh lực chúng ta gấp đôi Hưởng Mã đạo, chỉ là lúc lâm chiến khó tránh đều có tâm cơ riêng, hỗ trợ cho nhau, làm lỡ thời cơ chiến đấu.

Dương Lăng gật gật đầu, vừa ấn kẹp lò xo, "choang" một tiếng kiếm sắc bắn ra nửa thước, hắn lại khanh một tiếng tra kiếm vào trong vỏ, nắm chặt khăn bát phương bình định, nói:

- Đi, đến sàn đấu võ điểm binh đi, ngươi nói ta đều biết, gọi ngươi đi chỉ là đi kiểm chứng một chút. Loạn thế dùng luật nặng, bệnh nặng dùng thuốc mạnh, đám tướng lão gia binh lưu manh, là được trước dọn dẹp, nếu không khó chịu được trọng dụng. Ôi, đưa cho ta một cốc trà lạnh, mặc quần áo vào liền toát hết mồ hôi rồi.

Một đoàn người vội vàng đến bên ngoài đường. La chỉ huy toàn thân giáp trụ, đã ngồi ngay ngắn đợi lâu rồi, vừa thấy Uy quốc công xuất hiện, lập tức hạ chén trà xuống, vỗ áo đứng dậy. Dương Lăng mắt nhìn La Quang Quyền. La chỉ huy khẽ gật đầu, Dương Lăng hơi cười, nói:

- Đi, đến sàn đấu võ.

Cửa trước của Diễn Võ đường vô cùng lớn, cửa sơn son vòng đồng đầu thú, trước cửa hùng sư đứng sóng đôi, mặt đất trước cửa đều do quân sĩ dùng đá đôn cứng như thép, một cây điêu đấu đâm thẳng vân tiêu, trên cao treo một lá cờ lớn có chữ "Dương".

Dưới hành lang trước cửa có tám quân sĩ lưng hùm vai gấu đang đứng, ở đây râm mát, lại còn gió lùa, tám người cũng không quá khó chịu. Vừa thấy quốc công đi ra, bọn họ vốn thân hình lười biếng lập tức đứng thẳng dậy, tay ấn chuôi kiếm, thần sắc nghiêm nghị, chỉ là đám người Dương Lăng vừa đi qua, bờ vai đang dựng thẳng liền hạ xuống, sát khí uy nghiêm cũng biến mất. Đành chịu. Mặt đất Sơn Đông, lúc nóng lên đúng là thực sự nóng mà.

Sớm có người dắt chiến mã đến ngoài cửa lớn, Dương Lăng nhận mũ vành lớn đội lên đầu, xoay người lên ngựa, giương roi da lên. Tiếng vó ầm ầm, hơn mười con ngựa nhanh chóng phi như bay.

Sàn đấu Đức Châu ở ngoại thành, chín dặm xung quanh nội thành, hai mươi dặm ngoại thành, vô cùng rộng lớn. Tinh kỳ trên sàn đấu lớn tung bay, đám tán binh Đức Châu vệ, Đức Châu tả vệ, Bảo Định quân, quân Thiên Tân, đoàn luyện binh Đức Châu, Tề Hà, Lâm 䰬 Huệ Dân mỗi thành có một phương đội, những binh lính này đương nhiên không phải là toàn bộ quân coi giữ, chỉ có khoảng một vạn người.

Dương Lăng tập trung nhìn: binh khí đủ loại, quân phục đủ màu sắc, hình thể cao lớn thô kệch, hàng ngũ lộn xộn, Dương Lăng vừa nhìn thấy lập tức trống rỗng, đây căn bản chính là một đám ô hợp mà thôi.

Trận hình hai quân Đức Châu vệ, Đức Châu tả vệ chỉnh tề nhất. Bất luận là kị binh bộ tốt, lộ ra một luồng sát khí, có vẻ huấn luyện có tố chất. Vừa nhìn chính là những chiến sĩ cung cường đao lợi, nhanh nhẹn dũng mãnh. Viện quân của Bảo Định, Thiên Tân cũng không tồi, nhưng dù sao là viện quân cũng khó tránh có cảm giác cao hơn người khác, tự mình coi mình là khách, đứng thì cũng ngã đông nghiêng tây.

Đoàn luyện binh đều là dân cường, tuy rất cố gắng đứng đó nhưng vẫn là láo nháo nghiêng lệch không thành dạng gì. Đứng đều đứng thành như thế, một khi đánh trận thì lao ra như ong vỡ tổ. Có thể thấy được muốn chỉ huy điều hành trên chiến trường sẽ khó khăn thế nào.

Đám nông dân này đều là tập trung thao luyện một chút lúc nông nhàn, địa phương Sơn Đông thượng võ, võ công cá nhân của bọn họ phỏng chừng cũng không tồi, vấn đề là võ công cá nhân đánh hình trận mặc dù cao đến Kinh Phật nhi, tiêu chuẩn kiểu Mẫn phong tử đó cũng không ảnh hưởng lớn đến chiến sự, dù sao quân ngũ tác chiến coi trọng việc phối kết hợp, mà bọn họ lại thiếu chính là cái này.

Về phần lính đào ngũ của các huyện khác tập trung về Đức Châu, cơ bản đều là vệ sở binh sống ở đó nhiều thế hệ, sự thối rữa và chiến lực thấp của vệ sở binh mọi người xung quanh đều biết, bọn họ có thể trổ hết tài năng từ trong tàn binh, có thể khôn sống mống chết, quang vinh trốn được một mạng từ dưới vó ngựa Bạch Y quân điên cuồng cũng coi là nhân tài rồi. Những người này hoặc là thân thể tráng kiện, hoặc là thông minh tỉnh táo, vấn đề là quân kỷ của bọn họ cũng là kém nhất, hơn nữa làm một chiến sĩ, tâm lý ghét chiến tranh, sợ chiến tranh mới là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến chiến lực của bọn họ thấp kém.

- Ôi, chưa nói cái này, đều có lệ thuộc, hiệu lệnh không đồng nhất càng thêm khổ, dựa vào những người này có thể hoàn thành kế hoạch của chúng ta hay không? Bất luận thế nào, ta nhất định phải thử một phen!

Dương Lăng dừng đợi ngựa, ánh mắt sắc bén cẩn thận quét một lượt những nhóm quân tạp nham này, sau đó vỗ bụng ngựa, giật nhẹ dây cương, thúc ngựa tiếp tục tiến lên, phía sau chỉ mang theo hơn mười thân vệ nhưng hơn mười người này thậm chí có có khí lực hơn cả đại quân hơn vạn người trước mặt. Lúc đứng nghiêm trang dừng trên đỉnh núi, trước khi đi chỉnh tề như một, hành quân như rừng, một luồng sát khí bức người, là tất cả những thứ mà các chiến sĩ trang nghiêm của sàn đấu võ không có sẵn.

Dương Lăng đi lên đài điểm tướng, La chỉ huy đứng trước đài, xướng danh các "chư hầu" theo thứ tự. Uy quốc công ở đây, mọi người khó có dịp nể mặt, từng người tiến lên bái kiến. Quân đội các lộ lần lượt đến trước đài làm chút diễn trận, biến trận, công phu quyền cước, lần này cũng làm cho Dương Lăng hơi nới rộng tâm tình.

Tinh thần thượng võ của vùng này thực sự là từ xưa đến nay, cũng chính vì vậy, đám Dương Hổ, Lưu Lục cướp đại kỳ tạo phản, mới có thể nhanh chóng đưa những nhân mã chiêu nhận được hình thành chiến lực cường đại, quan binh ở đây cắm rễ như vậy, cho nên nền tảng võ công cũng không kém, huấn luyện tốt một chút cũng có hy vọng.

Đợi đến binh mã các lộ đi một lượt, đã mồ hôi đầm đìa, lúc này mặt trời nóng rực, đến tướng lĩnh trước đài cũng không chịu nổi. Nhưng Dương Lăng đã hạ mũ che nắng, phơi nắng đến mức trán đổ dầu, đứng ở trước đài bất động, bọn họ cũng không dám hành động.

Dương Lăng tiến lên bắt đầu phát biểu, nói về danh nghĩa khai tông không gì hơn là về triều đình, hoàng thượng ân huệ ban thưởng, sau đó bắt đầu nói chuyện quân đội các lộ cùng thủ Đức Châu, đồng tâm hiệp lực, chúng tâm tề nhất.

Dương Lăng lập tức lệnh trung quân cao giọng tuyên đọc năm mươi điều khoản, mười bảy điều trong quân, từng điều cao giọng đọc, đọc một điều lại dùng khẩu ngữ giải thích tỉ mỉ một lượt, khiến cho trong quân mệt khàn hết cả giọng, binh lính dưới đài bị phơi nắng toát mồ hôi, nghe đến buồn ngủ.

Dương Lăng thấy tình hình như vậy, bước lên trước một chút, quát to:

- Toàn quân chú ý, tiến về phía trước ba bước!

Ba quân ngẩn ra, lính liên lạc phản ứng nhanh nhất, vội vàng cao giọng truyền đạt quân lệnh, ba quân so le không chỉnh tề tự đi về phía trước ba bước, cách đài điểm tướng càng gần hơn chút.

Dương Lăng uy nghiêm nhìn quét một lượt toàn quân, lấy hơi cao giọng nói:

- Một cái mặt trời chói chang nhỏ nhoi mà không chịu được nữa sao? Các ngươi đều là lính, quân lệnh vừa ra, đừng nói là mặt trời trên đầu quá nóng, cho dù trên trời rơi đao xuống, bảo ngươi đứng im cũng không được động đậy. Từ cổ có câu nói binh bại như núi đổ, đều nghe bao giờ chưa? Còn có câu, nói quân lệnh như sơn! Quân lệnh như sơn đấy! Quân lệnh không được phụng hành, thì ngọn núi này đổ rồi, người lính này sẽ bại thảm hại!

Hắn quay đầu nói với trung quân:

- Tiếp tục đọc!

- Vâng!

Trung quân hắng họng một tiếng, tiếp tục gào. Binh sĩ dưới đài chửi đổng nhưng không dám cao giọng. Chỉ đành nhẫn nại nghe con lừa trung quân tru lên.

Đúng lúc này, có người vội vàng chạy lên đài, nói thì thầm mấy câu vào tai La chỉ huy. La Quang Quyền lập tức tiến lên nói nhỏ với Dương Lăng.

Dương Lăng lùi về hông đài, gọi tướng lĩnh chỉ huy mấy lộ Bảo Định, Thiên Tân đến bàn bạc một hồi, vốn có người bẩm báo ngoài thành có một đám Hưởng Mã đạo nhỏ quấy rầy, hiển nhiên là thăm dò thực hư trong thành.

Chỗ này là ngoại thành, cách thành quách không xa, mới khoảng ba mũi tên, Dương Lăng bèn nói:

- Bản đốc còn chưa tận mắt thấy hình dạng của Hưởng Mã đạo, náo, chư tướng cùng với ta lên thành xem chút.

Lập tức gọi trung quân lại nói:

- Hiệu lệnh toàn quân đứng nghiêm, chưa có tướng lệnh của bản đốc, không được phép manh động! Bản đốc và chư vị tướng quân đi một lúc là tới.

Dương Lăng dẫn các tướng xuống đài, xoay người lên ngựa, đánh ngựa chạy như bay thẳng đến bắc thành. Thấy chiến mã của hắn chạy xa, thanh âm trung quân cũng yếu dần đi, cổ họng của y sắp bị rách rồi.

Quốc công gia đi bao lâu đây? Binh lính trông mòn con mắt, chính là không thấy các tướng quay lại. Một bách hộ trong tán binh của huyện Tề Hà thực sự không nhịn được nữa, y nâng quân phục đẫm mồ hôi vừa giũ quạt vừa nhăn nhó bước lên mấy bước, cao giọng nói với trên đài:

- Trung quân đại nhân, quốc công gia đều đi một lúc rồi, quân luật này cũng đọc xong rồi. Trời nắng chết người mất, hay là giải tán nghỉ ngơi một lát đi?

- Khụ! Hừm hừm... khụ!

Quan Trung quân cố gắng ho vài tiếng, dặm ra một chút nước bọt cho nhuận họng, cổ họng khàn khàn dùng giọng nói biến điệu nói:

- Đừng có nói vớ vẩn! Quan công chẳng phải là đốt rồi sao, quân lệnh như... khụ... cát!

Bách hộ đó nghe xong hậm hực lui về, chỉ chốc lát sau từ trong thủ quân Thiên Tân lại có một viên quân quan thong thả bước ra, lười biếng nói:

- Ta nói... chúng ta đến là giúp các ngươi đánh nhau, chứ không phải đến chịu tội, đây là làm cái gì chứ? Ta giống như là tắm vậy, người Sơn Đông các ngươi thích chỉnh người khác như này lắm sao?

- Hừm! Khụ khụ! Trần đại nhân, Sa lệnh địa là Quan công, cũng là chỗ các ngươi đến.

Quan trung quân hắng giọng đáp.

Tướng lĩnh cấp thấp các lộ thay nhau tiến lên kháng nghị, quan trung quân cũng không chịu được nữa, lại có người đến y chỉ kiên quyết xua tay, sau đó chỉ về phía sau, tuyệt không đáp một lời. Tề Hà bách hộ thấy tình cảnh này giận dữ mắng:

- Quốc công nói đi chút rồi về, thế mà đã bao lâu rồi? Ta sắp bị phơi khô rồi. Mẹ nó, duyệt binh thôi, cũng chẳng phải đánh giặc, ngươi đừng có việc bé xé ra to.

Gã xoay người khoát tay nói:

- Các anh em, đi, đến dưới chỗ bóng râm mát mẻ, đợi quốc công trở về lại vào hàng ngũ nghe giáo huấn là được rồi!

Binh lính do dự chần chừ khó quyết, cuối cùng sáu bảy binh lính cùng trốn ra với gã, chạy theo gã đến chỗ bóng râm cách đấy mấy chục trượng, nhìn những binh sĩ vẫn đứng trên sàn đấu bị phơi nắng héo người, mấy người

Tề Hà bách hộ vui sướng khi thấy người khác gặp họa, chỉ chỉ trỏ trỏ thỉnh thoảng cười to.

Bách hộ kia mấp máy miệng, mát thì đúng là mát nhưng quả thực khát không chịu được, y đứng dậy nhấc chân hướng về phía xa xa nhìn, lại chỉ huy một tên lính nhanh nhẹn trèo lên cây nhìn, thấy phía xa vẫn không thấy bóng dáng quốc công và các tướng, bèn nói:

- Một lúc chắc chưa về được, đi, đi lấy nước uống!

Nói xong dẫn mấy anh em nghênh ngang rời đi.

Mấy binh lính phơi nắng khát khô cổ khó nhịn, thấy người ta tiêu diêu tự tại dưới bóng mát, không nhịn được muốn động đậy, cuối cùng lại có mấy giáo úy hạ cấp dẫn mấy anh em thân tín chạy ra. Đương nhiên cũng có binh lính tự phát rời đi, mà sĩ quan ngăn cản ban nãy đã không dám động đậy nữa, cũng có binh lính tự mình rời hàng ngũ, sĩ quan ngăn cũng không ngăn cản cũng không đi thông đồng với gã làm bậy.

Chưa tới nửa giờ sau, dưới bóng cây đã tụ tập sau bảy mươi người. Đúng lúc này, một hồi ngựa đột nhiên chạy nhanh, ba nghìn tinh kị phân thành hai hàng, từ phía nam sàn đấu đi dọc theo hai bên bóng cây râm mát mà lao đến. Thiết kị chạy điên cuồng, hôm qua mưa đọng, hôm nay lại nắng khô khiến hoàng thổ cuộn lại giống như một con rồng vàng, bụi mù đầy trời.

Khinh nhuyễn bì giáp, áo bào màu vàng, trên đầu nón trụ chùm tua có một quả lông thiên nga. Bọn họ thắt lưng đeo súng ngắn, mã đao cung tên đầy đủ, mũi nhọn đao thương mang đầy hàn khí, mỗi người đều toát ra sát khí khiến người ta khiếp sợ, đủ để làm cho đối thủ rơi vào sợ hãi.

Đến những sĩ tốt tinh nhuệ nhất của Đức Châu vệ nhìn thấy uy phong như vậy cũng không khỏi nghiêm nghị biến sắc. Hôm qua thấy bọn họ rong ngựa vào thành, chỉ một thân mình hoàng bào đẹp đẽ, ai biết được ba nghìn kị này phóng ngựa điên cuồng, lại có uy phong của ba vạn nhân mã! Đây mới là lão binh trải qua trăm trận chiến trên sa trường, tinh binh bốn trấn Diên Tuy, Tuyên Phủ, Đại Đồng, Liêu Đông được Tứ gia quân chọn lựa kỹ lưỡng cho Dương Lăng!

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 369: Điều Binh Khiển Tướng .

Quan binh vốn phơi nắng vừa khát vừa mệt kinh ngạc nhìn thiết kị xông đến bất ngờ, binh lính chạy đến hai bên dưới bóng cây hóng gió thấy tình cảnh như vậy càng thêm sợ hãi, bọn họ muốn lặng lẽ quay về phương trận của mình nhưng ba nghìn thiết kị vây quanh trái phải, cái loại khí khái ngạo mạn không thể chịu nổi đó khiến người ta đến dũng khí tiếp cận cũng không có, càng không nói đến chiến mã lướt qua bọn họ.

Đầu lông mày của Tề Hà bách hộ không tự chủ được nháy nháy hai cái:

- Là bọn Hưởng Mã đạo đánh đến sao? Không thể nào, nếu bọn chúng bắt đầu công thành rồi thì ở đây sẽ không thể một chút tin tức cũng không có, cho dù ở xa, đại pháo ở đầu thành nổ vang tất cũng sẽ nghe thấy được. Vậy thì là... tân quan nhâm tam bả hỏa, Tổng Đốc Khâm Sai muốn làm cái uy thế phủ đầu chăng?

(Tân quan nhâm tam bả hỏa: ý nói là quan viên mới nhận chức, ban đầu có chút quyền hành, trước tiên phải thực hiện hai, ba việc có ích cho dân chúng).

Suy tính của kẻ trộm gian thủ đoạn dẫu s cũng nhiều hơn chút so với người khác, Tề Hà bách hộ càng nghĩ càng thấy là như vậy, quay đầu nhìn binh sĩ vẫn như trong mộng ở bên cạnh, gã liếm liếm môi âm thầm mắng một tiếng:

- Tiên sư bà nhà nó, sớm biết như vậy, ta nhẫn nại thêm chút nữa là được rồi. Lần này trở thành bia ngắm cho người ta, sợ là một trận đánh chạy không nổi rồi, nói không chừng càng nghiêm trọng, phải dính một trận sát uy bổng. Nhưng cũng may ta là Bách Hộ, có khi cũng chỉ bị dạy bảo một phen, hơn nữa... ở đây có bảy tám mươi người mà.

Đám người Dương Lăng và La chỉ huy rong ngựa quay về rồi. Dương Lăng dường như mới nhìn thấy mấy chục binh lính vi phạm quân lệnh tự ra khỏi hàng, sắc mặt lập tức âm trầm xuống. La chỉ huy cũng đen mặt, mún môi, khóe môi cong lên, bày ra bộ mặt diêm vương.

Kế hoạch diệt trừ phiến loạn chính thức của Dương Lăng, tối hôm qua đã một mình ngầm định với La Sĩ Quyền, cùng hắn hợp bàn đẩy ra, La Sĩ Quyền nghe xong kế hoạch của hắn, kinh hãi há mồm trợn mắt. Y vốn cho rằng Uy quốc công giá lâm Đức Châu, đích thân chủ trì chiến đấu diệt trừ phiến loạn, mình có thể thoái thác trách nhiệm, giao tất cả đám chư hầu không nghe theo điều hành trên đường giao hết cho Dương Lăng, mình thì nhẹ nhàng thoải mái rồi.

Không ngờ, Dương Lăng không những không đưa quân đến cho y, ngược lại muốn y phụ trách nhiệm vụ còn quan trọng hơn, muốn y gánh vác trách nhiệm nặng nề như vậy, nếu không thể kết binh mã các lộ hội tụ ở Đức Châu thành một sợi dây, điều kiện tiên quyết là dễ sai khiến điều động linh hoạt, khoan nói đến phối hợp kế hoạch của Dương Lăng, chỉ e cái đầu trên cổ mình cũng không còn nữa.

La Sĩ Quyền âm thầm kêu khổ không thôi, nhưng Dương Lăng chịu toàn quyền chỉ huy quyền lợi binh mã Sơn Đông, kế hoạch mà hắn vạch ra, mình chỉ có thể toàn lực chấp hành. Cho nên đối với phương pháp giết người lấy uy, nhanh chóng chỉnh quân đội, lấy chiến ly hợp cũng chỉ có thể toàn lực phối hợp, chỉ có như thế mới có thể thực hiện trong bước tiếp theo của kế hoạch.

Dương Lăng lên đài điểm tướng, lạnh lùng nhìn mấy chục binh lính dưới bóng cây, nhàn nhạt nói:

- Đây là cái gì? Bản đốc vừa còn nói chuyện quân pháp, còn nói quân lệnh như sơn, mà lại có người lấy thân thử pháp rồi sao? Ai cho phép bọn họ rời hàng ngũ vậy?

Sắc mặt những tướng lĩnh có cấp dưới tự ý rời khỏi hàng ngũ vô cùng khó coi, bọn họ không hề biết kế hoạch của Dương Lăng. Vừa rồi cùng Dương Lăng đi lên tường thành, lại chẳng nhìn thấy cái gì cả, nghĩ là trinh thám của Hưởng Mã đạo đã đi rồi. Tuy vậy, Dương Lăng lại hứng trí khá cao, dẫn bọn họ đi đến đầu thành, chỉ điểm giang sơn, lại đến trong thành lầu uống trà ngon, đàm đạo hồi lâu rồi mới vội quay về.

Vốn dĩ đang nói chuyện vô cùng vui vẻ với Uy quốc công quyền cao chức trọng, những tướng lĩnh này đều cảm thấy mình đã lưu lại một ấn tượng tốt thông minh tháo vát mạnh mẽ trong lòng quốc công. Ai ngờ được khi trở về, thuộc hạ liền làm mất mặt mình như vậy, đây không phải rõ ràng là mình trị quân chưa nghiêm sao? Những tướng lĩnh này vô cùng phiền não, lập tức sai người lôi những binh lính kia đến.

Mấy chục binh lính nơm nớp lo sợ bị dẫn đến trước đài, binh lính đứng trong đội ngũ đều thò cổ nhìn về phía này. Dương Lăng chắp tay sau lưng, lạnh lùng hỏi:

- Bản đốc trước khi đi đã hạ lệnh, trước khi bản đốc quay về, không ai được phép rời hàng ngũ. Ai cho phép các ngươi đến dưới bóng râm hóng mát?

Trong đám người này thì Tề Hà bách hộ có chức vị cao nhất, hơn nữa là gã dẫn đầu rời đội, binh lính phạm tội không tự chủ mà nhìn gã. Thấy ánh mắt lạnh lẽo của Dương Lăng nhìn về phía mình, trong lòng Tề Hà bách hộ hoảng hốt, lập tức hai đầu gối mềm nhũn quỳ xuống đất, lẩm bẩm nói:

- Quốc công gia, mạt tướng... mạt tướng thấy thời tiết khô nóng quá, hơn nữa chỉ là duyệt binh trên sàn đấu võ, cũng không phải việc gì to tát cho nên...

Dương Lăng cười lạnh một tiếng nói:

- Nhà binh không có việc nhỏ, ngươi là bách hộ, lại dẫn đầu vi phạm quân lệnh, ngươi có biết tội không?

Tề Hà bách hộ vẻ mặt sợ hãi, cung kính nói:

- Dạ dạ dạ, mạt tướng biết tội, nguyện chịu sự trừng phạt của quốc công gia.

Vừa nói vừa lén liếc mắt một cái, ra hiệu cho bảy tám chục người hai bên, trong ánh mắt của gã không khỏi xẹt qua một tia đắc ý.

Khóe môi Dương Lăng hơi cong lên, bất động thanh sắc mà nói:

- Rất tốt!

Hắn lướt mắt qua các binh lính đó một lượt, quát lên:

- Mọi người đứng yên tại chỗ, tướng tá đứng phía trước, binh sĩ đứng sau, những người khởi xướng việc rời hàng bước sang trái nửa bước!

Binh lính vội vội vàng vàng xếp thành hàng theo đội ngũ tương ứng của ình, quan tướng có phẩm vị đứng phía trước, những người xướng nghị rời hàng ngũ đầu tiên quá bán là bản thân tướng lĩnh, từ trên đài nhìn xuống, vừa nhìn là hiểu ngay. Dương Lăng nhìn từng hàng từng hàng, thấy có cả hàng không có tướng lĩnh, cũng phái người hỏi rõ, dẫn những tướng giáo không quản lý chặt lúc bọn họ rời hàng đến trước đài.

Khuôn mặt Dương Lăng nghiêm lại, lạnh giọng hỏi:

- Không có quy củ, không thành hình dạng gì. Trong quân nói thế nào? Là nói về một kỷ luật nghiêm minh, thưởng phạt phân minh. Hôm nay bản đốc duyệt binh, nhấn mạnh mấy lần việc giữ nghiêm quân lệnh, lại lệnh trung quân giải thích năm tư khoản mười bảy điều, mà mấy người các ngươi lại ngoảnh mặt làm ngơ, coi quân lệnh của bản đốc như không có gì! Đại địch trước mắt, bản đốc sao có thể cho phép mấy kẻ bại hoại kỷ luật các ngươi làm loạn lòng quân của ta? Người đâu, đội chấp pháp lôi bọn họ xuống, hành quyết tại chỗ!

- A!

Dương Lăng ra lệnh, ngoài La Sĩ Quyền trong lòng đã biết rõ, bất luận là tướng sĩ, tất cả đều thất sắc. Mắt thấy đội chấp pháp thủ hạ của Dương Lăng như sói như hổ xông đến giữ chặt mười mấy quan binh, binh lính vừa bị bắt đi vừa cao giọng cầu xin tha thứ, mấy vị tướng lĩnh bên cạnh Dương Lăng cũng có người đứng không vững nữa.

Binh lính của mình thì mình phải có trách nhiệm bảo vệ, hơn nữa những binh tướng dám vi phạm mệnh lệnh quốc công, ra khỏi hàng đi hóng gió, lại phần lớn là bộ hạ thân tín của bọn họ, nếu không ỷ vào sự sủng ái của chủ tướng, lúc nào cũng buông thả, bọn họ nào dám vi phạm mệnh lệnh quốc công? Nói cách khác, những người này cũng chính là nhóm người bình thường kỷ luật bại hoại bừa bãi nhất trong quân.

Mấy tướng lĩnh lần lượt tiến lên trước thi lễ xin xỏ, cầu xin tha tội cho thủ hạ của mình. Dương Lăng chắp hai tay sau lưng, lạnh lùng nhìn trước, trước sau không nói một lời. Những binh lính vi phạm mệnh lệnh ra khỏi hàng ngũ bị đội chấp pháp ấn ngã xuống đất, trói chặt lại, lúc này mọi người mới biết Dương Lăng là làm thật. Những binh lính vốn dĩ vẫn làm bộ phối hợp cầu xin tha tội cũng thực sự thấy sợ rồi. Từng tiếng than thở khóc lóc bắt đầu vang lên.

Gò má Dương Lăng hơi co rút một chút không dễ dàng phát hiện ra, hắn cũng không đành lòng, nhưng nếu không hạ mãnh dược, không giết đi mấy binh lính công khai vi phạm quân lệnh để lấy uy, mấy vạn người ô hợp này sẽ không biết thịt đau, khi nào mới có thể khiến những binh lính này hiểu được "quân lệnh như sơn" từ trong đáy lòng, hiểu được việc khâm phục nghe lệnh?

Lưu Lục đại quân đang ở ngoài thành, liên tiếp mấy ngày không công thành. Mà chỉ ở phủ huyện phụ cận cướp bóc, nghĩ đến bọn họ cũng là đang tập hợp đầy đủ lương thảo, kiến tạo khí giới công thành, sớm nhận ra mình căn bản không mang theo nhiều viện quân, bọn họ liền muốn công thành. Thời gian không đợi ta mà!

Hôm nay giết mấy chục binh lính không nghe quân lệnh, muốn làm gì thì làm, ngày mai sẽ có thể cứu lại tính mạng mấy trăm mấy nghìn binh sĩ trên chiến trường, tay cầm đao mổ lại là để cứu người, cho dù có hay không có ai có thể hiểu được, hắn bắt buộc phải kiên trì làm tới cùng.

Quan binh nơi này đối với kỷ luật quân đội so với biên quân luật pháp nghiêm khắc quả thực là khác một trời một vực, chiến lực biên quân siêu quần, ngoại trừ kinh nghiệm chiến sự. Quân kỷ nghiêm minh cũng là một nguyên nhân quan trọng. Mà những vệ sở binh nội địa này ngay cả thân thể cường tráng mà thiếu đi một phần ý chí chiến đấu, một phần ý chí chiến sĩ thiết huyết thì cũng chỉ là một con trâu mà không thể thành mãnh hổ được.

Đương nhiên Dương Lăng chỉ là muốn lập uy, chứ không hề muốn vào lúc đại địch trước mắt mà kích khởi binh biến, cho nên hắn vẫn chú ý nắm giữ chừng mực. Hắn cố ý dẫn những tướng lĩnh cao cấp đi, chính là không để bọn họ ở đây liên lụy người tốt, có cơ hội hạ lệnh cho các bộ phận giải tán nghỉ ngơi, nếu không việc lập uy nghiêm túc này sẽ không thể làm được rồi. Thực muốn lâm trận trảm đại tướng hay là binh gia đố kị chứ.

Hiện nay những tướng lĩnh cao cấp này không ở hiện trường, cùng lắm rơi vào tình trạng trị quân không nghiêm, hắn sẽ có thể mạnh dạn hành động. Những quan binh vi phạm quân kỷ xếp thành một hàng trước toàn bộ quan binh tướng sĩ, bị đội chấp pháp ấn quỳ trên mặt đất, đao thép sáng như tuyết đã giơ lên trên không trung.

Trời vẫn nóng như thế, mặt trời vẫn gay gắt như vậy, nhưng mỗi người lính đều cảm thấy trên người mình lạnh run lên. Lần này trước khi Sơn Đông xảy ra việc Bạch Y quân, những binh lính này vẫn rất ít có kinh nghiệm thực chiến, trong đó chỉ có số ít từng tham gia cuộc chiến bình Oa. Nhưng vì năm nay chiến trường chính của bình Oa không ở Sơn Đông nữa, cơ hội bọn họ phát huy cũng không nhiều...

Triều đình đồn điền nuôi quân, lúc đầu giải quyết vấn đề lớn là thuế má, nhưng đồn điền đồn điền, hơn trăm năm nay, binh lính như hổ như sói đều đã biến thành nông dân, mà đất của những nông dân này lại bị những tướng lĩnh quyền quý tham lột sạch sẽ, đám người muốn vũ lực không có vũ lực, muốn lòng quân không có lòng quân, có thể mong ngóng bọn họ có sức chiến đấu mạnh đến cỡ nào chứ?

Quân kỷ nghiêm minh, nghiêm chỉnh chấp hành, câu nói "những người vi phạm chém" bọn họ nghe quen rồi, nhưng rất hiếm khi để trong lòng, bây giờ bọn họ thực sự nhìn thấy vi phạm quân kỷ thì có kết quả như thế nào, không phải chỉ có là lính đào ngũ trên chiến trường mới bị giết chết, đến tận lúc này, bọn họ mới phát hiện từ trong đáy lòng, mình là một quân nhân, quân mệnh... như sơn mà!

Mắt thấy đao thép giơ lên, đội chấp pháp liền muốn vung đao chặt đầu rồi, mấy chục binh lính hồn bay phách lạc kêu gào điên cuồng đến khàn cả giọng. Chỉ huy Đức Châu vệ La Sĩ Quyền bỗng nhiên kêu to:

- Khoan hãy hành hình!

Y bỗng nhiên xoay người, bước nhanh đến trước mặt Dương Lăng, quỳ thẳng tắp xuống, vẻ mặt Dương Lăng kinh ngạc:

- La chỉ huy hành lễ như này để làm gì? Xin mau đứng lên.

La Sĩ Quyền hai tay chống đất, cao giọng nói:

- Quốc công gia, quân lệnh như sơn, vi phạm quân kỷ, vốn phải nghiêm trị. Nhưng xin quốc công niệm tình bọn họ vi phạm lần đầu, xin tha cho bọn họ trước quân, lấy công chuộc tội. La Sĩ Quyền thân là chỉ huy Đức Châu vệ kiêm đốc binh mã các lộ, trị quân không nghiêm, cũng khó chối trách nhiệm. Mạt tướng nguyện chịu quân pháp trừng trị, xin quốc công gia tha cho bọn họ tội chết!

Dương Lăng lạnh lùng nói:

- Sàn đấu võ điểm binh mà lại có người công khái vi phạm quân kỷ, tội ngươi trị quân không nghiêm bản đốc vẫn phải truy cứu, nhưng thưởng phạt phân minh, phạt cũng phải phạt cho rõ ràng, đâu có lý lẽ đòi người chịu qua? La tướng quân đứng sang một bên, không cần gây trở ngại bản đốc chấp hành quân pháp.

La Sĩ Quyền giáp trụ trên người, vốn dĩ khó hành toàn lễ, lại vẫn cật lực quỳ xuống, dập mạnh đầu nói:

- Xin quốc công khai ân, xá tội chết cho bọn họ!

Các tướng còn lại vừa nhìn, vội vàng theo đuôi La chỉ huy, nhất tề quỳ xuống cầu khẩn, hơn vạn tướng sĩ dưới đài cũng đồng loạt quỳ xuống cầu xin. Dương Lăng nhìn thấy cảnh này, không khỏi lâm vào do dự, trầm ngâm một lát hắn mới trầm giọng nói:

- Pháp bất dung tình, nhưng nếu toàn quân trên dưới cao thấp đã cầu khẩn, hôm nay bản đốc sẽ mở một con đường, thi ân ngoài vòng pháp luật.

Mọi người nghe xong, nhất tề thở phào, lập tức nghe thấy Dương Lăng cao giọng, lớn tiếng nói:

- Người đề xướng rời khỏi hàng ngũ chém! Sĩ quan cấp cao rời hàng ngũ theo chém! Binh sĩ theo đuôi, phạt một trăm gậy, binh lính rời hàng mà tướng tá không ngăn lại phạt một trăm gậy! Lập tức chấp hành!

Mọi người vừa mừng, vừa nghe những lời này lại ngây dại ra. Quân pháp lợi hại của quốc công gia, quân pháp thế này vẫn là khai ân ngoài pháp luật, nể mặt tướng sĩ toàn quân cầu tình sao? Mọi người đang sững sờ, đội chấp pháp sớm đã phân loại áp chế quân sĩ vi phạm, lập tức bị xử lý chấp pháp.

Hơn hai mươi tướng tá, những binh sĩ dẫn đầu rời đội ngũ căn bản không kịp cao giọng kêu cứu, đao thép như tuyết của đội chấp pháp lóe như chớp mà sượt qua cổ, một dòng máu tươi phụt ra tung tóe. Mắt thấy đầu của đồng đội lăn lông lốc trên mặt đất, cái cảm giác kinh tâm động phách thực khiến người ta cả đời khó quên.

Những binh sĩ sau đó thoát khỏi tội chết bị ấn nằm sấp xuống đất, gậy công sai liên tiếp lên xuống, một trăm gậy sát uy hạ xuống, dù là thân thể bọn họ khỏe mạnh cường tráng thì trận này cũng phải mất nửa cái mạng.

Bên kia chấp hành hình phạt lách cách, Dương Lăng đứng trên đài lại nói:

- Chỉ huy Đức Châu vệ La Sĩ Quyền nhận mệnh triều đình, quản thúc binh mã cứu viện các lộ, điều khiển không nghiêm, quân kỷ hoán tán, ảnh hưởng chức thủ, phạt hai mươi gậy. Lôi xuống, đánh!

Ba tên hòa thượng gánh nước ăn còn so đo ai nhiều sức lực hơn, càng huống hồ là dùng binh đánh trận chết và bị thương người khác? Binh mã các lộ xưa nay lục đục với nhau, ngươi nhìn ta, ta theo dõi ngươi, bất luận là đãi ngộ, quân nhu hay là phân bố nhiệm vụ lâm trận đều là tính toán chi ly, để cân bằng các phương diện, La Sĩ Quyền hao phí tinh lực hơn nhiều so với việc chỉ huy.

Cho dù vậy, mọi phương diện vẫn không hài lòng, hôm nay y lại đứng ra chống đỡ, kéo các tướng qua, cứu mấy chục mạng binh lính, khiến cho tướng lĩnh và binh lính nhân mã các lộ cảm động sâu sắc. Bọn họ rất tinh tế, đã coi La chỉ huy như người mình, có một loại tín nhiệm rất thân thiết.

Dương Lăng không để ý đến mọi người đang cầu xin cho La chỉ huy, vẫn cho binh sĩ lôi La Sĩ Quyền ra đánh cho một trận. Lúc này, dưới đài cũng đã hành hình xong. Tử thi nằm dài trên mặt đất. Trên cổ vẫn thỉnh thoảng có máu tươi chảy ra ồ ồ, thu hút một đám ruồi bọ. Những binh lính bị đánh đòn quỳ rạp trên đất, sắc mặt tái nhợt, nhưng hai tay nắm lấy đất khô, cắn răng, sửng sốt không dám phát ra tiếng rên rỉ.

Đợi La chỉ huy chịu phạt xong, được hai tướng quân cướp đi nâng lên, khiêng về trong đám tướng sĩ, Dương Lăng mới cao giọng nói:

- Trước quân pháp, người người bình đẳng! Tướng tá sĩ tốt đều phải nhất thể tuân thủ, còn có người xúc phạm quân pháp, bản đốc tuyệt không nương tay.

Hắn chắp tay sau lưng thong thả bước đến trước đài nói:

- Hiện tại hai tên tội phạm Lưu Lục, Lưu Thất tụ tập ba vạn quân tấn công Đức Châu, binh lực của bọn chúng ít hơn chúng ta nhưng bọn chúng đang tạo phản, tạo phản thất bại thì chắc chắn là chết. Bọn chúng đi đến bước đường cùng, chiến trận lâm địch liền biến thành sự dũng mãnh hung hãn khác thường.

Khí thế này quân đội của chúng ta còn xa mới theo kịp, nếu binh mã các lộ liều mạng của chúng ta mỗi người đều mang tư tâm, không tuân hiệu lệnh, đối mặt với những kẻ liều mạng như thế, nhân số tuy nhiều cũng không phải là đối thủ của bọn chúng. Cho nên chúng ta không những phải gia tăng luyện võ chuẩn bị chiến đấu, quân lệnh bắt buộc phải thừa hành không kém!

Dương Lăng nói đến đây, ngữ khí chậm lại, nói tiếp:

- Vừa rồi tướng tá rời hàng ngũ tự đi hóng mát, còn những binh lính không đi theo, mỗi người phát thêm một tháng quân lương làm thưởng động viên. Ngoài ra, bây giờ bản đốc tuyên bố, những thứ Hưởng Mã đạo, Bạch Y quân cướp đoạt, đều là những vật vô chủ, trên chiến trận phàm giết được kẻ phản nghịch, những tài vật lấy được đều không phải giao lại, có thể quy làm của mình. Nhưng, bình thường du kị tán dũng, du đãng hồi hương, cho dù vơ vét cơm rượu của dân, trộm gà vịt của bách tính, một khi phát hiện sẽ nghiêm trị không tha! Đã nghe rõ chưa?

Toàn quân lâm vào chấn động, trước tiên có người trả lời lẫn lộn:

- Nghe rõ, tuân lệnh.

Sau đó có lính truyền lệnh ép xuống, toàn quân giống như sấm rền, cùng hô lên:

- Cẩn tuân tướng lệnh!

Chính sảnh của Diễn Võ đường, vốn dĩ những giá bài trí binh khí đều dỡ xuống, xếp thêm mấy hàng bàn ghế, tướng lĩnh trú đóng bên ngoài như Kiều Tứ Hải giao phòng vụ cho trợ thủ, sau khi an bài thỏa đáng cũng vội quay về, chỉ là y lại không kịp ôn chuyện cũ với vị thượng cấp Dương Lăng, liền bị người ta đưa vào chỗ ngồi.

Tướng tá đều tụ tập dưới một mái nhà, Dương Lăng ngồi sau soái án, chậm rãi đàm đạo với mấy vị tướng tá cấp cao:

- Thanh thế của bọn Hưởng Mã đạo, Bạch Y quân đang nổi, nhưng giặc cỏ cuối cùng vẫn là giặc cỏ, không cho bọn chúng cơ hội ổn định chỗ ở, bọn chúng diệt vong, chỉ là vấn đề thời gian sớm hay muộn thôi.

Muốn tranh giành Trung Nguyên, vấn đỉnh thiên hạ, không có lòng dân làm điểm tựa, không có sự chuẩn bị lâu dài, không có sự tích lũy kinh doanh năm này tháng nọ, không có căn cơ ổn định, không có sự ủng hộ của các đại tộc thế gia, không có sự sẵn sàng góp sức của các nho sĩ văn nhân, căn bản chính là một trò cười. Tại sao bọn họ lại vội vã đánh Đức Châu, đánh Thái An, chiếm Tế Nam? Làm như vậy là để cắt đứt mạch nối nam bắc, biến Sơn Đông thành cơ sở của bọn họ, lợi dụng thời gian đưa tất cả những thứ này tạo dựng lên. Cho nên chúng ta nhất định không thể để bọn chúng đạt được mục đích.

Hiện giờ Hưởng Mã đạo đang mạnh, nhưng nhược điểm của bọn chúng đang hiện rõ ra. Bọn chúng khởi binh dễ dàng, dễ dàng chiêu binh lính, chiếm chiến mã. Phủ đạo phụ cận đều nuôi ngựa cho triều đình, dân chúng bắc đại lại thượng võ thành phong trào, công phá phủ huyện thôn trại, đoạt lấy quan phu thân hào, tài vật mã ngựa dễ như trở bàn tay. Dân chúng bị náo đến nghèo trắng tay rồi, vì mạng sống cũng chỉ đành nghe giặc theo giặc, cho nên muốn chiêu binh rất dễ dàng.

Nhưng là bọn chúng dùng chiến tranh để nuôi chiến tranh, là hoàn toàn vứt bỏ kiến thiết, hoàn toàn không có đoạt lấy cơ sở mang tính phá hoại, theo việc quân đội của bọn chúng ngày càng lớn mạnh, bắt người cướp của ngày càng nghiêm trọng, địa phương bị bọn chúng phá hoại gần như không còn. Những huyện trấn có thể tấn công đã không có dầu nước mà đào khoét nữa, bọn chúng bất luận là nuôi người hay nuôi ngựa đều sẽ có vấn đề.

Vì vậy, có thể chiếm cứ Sơn Đông hay không, không phải là việc được mất một thời một nơi mà là đám giặc cỏ này có thể sinh tồn tiếp hay không, có thể trở thành vấn đề quan trọng của đại hoạn tâm phúc Đại Minh ta hay không, toàn cảnh Sơn Đông đều cần trải qua quá trình phòng thủ, giằng co, phản công, quá trình này dài hay ngắn thì phải xem tướng lĩnh các lộ ở Sơn Đông chúng ta cụ thể như thế nào mà chiếm được thắng lợi từng trận trên chiến trường.

Với thủ quân Đức Châu mà nói, nhiệm vụ của các ngươi chính là ngăn chặn bọn Hưởng Mã đạo Bá Châu, bảo vệ Đức Châu không bị mất. Đảm bảo sự an toàn của cứ điểm trọng yếu này, chỉnh hợp quân đội, huấn luyện quân đội đã không có người cho chúng ta đủ thời gian, chúng ta bắt buộc từng bước thực hiện trong chiến đấu.

Các tướng đứng nghiêm, nhất tề chắp tay đồng ý.

Sau khi Dương Lăng quay về soái án, nói:

- Bản đốc hiện giờ điều chỉnh một chút với thủ quân mọi nơi, các vị sau khi quay về lập tức giao tiếp thay quân, hôm nay trước khi mặt trời lặn phải hoàn thành nhiệm vụ đóng giữ, thay quân.

Các tướng nghiêm nghị đồng ý, nhất thời lại không biết Dương Lăng muốn điều chỉnh như thế nào đối với phòng vụ nơi này.

Dương Lăng nói:

- Kiều tham tướng Kiều Tứ Hải vốn có đóng quân ở mười hai liên thành quay về phòng vệ thành Đức Châu, Hoắc tham tướng quân Bảo Định dẫn tất cả quân đội di chuyển địa điểm đóng trú phòng thủ mười hai liên thành.

Hai vị tướng rời khỏi hàng, chắp tay tiếp lệnh.

Dương Lăng lại nói:

- Đức Châu tả vệ Quý Chỉ Huy Sứ từ cố thành An Lăng quay về phòng vệ Đức Châu. Trịnh tham tướng Thiên Tân dẫn tất cả quân đội thay quân phòng thủ Tang Viên khẩu.

Hai vị tướng quân không kịp suy tính, vội vàng ra khỏi hàng nhận lệnh. Dương Lăng lại nói:

- Đại Thủy dịch, Điếm Quan dịch chiếm giữ kho, lập tức chuyển toàn bộ lương thảo đến nội thành Đức Châu. Đoàn luyện Đức Châu và các quan binh các huyện tiếp nhận quân lệnh phụ trách dân tráng trốn đến Đức Châu. Sau khi hoàn thành bản đốc sẽ sắp xếp lại hơn một vạn người này, để bọn họ lần lượt tiếp viện Tang Viên khẩu, mười hai liên thành và bến tàu Đức Châu.

Sắp xếp mọi việc xong xuôi, Dương Lăng đứng thẳng dậy, sát khí đằng đằng nói:

- Phương pháp dụng binh, mười thì là vây, năm thì là công, gấp đôi thì chiến, ít thì chạy trốn. Hiện tại lại là đi con đường ngược lại, quân ta người nhiều thế lớn nhưng khốn thủ thành trì, bọn Hưởng Mã đạo chỉ bằng một nửa quân ta nhưng lại có ý công thành, nếu như vậy thì thành Đức Châu còn có thể mất, còn gì mà nói nữa? Chỉ có tự chặt đầu trên tạ trời cao, dưới tạ bách tính thôi!

Các tướng sợ hãi, giọng nói Dương Lăng lanh lảnh, một mình nói vang vọng trên sảnh Diễn Võ đường:

- Quân tâm sĩ khí, vô cùng quan trọng. Binh pháp có câu: "Giếng quân chưa chảy, sẽ không khát; quân thực chưa chín, sẽ không đói!". Sau khi thay phòng hoàn tất, tất cả tướng lĩnh cần chuyển lên đầu , cùng ăn cùng ngủ, đồng cam cộng khổ với binh lính.

Ánh mắt hắn quét một lượt, nói tiếp:

- Quân sĩ chúng ta, thân thể bọn họ vốn không kém so với đám lưu tặc, kém chỉ là một cỗ lang tính, một luồng huyết khí! Bản đốc dùng quân pháp để răn đe, lấy tiền tài để sinh dũng, chư vị tướng quân dùng nghĩa khí để đồng tâm. Tướng sĩ một lòng, mọi người đồng tâm hiệp lực, thì lưu tặc là chuyện nhỏ!

Dượng Lăng vung tay thật mạnh:

- Mấy tháng này, Hưởng Mã đạo tung hoành tới lui, thế như chẻ tre, công thành chiếm đất, chiến không thể đỡ, chính là khí thế kiêu binh cực lớn. Hiện tại, để chúng ta dưới thành Đức Châu, đẩy chúng ngã một cái thật mạnh đi!

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 370: Lưu Lục Quân Đến .

Dương Gia tự ngoài huyện Ngô Kiều, tên là Dương Gia tự nhưng là một thôn trang nhỏ. Ở đây chính là nơi trú đóng của đại quân Lưu Lục. Lưu Lục công thành chiếm đất, lại không sống ở trong thành, lương thảo đồ quân nhu cũng không sợ phiền mà chuyển toàn bộ ra khỏi thành, trú đóng ở thôn trang phụ cận, đây là tật xấu gã dưỡng thành khi làm Hưởng Mã đạo, chỉ cần khi có gió thổi lay ngọn cỏ, có thể nhanh chóng thoát thân.

Đại quân Lưu Lục công thành chiếm đất luôn luôn chọn những thành trì huyện trấn nhỏ để vừa trú đóng binh mã không nhiều, hơn nữa vừa không quá khó tấn công, cho nên thế như chẻ tre, chưa từng ngăn trở. Huyện trấn như vậy có thể dễ dàng lấy được quân nhu lương thảo tiếp tế tiếp viện cho bọn chúng, hơn nữa sẽ không xảy ra thương vong quá lớn.

Lưu Lục làm hãn phỉ nhiều năm, đối với việc khống chế người khác cũng không phải là xa lạ. Quân đội của y có đội ngũ tự mình góp sức, có những người nghèo kiết xác bị bắt tham gia, còn có bị lôi ép đến. Đội ngũ vừa hình thành, sĩ khí quan trọng nhất, trước khi huấn luyện cho những binh lính này trở thành bộ hạ hung hãn không sợ chết giống Hưởng Mã đạo Bá Châu, bắt buộc phải ít chịu thất bại.

Hiện tại lựa chọn tấn công Đức Châu là vì bộ hạ của y đã có đầy đủ sức tác chiến nhất định. Nam thuyền bắc ngựa, người phương bắc không biết cưỡi ngựa vốn rất ít, hơn nữa vùng này là khu vực thi hành mã chính hơn trăm năm của triều đình, kỹ thuật cưỡi ngựa của dân chúng vô cùng tốt. Thêm nữa khu vực Hà Bắc Sơn Đông từ xưa thượng võ, cụ thể những điều kiện cơ bản này lại bị quan binh theo sau đuổi cùng giết tận mấy lần sàng lọc.

Như hiện giờ những người có thể may mắn tồn tại, bất luận mã thuật, võ công hay là kinh nghiệm tác chiến đều đã là lựa chọn trên cùng, ít nhất cao hơn không chỉ một cấp bậc so với vệ sở binh không chút ý chí chiến đấu kia. Đồng thời theo sự gia tăng về nhân số, cùng với vườn không nhà trống có mục đích của triều đình, chiếm đoạt lương thảo ở tiểu huyện trấn đã không thể làm thỏa mãn nhu cầu của bộ đội của y, bọn họ cần có địa bàn của riêng mình.

Triệu Toại đề xuất chia quân thành hai đường xuôi nam, vì Hứa Thái và Giang Bân ở cảnh nội Hà Bắc theo đuổi không thôi, bọn họ người nhiều thế mạnh, điều hành, tiếp tế có khó khăn nhất định. Phân binh một là dễ dàng tiếp tế, hai là dễ dàng mở rộng địa bàn mới.

Vừa vào lúc này, Dương Hổ tung hoành toàn bộ Sơn Đông, buộc Sơn Đông Chỉ Huy Sứ Ti co đầu rút cổ ở thành Tế Nam không dám ra ngoài đã phái người đưa bí mật đến liên lạc với Triệu Toại y, đề xuất nội ứng ngoại hợp, tận đoạt vùng Sơn Đông, coi đây là căn cứ. Bắc ách Kinh Sư, nam khống Trung Nguyên, cắt đứt mạch nối đường sông, mưu đồ kế sách giang sơn xã tắc.

Triệu Toại vừa thấy vỗ án tán dương, kế sách này có thể gọi là cao minh, hơn nữa vô cùng thấy dũng mãnh. Triệu Toại đề nghị chia quân, là để tiếp tế tiếp viện, đồng thời bởi vì Lưu Lục dùng binh cường bạo, không tu đức. Triệu Toại dần nảy sinh ý nghĩ khác, tự mình đi tạo lập vùng trời riêng.

Như hiện giờ thấy bức mật thư này, Triệu Toại vô cùng hưng phấn, vì thế bổ sung cho kế sách, kiến nghị do Lưu Lục, Lưu Thất dẫn chủ lực đến Sơn Đông, cướp Đức Châu, khống chế kênh đào, phối hợp Dương Hổ công chiếm Tế Nam. Nhân lúc triều đình lo cho Sơn Đông, mình dẫn quân đến Sơn Tây. Một khi đắc thế, đông tây hô ứng, Hà Nam nằm trong tầm tay, sau đó nam bắc liền bị bọn họ hoàn toàn chặt đứt, muốn chiếm giang sơn liền dễ như trở bàn tay rồi.

Lưu Lục rất đồng tình với việc này, chính vì thế y mới hạ quyết tâm mưu đoạt Bá Châu. Đây là tòa pháo đài quân sự đầu tiên bọn họ tấn công. Tuy trong khoảng thời gian này y càng ngày càng khinh miệt đối với chiến lực của quan quân, nhưng vẫn có chút lo lắng.

Y mặc một chiếc áo vải trắng ngắn lộ cánh tay, quần công phu bằng lụa xanh, quấn xà cạp, ngồi dưới gốc cây táo, trước mặt một chiếc bàn ngắn, trên bàn bày mấy bát trà lớn, đang cùng người anh em Lưu Thất thảo luận việc tấn công thành Bá Châu. Tề Ngạn Danh cưỡi một con ngựa lông vàng đốm trắng từ cổng thôn vội vã đi vào. Đến tường rào bên ngoài nhảy một cái xuống ngựa, ném dây cương cho thủ hạ, ưỡn ngực đi vào.

Lưu Lục cười nói:

- Lão Tề, thế nào, triều đình đến bao nhiêu viện binh?

Tề Ngạn Danh đặt mông ngồi xuống ụ đá bên cạnh, bưng một tách trà lên uống ừng ực hết sạch, thuận tay cướp cái quạt bồ phiến trong tay Lưu Lục, quạt vù vù nói:

- Triều đình đưa đến một tên Uy quốc công Dương Lăng, chỉ đem ba nghìn kị binh, ngoài ra thì không có ai nữa.

Lưu Thất kinh ngạc cười nói:

- Mới ba nghìn người? Triều đình chỉ phái một vị quốc công đến áp trận, môi đỏ răng trắng, hai tay không để giữ Đức Châu.

Tề Ngạn Danh là người có học hành, làm người cũng khá cẩn trọng, bản thân lại không đắc ý như vậy, gã lắc đầu nói:

- Nghe nói Bá Nhan Mãnh Khả lại đến tập kích rồi, con mãnh hổ này không thể khinh thường, biên quân không tìm ra người, kinh quân trong ngoại tứ gia quân đã rút một đường để Hứa Thái, Giang Bân dẫn theo đuổi Phong Tử rồi, bọn họ còn dám xuất người nào nữa? Không sợ chúng ta giống lão Triệu, đột kích Kinh Sư sao?

Lại nói, thủ dễ công khó, thành Đức Châu hiện tại trú đóng sáu vạn binh mã, chúng ta chỉ có ba vạn, trong tình hình bình thường, chúng ta phải vượt gấp đôi bọn họ, công thành mới có thể giành thắng lợi, hiện giờ binh lực hẳn là dư dả rồi. Cử Thường Thắng tướng quân Dương Lăng này đến, còn không yên tâm sao?

Lưu Lục chau mày nói:

- Nói như vậy, đánh Đức Châu không giống chúng ta xưa nay tấn công thị trấn bảo trại, nếu thực sự phải đánh, thương vong thê thảm nghiêm trọng, chỉ e đánh tiếp không trụ được thôi!

Tề Ngạn Danh "ừ" một tiếng, lúc này có người bưng lên cho gã một đĩa bánh quẩy, một bó hành tây, còn có một bát tương và nửa cái chân chó, Tề Ngạn Danh cuộn bánh quẩy với hành tây, vừa ăn vừa nói:

- Cho dù thế nào, điều này liên quan đến bước quan trọng chúng là tiếp tục làm giặc cỏ hay là có cơ hội vấn đỉnh giang sơn, chúng ta bắt buộc phải thử một chút. Phú quý chỉ có thể có từ trong gian khó, muốn đoạt giang sơn, sóng gió nhiều lắm, sao có thể biết khó mà lui chứ?

Lưu Lục nhướng đôi mày rậm lên nói:

- Ừ, lão Tề nói có lý. Như thế đi, ngươi ăn trước đi, ăn cơm xong chúng ta sẽ xuất phát, đến thành Đức Châu thử xem bản lĩnh của Tiểu Dương kia. Tên tiểu tử này làm người cũng không tệ, bảo vệ cho tên hôn quân kia thật đáng tiếc, nếu có thể bắt sống hắn, ông mày sẽ thu phục hắn, sau này ông mày làm hoàng đế cũng cho hắn chức quốc công tương đương, để xem hắn có biết điều không, ha ha ha...

Thủy Tây Môn là khu bến tàu, bình thường sầm uất nhất, thuyền quan thuyền dân nối liền không dứt, có khi buổi tối xếp thuyền dỡ hàng, cũng là đèn đuốc sáng trưng như ban ngày, mà hiện tại lại yên tĩnh hơn nhiều rồi. Thuyền của Kinh Sư từ nam tới đã tuyệt tích, thuyền bắc thượng ít ỏi không có mấy, hơn nữa phần lớn là chu sư hạm thuyền, có thủy sư bảo vệ, hoặc căn bản tướng quân hạm tạm thời làm thuyền hàng. Cho dù như thế, thuyền vẫn chỉ có thể đến đây là dừng, còn đi về phía bắc không những đạo phỉ hoành hành mà trong kênh đào có hạ nhiều cọc gỗ chìm xuống, khó mà thông hành được.

Hiện giờ có đại chiến ba thuyền, đang cập bến thả neo, thuyền là thủy sư Giang Nam, trên mép thuyền là nòng pháo đen thui. Đây là chiến hạm kiểu mới Dương Lăng chế tạo ra lúc ở Giang Nam tiêu diệt phỉ, pháo cũng là kiểu pháo mới bắn nhanh vô cùng.

Nhìn thấy những thứ này, Dương Lăng cảm thấy rất thân thiết:

- Không biết quan tướng dẫn đội có người mình quen biết không. Xem ra, quân hạm này dùng để vận chuyển đồ vật quân giới đây, mình ở Giang Nam dẫn mấy người thủy sư tướng lĩnh hiện giờ đều độc chắn một mặt, là thủy sư của Giang Nam, Đông Nam muốn người, hẳn sẽ không nhận nhiệm vụ đơn giản như vậy.

Dương Lăng nghĩ ngợi một chút, gọi một thân binh đến dặn dò:

- Đến bến tàu xem xem là vị tướng quân thủy sư Giang Nam nào dẫn đội. Tháo dỡ hàng hóa xong đừng vội đi ngay, gọi tướng quân của bọn họ đến gặp ta.

Dặn dò xong, Dương Lăng và La chỉ huy đi dọc theo tường thành đến cửa bắc, hai người Ngũ Hán Siêu, Tống Tiểu Ái dẫn thân quân của Dương Lăng tản ra bốn phía bảo vệ.

Vết thương của La Sĩ Quyền không nặng lắm, nhưng trước mắt bao người, đội chấp pháp cũng không có làm bộ, chỉ là đánh một gậy xuống là tổn thương da không phải ảnh hướng đến xương. Đó là có kỹ thuật cả, giống hai mươi gậy này của La Sĩ Quyền, thoa kim sang dược tốt lên thì sẽ không có gì đáng ngại, nhưng dù sao miệng vết thương còn mới cho nên do hai tên thị vệ tâm phúc dìu đi.

Chậm rãi đi ở giữa bức tường ngói xanh binh lính tuần thành nhìn thấy đều dừng bước chân dẹp sang một bên, kính sợ nhìn cái mông của La chỉ huy. Lại kinh sợ mắt tiễn Uy quốc công thản nhiên rời đi, lúc này mới ghép thương mâu tiễn thuẫn, tăng tốc tiếp tục tuần hành.

Hiện tại không có người nào nghe xong quân lệnh của thượng cấp còn làm việc ứng phó qua loa nữa, mặt trời gay gắt đến đâu bọn họ cũng không dám không mặc giáp trụ chỉnh tề, cầm nguyên bộ trang bị chuyên tâm tuần hành. Ban đêm, cũng không có người nào dám vội vàng chuồn đi một vòng, sau đó tìm một chỗ đánh một giấc, lại giao trách nhiệm cảnh giới cho đám binh lính trạm gác cố định đó.

Ngoài thành xuất hiện một khu rừng cây, để phòng ngừa phản tặc lợi dụng rừng cây yểm hộ lặng lẽ tiếp cận thành trì. Một mặt của tường thành, toàn bộ cây cối trong phạm vi gần trăm thước đều chặt trụi hết rồi, phía xa cũng bị chặt hết không hơn, trở thành thưa thớt. Phía xa, kênh đào dọc theo con đê ngoằn ngoèo, kéo dài đến phương xa.

Bên trong đê sông có một vài căn phòng, hiện giờ đã thành đống đổ nát thê lương rách nát không thể chịu nổi, có cái thì nghiêng ngả, có cái đã sụp đổ, cũng không biết là mưa gió thấm vào gây ra hay là kiệt tác của bọn Hưởng Mã đạo hoặc Bạch Y quân công thành mấy lần trước.

Bên dưới đám đổ nát tiêu điều đó là một mảnh đất ruộng trống trải mà dân chúng khai hoang, bốn phía có rừng cây chắn gió, trên đê điều có thể dùng xe gió hút nước, ở đó vốn nên là một mảnh ruộng tốt, hiện giờ đáng lẽ trồng đầy hoa màu nhưng bây giờ chỉ có một mảnh hoang vu, cỏ dại mọc um tùm.

Dương Lăng thở dài một hơi thật sâu, chỉ mảnh đất hoang vu đó nói với La chỉ huy:

- Dân theo tặc, phần nhiều nảy sinh vì cơ hàn, binh theo tặc, phần nhiều do thiếu quân lương. Như hôm nay dân chúng vì cơ hàn mà theo loạn, lại trái lại càng thêm phá hoại nông canh, chỉ khiến cho thiên hạ thêm loạn, càng nhiều người dân không có đường sống.

Tiêu diệt phỉ, dùng binh chỉ là tượng trưng, phương pháp căn bản vẫn là cần làm cho dân có con đường sống, kỳ thực cũng không có thần được linh đan gì, đơn giản là giảm bớt sưu cao thuế nặng, khiến cho gánh nặng của dân chúng nhẹ bớt đi, quan lại làm nhiều việc thiết thực hơn, để cho dân chúng được ăn no mặc ấm.

Chỉ là, những việc này chỉ dựa vào mấy viên thanh quan, dưới sự quản lý của hắn không khó thực hiện. Nhưng nhìn toàn bộ giang sơn, trước tiên phải đảm bảo sự thanh minh của sứ trị, sự công bằng của pháp luật mà không thể chỉ dựa vào tự luật của quan viên, đây mới là khó nhất. Chỉnh đốn chính trị, tuyệt không phải là việc ngày một ngày hai, nói thì dễ, làm lại khó vô cùng.

La chỉ huy nói:

- Quốc công gia chớ lo lắng, đương kim hoàng thượng thánh minh, trong triều có những trung thần lương tướng như quốc công gia đây, Đô Sát viện, Hàn Lâm Viện, Khoa Đạo Ngôn Quan lại đã được chỉnh đốn, chính trị trong sạch, nhất định có thể làm được.

Dương Lăng cười khổ một tiếng, nói với La chỉ huy:

- Quân ta thiếu huấn luyện, sức chiến đấu cá nhân kém, năng lực dã chiến còn kém hơn, lúc tác chiến đều dựa vào ưu thế vũ khí bù lại chênh lệch, cho nên giỏi thủ không giỏi công. Nhưng điểm chết người là sĩ khí quá thấp, sĩ khí thấp thì ngay cả vũ khí tiên tiến một khi đánh nhau vẫn là bị thất bại thảm hại.

La chỉ huy rất đồng tình, gật đầu nói:

- Đúng vậy, tình hình Đức Châu thì phức tạp rồi, đặc biệt nguồn gốc quân đội bất nhất, ganh đua lẫn nhau, lúc điều hành sẽ vô cùng đau đầu. Tang Viên khẩu là đường giao thông quan trọng của Đức Châu và Thương Châu, góc cơ giác của mười hai liên thành và Đức Châu, cùng nhau trông giữ, đều là nơi cực kỳ quan trọng, quốc công phái quân cứu viện Bảo Định, Thiên Tân đến tự mình độc thủ liệu có hợp lý không? Hạ quan mạo muội, hạ quan... thực là bứt rứt không thôi.

Dương Lăng cười ha hả nói:

- Ngươi không yên lòng, cho rằng giữ bọn họ dưới mắt mới coi chừng được sao? Ha ha, chủ lực thành Đức Châu lần lượt đến từ ba nơi. Đó mới thực sự là không có cách nào phát huy được. Ta điều bọn họ đi, hai lộ viện quân mỗi lộ canh giữ một nơi, không có ganh đua so sánh, mỗi lộ phụ trách việc của mình, ngược lại càng dễ dàng phát huy tác dụng của bọn họ.

Hôm nay ta lấy quân pháp lập uy, khiến tướng sĩ sợ pháp biết pháp, trong thời gian ngắn quân kỷ tất có thể đi sâu vào lòng người, khiến quân lính thừa hành không vượt quá. Duy trì lâu dài như thế nào thì đó lại là bản lĩnh làm tướng lĩnh dẫn quân của ngươi rồi, quân kỷ nghiêm khắc, thưởng phạt phân minh, không tổn hại ân tính thì có thể làm thật tốt.

La chỉ huy thận trọng đáp:

- Quốc công nói đúng!

Dương Lăng lại nói:

- Muốn kích khởi sĩ khí lòng quân được, nói dễ không dễ, nói khó không khó, chính là một vấn đề vì sao mà chiến. Ngươi nói những binh lính này tại sao mà chiến đấu chứĐền đáp triều đình hay là bảm đảm an dân? Nếu có tấm lòng này, bọn họ cũng sẽ không ghét chiến tranh sợ chiến tranh rồi. Ta ban bố quân lệnh, người giết Hưởng Mã đạo, tất cả tài vật thu được đều thuộc về người đó, hiệu quả sẽ không lập tức có thể thấy được, đợi đến lúc đánh mấy trận, có người nếm được vị ngọt ngào, toàn quân sẽ giống như hổ tham vậy.

Dương Lăng mỉm cười nói:

- Đại Minh ta dụng binh trước giờ dùng quan văn cầm binh, ít lên tiền tuyến lại ngồi ở phía sau chỉ huy, cản trở tướng quân, mà phía sau hắn lại có giám quân, cản trở quan văn. Lần này bản quốc công đến không có quan văn chỉ huy, không có giám quan quấy nhiễu, trao hết đại quyền cho ngươi, quyền lệnh tập trung, có thể để ngươi tùy cơ ứng biến.

Dương Lăng đầy thâm ý nhìn y một cái, nói:

- Người trong thiên hạ trêu chọc, đều nói Dương Lăng ta là thiên sát tinh, Dương chém đầu. Nhưng việc giết người lập uy trước giờ ta chưa từng dùng, lúc tiếp quản Thần Cơ Doanh cũng không dùng, lúc chống đỡ giặc Thát núi Bạch Đăng cũng không dùng, Giang Nam bình Oa, Đông Nam đả kích người Phật Lang Cơ, thậm chí lúc tiêu diệt Đô Chưởng Man ở Tứ Xuyên tất cả đều chưa từng dùng.

Bảo tham tướng của Thần Cơ Doanh cũng thôi, Tuần Phủ Phúc Kiến Nguyễn Đại Văn cũng vậy, đều có lý do dáng chết, không tuân quân pháp, chỉ riêng quốc pháp cũng đủ chết rồi. Duy có ngày hôm nay vì quân kỷ nghiêm túc, giết hơn hai mươi tiểu tốt kỳ thực là để tạo quân uy, quân pháp nghiêm túc. Không như vậy ta lo là ngươi khống chế không nổi đám tạp quân này. Bản quốc công trưng cái mặt đen, cho La chỉ huy nhà ngươi gợi lên hy vọng của lòng quân, liên quan đến an nguy của Đức Châu, ta trông cậy hết vào ngươi đấy.

La chỉ huy nghiêm nghị nói:

- Quốc công yên tâm, chức trách của La Sĩ Quyền, nhất định không phụ sự phó thác của quốc công, chỉ có tận tâm tận lực, tử thủ thành trì, người còn thành còn, người chết thành mất.

- Không đủ, người còn thành còn, người mất thành vẫn phải còn!

- Vâng! Người còn thành còn, người mất thành vẫn còn!

Nhìn Dương Lăng đi về phía trước một đoạn, La Sĩ Quyền vội vàng ra hiệu cho hai tên thân binh dìu mình đuổi theo gần một chút, nói:

- Quốc công, kế hoạch của ngài, mạt tướng vẫn có chút lo lắng, con trai thiên kim, tọa bất thùy đường. Quốc công quyền cao tước hiển, hiện giờ lại nắm quân chính một tỉnh Sơn Đông, một thân ánh trách nhiệm trọng đại, làm thế này...

- Haizz, lúc này còn nói những lời này làm gì? Ngươi chỉ việc lảm theo là được rồi, xảy ra bất ngờ, lấy thực đánh hư, chính là thắng hiểm mà.

- Càng huống hồ, mấy tháng nay lưu tặc đến tấn công tất chiến tất thắng, đại quân triều đình đuổi ở phía sau không có chút uy hiếp nào với bọn họ, phản tặc kiêu ngạo tự mãn. Kiêu binh, sẽ luôn chủ động tặng cho đối thủ rất nhiều sơ hở đấy!

Dương Lăng đấm nhẹ tường thành, ánh mắt chớp động lên.

Hai người vừa đi vừa bàn luận việc phòng thủ thành, lúc đi đến cửa bắc, chợt thấy dưới thành tập trung một nhóm người, đang vừa khóc vừa hô ở đó, binh sĩ trên đầu thành lớn tiếng quát xuống dưới:

- Cút! Cút hết đi! Đây là quân sự trọng địa, phụng lệnh La chỉ huy, không thể thả người vào thành, nghe khuyên mau đi chỗ khác tránh nạn đi, còn ở đây gây ầm ĩ, cung tên của ông không có mắt đâu đấy!

Dân chúng bên dưới có nam có nữ, có già có trẻ, xách túi kéo giỏ, vừa nhìn là biết là đám người tránh binh hoang chạy nạn đến, có năm sáu chục người già râu tóc bạc phơ khóc xin:

- Quan gia, cầu xin ngài khai ân ạ, mấy huyện gần đây đều bị thổ phỉ chiếm rồi, chỗ nào cũng binh hoang mã loạn, chúng tôi quả thực là không có chỗ đi nữa mà, quan gia, lão già dập đầu lạy ngài, ngài nương tay, cho lão già một con đường sống đi.

Lão già vừa quỳ, dân chúng vội vàng quỳ rạp xuống theo, thủ quân trên đầu thành reo lên:

- Đi đi đi, đừng có con mẹ nó lạy ta, ta còn chưa chết, thực là xui xẻo!

Dương Lăng nổi giận, nhíu mày nói:

- Có việc gì? Tại sao không cho nạn dân vào thành?

La chỉ huy vội nói:

- Không thể cho vào! Quốc công gia, không thể cho bọn họ vào thành! Đừng thấy những người này có già có nhỏ, có nam có nữ, nói không rõ ai là Hưởng Mã đạo, có lúc cả một ổ bọn chúng đều là Hưởng Mã đạo, cha con, mẹ con đều là Hưởng Mã đạo, căn bản chính là cả nhà theo thổ phỉ. Đôi khi lại là bọn đục nước béo cò.

Những người này vào thành, hoặc là tập trung tình báo phòng thủ thành, hoặc là nội ứng ngoại hợp tập kích cửa thành, nếu không nữa thì lúc cường đạo tiến công trong thành phóng hỏa, kêu to Hưởng Mã đạo đã vào thành, phát tán tin tức giả làm nhiễu lòng quân ta. Các tỉnh Tề Hà, Huệ Dân phần lớn đều là Hưởng Mã đạo trà trộn vào, mới bị bọn chúng dễ dàng tấn công vào thành, cướp bóc gian dâm, tàn hại toàn thành đấy.

Dương Lăng nghe vậy không khỏi lặng im. Hắn mới chỉ là nổi lên lòng thương, buột miệng nói ra thôi mà, La chỉ huy chính là không nhắc nhở, hắn cũng lập tức kịp phản ứng rồi.

Trước trận hai quân, nhân từ của đàn bà không được dùng, tuy nói những người này nhìn không giống đám Hưởng Mã đạo, nhưng Hưởng Mã đạo chính là vừa lôi kéo một đội ngũ nông dân, lên ngựa làm giặc, xuống ngựa làm dân, căn bản không cần ngụy trang.

Hoặc là những người này thực sự là nạn dân, hoặc trong đó thật sự có nạn dân, nhưng có thể làm thế nào đây? Mình không phải là thần tiên không biết gì, không có việc gì là không thể, làm thế nào để phân biệt đây? Nhân sinh vốn dĩ là đầy những bất đắc dĩ. Trên đầu thành của Kê Minh Dịch, mình chẳng phải cũng cắn răng nhẫn tâm, không để ý sự cản trở của đám người Hoàng huyện thừa, nổ nát những người dân vô tội bị Thát Tử lôi cuốn sao?

Trong thời loạn, mạng người ti tiện như cỏ rác, nhưng đáng thương luôn luôn là đám lương dân âm thầm canh tác, âm thầm hy sinh thôi.

Dương Lăng lệ quang lóng lánh, trong lòng chua xót, mệnh lệnh mở thành lại không thể nào thốt ra từ miệng của hắn. Hắn chỉ có thể cắn răng, cứng ngắc tâm can, nhìn đám dân đó cầu xin mấy lần, cuối cùng tuyệt vọng rời đi. Bọn họ dìu già bế trẻ, bước chân trì trệ, đi hai ba bước lại vừa quay đầu vừa đi, hoặc là trong lòng vẫn đang ngóng trông lính giữ thành đột nhiên phát thiện tâm mà mở cửa thành.

Nếu dân giàu nước mạnh, dân chúng an cư lạc nghiệp, bọn họ sao phải trôi dạt khắp nơi, nhà tan cửa nát? Tạo phản, ngay cả những kẻ có dã tâm như thế, thì làm sao mà có cơ sở quần chúng, có người hưởng ứng được?

Trong lòng Dương Lăng thầm thề: Ta nhất định sẽ cố gắng, nhanh chóng bình định sự rối ren này. Trong tay ta, trong những năm tháng ta còn sống, cố gắng hết sức để thay đổi căn nguyên sinh ra những rối ren này, thay đổi vận mệnh quốc gia, thay đổi vận mệnh của dân chúng phải chịu dày vò hết lần này đến lần khác trong những lần binh hoang mã loạn.

Từ khi đi ra khỏi cái rạch Dương gia bình đó, trong tăm tối dường như có một lực lượng, từng bước đẩy hắn đến vị trí dưới một người trên vạn người như hôm nay. Bước lên con đường làm quan hai năm, tiếp cận trung tâm mất một năm, tốc độ này có thể gọi là con cưng của trời rồi.

Mà hắn, cũng không phụ lòng trời xanh, bắt đầu từ khi định ra mục tiêu đời người của mình, liền cứ thế cố gắng, trong phạm vi khả năng của hắn, đập tan mọi lực cản, thử làm ra một số cải cách hiện tại đã thi hành ở một số bộ phận được nửa năm.

Tuy Dương Lăng làm, không phải là cấp tiền, trực tiếp từ bản thân chế độ đưa ra những cải cách nhưng lại là có liên quan đến thanh thế, những gì hắn làm được cũng chỉ có những thứ này. Không thể trực tiếp làm cuộc đại phẫu thuật thay gân động cốt chế độ về chính trị, kinh tế, văn hóa của đế quốc khổng lồ này, những cải cách long trời lở đất như thế, không phải lúc đó, không phải trong tình huống đó, chính là hoàng đế cũng không làm nổi.

Nhưng phàm là những người cải cách mà có thể thành công, không có một ai là đi theo đúng con đường mà hắn vạch ra, sau đó muốn xin người trong thiên hạ thực hiện những việc hắn muốn làm theo cách của hắn. Những người thế này, không có quyền lực hắn chính là nhà không tưởng, nếu có quyền lực thì chỉ có thể hại người hại mình.

Sự thành công của những người thành công vĩ đại là vì cả xã hội đã tích lũy đầy đủ những yêu cầu và điều kiện để có thể làm ra loại cải cách nào đó, hắn phát hiện rõ ràng nên làm những cải cách như thế đầu tiên, theo đà phát triển mà thôi.

Còn có một loại tình hình chính là những yêu cầu và điều kiện này đã sinh ra manh nha, vậy thì những người có ý đồ biến cách phải đặt tinh lực bồi dưỡng trên mầm mống đó, tạo ra càng nhiều những điều kiện cho nó, thúc tiến cho nó chín muồi, lúc sóng gió lịch sử mãnh liệt không thể ngăn cản, hắn mới ra tay khai thông, nước chảy thành kênh.

Cử trọng nhược khinh không lộ thanh sắc đạt được mục đích cải cách, đây mới là mưu lược chính trị cao minh dùng bốn lạng bẩy ngàn cân. Tạo thế nghịch thiên, lúc không đủ điều kiện xã hội đi làm cho kế hoạch nhảy vọt, hoặc lúc điều kiện vừa mới lộ ra chút mầm non, còn non nớt chưa chịu được gió mưa liền kéo mạ cho lớn nhanh, chỉ có thể khiến mình bị thân bại danh liệt, thậm chí bị thế lực cũ chiếm chủ lưu bóp chết cái mầm nho nhỏ đó.

Dương Lăng hiện tại đang làm chính là che chở bồi dưỡng cái mầm nho nhỏ đó, tạo đất thổ nhưỡng cho nó, lúc những điều kiện này chín muồi, nó sẽ đề cao diễn biến điều kiện văn hóa, chính trị, sau đó cải cách mới có thể nảy sinh đúng thời cơ.

Đây là một quá trình dài, hoặc là vào những năm tháng hắn còn sống cũng không thể thấy nó nở hoa kết trái nhưng lợi dụng quyền lực trong tay mà bồi dưỡng có ý thức cho nó, lại có thể khiến lịch sử đỡ phải đi đường vong, đoạt đi mấy trăm năm ngu muội dài dằng dặc, trước khi lạc hậu đến khiến nó được thực hiện.

Hiện tại, tất cả mới chỉ bắt đầu, đã dần hiện ra ánh rạng đông, tuyệt không thể khiến nó chịu phá hoại, quyết không thể cho người ta dùng sự phá hoại vô tận để hủy đi hy vọng này, trận rối ren này, nhất định phải mau chóng bình ổn!

Đau buồn như sấm, trầm thấp truyền đến. Dương Lăng bỗng nhiên ngẩng đầu, chỉ thấy đường núi vòng vèo phía xa xa bằng phẳng, bụi đất tung bay, trong cát vàng cuồn cuộn có thân ảnh vô số nhân mã như ẩn như hiện, thiết mã kim mác, sát khí đằng đằng, bụi đất hiện ra một lá cờ, bay phấp phới trong gió, bên trên ghi một chữ "Lưu" to.

Lưu Lục đến rồi!

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 371: Dịch Chiến Như Kỳ .

Cảnh vạn mã lao nhanh dù trên bình nguyên Tề Lỗ cũng ít khi xuất hiện. Thời tiết khô ráo, tro bụi đầy trời càng nâng cao uy thế. Cờ treo phấp phới, tiếng nổ vang như sấm gầm, ngựa như rồng càng làm người mất dũng khí.

Có câu "binh dựa vào mã", sức chiến đấu mạnh yếu còn phải cậy vào chiến mã rất nhiều. Nếu không phải Đức Châu tường cao hào sâu, có ưu thế tiêu diệt bọn Hưởng Mã đạo thì dù binh sĩ Đức Châu gấp hai lần Hưởng Mã đạo kia, phân nửa là bộ tốt, căn bản là đánh không lại. Hai quân vừa mới giao chiến thế sẽ như chém dưa, bị tiêu diệt hết phân nửa.

Quân triều đình đến ứng cứu chín vùng biên giới phòng tuyến và Kinh Sư đại doanh. Quân đội hai nơi này đã tiêu hao quá nhiều bổng lộc cùng quân nhu của triều đình. Vệ sở trong nước nuôi không nổi quân mã, lúc thái bình cũng không cần bố trí lượng lớn kị binh cho nên ở bên trong vệ sở trang bị khá xa xỉ, mặc dù Đức Châu là trọng trấn quân sự nhưng kị binh cũng chỉ ở mức hai ngàn người.

Tiếng kèn ô... ô... ngắn đầu thành báo hiệu khẩn cấp, tiếng trống như khinh lôi cũng đột nhiên vang lên. Các đội quan binh cũng bắt đầu vội vàng đi lên đầu thành, lăn cây lôi thạch, bôi dầu hỏa, đẩy đẩy khiêng khiêng... tất cả nhanh chóng dời về phía lỗ châu mai. Bạt che trên pháo cũng bị kéo xuống, nòng pháo đen thui toát lên thứ ánh sáng lành lạnh nhắm ngay dưới thành.

Nơi này vẫn dùng pháo truyền thống, Phích Lịch Lôi Hỏa pháo, tốc độ bắn so với kiểu pháo mới của thủy quân Giang Nam ứng dụng có kém hơn, nhưng uy lực lại lớn hơn một chút. Trong cuộc chiến thủ thành, nếu đem hai loại pháo này kết hợp có thể tăng thêm sức mạnh, càng tỏ rõ uy lực.

Đáng tiếc triều đình liên tiếp dụng binh, liên tục mở tiệc, hơn nữa bắc phương, Giang Nam thông thương, làm thuyền đóng quân, cải tạo bãi cỏ Liêu Đông, mua ngựa sắm trâu, an trí di dân, tài chính đã đến hồi túng quẫn. Hiện tại hỏa khí kiểu mới chỉ có thể thử ở quy mô nhỏ, không thể trang bị toàn quân.

- Oàng!!!

Đại pháo gầm hét lên, mặt đất chấn động. Pháo đạn cuộn với mây đen như cuốn tới trận địa, lập tức người ngã ngựa đổ, nơi đạn chưa nổ chiến mã được huấn luyện cũng kinh hãi mà hí lên, đội hình toán loạn.

Tuy nhiên đối mặt với đội kị binh như nước triều dâng này, pháo là uy lực lớn nhất. Chẳng qua là sóng triều cường dễ dàng bị đất liền làm mất dấu, khiến cả đại đội chiến mã hoảng loạn mất phương hướng. Tuy rằng bối rối nhưng không có ai có ý định chạy trốn, hơn nữa trình độ điều khiển ngựa của các kị sĩ cao thâm, có thể rất nhanh sửa đổi, điều chỉnh tiết tấu tiến công.

Dưới thành có sông đào bảo vệ thành, chiến hào quân sự pháo đài sự mã vừa sâu vừa rộng, không sợ đám Hưởng Mã đạo chỉ bằng một vòng xung quanh đã đánh tới thành. Nhóm quan quân cấp cao hạ lệnh chuẩn bị quân giới lấy cận chiến phòng thủ thành. Hỏa pháo thủ và cung nỗ thủ dùng tên yểm hộ, mũi tên che trời phủ đất mà bắn tới đám Hưởng Mã đạo, khiến cho chúng hồn xiêu phách lạc.

Địa thế nơi này trống trải, mặt phẳng là kênh đào, chính diện là thành trì Đức Châu. Hai mặt còn lại là đất hoang, rừng rú, đường đất mà thành. Hướng tới hay lui sau đều gãy hướng, chạy trốn dễ dàng. Địa thế trống trải, dễ dàng bài bố nhân mã công thành, cư nhiên cũng dễ dàng hơn cho quân coi giữ thành nhắm bắn. Tám ổ đại pháo liên tục nổ vang, không ngừng lấy mạng người, mà đám liều mạng cũng tru lên ngày một gần.

Thành Đức Châu sở hữu ba mươi hai khẩu đại pháo, xung quanh các cửa có tám khẩu, tận lực phóng đạn, lực sát thương đến kinh người. Tuy nhiên pháo nhét vào tốn thời gian công sức, mà khoái mã lại chạy như điên nhanh hơn tia chớp, trong khoảnh khắc đã tiến đến gần. Tấn công gần, đầu tường góc chết càng nhiều hơn, pháo chỉ có thể uy hiếp trong phạm vi hữu hạn, lúc này chủ yếu phải dùng vào cung nỏ.

Dưới tường tro bụi lan tràn, che khuất bầu trời. Hưởng Mã đạo đều dùng khăn đỏ che mặt, bắt đầu tung kị chạy, không ngừng bắn tên, áp chế đầu thành dùng hỏa lực, tiếp đến là yểm hộ quân đội phía sau.

Vừa cưỡi ngựa vừa bắn tên vốn là sở trường của quan ngoại Thát Tử, mấu chốt nằm ở kỹ thuật cưỡi ngưa cao siêu, bằng không sẽ không thể bắn, mà mũi tên bắn ra khỏi cung sẽ mất dấu, chính mình cũng không biết đã bắn đi đâu. Hoặc là trên ngựa xóc nảy bay về tám hướng, bắn tên vô lực, căn bản không có sức sát thương.

Hưởng Mã đạo cánh quân tinh nhuệ cũng nhiều người có kĩ thuật cưỡi ngựa bắn cung cao siêu. Bởi vì mã hộ trong nhà chăm ngựa, rất nhiều Hưởng Mã đạo từ nhỏ đã lớn lên trên lưng ngựa, bởi vậy kĩ thuật cưỡi ngựa cao siêu cũng không phải là khó. Tinh kị như vậy cũng chừng ngàn rưỡi đến hai ngàn người.

Bọn chúng vừa cưỡi ngựa chạy, vừa không ngừng bắn tên, lực lượng ngang với quân giữ đầu thành. Pháo thủ lúc này quả thực thành đại pháo đánh muỗi, đối với bọn Hưởng Mã đạo có tài cưỡi ngựa bắn cung đã hoàn toàn mất tác dụng rồi.

Một chữ "Lưu" kia trên nền cờ ở bên mảnh đổ nát phía xa, trên đê lờ mờ vài nhân ảnh, hiển nhiên là Lưu Lục đóng quân ở đó mà chỉ huy tác chiến. Nơi đó dưới đê là đầm lầy cỏ lau lục bình, cách kênh đào hơn hai dặm. Khoảng cách không xa lắm, có thể xem toàn cục, cũng có thể chỉ huy điều hành toàn cục diện.

Dương Lăng vừa ghé vào giá đặt tên, đã bị một người giật mạnh trở về. Người kia chụp lấy cánh tay hắn giữ thật chặt. Dương Lăng quay đầu nhìn lại, chỉ thấy La Sĩ Quyền mặt đầm địa mồ hôi quát:

- Ông trời của tôi ơi, ngài thế nào lại ở chỗ này vậy? Mau, mau tránh khỏi nơi nguy hiểm này đi.

Hóa ra lúc nãy còn Hưởng Mã vừa đến, La Sĩ Quyền tình thế cấp bách đã mở hai thân binh, chạy lên tường thành, tự mình chỉ huy. Chờ y điều hành xong một phen, hạ liên tiếp mấy mệnh lệnh xong mới nhớ ra đã quên mất một vị đại nhân vật. Y quay đầu nhìn lại, bọn Hưởng Mã đạo dùng mũi tên nhọn bắn lên thành đầu, tên ngang trời, cục diện tán loạn. Uy quốc công vịn tay lên ụ bắn tên theo dõi chiến trận, làm y bị giật mình không ít, lập tức chạy vội tới.

Vết thương La Sĩ Quyền tuy không động gân cốt, nhưng dù sao cũng đau da rát thịt. Vừa rồi phi nước đại đến cổng thành chỉ huy đã xé vỡ miệng

Vết thương, nay lại mang thương tích chạy qua chạy lại cho nên mồ hôi vã ra đầy đầu.

Dương Lăng thoải mái cười nói:

- La tướng quân không cần lo lắng. Nam man bắc lỗ, đông oa tây di**, bản quốc công đều đã chứng kiến rồi. Bọn Hưởng Mã đạo này chưa chắc đã cao minh hơn bọn chúng, chúng ta sợ gì chứ...

(** Nam man bắc lỗ, đông oa tây di: Ý miệt thị chỉ người bốn phía Đông Tây Nam Bắc đều là lũ man di chẳng ra gì. Theo quan niệm Trung Quốc xưa thì chỉ có Trung Hoa giữa là kết tinh của trời đất).

Hắn đang nói, một mũi tên Lang Nha ào ào lướt tới, nhằm giữa lỗ châu mai mà bắn. Ngũ Hán Siêu hơi động đầu vai, "soẹtt..." một tiếng, mũi tên bị đánh bay, chỉ thấy trong tay Ngũ Hán Siêu nửa thanh Thu Thủy đang từ từ tra vào vỏ. Kiếm xuất cực nhanh, khiến người ta khó theo dõi được. La Sĩ Quyền bị dọa cho nhảy dựng, thần sắc Dương Lăng lại tự nhiên, mí mắt cũng không chút thoáng động.

La Sĩ Quyền không bình tĩnh tự tại như Dương Lăng. Dương Lăng là Khâm Sai Tổng Đốc, tuần phủ Sơn Đông - địa quốc công gia, phụ trách công việc cả khu vực phòng thủ, tiêu diệt thổ phỉ, định ra chiến lược tiêu diệt phỉ, điều hành các lộ binh mã. Y hiện tại trấn thủ Đức Châu không phải là giả, nhưng không phải là tướng lĩnh phụ trách phòng ngự thủ thành Đức Châu. Nếu y để đầu thành tổn thất, bản thân khó tránh tội hộ vệ không chu toàn.

Nơi đây gần Kinh Sư, bốn phương tin tức linh thông thông suốt. Đương kim hoàng thượng sủng ái tín nhiệm vị Uy quốc công này thế nào, y nghe qua không ít tin đồn. Có thể khiến hoàng thượng mặc đồ nữ tử, hóa trang đi trèo tường, ngoại trừ vị đại nhân trước mắt này không có người thứ hai.

Dương Lăng thấy vị La chỉ huy này nóng nảy, lại nhìn thấy bọn lính đầu thành khẩn trương bận rộn. Mặc dù các sĩ quan quân đội không ngừng thúc giục, lại càng khẩn trương, nhưng động tác lại có phần cứng nhắc, xem chừng không chỉ là bình thường thiếu luyện tập. Thấy mình đứng đây càng làm bọn họ thêm căng thẳng, hắn mỉm cười nói:

- Được rồi, La tướng quân an tâm chỉ huy, bản quốc công lên thành lâu xem yểm thủ ra sao rồi?

La Sĩ Quyền mừng rỡ, vội vàng gọi thêm vài thân binh cùng Dương Lăng lên thành lâu. Bọn Hưởng Mã đạo không có vũ khí công thành tầm xa sắc bén, đứng ở thành lâu sẽ an toàn hơn.

Tổng Tiểu Ái thấy Dương Lăng nghe lời như vậy, có chút kinh ngạc. Kì thật Dương Lăng cũng muốn đứng đây quan sát bọn Hưởng Mã đạo nhằm tìm ra phương pháp tác chiến trực quan, nhưng bởi như vậy La Sĩ Quyền lại không lòng dạ nào mà chỉ huy, đem toàn bộ chú ý đặt lên hắn. La Sĩ Quyền là tổng chỉ huy, Dương Lăng cũng không có ý định muốn thay thế, tự giác cầm đao đến chỉ huy cuộc chiến phòng thủ Đức Châu, như vậy sẽ không gây phiền phức cho La chỉ huy nữa.

Hơn nữa quân coi giữ trong thành gấp đôi ngoài thành, cứ cho là kẻ thù có ưu thế về ngựa, nhưng tác dụng của nó trong công thành không lớn, mà quân coi giữ chiếm cứ ưu thế về địa lợi và vũ khí, lại hoàn toàn thủ thế. Nếu như đã vậy còn cần mình ra mặt, vậy La Sĩ Quyền dù là kẻ ngu cũng không thể nhẫn nhịn được, căn bản không thể dùng.

Dương Lăng đang tính bước kế tiếp, La Sĩ Quyền là quân cờ trọng yếu, cần y một mình đảm đương một phía. Dương Lăng trăm phương ngàn kế chỉnh đốn quân đội phòng thủ Đức Châu, nhấn mạnh quân lệnh quân luật, trước mặt quân sĩ Đức Châu tạo nên quyền uy tuyệt đối cho La Sĩ Quyền. Chính nhờ vậy mà hiện giờ quân đội mới được vững mạnh như vậy, càng tiến thêm một bước củng cố địa vị của y. Dương Lăng không lui vào phía sau màn, không khéo lại đoạt đi sự nổi bật của y.

Thấy Dương Lăng lui về trong lầu, La Sĩ Quyên lập tức phấn chấn lại tinh thần, hét to:

- Áp chế cung nỏ, tận lực sát thương. Các cung thủ, không được bối rối.

Nói xong liền rút đao ra, nấp sau ụ tường lỗ châu mai bên cạnh, ngưng thần quan sát động tĩnh từ bọn Hưởng Mã đạo.

Quân ngũ tác chiến, cung nỏ làm đầu. Cung xạ tốc độ cao, nhưng cầm nắm khó khăn, mà bắn nỏ bằng cơ quan sáng học tối quen, lực có thể bắn xa nhưng nhét vào khó khăn, phóng ra chậm chạp, lại không dùng được trên ngựa chiến nhưng thủ thành thì lại thuận tiện hơn rất nhiều.

Thành Đức Châu bố trí tỷ lệ nỏ và cung là sáu bốn. Lúc này tên nỏ bắn ra cùng lúc. Cung hai thạch nội hai trăm bước có thể xuyên qua giáp cắm vào cơ thể. Kình nỏ tầm bắn còn xa hơn. Chỉ nghe dây cung cắt rầm rì, cung nỏ bắn ra cùng lúc, vô số nhánh Lang Nha tiễn kêu gào bắn ra ngoài.

- A!

Một tên Hưởng Mã đạo đang phi ngựa bị mũi tên lông vũ bắn trúng, ngã xuống ngựa. Tên kia nửa tiếng cũng chưa phát ra được liền bị một kình nỏ chiếu thẳng vào trán, thân thể gã liền ngã ngửa ra sau, treo trên lưng ngựa.

Mấy trăm mũi tên Lang Nha phá không mà tới, bắn tới như mưa rào, trong nháy mắt cũng đến hai trăm người thương vong. Mất đi người quản lý, chiến mã chạy hỗn loạn tứ phía, trận hình tấn công liền tan tác, không còn được nghiêm túc như trước. Kỵ quân Hưởng mã bị thế tấn công ngăn trở, bắt đầu vừa chạy đồng thời bắn tên nhằm áp chế lại. Mưa tên vun vút, tuy quân canh giữ đầu thành có dựng lá chắn, song vẫn không ít người trúng tên bị thương.

Songphương đầu tiên cùng công thủ, đều là áp chế tầm xa, ra sức bắn chết đối phương. Xem dáng vẻ bọn Hưởng mã đạo này, hiển nhiên còn có hậu chiêu. Bọn chúng đương nhiên sẽ không lấy thân xác máu thịt để công thành. Bọn Hưởng mã đạo giơ lên tấm chắn, có mộc thuẫn, thiết thuẫn, còn có loại lá chắn tự chế bằng cây mây, đủ loại, tuy rằng không kháng cự được kình nỏ, nhưng vẫn có thể chống đỡ được cung tiễn.

Trong thành lâu, Ngũ Hán Siêu và Tống Tiểu Ái một trái một phải đứng sau lưng Dương Lăng. Dương Lăng một thân quần áo xanh ngồi ở trên cao dựa lưng vào thành ghế, bắt chéo chân ngồi gần cửa sổ trông ra, thần sắc thản nhiên. Hắn vỗ nhẹ trên đầu gối, hắng giọng nói:

- Ta đang ở thành lâu ngắm cảnh núi, chợt nghe được ngoài cửa thành hỗn loạn, tinh kì phấp phới nhìn không rõ, thì ra Lưu Lục gửi binh tới.

Tống Tiểu Ái bật cười, hé miệg nói:

- Đại nhân hát khúc gì vậy? Thật là nhàn nhã quá đi.

Dương Lăng cười ha hả nói:

- Thiếu một chiếc Nga mao đại phiến (quạt lông ngỗng lớn), nếu không càng thú vị hơn.

- Hả? Thú vị hơn?

Tống Tiểu Ái ngạc nhiên

Quan binh căng thẳng đứng quan sát khắp nơi, thấy vị Quốc công gia này nói nói cười cười, không thèm để ý hơn vạn kỵ binh đứng dưới thành, trong lòng không khỏi âm thầm khâm phục, tâm trạng vốn lo lắng cũng có phần bình phục lại.

Đại quân của Lưu Lực hiển nhiên là đến gần thành Đức Châu mới bất chợt tăng tốc. Bởi vì phía sau xuất hiện người đẩy xe ngựa kéo, có phòng xe giá gỗ, hẳn là mang theo không ít vũ khí công thành. Dương Lăng thoải mái cười nói:

- Thì ra là thế. Ta đã nói rồi, Lưu Lục ngu ngốc hơn nữa, chung quy vẫn không biết dùng người. Ba vạn binh mã có thể công thành Đức Châu không.

Nữ nhân dựa vào cảm tính, Tống Tiểu Ái đối với Dương Lăng vẫn là một kiểu sùng bái mù quáng. Dưới thành ước chừng hơn một vạn người, nàng biết Quốc Công đại nhân nhất định có biện pháp khắc chế. Nhưng nếu như dưới thành là trăm vạn quân, thấy Dương Lăng nhàn nhã như vậy, nàng vẫn sẽ cho rằng Dương Lăng nhất định có biện pháp.

Ngũ Hán Siêu lại có chút căng thẳng. Y nhìn bọn Hưởng Mã đạo phía dưới thành đang từ từ phân tán. Bọn hưởng mã đạo dẫn dụ hoả lực đầu thành, đồng thời bắn tên ểm hộ khí giới công thành phía sau. Ngũ Hán Siêu nói:

- Quốc Công, Lưu Lục ngừng tấn công mấy ngày, ắt là không lần ra được thực hư của chúng ta, đồng thời nhất định cũng đang chuẩn bị công thành. Hắn đã dám đến, e là đã nắm chắc, có cần phải kiến nghị với La Tướng quân điều một bộ phận nhân mã từ ba thành còn lại không?

Trong thành lâu, một số tướng sĩ quân coi giữ bản địa như ngừng thở, lắng tai nghe Dương Lăng nói chuyện. Dương Lăng lắc đầu cười nói:

- Nắm chắc? Hắn có cái gì mà nắm chắc? Hắn chỉ là không thể không đến. Nếu không phải kế hoạch từ bỏ sống yên ở Sơn Đông, bắc ách Kinh đô, săn Giang Nam, cách xa Kinh sư, cứ đâm đầu vào chốn phồn hoa, nhưng muốn sống yên ở đó càng khó.

Hắn dừng một chút, lại nói:

- Thành Đức Châu này, Lưu Lục nhất định đánh hạ. Kẻ thủ thành thất bại không ngoài địch mạnh ta yếu. Thành lớn mà ít người, lương ít dân nhiều, quân nhu thất thoát ra ngoài, tướng sĩ không phụng mệnh. Ngoài ra sông ngoài cao mà trong thành thấp, mạch đất sơ mà ao hoàng nông, vật chất không đủ, tiền lương không cấp, dù thành có cao thì cũng không thể thủ được.

Thành Đức Châu binh hùng tướng mạnh, hào sâu tường dày, bảy vạn đại quân đủ để giữ thành. Hơn nữa lương thảo sung túc, đường thuỷ thuận lợi, thưởng phạt nghiêm minh, pháp luật chặt chẽ. Dù kẻ địch có đông gấp nhiều lần, căn bản cũng không thể công được.

Dường như chứng minh cho lời nói của Dương Lăng, tên đổ xuống như mưa, đại pháo nổ vang, khí thế kia làm cho đại quân Lưu Lục vừa mới nhào tới không thể khống chế được nỗi sợ hãi. Quân tiền phương có gan khiêu chiến đã không còn nhiều lắm, tuy nhiên xe tiếp viện phía sau vẫn dần dần được đẩy tới.

Quan binh đứng trên thành quan sát nhất cử nhất động của bọn Hưởng Mã đạo rõ như lòng bàn tay, có thể nhanh chóng tìm ra cách ứng phó. Nhưng vì gần đó không có núi cao, vì đại pháo của quan binh, Bọn Hưởng Mã đạo lại không dám thiết lập tháp quan sát ngay trên tổ xe. Giữa địch và ta bên nào nặng nhẹ rất rõ ràng. Bên trong thành quân coi giữ bố trí phòng thủ thế nào, điều chỉnh hoả lực ra sao, bên ngoài thành chỉ có thể chờ đến lúc giao chiến mới có thể phán đoán được vài phần, mà bọn họ ở ngoài thành có động tĩnh gì, bên trong liền biết hết.

Giờ phút này, hành động của bọn Hưởng Mã đạo liền bị quan binh phát hiện ra:

- Nỏ sàn! Là nỏ sàn? Tiên sư chúng nó, không ngờ bọn chúng lại dùng đến nỏ sàn rồi. Mau, đánh cho nát nó

Thanh âm của La Sĩ Quyền từ nơi xa truyền đến.

Nỏ sàn lại một loại nỏ cỡ lớn trang bị đặt trên giá gỗ, trong 500 mét có thể xuyên thủng thân thể, có thể nói là bá vương trong các loại nỏ. Thời Nam Tống quân Tống từng dùng nỏ sàn bắn chết Đại Hãn Mông Cổ, do đó dẫn đến cuộc tranh giành Hãn vị giữa Hốt Tất Liệt và A Lý Bất Ca, nhờ vậy Nam Tống mới có thể kéo dài hơn mười năm.

Tiễn mà nỏ sàn phóng ra lấy gỗ làm càn, dùng đầu thiết thương làm mũi nhọn, dùng miếng sắt làm đuôi cánh, được xưng là "Nhất thương tam kiếm tiễn" kỳ thực là đoản mâu mang lông đuôi chim, dùng để thủ thành, các loại chiến xa, thang mây, mộc che, cự thuẫn...tấn công gặp phải cũng bị phá nát. Dùng để công thành, thành luỹ đổ, nếu như là thổ thành mộc trại, càng bị bẻ gãy nghiền nát.

Vào thời điểm đó, đây được xem là vũ khí công thành hạng nặng, khó trách La chỉ huy lo lắng như thế. Quân canh giữ đầu thành nhanh chóng di chuyển đại pháo, tính toán vị trí mục tiêu. Nỏ sàn tuy nói là binh khí hạng nặng nhưng đối với lính sử dụng cung nỏ mà nói, đặt lên xe ba gác thô sơ tuy là dễ dàng di động nhưng để nhắm trúng vào mục tiêu thì e nói dễ hơn làm.

Không phải là nỏ sàn thôi sao?

Ai không có chứ, ngươi có ta cũng có nha!

Kiều Tứ Hải được điều về phòng thủ thành Đức Châu thấy đại pháo không có cách nào bắn được nỏ sàn đang được bọn hưởng mã đạo dùng lừa kéo xe ngựa di chuyển đến dưới thành, không đợi La Sĩ Quyền phân phó, lập tức gầm rú kêu người khênh nỏ sàn gác thành đẩy lên giữa đầu thành, chuẩn bị dùng nỏ sàn chiến nỏ sàn.

"Ong", một luồng sóng chấn động xẹt qua tai mọi người, âm thanh vang dội, tiếng người hô ngựa hí chấn động màng nhĩ, lại giống như máy bay chiến đấu nhanh chóng xẹt qua đỉnh đầu.

Dương Lăng cảm thấy tai ngứa ngáy, sau một lát mới nghe tiếng nói của Kiều Tứ Hải từ đầu thành truyền đến:

- Bọn họ phóng ra "đạp quyết tiễn', tập trung cây lăn đá lăn, dầu hỏa vôi, bọn chúng sắp mạnh mẽ tấn công thành rồi.

Dương Lăng vừa nghe "Đạp quyết tiễn" lập tức hiểu. Thời điểm ở trong biên quân Đại Đồng hắn dù chưa từng thấy "Đạp quyết tiễn", nhưng cũng từng nghe người ta nói tới. Đạp Quyết tiễn chính là dùng nỏ sàn ghim đoản mâu trên tường thành, để người công thành leo lên thành, giống như thang mây cơ động. La chỉ huy ghé sát vào tường thành nhìn thăm dò một chút, chỉ thấy năm đoản mâu thẳng tắp cắm vào hốc tường, dù là đoản mâu, phần đuôi vẫn rung động kịch liệt, phát ra thanh âm vù vù.

Y chỉ nhìn rồi lập tức rụt đầu về. Binh lính bên cạnh vội dựng thẳng thuẫn để chắn. Quả nhiên, trong quân Lưu Lục có người nhìn thấy, đốc đốc vài tiếng, trên mặt thuẫn đã bị trúng mấy mũi tên bắn lén.

Đừng tưởng rằng bức tường gạch xanh này lợi mâu bắn không vào, không chỉ chất lượng gạch tốt, hơn nữa xây bằng đất dính, kháng thổ càng nhiều.

Năm đó cự phú Thẩm Vạn Tam trợ giúp Thái tổ xây dựng Nam Kinh, hai người tự sai người của mình xây một đoạn tường thành phía sau. Chu Nguyên Chương tiến đến kiểm nghiệm, lệnh sĩ tốt cầm thiết chùy đập bể tường thành, một búa vừa đập, tường thành do mình phụ trách xây dựng đã bị đánh sụp. Mà bức tường thành do Thẩm Vạn Tam dùng trọng kim mướn người, đích thân giám sát xây dựng ba chùy đánh mà không sụp. Chu Nguyên Chương giận giữ, chém người giám sát xây dựng, kinh thành như thế, nơi khác không cần nghĩ cũng biết.

Đương nhiên loại gạch này bị đập vỡ chỉ vỡ ở bề mặt, sẽ không tạo thành cả bức tường thành bị sụp đổ, đầu tiên gạch này chính là một khối rất lớn, hơn nữa tường thành rất dầy, chiều rộng hơn mười trượng, cho dù người dùng mười con trâu kéo cũng không đổ, huống chi còn có kháng thổ rất dày nặng, càng thêm rắn chắc.

Chỉ có điều mặt tường dù cứng rắn như nào, từng đoản mâu này cắm vào nửa thước cũng đã cố định như bàn thạch, chỉ cần xếp thành hàng với độ dốc nhất định vọt tới tường thành, tựa như đáp từng bậc thang trên tường thành, đừng nói leo lên, đám hưởng mã đạo nghiêng người đứng dưới tường chạy cũng chạy lên được.

La Sĩ Quyền đỡ nón trụ, cười lạnh nói:

- Ý tưởng kỳ lạ! Bản quan có thể cho phép đám tặc tử các ngươi đắc thủ hay sao? Đến đây nào, cứ đâm đoản mâu vào, ta sẽ ném đập gãy mâu, nện ngã bọn chúng.

Dương Lăng ngồi ở đầu thành cũng không phải là ngắm phong cảnh, vẻ thản nhiên này dĩ nhiên là để đám quân coi giữ địa phương xem đấy. Hắn miệng thì cười nói, nhưng hai mắt vẫn quan sát đặc điểm công thủ và thế tiến thoái của đám hưởng mã đạo ngoài thành, càng chú ý quan sát La Sĩ Quyền. Xem y chỉ huy, điều hành, trù tính như nào, quan sát lực phán đoán lực cơ biến của y cùng với năng lực chiến đấu, trình độ phục tùng, sĩ khí quân tâm và tố chất hiệp đồng tác chiến của binh lính.

Hắn ở đây đang xem cuộc chiến, không chỉ là xem địch, hơn nữa còn quan sát bên mình. Hắn vừa mới đến Đức Châu, còn chưa biết người biết ta. Chiến trường, là thời điểm khó che giấu ưu khuyết điểm của bản thân nhất, cho nên cũng khiến hắn nhanh chóng tìm hiểu được hết thảy. Trước mắt, hắn rất hài lòng với La Sĩ Quyền.

La Sĩ Quyền không phải loại bề ngoài như hung thần ác sát trong lòng thì nhát gạt, vừa ra chiến đã sợ, mà là chiến thần rất biết khích lệ sĩ tốt, cũng không phải là tham tướng thích hợp công thích hợp thủ, mà là lão tướng có kinh nghiệm chiến trận phong phú. Y giống như một viên chỉ huy theo nghĩa hiện đại, điều hành an bài vô cùng nhuần nhuyễn, tâm tư rất kín đáo, rất nhiều chi tiết đều suy tính chu đáo.

Danh tướng ai cũng có sở trường riêng, có người giỏi về tấn công, có người thiện thủ, có người thiện chính hợp, có người thiện kỳ chiến. La Sĩ Quyền này hiển nhiên là thiện thủ. Dương Lăng rất hài lòng với người này. Có người này thủ Đức Châu, chỉ cần trên dưới toàn quân như một, để cho y điều hành thuận buồm xuôi gió, chỉ huy dễ sai khiến, thì trọng châu Đức Châu có thể được bảo vệ. Hiện tại, mình cuối cùng có thể yên tâm triển khai kế hoạch tiêu diệt phỉ Sơn Đông rồi.

Một kế không thành, người của Lưu Lục bắt đầu thay đổi phương pháp công thành. Y cho người trang bị dây cung nỏ sàn, một lần bắn hơn mười mũi tên, phát ra giống như bão tố, mũi tên rời cung, nhảy tới, lực sát thương kinh người.

Nhờ vào lực sát thương lớn của nỏ sàn và nhóm kỵ thủ không ngừng bắn tên áp chế, hơn mười chiếc thang công thành đã bắt đầu di chuyển áp sát vào bên trái tường thành. Thang công thành rất ít sử dụng phân tán, như vậy rất dễ bị người thủ thành tiêu diệt từng bộ phận. Một khi sử dụng, ít nhất phải tập trung hơn mười cái thang ở một chỗ, vừa công vừa thủ đấy, không ngừng bắn tên về phía nhau. Còn là lấy mạng người để lấp vào, như vậy một phương công thành trả giá bằng thương vong rất lớn, tuy nhiên đây lại là phương pháp xử lý công thành mau lẹ nhất.

La Chỉ huy điều hành, Kiều Tham tướng mang người vọt tới phía thang công thành. Cùng lúc đó, đám hưởng mã đạo bên kia lại có hơn mười cáp mô xa kéo hào kiều bắc qua sông đào bảo vệ thành tiến về phía tường thành.

Cáp mô xa đẩy về phía trước, không khác với chiến xa công thành mà người Thát Đát sử dụng khi tấn công Kê Minh Dịch, nó cùng dùng da trâu bọc để chắn mưa tên, đám hưởng mã đạo tránh ở phía dưới. Phi câu cầm trong tay, chuẩn bị vượt qua chiến hào ép leo lên. Đầu thành lập tức lấy hỏa súng, hỏa tiễn ngăn cản lại, đồng thời quan binh tập kết đến nơi này, chuẩn bị chiến đấu.

Cổng chính bởi vì có tám khẩu đại pháo uy hiếp, đám hưởng mã đạo chỉ công kích hai bên, rất ít dám khiêu chiến chính diện, tận đến khi bọn chúng từ phía xa dựng lên hai máy ném đá loại nhỏ đơn giản, từng vật có độc được đốt cháy ném lên đầu thành, quấy cho đầu thành tràn ngập sương khói, mới có một xe công thành đáp vào mái lầu, đám hưởng mã đạo đẩy xe lập tức reo hò lao đến, có người khác khiêng hào kiều chạy từ bên cạnh lên trước.

"Rầm rầm...", đại pháo phun lửa lên, tám khẩu đại pháo bắn hai đợt, từ xa vài máy ném đá bị bắn vỡ tung, người khiêng hào kiều dưới thành bị mưa tên bắn chết non nửa, người còn lại trốn dưới hào kiều để tránh né mưa tên, hào kiều được đáp lên rãnh mương. Xe công thành, cây gỗ cỡ lớn đụng cửa thành, đám liều mạng rú gào đánh tới.

Trong lòng bọn họ, quan binh chỉ duy nhất dựa vào thành cao hào sâu để thủ, chỉ cần đụng mở cửa thành, quan binh sẽ mất sạch dũng khí, trở thành con thỏ để mặc chúng chém giết. Đức Châu là thành lớn, bên trong có nhiều gia đình giàu có, nhiều tài vật và nhiều phụ nữ đẹp. Hơn nữa Lưu đại soái nói, đánh hạ được Đức Châu, là có cơ hội có được thiên hạ. Mỗi người họ đều có cơ hội làm tướng quân, dù sao đã là mệnh ti tiện rồi, vì sao không ra sức đánh cược một lần.

Đám hưởng mã đạo gầm rú, đụng cây gỗ lớn vào cửa thành, từng tiếng trầm đục nặng nề, chấn động ngay cả đầu thành cũng cảm nhận được. Một Bách hộ giơ yêu đao hô lớn:

- Mau, chuẩn bị thiết đụng mộc, đuốc đuôi én.

Trên đầu thành bày đặt thiết đụng mộc, thân gỗ đầu sắt, đầu sắt do sáu mũi sắt tạo thành, từng mũi sắt dài hơn một thước, tựa như sáu đinh sắt Lang Nha. Đám quan binh ném thiết đụng mộc xuống dưới, đập trúng đỉnh xe công thành, đinh sắt thô to sắc bén đâm rách đỉnh xe, ngay sau đó thiết đụng mộc đập lên, xé mở một lỗ hổng lớn.

Lập tức đuốc đuôi én được ném xuống dưới, tạt dầu hỏa xuống dưới, xe công thành biến thành ngọn lửa lớn, ngay cả dưới xe cũng bị thấm dầu bén lửa, không có tác dụng che chắn nữa, đám hưởng mã đạo phụ trách đẩy xe công thành lập tức liều mạng bỏ chạy trở về cho dù đã có nhân mã bên mình không ngừng bắn tên yểm hộ. Quan binh trên đầu thành không ngừng bắn tên truy đuổi, đã ghim những tên hưởng mã đạo ôm giấc mộng làm tướng quân dưới đất.

Dương Lăng đứng ở trên cổng thành, thấy vũ khí công thành nhiều loại phong phú này, so sánh với khí giới tấn công phòng thủ chính quy trong quân, bề ngoài thì tàm tạm nhưng tác dụng cũng không hề thua kém, không khỏi tràn đầy cảm xúc.

Hắn thở dài, nói với Ngũ Hán Siêu:

- Ta từng nghe nói, người phạm tội dù không phải là thiên tài, nhưng tài trí tuyệt đối không hề tầm thường đấy. Ở phương diện khác, họ nhất định mạnh hơn người bình thường rất nhiều. Câu nói đó rất đúng, trong đám hưởng mã đạo thật sự là có người tài.

Đây vẫn là lần đầu tiên Tống Tiểu Ái nhìn thấy nhiều loại khí cụ công thành như thế, đôi mặt đẹp mở to nhìn thích thú. Nghe Dương Lăng nói vậy lập tức tán thành:

- Vâng, đại nhân nói đúng, trong đám hưởng mã đạo có không ít thở thủ công giỏi.

- Triệu Toại đến Sơn Tây, Hứa Thái, Giang Bân cũng đuổi theo sau. Hứa Thái đã truyền dụ lệnh xuống, quan viên quân chính địa phương Sơn Tây đều tự phụ trách lãnh địa thuộc mình quản lý, chỉ được kháng cự kẻ tặc bên ngoài, không được lãnh binh đuổi theo, để tránh bị trúng kế kẻ tặc, khiến chúng thừa dịp thành không mà vào.

Người mặc áo bào xanh ngồi đối diện với Trương Dần chậm rãi nói. Gã hiện tại có thân phận là Tham nghị trong quân Trương Dần, tên là Giang Nam Nhạn. Trên thực tế gã cũng là thành viên tham mưu của Trương Dần, thân phận thật sự là Đại pháp sư Di Lặc giáo của Di Lặc Giáo chủ Lý Phúc Đạt.

Lý Phúc Đạt cười ha hả nói:

- Không cần quản hắn, chỉ cần không đến Thái Nguyên, cứ mặc cho Triệu Phong Tử tung hoành đi. Hứa Thái này có quân lệnh, rất hợp ý ta. Sơn Tây đông có Thái Hành. Tây có Lã Lương, nam có quần sơn Trung Điều, Tích Thành, đông liền Thái Hành, tây sát Lã Lương, có thể nói đâu đâu cũng là rừng núi rậm rạp, khe rãnh tung hoành. Nếu như tiêu diệt phỉ còn khó hơn lên trời. Nói tới, vẫn là nên trông giữ Sơn Đông bên kia.

Lý Phúc Đạt hưng trí bừng bừng nói:

- Không thể tưởng được Dương Hổ lại lập nên cục diện lớn như vậy ở Sơn Đông. Ừm...trong đó dĩ nhiên không thể thiếu công lao người của chúng ta âm thầm hiệp trợ. Chẳng qua hắn có thể tạo nên cục diện như hiện giờ, phát triển đến mức này vẫn là ngoài dự liệu của ta. Xem ra Lưu Cẩn, Tất Chân ở Sơn Đông cướp đoạt vô độ, quá mất dân tâm, cũng đã giúp hắn một đại ân rồi.

Lý Phúc Đạt mỉm cười nói:

- Bá Nhan Khả Hãn cũng chỉ như vậy thôi, lần trước hợp tác thất bại, khiến cho tình cảnh của hắn khó khăn. Bộ tộc Thát Đát sắp sụp đổ, ta còn lo lắng rất khó lại hợp tác được với hắn. Không thể tưởng tượng lúc này không cần ta ra tay, hắn lại chủ động tới hỗ trợ.

Có hắn lúc ẩn lúc hiện ở biên tái, triều đình chẳng những không dám vận dụng biên quân, mà ngay cả Kinh Doanh cũng không dám phái ra, điều này rất có lợi cho Dương Hổ ở Sơn Đông tạo phản. Có điều hành động của Bá Nhan hơi cổ quái, nếu dốc toàn bộ lực lượng được ăn cả ngã về không, vậy thì đánh nhỏ gây loạn nhỏ có tác dụng gì chứ? Nếu không công mà lui, lòng người tận tán, ôi, Bá Nhan Khả Hãn từng ngạo mạn kiêu hãnh, cũng có lúc đáng thương.

Giang Nam Nhạn nói:

- Giáo chủ, với binh lực hiện tại Bá Nhan rất khó có động tác lớn. Tôi thấy hắn đã cùng đường rồi, chạy đến biên cảnh đầu cơ thủ lợi, mong ngóng thừa dịp Đại Minh nội loạn, tìm kiếm thời cơ chiến đấu. Tuy nhiên đến lúc này, lại giúp Dương Hổ, Lưu Lục một đại ân rồi.

Bên chúng ta, vốn trong kế hoạch là muốn lợi dụng Dương Hổ tạo phản, tranh thủ thời gian cho Ninh Vương. Nhưng mà Dương Hổ trong thời gian ngắn đã có thể tụ nhiều binh mã như vậy, có thể thấy được triều đình cũng không lớn mạnh như chúng ta tưởng tượng. Thừa dịp hắn gây loạn họa ở Sơn Đông, sao chúng ta không thuận theo thời thế, nhân cơ hội khởi binh chứ? Làm gì mà cứ nhất định phải mượn dùng tên phế vật Ninh Vương?

Lý Phúc Đạt lắc đầu mỉm cười nói:

- Thời cơ chưa đến, Đại Minh hơn một trăm năm cơ nghiệp, không phải đơn giản có thể lay động như vậy. Tuy nói hiện tại dân chúng bất mãn nhiều, nhưng trong đại bộ phận người dân vẫn thừa nhận địa vị chính thống của nó.

Sau khi Chính Đức kế vị, gian nịnh trong triều đã loại trừ dần dần, bề ngoài nhìn nó rất yếu, nhưng trên thực tế Giang Nam, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc vẫn đang được triều đình nắm giữ chặt chẽ trong tay, không thể khinh thường.

Lực lượng của chúng ta chủ yếu ở phương bắc, Dương Hổ có thể nhanh thành thế như vậy, thật ra trợ lực chính là do chúng ta âm thầm ủng hộ, sao không để hắn xung phong cơ chứ? Thành hay bại chúng ta cũng không bị tổn thất. Nếu chúng ta khởi binh vào lúc này, chẳng khác nào giành thức ăn với Dương Hổ, bởi vì địa bàn mà thế lực của chúng ta có thể khống chế trên cơ bản chính là địa phương mà Dương Hổ tung hoành lui tới không cố kỵ. Chúng ta khởi binh, chính là phân binh cho Dương Hổ đấy.

Hiện tại địa phương khác còn rất bình ổn, Ninh Vương cánh chim không gió, vẫn chưa phải lúc tạo phản. Hiện tại phải nghĩ biện pháp khiến Dương Hổ gây họa lớn hơn nữa, khiến người người oán trách, dân chúng mất lòng tin, khi đó dân chúng, thân sĩ, quan lại các nơi ăn bữa hôm lo bữa mai, nhất định tụ tập oán cho triều đình. Phiên vương các nơi tự thấy lợi ích bản thân bị ảnh hưởng, cũng sẽ bất mãn với triều đình. Như vậy, Ninh Vương khởi binh, lấy danh nghĩa giúp đỡ hoàng thất tiêu diệt loạn phỉ, thanh quân trắc mà xuất binh bắc phạt, có thể tranh thủ được dân tâm, dễ dàng đánh hạ triều đình đang sứt đầu mẻ trán.

Y thở dài nói:

- Nam Nhạn, biết vì sao ta nhất định phải mượn Ninh Vương để đoạt thiên hạ không? Nhiều lần thất bại, khiến ta không thể không thận trọng được. Chúng ta khởi binh, Dương Hổ khởi binh, phản đối chúng ta chính là khắp thiên hạ, một khi cổ lực lượng này quật khởi, không phải là nhỏ, thành công sẽ cực kỳ bé nhỏ. Mà Ninh Vương khởi binh Tĩnh Nan, chẳng qua chỉ là tranh đấu trong bộ phận hoàng tộc, phiên vương khác sẽ thờ ơ không quan tâm, rất nhiều Đại tướng nơi biên cương cũng sẽ ngồi yên đầu cơ, lực cản trở sẽ có thể giảm đến thấp nhất. Hơn nữa một khi thành công, chúng ta là có thể lợi dụng con rối Ninh Vương này để nắm trong tay hai lực lượng khổng lồ nhất tinh nhuệ nhất là Kinh Doanh và biên quân.

Đến lúc đó, bất kể quan ngoại ai là đương gia, chúng ta đều bí mật liên hệ cắt đất kết minh, mười vạn quân đội tinh nhuệ chín vùng biên giới lập tức có thể phóng xuất, có một đại quân vô địch như vậy có thể nam chinh thảo nghịch bất cứ lúc nào, lại lấy danh nghĩa ủng hộ Ninh Vương làm Hoàng đế tước bỏ thuộc địa, có lẽ căn bản không cần phải xuất binh, phiên vương các nơi sẽ ngoan ngoãn giao ra lãnh địa, hồi kinh làm một Vương gia nhàn tản. Sau đó...ha hả, Ninh Vương cũng không còn tác dụng gì nữa rồi.

Giang Nam Nhạn gật gật đầu, nói:

- Giáo chủ nói rất đúng, điều lo lắng duy nhất của thuộc hạ là liệu thế lực của Dương Hổ, Lưu Lục phát triển đến mức không khống chế được hay không? Nếu thật sự phái hắn khống chế Sơn Đông, Hà Nam, Sơn Tây, ngăn cách nam bắc, tinh binh Bắc Cương lại không thể gấp rút tiếp viện, Dương Hổ, Lưu Lục thừa cơ tọa tại, nếu chẳng may Ninh Vương khởi binh cũng không thể chế phục hắn, chẳng lẽ không phải lợn lành chữa thành lợn què sao? Người của chúng ta ở bên cạnh hắn hữu hạn, Dương Hổ, Lưu Lục cũng không phải những kẻ đơn giản nha.

Trương Dần thản nhiên cười, khinh miệt nói:

- Thiên hạ hôm nay còn chưa tới mức loạn thế không có thuốc chữa, dưới tình hình trước mắt, hạng người Dương Hổ, Lưu Lục không có kinh doanh tích lũy trường kỳ, không có thế gia đại tộc ủng hộ, không có nho lâm sĩ tử hưởng ứng, không có dân chúng rộng khắp làm căn cơ, chỉ trong vòng mấy tháng ngắn ngủi đi lên, trong thời gian quá ngắn dựng nghiệp từ hai bàn tay trắng, muốn có ngày đó, chỉ là nằm mộng thôi.

Tranh hùng trục lộc là mua bán lớn, không phải là dành cho hạng thảo mãng không có đầu óc như chúng chơi đâu. Dương Hổ cũng thế, Lưu Lục cũng thế, đều là một đám ô hợp không có tầm mắt dài rộng, bọn chúng chơi sẽ tự làm mình rơi đầu.

Dương Lăng không phải là đi Sơn Đông sao? Ta thấy, người này vài lần tác chiến ở nam bắc tây đông, chiến pháp biết tròn biết méo, căn bản vượt xa đám người Dương Hổ. Hơn nữa địa vị của hắn ở trong quân hết sức quan trọng, có lực ảnh hưởng lớn đối với Hoàng đế trong triều. Hắn làm Tổng đốc, tuyệt đối có thể khiến cho các lực lượng đang phân tán chia sẽ nghe theo chỉ huy điều hành của hắn.

Nếu ta đoán không sai, Dương Hổ ở Sơn Đông đã bị chặn chân rồi. Lựa chọn duy nhất của hắn là xuôi nam Trung Nguyên, cắn loạn trung tâm Trung Nguyên, hoàn thành sứ mệnh lưu tặc duy nhất của hắn: Sáng tạo điều kiện cho Ninh Vương tạo thế tụ binh.

Trương Dần nâng chung trà lên, ngón tay chuyển động, cười khoái trá:

- Hạng Dương Hổ, Lưu Lục chỉ thích hợp làm may, chuyên môn may áo cho kẻ khác là rất tốt đấy. Bọn họ có thể đối phó được Dương Lăng sao? Ha hả, một người nếu từ nhỏ chính là Hạng Võ, ngươi cho hắn một trăm lần cơ hội, hắn làm theo vẫn không đánh lại Lưu Bang đấy.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 372: Chiến địa Hoa Hồng

Từng chiếc thang mây bắc lên tường thành, đầu thành tên bắn như mưa rơi, bọn hưởng mã đạo giơ cao lá chắn, cúi người, giống như từng hàng kiến men theo thang mây bò lên. Phía sau, từng đội cung tiễn thủ tận lực bắn quan binh ở trên tường thành, cố gắng toàn lực yểm hộ bọn họ công thành.

Gậy xiên và cọc đâm thi thố tài năng, thỉnh thoảng nhìn thấy một chiếc thang mây bị quan binh dùng gậy xiên toàn bộ xiên đổ xuống. Bọn hưởng mã đạo leo ở trên tới tấp kêu thảm ngã xuống dưới đất, hoặc là mấy binh sĩ ôm cọc đâm hợp lực xông đến, đem thang mây đâm đến sụp đổ từ giữa, bọn hưởng mã đạo hét thảm ngã xuống hào sâu ở bên dưới, liền giống như một đàn kiến bị người ta phủi rơi xuống, nhưng quan binh xung phong ở phía trước cũng không tránh được bị loạn tên bắn trúng, đều ngã xuống đất.

Men theo thang mây trèo lên thành, cái gọi là như kiến bu chỗ tanh, thân hình động tác của bọn chúng thật sự là giống như kiến, sinh mạng không nghi ngờ gì cũng hèn mọn như con kiến, ở bên trong loại điên cuồng nhân tính này, giá trị của sinh mạng sớm đã không còn gì, từng sợi sinh mạng tươi sống rất rẻ mạt bị thu lấy.

Người như kiến tụ, đao quang kiếm ảnh, tiếng kêu giết mấy ngày trời liền.

Máy ném đá bị phá hủy, bọn hưởng mã đạo công thành liền nghĩ ra cách mới, đem chút 'Đạn khói' dùng đất gia công làm thành mang theo bên người, sau khi chân vừa trèo lên thang mây vừa ném lên tường thành. Những tên tặc này tạo ra phá hư quả nhiên có chút thiên phú, đầu thành khói đen dày đặc, sâu cay đến sặc người, hun đến quan binh thủ thành nước mắt giàn giụa. Giữa tháng sáu, thời tiết nóng như thiêu, oi bức không thấy ngọn gió nào, lá cây liễu đều uể oải rũ xuống, khói công rất có hiệu quả.

Tên trong không trung không ngừng qua lại không ngớt, đan dệt thành một tấm lưới dày đặc, không ngừng thu lấy mạng người. Binh lính tiến công giơ đao đội khiên, mạo hiểm bất cứ lúc nào lăn cây bay xuống, đá mài và tên bắn tới bất cứ lúc nào. Binh lính chống cự trên tường thành cũng thỉnh thoảng trúng tên ngã xuống. Trận chiến công thủ như này không có nhiều thay đổi gì, hoàn toàn là liều mình vật lộn thật, vứt bỏ mạng người, vứt bỏ dũng khí, ai nên đấu tranh ai nên ở lại.

Lúc này, xem ra là Lưu Lục chịu đựng không được trước, nhân thủ thương vong lớn khiến cho y chịu áp lực tâm lý rất lớn. Ngoài ra hai lộ đại quân chia nhau tấn công hai chỗ cửa thành khác nhau, cũng nhận được phản công điên cuồng giống nhau, vũ khí của quan binh vốn tốt hơn của y, mà lần phản công này, so với hai lần trước dường như cũng kiên quyết hơn, lực lượng phản công cường đại hơn, Lưu Lục bắt đầu nảy sinh ý định rút lui.

Dương Lăng chú ý đến thế công bên phía quân địch dần yếu, liền hướng về Tống Tiểu Ái mỉm cười nói:

- Người chia quân lực chiếm đóng, liền không có ý quyết chiến, người chủ động khiêu chiến, quyết sẽ không trận đầu liền dốc ra toàn lực, Lưu Lục muốn lui binh rồi.

Tống Tiểu Ái không chút nghi ngờ, lập tức gật đầu xác nhận, ngược lại khiến cho Dương Lăng không thể nào phát huy, nhất thời có cảm giác tâm ngứa khó ổn định.

Quả nhiên, theo quân lệnh của Lưu Lục truyền xuống, tiếng hò hét xung phong dần yếu đi. Quân bọn hưởng mã đạo bỏ lại thi thể thành mảng bắt đầu từng bước rút lui, lùi về hướng dịch đạo xa xa. Đại quân phòng thủ ở đầu thành được cổ vũ, bọn hưởng mã đạo đã rút lui khỏi đường tên bắn, đại pháo đầu thành không ngừng nổ vang, mượn cơ hội cướp lấy càng nhiều sinh mạng.

La Chỉ huy thu hoạch lớn đại thắng vô cùng cao hứng, tuy nói mấy lần đầu thất bại trước tiến công của bọn hưởng mã đạo, lấy được thắng lợi, nhưng là thắng lợi phập phòng lo sợ nha, mấy lộ binh mã trong tay mỗi người đều lòng dạ xảo trá. Y căn bản không thể đem toàn bộ tinh lực đặt ở việc chỉ huy tác chiến, vì điều động thuận lợi, phối hợp lẫn nhau, y đối với tướng lĩnh mấy lộ đại quân xuất thân phức tạp không thể không cười, nói chuyện nhỏ nhẹ, đây vẫn là lần đầu tiên đánh sảng khoái tràn trề, thống khoái như vậy.

Cửa thành mở ra, cầu treo hạ xuống, bọn binh sỹ nhận lệnh nhanh chóng loại bỏ xe đụng thành, đám chướng ngại vật bị thiêu hủy ở chỗ cửa thành, lại dọn đi cự mã thương mà bọn hưởng mã đạo bố trí. Theo sau đó hai ngàn tên kỵ binh còn lại giữ sức lực đợi triển khai xông ra khỏi thành, bọn họ mặc nhuyễn giáp hộ tâm, trong tay cầm trường mâu mã tấu sắc bén, sát khí đằng đằng đuổi theo bại quân Lưu Lục.

Lưu Lục lúc này đã không còn ý hiếu chiến, y muốn là thành Đức Châu, mà không phải là hai ngàn kỵ binh thừa thắng mà đến này. Tuy nhiên đại bộ phận đội ngũ của y là kỵ binh, ngược lại cũng không sợ hai ngàn kỵ binh trong thành, kết quả hai ngàn kỵ binh xuất hiện này chỉ là tăng nhanh tốc độ rời đi của bọn họ. Trên thực tế những kỵ binh này không dám đuổi theo đến chỗ quá xa, bọn hưởng mã đạo cũng là kỵ binh là chính, lực cơ động cũng không kém so với bọn họ, chẳng may bị bọn hưởng mã đạo bất thình lình cắt đứt đường lui, như vậy bọn họ liền phải toàn quân bị diệt rồi.

Hai ngàn kỵ binh đuổi theo bọn hưởng mã đạo một lúc liền vòng ngựa quay về, đứng ở chỗ ngoặt theo dõi giám thị hướng đi của đại quân Lưu Lục, để tránh khỏi bọn chúng giết một hồi mã thương. Quân phòng giữ trong thành bắt đầu làm xử lí sau chiến tranh, cấp cứu binh lính bị thương, tu bổ tường thành, thu gom binh khí, còn có một bộ phận người hết sức phấn khởi ra khỏi thành, nhặt đao thương, quét dọn chiến trường, dọn dẹp thi thể.

Hiện giờ là tháng sáu, thời tiết khô nóng, thi thể nếu không xử lí tốt, trong thành tụ tập nhiều người như vậy, một khi truyền ra bệnh dịch, lập tức sẽ dần dần gây thành đại họa. Thi thể toàn bộ bị kéo đến chỗ hẻo lánh trong rừng, đào mấy cái hố to, quan binh đem bọn hưởng mã đạo lột trần như nhộng giống như ném chó chết từng tên từng tên vứt vào trong hố, bao gồm một số còn chưa tắt thở, thiếu tay thiếu chân rên rỉ thảm thiết, sau đó không chút nào thương hại đào đất chôn, lại giẫm đạp lên.

Loạn thế mạng người như rơm rác, không có người nào để ý sống chết của bọn họ, nhất là vừa mới còn là đối thủ liều chết đối đầu, nếu không phải lo lắng bệnh dịch lan tràn, thi thể của bọn chúng cũng không có ai để ý tới, chỉ có thể tùy ý chó hoang gặm ưng tha, cuối cùng trở thành một đống xương trắng bên đường.

Trong y phục của bọn hưởng mã đạo bức ép cởi xuống có tài vật lượng lớn, những tên giặc cỏ này tác chiến bất cứ lúc nào, rời đi bất cứ lúc nào, căn bản không có chỗ ở cố định, tài vật trọng yếu tự nhiên tùy thân mang theo, bọn chúng công thành chiếm đất, cướp bóc gian dâm, trên người vàng lá, thỏi bạc, tiền đồng tiền giấy, trang sức của nữ nhân, phàm là đồ vật đáng giá chút tiền đều có chỗ cần dùng.

Trên mặt đất bày mấy chiếc áo choàng, các binh sĩ giám thị lẫn nhau, vẫn dựa theo quy củ trước đây, dưới sự trông coi của quân quan, đem tất cả tài vật tập trung ở một chỗ. Uy Quốc Công khi duyệt binh chính mồm nói, tất cả tài vật thu được trên chiến trường giết địch thuộc về sở hữu của mỗi một người, không cần phải nộp lên trên, nhưng là rõ ràng bắt đầu thực thi có chút khó khăn.

Đầu tiên đây không phải là hai quân đối đầu đánh giáp lá cà, cho dù là, các binh sĩ cũng không dám giết chết một người liền đi soát người, mà đặt mình vào chiến đấu hoàn toàn không quan tâm đến gì cả, vả lại chiến tranh vốn chính là hợp tác phối hợp giữa các binh sĩ với nhau, công thủ giúp đỡ lẫn nhau để hoàn thành đấy, không thể làm giống như bọn hưởng mã đạo kia.

La chỉ huy khá có tâm kế, y ra lệnh cho binh sĩ đem tài vật thu hoạch được tập trung lại nộp lên trên, sau khi cùng đánh giá lại cho phân phối cho binh sĩ tác chiến, người tử vong cần phải trợ cấp nhiều nhất, binh sĩ tác chiến tuyến đầu thứ hai, người hậu cần tiếp tế viện trợ thứ ba, tỉ lệ phân phối căn cứ mỗi lần thu hoạch tài vật lại nghiên cứu rồi quyết định.

Phương pháp như vậy là rất công bằng, các binh sĩ tự nhiên không có ý kiến, người hậu cần tiếp viện tính mạng nguy hiểm rất ít, nhưng là tham gia chiến sự, cũng có thể nhận được một phần thưởng. Bọn họ coi khoản thu nhập thêm giống như họ chính là binh sĩ trực tiếp tham gia chiến đấu giành được, công tác hậu cần được bảm đảm thì càng thêm ra sức, đối với các binh sĩ cũng trở nên cực kỳ nhiệt tình, có thể nói là tất cả mọi người đều vui vẻ.

Dương Lăng thấy La Sỹ Quyền đánh giặc rất có trình tự quy tắc, làm quản lý cũng có chút thiên phú, xử lý không chê vào đâu được như vậy, trong lòng rất là vừa lòng. Hắn gọi một tên thân binh, kêu anh ta bảo La Chỉ huy an tâm giải quyết tốt hậu quả công việc, bản thân mình về hành dinh trước, sau đó không đợi y đến tiễn đưa, liền dẫn người rời đi.

Phải bẩm báo mình, La Chỉ Huy trở về tự nhiên sẽ đến bái kiến, hiện giờ không cần hắn đợi ở đó, trận này đánh thắng rồi, phần vinh quang và quyền uy này là của La Sỹ Quyền đấy, phải cho y chút thời gian và không gian để tiêu hóa, cho y một ơ hội để mở ra, giành được thừa nhận của thủ hạ. Bản thân mình không ở đó y càng thoải mái, trợ giúp y tạo được quyền uy cá nhân.

Ngũ Hán Siêu đi theo sau lưng Dương Lăng, thấp giọng nói:

- Quốc Công, La Chỉ huy như thế nào?

Dương Lăng chỉ cười, nói:

- Trải qua trận chiến này, La Chỉ huy nơi này ta ngược lại không lo lắng rồi, chỉ là không biết Đại Bổng Chùy nơi đó, hiện giờ như thế nào rồi.

Đại Bổng Chùy rối bù bẩn thỉu, thảm hại không chịu được. Gã mặc chiếc quần rách gần như lộ mông. Trên người một chiếc áo ngắn đen như bôi sơn đen, sau vai hở lỗ lớn, phía dưới rốn đều không che được, dưới chân đi một đôi giày vải đen lộ ra ngón chân lớn, đai lưng bên cạnh treo một cái bát vỡ, trong tay cầm theo một cái gậy đánh chó gỗ táo khá chắc, hoàn toàn là hình tượng của một tên ăn mày nạn dân.

Hình tượng này khiến cho người khác nhìn thấy đều lộ vẻ thương xót, nếu là nha đầu Tiểu Vân Quốc Công phủ nhìn thấy, Hoàng Hà không lụt lội mới lạ. Đại Bổng Chùy ngẩng đầu nhìn, thành Thanh Châu thình lình ngay trước mắt, nhìn quang cảnh kia lại mười dặm liền có thể chạy đến rồi, gã không kìm được thở dài, lẩm bẩm nói:

- Ta con mẹ nó, coi như là đến rồi.

Đại Bổng Chùy nói xong, rầm một tiếng ngã lên sườn đất, trong tay vẫn còn nắm chặt gậy đánh chó của anh ta. Trên sườn đất mọc đầy cỏ dại tạp nham. Dưới người là đất đai xốp dày. Xem ra nơi này vốn hẳn là một mảnh đất sườn núi khá phì nhiêu, hiện tại hoàn toàn hoang vu rồi.

Dương Lăng còn chưa điều quân xuất chinh. Đại Bổng Chùy liền trước tiên ra kinh sư chạy đến thẳng Sơn Đông. Đoạn đường vào nam ra bắc này, mấy chỗ trọng trấn phủ thành đang giữ vững cơ hồ đều đi qua một lần, Thanh Châu là chỗ cuối cùng rồi. Anh ta là người Sơn Đông, ăn mặc rất phù hợp, khẩu âm Sơn Đông, bất luận là đi đến chỗ nào, ở nơi chiến tranh loạn lạc này, đối với khẩu âm nơi khác chính là chỗ cảnh giới nhất, Đại Bổng Chùy đều không khiến cho bất cứ người nào hoài nghi.

Tuy nhiên đoạn đường này khó chịu đựng. Vào thành là thiên hạ của triều đình, muốn vào khó như lên trời. Ra khỏi thành chính là thiên hạ của bọn phỉ đạo, Bạch Y Quân, Hồng Nương Tử Quân, sơn tặc, thủy tặc, thổ phỉ thậm chí vốn là lưu manh du đãng đánh vào cờ hiệu của Bạch Y Quân, các loại đội ngũ nhiều như cá diếc sang sông.

Sơn Đông từ xưa nhiều hào kiệt, nhưng ào kiệt nhiều thì cũng thường thường lấy võ loạn cấm. Từ Tần Hán trở về sau, người khởi sự vô số, Sơn Đông có Tây Hán Xích Mi, Lục Lâm, cuối Tùy Tri Thế Lang, Thanh Châu khăn vàng, cuối thời Đường Vương Tiên Chi, Hoàng Sào, Đại Tống Thủy bạc Lương Sơn, Đại Minh Đường Trại Nhi vân vân, còn như những người khác không mấy quy mô hoặc là dựa vào loạn lạc mà dựng lên, lại không thể đếm được.

Những hào kiệt Sơn Đông này, chân chính tạo phản thành công, có thể cắt đất phong hầu phong vương phong tướng, cũng chỉ có mấy người ít ỏi cuối thời Tùy Tần Thúc Bảo, Trình Giảo Kim thôi, nhưng chỉ cần có người thành công, liền có người bắt chước.

Đại Bổng Chùy đoạn đường này đi đến, gặp qua mấy chục đội ngũ tạo phản lớn lớn nhỏ nhỏ, trong đó có một số chẳng qua là nhà tan cửa nát cuộc sống quá khó khăn, chỉ đành tụ tập lại thành mấy chục trên trăm người ỷ vào người đông thế mạnh thuận tiện cướp của nhà giàu, hơn nữa sẽ không bị người khác ức hiếp thôi.

Đại Bổng Chùy hai ngày trước còn bị một đội lưu tặc hơn bảy mươi người lôi kéo nhập bọn, tên thủ lĩnh kia tên Thiết Ngưu, thấy Lưu Đại Bổng Chùy và bản thân mình khổ người tương đương nhau, đều là người có thân cao khỏe mạnh cường tráng, liền thịnh tình mời hắn ta nhập bọn. Đại Bổng Chùy ngược lại cũng không từ chối, đi theo Thiết Ngưu lăn lộn hai ngày rưỡi, cuối cùng bị tên đồng bọn Thiết Ngưu đuổi ra.

Thằng nhãi Đại Bổng Chùy này nhát như chuột, thời điểm cướp bóc xung phong thì luôn ở phía sau, thời điểm ăn cơm luôn xung phong ở phía trước, lượng cơm một người gần như vượt qua ba người, Thiết Ngưu đại thủ lĩnh thật sự là chịu không nổi, đành phải đau đớn đuổi ái tướng đi. Lưu Đại Bổng Chùy liền rời khỏi đội ngũ tạo phản, tiếp tục bước lên hành trình của mình.

Vào địa cảnh Thanh Châu, dân chúng rõ ràng trở nên thưa thớt hơn. Nơi này là nơi nguy hiểm nhất binh đến phỉ đi, chịu tai họa cũng nghiêm trọng nhất. Từ lúc bọn lưu tặc rất đông trốn vào trong thành trong núi, lại có một số người dứt khoát thu dọn thu dọn trốn về quê cũ Sơn Tây, cho nên trở nên hoang vu ít người. Vô cùng thê lương.

Sơn Đông có rất nhiều người là di dân Sơn Tây. Cuối thời nhà Nguyên khi Hán Mông giao chiến Sơn Đông là chiến trường chính, thời kỳ đầu Đại Minh lập quốc nhân khẩu cực kì thưa thớt, ngàn dặm không có tiếng gà gáy, dân cư cũng không thấy xuất hiện. Vì thế Chu Nguyên Chương liền di dân từ Sơn Tây đến Sơn Đông.

Thời điểm Yến Vương Tĩnh Nan giằng co lâu dài bốn năm, giết tặc vô số. Đến nỗi đường lớn um tùm hoang vắng, đồng ruộng bỏ hoang, Sơn Tây sáu bảy trăm dặm, Nam Bắc gần nghìn dặm, đều là đất mộ. Sơn Đông lại là chiến trường chính, nhân khẩu vì chiến tranh, nạn hạn hán, nạn châu chấu, ôn dịch trên diện rộng giảm bớt, vì thế Chu Lệ sau khi thành công cũng noi theo cha anh, từ Sơn Tây bốn bề bao quanh là núi tương đối ổn định di dân đến Sơn Đông.

Lúc ấy, di dân nhiều nhất là Đông Xương Phủ, ( nay là Liêu Thành), Tế Nam Phủ, Duyện Châu Phủ, Lai Châu Phủ, Thanh Châu Phủ, dân chúng không muốn rời khỏi quê hương, vì phòng ngừa di dân chạy trốn, lúc đó quan binh đều dùng dây thừng đem trói hai tay dân chúng sau lưng, từng dãy kết hợp lại với nhau để tiện cho việc trông coi. Trong quá trình áp giải, khi mọi người cần đại tiểu tiện, liền van nài quan binh cởi dây trói tay, nghe nói hiện tại gọi đại tiểu tiện thành tháo tay là vì thế.

Hiện tại bọn họ dời đi đã hơn trăm năm, rất nhiều người từ trong miệng tổ tông bố mẹ còn biết quê hương của mình. Sơn Đông vừa loạn, quan phủ mất đi lực trói buộc, hộ tịch, lộ dẫn tất cả không dùng được nữa, cho nên có một số người dứt khoát thu dọn nhà cửa chạy nạn, ngàn dặm lặn lội, muốn chạy trốn về Sơn Tây. Loại tình cảnh này Thanh Châu là đặc biệt nghiêm trọng. Cho nên Lưu Đại Bổng Chùy vừa mới tiến vào địa cảnh Thanh Châu, gần như không thấy được mấy người, muốn làm ăn mày cũng không dễ dàng.

Anh ta nằm ở trên sườn đất, lim dim hai mắt, nghỉ ngơi một hồi tích lũy đủ sức lực, mới nghiêng người đứng lên tiếp tục đi về phía trước.

Thành Thanh Châu đã phong thành rồi. Bạch Y Quân mấy lần tấn công thành Thanh Châu, dọa Hành Vương quá sợ, tính mạng của người nhà y, toàn bộ gia sản tất cả đều ở Thanh Châu, cho nên y đem tất cả binh mã ở các huyện lân cận toàn bộ tập kết ở bên trong thành Thanh Châu, sau đó phong tỏa toàn thành để bảo vệ bản thân.

Hiện giờ Bạch Y Quân đã vòng sang tấn công thành Thái An, nơi đây đã yên bình lại, Hành Vương điện hạ vẫn cứ kiên quyết không cho phép mở thành, cũng không cho quân đội, quan viên ra khỏi thành tiêu diệt đám lưu tặc để trấn an dân chúng địa phương. Y hoàn toàn vứt bỏ ngoài thành và huyện trấn phụ thuộc, để mặc bọn lưu tặc hoành hành, dân chúng tự sinh tự diệt, chỉ cầu một điều là an nguy. Tri Phủ Thanh Châu Lạc Thiếu Hoa là một thanh quan, nhưng là phiên vương ở thời điểm chiến loạn. Nếu không có chỉ dụ của triều đình, có quyền chỉ huy quân chính địa phương, ông ta cũng không còn cách nào.

Lưu Đại Bổng Chùy tới dưới chân thành Thanh Châu, chỉ thấy tường gạch vết thương chồng chất, có chỗ đã lộ ra đất đầm, tường chắn mái ở đầu thành cũng bị đập hỏng mấy chỗ, có thể nghĩ đã từng gặp chiến đấu kịch liệt như thế nào.

Đại Bổng Chùy đã bụng đói cồn cào, vất vả mới đến được chân thành, cũng không quan tâm đánh giá bốn phía xung quanh, lập tức ngẩng đầu hô lớn nói:

- Mở thành! Mở thành! Nhanh chút cho ta đi vào!

Quân phòng thủ đầu thành đã sớm nhìn thấy gã loạnh choạng đi đến rồi, chỉ là một tên ăn mày mà thôi, bọn họ ngay cả cung tiễn cũng lười cầm, đứng ở đầu thành hướng về phía Đại Bổng Chùy cười mỉa nói:

- Tên ngốc, Hành Vương điện hạ có lệnh, ngoại bất nhập, nội bất xuất, ngươi chạy trốn về nơi khác đi.

- Thối lắm! Ta là đặc sứ triều đình, phụng mệnh khâm sai Tổng Đốc Uy Quốc Công Dương đại nhân tiêu diệt loạn phỉ, có chỉ lệnh quan trọng phải vào thành truyền đạt, còn không mau để ta đi vào?

Quân phòng thủ đầu thành ôm bụng cười to:

- Ha ha ha, ngươi chớ có đùa cợt, hai ngày trước có cháu trai còn mạo danh Diễn Thánh Công Khổng Công Gia đấy, bị lão tử cho một bãi nước tiểu dội đi rồi. Ngươi là đặc sứ của Uy Quốc Công trong kinh? Ta nói huynh đệ ngốc, ngươi trước tiên sửa lời của ngươi lại, trực tiếp nói ngươi là Uy Quốc Công không phải càng tốt sao?

Đại Bổng Chùy vừa bực mình vừa buồn cười, gã trừng mắt nhìn về phía trên thành liên tục gào giải thích, gào đến cổ họng bốc khói, quân phòng thủ đầu thành dứt khoát quay đầu không để ý đến gã nữa.

Lưu Đại Bổng Chùy vò đầu bứt tai, đột nhiên nghĩ ra một kế, hướng về phía quan binh đầu thành hét nói:

- Quan gia, quan gia, tôi nói thật, tôi kỳ thật chính là đầy tớ của Vương lão tài chủ huyện bên cạnh, trong nhà bị Bạch Y Quân cướp sạch rồi, tiểu nhân trộm một viên gạch vàng to, một mình chạy trốn đi ra ngoài. Nhưng ta hiện nay ngay cả miếng ăn đều không có, ngài giơ cao đánh khẽ, cho tôi vào thành đi, chỉ cần đi vào, viên gạch vàng này chính là của ngài rồi.

Trên đầu thành rầm rầm một lúc, nhô ra bảy tám cái đầu, một đám trừng mắt như nhìn bánh bao giống nhau, trong đó có một người nhìn quân phục là một tên Bá Tổng, y trừng mắt đánh giá trên dưới Đại Bổng Chùy một hồi, cười ha hả nói:

- Tiểu tử, cục gạch vàng ngươi giấu trên người đâu?

Nếu Lưu Đại Bổng Chùy nói gã là tài chủ hoặc là đại thiếu gia của nhà tài chủ, sợ là không có ai sẽ tin tưởng, nhưng gã nói là tên đầy tớ nhà địa chủ, thừa dịp hỗn loạn trộm tài vật của chủ nhân, chuyện này thời điểm chiến loạn cũng thường gặp rồi, quân phòng thủ đầu ngược lại không hoài nghi.

- Đúng vậy, đúng vậy, với bộ dạng này của ta, lưu tặc nhìn cũng đều lười soát người. Cho nên cất giữ được rất tốt, vốn muốn bán tiền, chờ sau khi ổn định xuống, mở một tiệm nhỏ, nhưng hiện tại sống đều không sống nổi nữa rồi, quan gia, ngài mở lòng từ bi.........

- Hắc hắc hắc, ngươi yên tâm đi, chỉ cần là thật, ta sẽ cho ngươi đi vào. Tiểu Lục Nhi, Lục Tử, nhanh đi cầm sợi dây, buộc cái giỏ, để hắn ta đem cục gạch vàng đặt vào trong giỏ, kiểm nghiệm trước rồi nói sau.

Một binh sĩ thân tín tên Tiểu Dư bên cạnh cười cười thấp giọng nói:

- Nhị ca, Hành Vương gia đã hạ lệnh đấy, thật muốn cho hắn ta đi vào ư?

Bá Tổng bĩu môi nói:

- Cho hắn tiến vào, cho cái rắm ấy! Mẹ nó, không phải là tên đầy tớ trộm tài vật nhà chủ chạy trốn ra ngoài sao, lão tử không bắt hắn tống vào ngục tra xét đã không tệ lắm rồi, bản thân hắn có chân đau bị ta nắm rồi, ngậm bồ hòn dám phóng rắm sao? Đợi cục gạch vàng lên thành, phóng hai mũi tên dọa hắn chạy. Hắc hắc, vùng chiến tranh loạn lạc, tiểu tử này không là làm kẻ tặc chính là đói chết, không có trở ngại gì.

Tiểu Dư cười hắc hắc, lặng lẽ giơ ngón tay cái lên.

Tiểu Lục Tử tìm sợi dây thừng, buộc cái giỏ đựng vôi thuận tiện thả xuống dưới thành. Lưu Đại Bổng Chùy quay lưng về phía bọn chúng, liền quẳng cái bọc trên mặt đất, đem một khối lớn bằng cỡ bàn tay ở đoạn trên cùng gậy đánh chó dính chắc bẻ gãy, bên trong lộ ra một đoạn lụa màu vàng, Lưu Đại Bổng Chùy lấy ra, thuận tay vơ một hòn gạch mẻ gói lại, bỏ vào trong giỏ.

Vài tên quân phòng thủ đầu thành nhìn cái mông của gã vểnh lên cũng không biết đào cái gì, trên quần mấy cái lỗ rách vốn không hiện rõ, lúc này rõ ràng lộ ra mông thịt, không kìm được hi hi ha ha, cười giễu không ngừng.

Lưu Đại Bổng Chùy làm xong rồi, nâng người lên hướng về phía đầu thành hô:

- Quan gia, đã bỏ vào trong giỏ rồi.

Dư Tiếu tinh thần chấn động, vội vàng nhào qua, cùng Tiểu Lục Tử đem kéo nhanh giỏ lên. Trong thời gian chốc lát, đầu thành vèo một tiếng bay ra một viên gạch. Bá Tổng gia nhô đầu ra hung ác chửi mắng:

- Vương bát cao tử, lấy cục gạch lừa gia gia ngươi?

Lưu Đại Bổng Chùy né một chút, chắp tay cười to nói:

- Biết chữ không huynh đệ, viên gạch kia không đáng giá, vật bọc nó nhưng lại đánh giá bạc, ngươi nhìn rõ đi!

Bá Tổng ánh mắt sáng lên, thất thanh nói:

- Con mẹ nó, chẳng lẽ là khế ước phòng đất? Nhanh nhanh, lấy ra ta xem thử.

Bá Tổng cầm lụa vàng trong tay, đặt ngang dựng thẳng xem, nhìn một hồi lâu hô:

- Tiểu Lục, không phải ngươi biết chữ sao, đọc cho lão tử, bên trên này vẽ lung tung loạn xạ gì đó?

Tiểu Lục Tử học qua tư thục, con người cũng nhã nhặn, thường bị người sai bảo sai đến gọi đi, nghe vậy vội vàng nhận lụa vàng, gật gù đắc ý đọc:

- Phụng thiên thừa vận Hoàng Đế, chiếu viết..........

Đọc đến chỗ này, hắn ta không khỏi ngẩn người, há hốc mồm ngẩng đầu nhìn Bá Tổng. Bá Tổng trừng mắt nhìn lại gã, lắp bắp nói:

- Gì...gì....đồ chơi gì?

- Thánh...thánh..thánh chỉ!

- Phụng thiên thừa vận Hoàng Đế, chiếu viết:

Uy Quốc Công, Phó Soái Kinh doanh Ngoại Tứ Gia quân Dương Lăng, xuất binh ra trận tiêu diệt loạn phỉ, quân chính Sơn Đông, tất cả các chức quan quan trọng, đều chịu quản lý, kẻ trái lệnh lập tức hành quyết.

Hành Vương Chu Hựu Huy, Phó Tổng Binh tướng lĩnh hiện đóng quân tại Thanh Châu Trịnh Hồng Phi, Tham Tướng Phương Thanh Vân, Tri Phủ Lạc Thiếu Hoa cùng với các quan viên lớn nhỏ khác từ trên mặt đất bò dậy, Lưu Đại Bổng Chùy cầm gậy đánh chó đứng ở bên cạnh, từ trong khe hở nhỏ của gậy đánh chó khoét rỗng lấy ra bản hiệu đính binh bộ, bên trên đã có ấn tín đám tham tướng Diên Đồ Đại Phụ, Tri Phủ, đám quan viên Du Kích, Phòng Thủ của Tề Nam Phủ.

Lưu Đại Bổng Chùy kéo căng mặt trứng đen, lớn tiếng nói:

- Nơi này là trạm cuối cùng, phải lập tức sai người liên hệ với các thành lân cận, lần lượt thay phiên nhau chuyển tin tức đến Đức Châu, để Quốc Công đại nhân biết nơi này đã nhận mệnh hành sự. Về mệnh lệnh cụ thể, vì quan hệ trọng đại, Quốc Công không cho phép gửi công văn đi, phải do ty chức chính mồm giải thích cho Vương gia và các vị đại nhân biết.

"Dương Lăng phái người đến, nhất định là chủ ý nhằm vào quân phòng thủ Thanh Châu." Hành Vương điện hạ nghĩ, cực kì không cam tâm tình nguyện. Nhưng tên ăn mày trước mắt này đang cầm thánh chỉ của Hoàng Đế mà đến đấy, bên trên nói rõ ràng, binh mã Sơn Đông, chuyện quân chính quan trọng, toàn bộ do Dương Lăng chỉ huy, ai dám làm trái chính là khi quân, Hành Vương cũng không có gan tạo phản.

Huống chi sáu tỉnh ven biển đang trong cuộc chiến chống giặc Oa được Dương Lăng chỉ huy thu được toàn thắng, quan binh mấy tỉnh này đối với hắn tin tưởng mười phần. Nhất là trong đoạn thời gian kia, Dương Lăng quân kỷ nghiêm minh, bãi bỏ Cang Viên của quân đội tác chiến, ấn quân công ban thưởng, trong số tướng lĩnh cấp thấp một bộ phận rất lớn đều là ở trong trận chiến này thay thế được địa vị tầm thường vô vị bắt đầu đảm nhiệm tướng lĩnh, mới lên chức đến sĩ quan địa phương.

Những sỹ quan trẻ trung này dĩ nhiên vô cùng tôn sùng Dương Lăng. Tướng lĩnh cao cấp bởi vì được lợi không nhỏ ở trong cuộc chiến chống giặc Oa, đối với Dương Lăng cũng hết sức vui vẻ nghe lệnh. Trước mắt vị Phó Tổng Binh này chính là vì chống Oa có công từ Tham Tướng trực tiếp thăng lên, vừa nghe Lưu Đại Bổng Chùy chính mồn nói mệnh lệnh của Dương Lăng. Bọn họ không đợi dặn dò, liền chen lên, đem Đại Bổng Chùy vây lại.

Hành Vương thấy thế không khỏi nơm nớp lo sợ: " Hành Vương phủ của ta không thể có sai lầm nha, Dương sao chổi lớn này, phái người đến Thanh Châu rốt cuộc mưu đồ cái gì nha?"

Dương Lăng không trực tiếp chạy về hành dinh, mà là ở trong thành đi dạo xung quanh một lúc. Trong thành dân cư khá yên tĩnh, mấy vạn đại quân đồn trú, đối với dân chúng bình thường hồ đồ vô tri mà nói chính là vật bảo đảm tính mạng. Bọn họ tuy nghe nói bọn hưởng mã đạo rất lợi hại, nhưng bọn hưởng mã đạo cho đến nay còn chưa thành công đánh hạ cứ điểm quân sự quan trọng như này, cũng không giao phong chính diện cùng quân đội đông như vậy, dân chúng trong thành đối với quan binh vẫn là rất ỷ lại đấy.

Khi Dương Lăng đi dạo một vòng chạy về chỗ đặt hành dinh, La Sỹ Quyền, Kiều Tứ Hải dẫn một đoàn tướng lĩnh mặt mày rạng rỡ ở trong quân đúng lúc chạy đến, nhóm quan văn phụ trách dân chính địa phương cũng đến cửa chúc mừng.

Dương Lăng gặp bọn họ ở cửa, chuyện trò vui vẻ vào phủ. Vừa mới đi vào viện. Liền thấy một đại hán cởi trần, đứng ở bên miệng giếng phía trái vườn hoa, nhấc một thùng lớn nước giếng mát lạnh " rào " một tiếng đổ ở trên người, sau đó lắc đầu mạnh, giọt nước bắn tứ phía, gã ha ha cười lớn nói:

- Mát mẻ, mát mẻ, vùng này khô hanh nóng như thiêu, so với chỗ chúng ta nơi đó còn nóng hơn, ha ha, vẫn là nước giếng mát mẻ.

Người này một thân cơ bắp cường tráng, da thịt đen thui, toàn thân bắp thịt cuồn cuộn, dường như tràn đầy sức mạnh bùng nổ dữ dội vô tận, thân thể và khí phách khỏe mạng như vậy, quả nhiên là một hảo hán. Nghe thấy thanh âm của anh ta, Dương Lăng đầu tiên là ngẩn ra. Sau đó thử thăm dò kêu:

- Bành Tiểu Dạng!

Đại hán nghe tiếng mãnh mẽ quay đầu lại, nhìn thấy Dương Lăng, hai mắt lập tức trợn tròn, vui vẻ cười to nói:

- Ha ha, Dương đại nhân trở về rồi! Ty chức đi về đầu thành tìm ngài, quan binh không cho phép trèo lên thành, ty chức đợi nóng quá, liền trở về trước rồi.

Bành Tiểu Dạng nói xong, chạy nhanh đi qua, thẳng đến hành lễ:

- Ty chức ra mắt đại nhân!

Trên người anh ta toàn là nước, chiếc quần sũng nước, mạnh mẽ ôm quyền giơ tay, giọt nước bám vào đều bắn lên mặt Dương Lăng. Mấy tên quan văn bên cạnh không nhìn được nhăn mày. Dương Lăng biết tiểu tử này đã quen làm hải tặc, gia nhập quan binh thời gian ngắn, có thể biết lễ nghĩa, có thể giữ quân kỷ như này là không tồi rồi, những lễ nghĩa phiền phức này ngược lại không quan trọng.

Hắn vô cùng thích tính cách ngay thẳng của tên dũng tướng này, liền cười mỉn đỡ anh ta đứng dậy, nói:

- Tiểu Dạng, hôm nay ở Thủy Tây môn nhìn thấy cờ xí của thủy quân Giang Nam, ta liền biết là nhân mã của các ngươi, chỉ là không nghĩ đến là ngươi tự mình dẫn đội. Ha ha, gần nửa năm chưa gặp, ngươi càng thêm vạm vỡ rồi, rắn chắc giống như là sắt thép đúc vậy.

Bành Tiểu Dạng toét miệng rộng cười nói:

- Đường bộ gặp loạn phỉ, đường thủy cũng không yên ổn, lần này đồ vật vận chuyển quá quan trọng, đều là dâng cho ngài đấy, không đích thân áp giải ta không yên tâm được. Vốn là muốn qua nơi này vòng đường bộ đưa đến kinh sư, giữa đường liền nghe nói ngài phụng chỉ đến Sơn Đông, như vậy thì tốt rồi, bớt việc.

Trong lòng Dương Lăng thấy kỳ quái, không biết anh ta có đồ quan trọng gì muốn đích thân vận chuyển giao cho mình, ở trước mặt nhiều người như vậy cũng không tiện hỏi đến, liền trước tiên dẫn bọn họ đi về phía Diễn Võ Đường. Dương Lăng vừa đi vừa giới thiệu Bành Tiểu Dạng với đám người La Sỹ Quyền làm quen nhau. Mới vào cửa Diễn Võ Đường, Bành Tiểu Dạng liền vỗ trán nói:

- Ai ya, ta quên nói rồi, đại nhân.....

Anh ta mới nói đến đây, mấy người ngồi ở mấy án hai bên trái phải trong Diễn Võ Đường đã đứng lên, trong đó một người nhìn thấy Dương Lăng lập tức yêu kiều gọi một tiếng

- Dương!

Lập tức một bóng dáng cao gầy đã bước nhanh đi đến trước mặt Dương Lăng. Người này ngũ quan tươi đẹp, khí chất cao quý, mặc quân phục tướng lĩnh quân Minh, quần áo cắt rất vừa người, eo sữa nhỏ bé yếu mềm được phác họa vô cùng uyển chuyển, tôn lên dáng vẻ cao gầy tràn đầy vẻ quyến rũ.

Mái tóc dài màu nâu, mắt đẹp xanh lam thâm thúy tràn đầy lệ quang, lúm đồng tiền như ngọc, mắt sâu mũi cao, đây là một nữ nhân mỹ lệ phong tình dị quốc, khí chất, tư sắc, dáng người hết sức hoàn mỹ, xinh đẹp dịu dàng giống như một bông hoa hồng nở rộ trong sương sớm.

Nàng nắm lấy tay của Dương Lăng, hai má ửng đỏ kích động. Bởi vì quá vui mừng, nhất thời lại nói không ra lời. Dương Lăng kinh ngạc hồi lâu, mới giật mình gọi một tiếng:

- A Đức Ny, nàng sao lại đến đây?

Đôi mắt A Đức Ny thâm tình chân thành, dịu dàng nhìn hắn, giọng nói dịu dàng run rẩy thân mật lẩm bẩm một câu:

- Dương, ta rất nhớ huynh!

Tin tức Dương Lăng xảy ra chuyện truyền về Chiết Giang, thiếu nữ A Đức Ny xưa nay luôn kiên cường tự lập này lập tức cảm thấy như trời sập xuống. Năm tháng một mình trôi giạt ở trên biển, nàng cắn răng chống đỡ kiên cường ba năm, nhưng thời điểm bị người bán làm nữ nô, tâm hồn của nàng cuối cùng hoàn toàn sụp đổ. May mắn, nàng gặp Dương Lăng, tâm hồn thiếu nữ này coi như là có chỗ dựa vào.

Nghe nói Dương Lăng chết rồi, người duy nhất nàng có thể nói chuyện, vị Khởi Vận tỷ tỷ kia trở nên giống như một âm hồn âm u đáng sợ, cả ngày tìm hung thủ, sau đó làm hung thủ. A Đức Ny không có người quan tâm, lẻ loi giống như lại một lần nữa bị toàn bộ thế giới vứt bỏ, cái loại cảm giác cô độc kia thật sự so với cái chết còn đáng sợ hơn.

Có hạnh phúc mà lại mất đi, sau đó mất đi mà lại tìm được lại. Quá trình đau buồn vui mừng lại lặp đi lặp lại này, đã giày vò lòng của thiếu nữ kiên cường cũng bắt đầu yếu đuối, đây là nam nhân duy nhất nàng có thể yêu, có thể dựa vào cả đời ở Đại Minh. Những ngày tháng ở phương nam nỗi nhớ của nàng thậm chí so với Thành Khởi Vận và Mã Liên Nhi còn nhiều hơn.

Mã Liên Nhi ít nhất còn có hài tử, Thành Khởi Vận ít nhất còn có sự nghiệp, rời khỏi Dương Lăng, một nữ nhân dị tộc như nàng ở Đại Minh còn ý nghĩa gì? Yêu, chỉ có thể là toàn bộ của nàng.

Đôi mắt đẹp của Á Lỵ, A Đức Ny trong suốt, nhu tình như nước, dịu dàng ôm chặt lấy Dương Lăng. Người nam nhân này, là ký thác tình cảm duy nhất của nàng. Là nam nhân thân mật nhất trong cuộc đời này của nàng.

Kiều Tứ Hải hô to gọi nhỏ:

- Ấy? Sao là một nữ nhân sắc mục? Cô ta là ai, sao còn mặc quân phục chứ?

Gã nói xong nhìn bên nọ ngó bên kia, chỉ thấy từ La Sỹ Quyền xuống dưới, tất cả quan văn võ tướng đều nhìn mình như đang nhìn tên ngốc, chỉ dùng khóe mắt liếc gã, mà đem chóp mũi hướng về phía khác.

Kiều Tứ Hải khó hiểu gãi gãi đầu, ánh mắt đảo quanh nói:

- Ta làm sao?

Các đồng chí xung quanh soàn soạt nghiêng đầu đi, vẻ mặt biểu hiện không quen biết gã.

Dương Lăng cũng có chút ngại ngùng. Bản thân mình vừa mới tuyên truyền giảng giải cho người ta mười bảy điều năm mươi tư chém. Nói chuyện quân luật quân pháp, hiện tại nữ nhân của mình lại chạy đến trước hai quân. Tuy nói không có người nào dám truy cứu trách nhiệm của mình, nhưng lúc này cũng quá mất mặt mũi đi.

Hắn rất nhạy bén, nghĩ đến A Đức Ny kiêm chức vụ Đại Sứ Tham Tán Quân Khí Cục Phúc Kiến, bởi vì nàng tinh thông hỏa khí, chuyên gia hỏa khí Quân Khí Cục Phúc Kiến Trịnh lão đối với nàng vô cùng coi trọng, cho nên sau khi nàng đi Giang Nam Trịnh lão cũng chưa cho nàng từ chức vụ này, không ngại dùng cái này ứng phó trước rồi nói sau.

Dương Lăng ho khan hai tiếng, kéo dài thanh âm nói:

- Vị này......, vị A Đức Ny cô nương này là Đại Sứ Tham Tán Quân Khí Cục Phúc Kiến, trong trận chiến bình dị tộc đã phát minh ra thủy trung hỏa lôi, công trạng to lớn.

- Ồ......

Chúng quan viên bừng tỉnh đại ngộ.

- Dương!

Nước mắt của A Đức Ny đã tràn ra hốc mắt, nàng thổn thức, bỗng nhiên rúc đầu chui vào trong lòng Dương Lăng, ôm chặt lấy eo của hắn.

- Hơ....

Dương Lăng theo bản năng ôm lấy eo nhỏ thon thả mượt mà của nàng. Quan viên xung quanh thấy cử chỉ kinh hãi thế tục, đồi phong bại tục này, hai tròng mắt trừng đến đều sắp rớt ra ngoài rồi.

Dương Lăng cười gượng hai tiếng, nói:

- Cái này...là lễ tiết Tây Dương, là một loại lễ tiết Tây Dương.

- Ồ....

Chúng quan viên tiếp tục bừng tỉnh đại ngộ.

- Tướng công, huynh làm người ta lo lắng chết đi được.

-.......Khụ khụ, là Quốc Công!

Dương Lăng thấp giọng rên rỉ.

- Vâng vâng, Quốc tướng công!

A Đức Ny biết nghe lời phải, lập tức sửa miệng.

Trán Dương Lăng đã đầy mồ hôi, lắp bắp giải thích nói:

- Nàng ấy muốn nói Quốc Công. Người Tây Dương nha, không hiểu rõ Hán ngữ, cũng không biết xưng hô!

- Ồ....

Chúng quan viên vẻ mặt đờ đẫn.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 373: Giờ mẹo dụng binh

- Mẹ nó, ai tin thì tin!

Dương Lăng thẹn quá thành giận, chẳng kiêng kỵ nữa.

- Ta không thèm giải thích nữa.

Chúng quan viên vốn vẻ mặt ám muội, nhưng Dương đại quan nhân vò đã mẻ lại sứt, bày ra tư thế "'Ta là lưu manh ta sợ ai", bọn họ thật ra đều đã không còn khí thế rồi.

Những quan viên này tới cửa chỉ là chúc mừng, chỉ có La Chỉ huy là báo cáo chút quân tình, tiếp theo là trưng cầu ý kiến của Uy Quốc công về tác chiến. Lần này nói ngắn gọn vào nội dung chính, những câu khách khí đều lược bỏ hết.

La Sĩ Quyền vội vàng hồi báo một lần, lại xin chỉ thị vài câu, liền binh bại như núi đổ, dẫn một đám tàn binh bại tướng chạy trối chết. Kiều Tứ Hải nhất thời nói lỡ, gọi phu nhân của Uy Quốc công thành "'Lão nương" lập tức cắp đít chạy nhanh hơn bất kỳ ai khác.

Dương Lăng ngẩng đầu ưỡn ngực đứng trên đại sảnh Diễn Võ, hiên ngang chắp tay tiễn các quan viên, ngực ưỡn lưng thẳng, vẻ mặt quang minh lỗi lạc. A Đức Ny như chim nhỏ dựa vào bên cạnh của hắn.

Thấy đám người Ngũ Hán Siêu, Bành Tiểu Dạng, văn võ quan viên rắm cũng không thả lập tức tán đi như chim thú. Dương Lăng uy phong lẫm lẫm, ngạo nghễ, thấy bên cạnh ngoại trừ bốn thị vệ đang giả câm vờ điếc ở cửa phòng ra, đại sảnh trống không không một bóng người rồi, lúc này mới ôm đầu vai của A Đức Ny, quay nàng đối mặt với mình.

Quốc gia của A Đức Ny, tính cách phụ nữ khá tự lập kiên cường. Với thân phận của nàng và những gì đã trải qua, đã khiến tính cách của nàng tự chủ và lý trí hơn so với những cô gái khác, cho nên lúc trước Dương Lăng mới giao tin quan trọng như vậy cho nàng, dù khả năng sẽ gặp phải nguy hiểm. Bởi vì nàng kiên cường, từng từ ngàn dặm thuận gió lướt sóng đi vào Đông Phương, trời đưa đất đẩy mà trở thành A Lỵ, nữ nhân của hắn. Nam tước A Đức Ny, cũng là người Dương Lăng vướng bận ít nhất đấy.

Nhưng mà hiện tại nhìn lại, A Đức Ny dường như thoát thai hoán cốt (thay da đổi thịt), vẻ tự tin kiêu ngạo, ánh mắt cao quý kiên nghị đã không còn nữa. Đôi mắt lắng đọng xinh đẹp mờ sương kia khi ngắm nhìn hắn tràn đầy tình cảm sâu sắc không muốn xa rời. Một thiếu nữ xinh đẹp khi đã yêu, hoàn toàn không hề che giấu tình cảm của mình trước mặt hắn.

Dương Lăng thấy, trái tim không khỏi rung động. Dù thời gian hai người bên nhau là ngắn nhất, nhưng nhớ lại, tâm linh đôi bên tựa như thật gần. Ánh mắt vô hạn nhìn nhau, như đã từng gặp ở kiếp trước. Tình yêu nam nữ vốn chính là một thứ tình cảm giao hòa mềm mại nhất, huống chi lại người lại vốn có tình cảm với nhau? Đương nhiên, thứ cảm này cũng dễ nổ bùng nhất.

Trong mắt An Đức Ny ang áng nước mắt, khóe miệng lại ẩn chứa nụ cười thỏa mãn. Nàng áp đầu vào ngực Dương Lăng, dịu dàng ôm lưng eo hắn, đỉnh đầu chạm vào cằm hắn, áp sát vào ngực hắn nói hết nỗi lòng sâu kín:

- Dương, cuối cùng đã gặp được huynh rồi. Sau khi nghe nói huynh gặp chuyện không may, ta vô cùng đau lòng. Những ngày đó, ta cảm thấy bị cả thế giới ruồng bỏ. Tại dị quốc t hương này, huynh là người thân duy nhất của thiếp, là người duy nhất thiếp dựa vào, thiếp đã không thể rời xa huynh được rồi.

Dương Lăng nhẹ nhàng nắm lấy đầu bờ vai của nàng, dịu dàng lau giọt nước mắt trên má nàng, mỉm cười trách yêu:

- Nhìn nàng kia, phụ nữ các nàng, đều nhiều chuyện rồi, giờ còn rơi nước mắt được. A Đức Ny là thượng úy Hải quân, quân nhân chuyên nghiệp, hẳn là kiên cường hơn so với nữ tử bình thường, đúng không?

A Đức Ny bĩu môi, khẽ đụng vào vai hắn:

- Kiên cường đầu huynh ấy. Người ta ở trước mắt huynh, kiên cường cho ai xem chứ?

Hán ngữ của nàng vẫn mang chút lơ lớ, lần này còn bao hàm cả giận hờn của chân tình thiếu nữ. Nhưng dùng ngữ điệu này nói ra, lại đủ loại ý vị rung động đến tâm can quyến rũ hồn phách.

Dương Lăng nghe vậy trong lòng rung động, ôm eo nhỏ của nàng thật chặt. Nếu không phải đang đứng ở đại sảnh, đôi môi mọng kia đã bị hắn chà đạp rồi. Hắn cười khẽ nói:

- Từ tướng công này, là ai dạy nàng?

A Đức Ny chớp chớp mắt nói:

- Là Liên Nhi ạ. Tỷ ấy nói hẳn nên xưng hô với huynh như vậy. Thiếp gọi huynh là vị hôn tướng công, bị tỷ ấy cười một trận, thiếp liền sửa lại, giờ sao lại thành Quốc tướng công nhỉ?

Dương Lăng cười ha hả, giải thích đơn giản vài câu, lại hỏi tin tức của Mã Liên Nhi và con gái Phán nhi, mới buồn bã thở dài nói:

- Làm quốc công, vốn không có nhiều cố kỵ như vậy, đang muốn tiếp nhận hết các nàng. Hiện tại binh hoang mã loạn, thật ra ở bên nhau an toàn nhiều hơn. Giờ ta chẳng có thời gian đi thăm họ nữa. À đúng rồi, nàng và Liên Nhi phụ trách sản nghiệp các vùng Giang Nam sao, sao lại vào kinh vậy? Tiểu Dạng nói nhất định phải đích thân hộ tống...chính là nàng ư?

Dương Lăng cũng không hỏi thăm nhiều về tin tức của Liên Nhi, nữ nhân dù rộng lượng, nhưng trước một người lại hỏi thăm tình huống người khác, mà biểu hiện càng quan tâm, càng săn sóc, trong nội tâm nàng ấy cũng sẽ càng không thoải mái.

Mã Liên Nhi ở Giang Nam, muốn nói thiệt thòi, chỉ sợ chính là không có phu quân là mình đây ở bên làm bạn mà thôi, còn những thứ khác như ăn ngon mặc đẹp, tôi tớ như mây, cuộc sống càng không có vấn đề gì. Nếu nói mấy thứ này thì lại càng làm ra vẻ rồi.

Vừa nhắc tới hộ tống gì đó, tinh thần A Đức Ny khẽ dao động, nhảy lên hưng phấn nói:

- Dương, thiếp dẫn huynh đi xem. Giờ thứ này đặt ở tây sương tiền viện, chúng thiếp đã cho người canh giữ. Tuy nhiên...thật ra cũng không cần phải để ý như vậy. Thiếp và Trịnh lão vẫn cứ luôn tính toán mãi, rất an toàn đó.

Dương Lăng thấy nàng hưng phấn đến hai má ửng đỏ, nói vừa nhanh lại vừa gấp, không rõ nàng đề cập đến cái gì, hỏi vội:

- Thứ nàng nói rốt cuộc là gì?

Trong mắt A Đức Ny lóe lên tia sáng, kéo tay hắn, đầu lông mày quyến rũ nhướng lên, cười ngọt ngào:

- Nào, thiếp dẫn huynh đi xem, đảm bảo huynh sẽ chấn động cho mà xem.

Dương Lăng mỉm cười để mặc nàng kéo tay mình đi đến tây sương. Tây sương đã được binh lính của Bành Tiểu Dạng trú đóng. Thấy A Đức Ny, bọn họ đều đứng trang nghiêm thi lễ, hiển nhiên đã thừa nhận vị nữ tướng quân này.

Diện tích Diễn võ đường Bảo Châu khá rộng, trước sau tam tiến viện lạc giống như tòa đại công viên, hai bên chái nhà của tiền viện vốn chính là nơi đặt quân bị quan trọng, Bành Tiểu Dạng giữ công hàm của quân khí cục Phúc Kiến, Đô Chỉ Huy Sứ ti Phúc Kiến, chỉ huy Sứ ti Chiết Giang, cho nên có thể vào ở.

A Đức Ny lôi kéo hắn đi vào một nhà kho, mệnh lệnh binh lính mở cửa kho, sau đó kéo Dương Lăng vào. Chỉ thấy bên trong nhà kho đặt ba hòm gỗ cực lớn. A Đức Ny gọi người mở giấy niêm phong của hòm gỗ ra, sau đó chắp tay sau lưng cười cười thong thả đi vòng qua hòm gỗ hai vòng, đắc ý nhìn Dương Lăng.

A Đức Ny mặc quân trang, càng lộ vòng eo nhỏ nhắn chặt chẽ, bộ ngực căng tròn, vừa xinh đẹp lại có ba phần anh khí. Hơn nữa vóc dáng cao ráo, ngực eo, đường cong bắp chân nhắn mịn no đủ, có vẻ quyến rũ khó diễn tả thành lời. Cặp đùi thẳng tắp tròn lẳn kia, bị ống giày ống quần ôm lấy, tỉ lệ cực đẹp, vô cùng động lòng người.

Dương Lăng tưởng tượng cặp đùi thon đẹp kia rắn chắc mềm mại, trơn mượt, trong lòng rung động, vội che giấu, cười nói:

- Tiểu nha đầu, rốt cuộc muốn khoe khoang gì thế? Còn không mau cho ta xem?

A Đức Ny hé miệng cười, bỗng nhiên cầm nắp hòm lên, cười nói:

- Dương, huynh tự xem đi.

Dương Lăng đến gần, nhìn vào rương, thấy bên trong có một lớp rơm bông. Hắn đẩy nhẹ vài cái, hô hấp bỗng ngừng lại, cầm lên một cái, nhìn sững ra, hạ giọng nói:

- Lựu đạn!

A Đức Ny cười khanh khách nói:

- Đúng vậy. Là dựa theo lựu đạn mà huynh từng đề cập với thiếp lúc ở Phúc Châu, hình mẫu của nó là chấn thiên lôi trong quân.

A Đức Ny cầm lấy một quả lựu đạn, nói:

- Quân khí cục kinh sư thiết kế ra súng toại phát, tốc độ bắn nhanh hơn rất nhiều. Chỗ chúng ta lại phát triển nhiều thêm súng kíp ống. Với tốc độ bắn, không dưới cung tên. Tuy nhiên bây giờ còn tồn tại vấn đề nòng súng dễ nổ, nòng súng bị bịt kín, binh sĩ thường sợ súng pháo nổ nòng làm nổ tung mà không dám sử dụng hoặc cự tuyệt sử dụng.

Ngoài ra hiện tại hỏa dược còn phải cần cải tiến thêm, nếu không sau mấy phát bắn, trong nòng súng sẽ đọng cặn, không lau sạch sẽ không thể sử dụng liên tục. Mà pháo lại quá mức cồng kềnh, dùng để công thủ thành trì thì dễ, dựa vào phương tiện giao thông hiện tại muốn mang theo dã chiến cơ hồ không có khả năng. Hơn nữa đồ quân nhu tiếp tế quá mức ỷ lại, tài chính quốc gia cũng khó có thể tiếp nhận.

Dương Lăng gật đầu đồng ý, Hỏa thương cho đến thời đại Napoleon vẫn sử dụng đao kiếm, ưu thế góc bù. Trong niên đại hiện tại này hoàn toàn dùng hỏa thương thay thế kỵ cung căn bản chính là không thực tế. Ngoại trừ nan đề kỹ thuật còn có vấn đề tài lực, hiện tại trong triều vẻn vẹn Sơn Đông tiêu diệt phỉ tiêu hao binh mã thuế ruộng sắp vượt qua chín mươn vạn lượng. Nếu như là toàn bộ hỏa khí quân đội, thiên văn sổ tự kia sẽ khiến quốc gia phá sản (thiên văn sổ tự: những con số rất lớn từ hàng trăm triệu trở lên), có nhiều thứ không phải ngẫm đơn giản như thế, tốt nhất dùng gì đó chưa chắc là thích hợp nhất, chiến tránh đánh chính là tiền.

Ban đầu là hỏa thương, một phát bắn có thể bắn ra ít nhất sáu tiễn, mà kỵ binh xung phong, lâm chiến cũng chỉ không quá ba lượt bắn tên. Trong dã chiến chỉ cần bắn ra chỉ cần phóng ra ba tiễn, kỵ binh đối phương đã vọt tới trước mặt rồi, khi đó chỉ có thể dùng đao kiếm cận chiến mới có hiệu quả. Tốc độ bắn của hỏa thương hiện tại tương đương với cung tiễn, tức là chỉ ba lần bắn thôi, thích hợp thủ mà không thích hợp dã chiến. Huống chi vấn đề tầm bắn kém hơn cung tiễn trước mắt còn chưa thể giải quyết.

A Đức Ny nói:

- Mặc dù đối với khoái mã cung cứng mà nói, ưu thế của nó rước mắt cũng không rõ ràng, tuy nhiên sở trường của nó ở chỗ thời gian huấn luyện ngắn, kỵ sĩ thể lực gầy yếu một chút khi nắm giữ cũng có thể trở thành chiến sĩ đủ tư cách. Thiếp nghĩ, nếu Đại Minh quân trước mắt viễn chiến ngoại trừ pháo thì vẫn lấy cung tiễn là chính, không thể dùng hỏa thương thay thế được. Như vậy uy lực hỏa khí phát huy trong cận chiến, có thể thay thế đao kiếm thương mâu hoặc là trở thành hỗ trợ lớn trong cận chiến hay không?

A Đức Ny cười tươi tắn nói:

- Chấn thiên lôi vốn chính là một loại hỏa khí sử dụng trong quân, có điều ngòi lửa ban đầu sử dụng không tiện, hơn nữa phải đảm bảo uy lực, hình thể lại quá lớn, một người mang theo không được vài cái. Thiếp nhớ huynh ở Phúc Châu nói với thiếp một ý tưởng, thiếp đã bắt đầu thực hiện nó.

Loại lựu đạn nhỏ này sử dụng toại phát nguyên lý dẫn lửa. Quy giáp ngoại xác mà huynh đề nghị tuy rằng dễ nổ tung, nhưng mang theo không tiện, hơn nữa dù hỏa dược được cải tiến, lực nổ vẫn không đủ. Cho nên thiếp quyết định không dựa vào ngoại xác đả thương người nữa, ngoại xác vẫn đúc thành hình trụ, như vậy mỗi người có thể mang theo mười đến mười lăm miếng. Thành hình trụ cố gắng đúc thật mỏng, để nó chỉ có phát huy tác dụng vật đóng gói, ở bên trang bị miếng sắt và bi thép hình câu, hình châm, như vậy một khi bùng nổ, trong vòng phạm vi năm trượng, cả người lẫn vật khó mà thoát khỏi.

Miếng sắt, bi thép? Dương Lăng chợt nhớ tới lựu đạn trong quân Mỹ trong một bộ phim mà hắn từng xem, một khi bùng nổ cầu thép bắn ra bốn phía vô cùng khủng bố, da đầu chợt run lên. Hắn nhìn ba rương lớn, nói:

- Vậy...ba rương này đều là lựu đạn à?

A Đức Ny hé miệng cười nói:

- Lựu đạn phí tổn thấp, kỹ thuật chế tạo đơn giản, nhưng chúng ta chỉ kịp làm hai rương, bản vẽ thiếp cũng mang đến, có thể cho Quân khí cục Bắc Kinh gần đây chế tạo. Cuối cùng một rương cũng không phải lựu đạn.

A Đức Ny đắc ý nói:

- Lựu đạn dựa vào lực cánh tay ném mạnh, vẫn không đủ xa. Ta đúc một loại lựu đạn hình chùy lớn hơn nữa. Nó mượn kỹ thuật kích phát hỏa pháo, trên thực tế là một loại pháo nhỏ, chỉ có một cây thiết đồng, từng binh sĩ có thể mang theo. Tuy phóng ra chậm chạp, tuy nhiên không trong dã chiến sẽ không dùng tới, có tác dụng vô cùng hữu hiệu dùng để phá huỷ chướng ngại vật và trận lũy phòng thủ lâm thời mà đối ương dựng lên, tầm bắn là ném mạnh gấp năm lần.

Nàng cười nói với Dương Lăng:

- Đây cũng là do huynh. Dựa vào lời nói và cách nghĩ của tướng công đại nhân thiên tài của thiếp, thiếp đã biến nó thành sự thật.

A Đức Ny nói xong xốc hòm gỗ lên, vô số hỏa tiễn đồng phát xạ đồng bóng loáng phát ra, dùng bông để chặn, xếp chỉnh tề trong rương. Tuy nói hỏa tiễn đồng so với hiện đại chênh lệnh nhiều, thật ra Dương Lăng cũng chưa từng thấy kết cấu bên trong của hỏa tiễn đồng hiện đại, tuy nhiên nếu A Đức Ny đã làm được nó, vậy nhất định là trải qua thực chiến mà mô phỏng, hẳn là có thể sử dụng.

Dương Lăng cười ha ha, hắn không kìm lòng nổi tiến lên, trùn xuống thân ôm thân thể của A Đức Ny, hai tay giữ cặp mông đầy đặn của nàng. A Đức Ny duyên dáng kêu to, vội vàng ôm cổ Dương Lăng, theo sát sau nàng đã bị Dương Lăng bế lên, quay nhanh ba vòng trong phòng, vui sướng nói:

- A Đức Ny, nàng quả thật là mưa đúng lúc của ta, là gió như ý. Ha ha, thật sự làm khó nàng rồi.

Đức Ny nhẹ nhàng từ trên người hắn trượt xuống, thâm tình chân thành nói:

- Người ta không suy nghĩ vì ngài, thì suy nghĩ vì ai chứ? Nữ nhân thông minh, nên hiểu được làm thế nào để yêu nam nhân của mình.

Dương Lăng cười vui vẻ, đậy nắp rương lại, nói:

- Những vũ khí này giúp cho ta rất lớn. Ta sắp thực thi kế hoạch, có nhóm này vũ khí, thì càng thêm tuyệt đối không sai sót nhầm lẫn rồi. Đi, chúng ta trở về nói chuyện. Đúng rồi. Ta đảm nhiệm Tổng đốc tiễu phỉ, tin tức hẳn là vừa mới rơi vào tay Giang Nam, sao nàng lại đến, chớ không phải đã biết trước đó chứ?

A Đức Ny nói:

- Là Liên Nhi nói. Thiếp cùng Liên Nhi ở Giang Nam xử lý việc kinh doanh của chúng ta. Bên quân khí cục kia khi chạy thuyền rảnh rỗi ngài qua đó để ý. Đó là thiếp và Trịnh lão nghiên cứu ra, vừa mới làm ra một nhóm. Tin tức kinh kỳ hưởng mã tạo phản đã truyền tới. Liên Nhi thông qua ca ca của nàng và trấn phủ ti Tiền đại nhân mà biết được quân tình.

Nàng ấy sau khi phân tích thì nói thiếp biết. Người dẫn binh bình định nhất định là ngài, muốn thiếp lập tức tạo vũ khí đưa tới cho ngài, giúp ngài một tay, đồng thời mang theo bản vẽ, do Quân khí cục kinh sư gần đây chế tạo, dễ dàng hơn chút.

- Liên Nhi....

Dương Lăng nao nao, có khoảnh khắc thất thần, trước mắt bỗng nhiên hiện lên mỹ nhân có má lúm đồng tiền mượt mà như ngọc kia, hàng lông mày xanh đen thanh tú, đôi mắt đẹp như nước, thân hình không chỗ nào là không quyến rũ...

Thế gian an được lưỡng toàn pháp, bất phụ đại nghĩa bất phụ khanh. Liên Nhi...đợi ta, tướng công của nàng sẽ lập tức xuất binh bình định, tiêu diệt phỉ nơi đây xong, ta nhất định đón nàng về, đời này kiếp này, không xa nhau nữa.

Thành Tế Nam cao cao đứng vững, tường thành cao và dốc, chứa nhiều cửa lầu, vọng lâu, lầu quan sát, tường chắn mái đan vào thành một đạo lưới công kích dày đặc. chiến hào hộ thành ngoài thànhvừa sâu vừa rộng, đủ để so sánh với thành trì của Đại Đồng phủ trọng trấn biên tái.

Tòa thành trì này chiếm cứ chỗ thuỷ bộ xung yếu, là vùng binh gia ắt giao tranh, lại thêm nha môn chỉ huy tối cao của Sơn Đông nhất tỉnh, nếu như có thể phá được tòa thành trì này, không hề nghi ngờ, không chỉ ở trên quân sự, quan trọng hơn là có ảnh hưởng chính trị cực lớn. Thành trì các nơi Sơn Đông xem chừng thủ vững đem người sa vào mà không chiến tự tan.

Thành Tế Nam luỹ cao hào sâu thọc sâu phòng ngự, mấy vạn binh mã đề phòng nghiêm khắc, canh giữ thành lũy này trở nên sừng sững như núi, khó có thể lay động. Khi Yến Vương phát động chiến dịch Tĩnh Nan, nơi này chính là một tòa pháo đài quân sự. Lúc ấy Yến Vương chiếm binh trạm Đức Châu trọng yếu, được lương thực hơn trăm vạn thạch, vũ khí vô số kể, chẳng những khiến bản thân mạnh mẽ, hơn nữa khiến Tế Nam trở thành một tòa cô thành.

Mặc dù như thế, Sơn Đông tham chính Thiết Huyễn thu nạp một số tàn binh bại tướng quân lính tản mạn của triều đình, cậy vào tòa thành trì này giằng co mấy tháng với Yến Vương. Sau đó Yến Vương vận đến đại pháo công thành, Thiết Huyễn liền tìm họa sư vẽ cha của Chu Lệ là Chu Nguyên Chương, lại cắm vô số bài vị trên đầu thành, khiến cho Chu Lệ không có lợi khí nơi tay mà không dám oanh thành, cuối cùng buồn bực mà về.

Sau đến lúc Chu Lệ lấy Nam Kinh, được thiên hạ, lại phát binh Bắc Phạt, vây thành thật lâu, Hao hết lương thảo trong thành, lúc này mới đánh hạ được thành Tế Nam. Chu Lệ cực hận Thiết Huyễn, vợ con sung đến Giáo Phường ti bị người người lăng nhục, sau lại vứt hài cốt cho chó ăn, vẫn không giải được nỗi hận này.

Hiện giờ Dương Hổ tạo phản, quan binh thủ thành, bức họa của Chu lão đầu đương nhiên không thể làm tấm mộc đón đỡ được. Tuy nhiên may mắn Dương Hổ không có đại pháo. Ngay cả có cũng không chắc đã bằng số lượng đại pháo của thành Tế Nam, cho nên Dương Hổ căn bản không trực tiếp đến công Tế Nam, hiện giờ ngày đêm tấn công mạnh Thái An. Chỉ cần hưởng mã đạo chiếm Đức Châu, tướng lĩnh quân coi giữ thành Tế Nam chưa chắc có đảm lược và dũng khí của Thiết Huyễn kia, biến Tế Nam thành tòa cô thành, chưa chắc không đánh hạ được.

Thành Thái An đã mấy lần phái người phá vây thành Tế Nam đi cầu cứu viện binh, nhưng Đô Chỉ Huy Sứ Trần Hồng Mông vừa từ Tứ Xuyên điều đến phòng thủ Tế Nam lại án binh bất động. Đại quân của y thủ thành dư dả, nhưng sĩ khí quân tâm dù sao cũng không thể so sánh với một đám liều mạng, hơn nữa quan binh chiến mã không nhiều lắm, lấy mấy ngàn kỵ binh gấp rút tiếp viện Thái An, nếu xuất động đại đội bộ kỵ, kỵ binh của Dương Hổ chỉ cần tới một cánh quân đột phá, tất mặc người chém giết.

Bánh bao thịt đánh chó, Trần Hồng Mông sẽ không đi làm. Mười vạn đại quân của Dương Hổ vây Thái An lâu như vậy lại không thể đánh hạ, cũng không phải thực sự không đánh hạ được, mà chính là muốn dụ y đi cứu viện, đến vây điểm đánh viện binh, xa như vậy so với đoạt Thái An vây Tế Nam nhanh hơn nhiều. Trần Hồng Mông nhìn thấu quỷ kế của Dương Hổ, còn lâu mới mắc mưu.

Việc như vậy, y và Sơn Đông Bố chính sứ Lã Kế Thiện từng liên kết, Lã Kế Thiện cũng đồng ý với phán đoán của y, nhưng quân chính nhân viên Tế Nam chưa chắc đã có kiến thức này, đều cho rằng y sợ chiến sợ địch. Ngôn luận công kích không dứt, y từ Tứ Xuyên điều đến không lâu, thân sĩ quan liêu địa phương chưa quen thuộc y, nên không ngừng tạo áp lực với Bố chính sứ Lã Kế Thiện, buộc y xuất binh.

Lã Kế Thiện cũng là quan viên rất có chủ ý, cho dù là kẻ lõi đời quan trường hay là một đám lưu manh gian xảo, cũng đều không làm gì được y. Y mới đến Tế Nam phủ mà đã có nhiều người đến "thăm hỏi", từ tác động tình thân đến danh dự, từ con đường làm quan đến tiền đồ không ngừng vừa đấm vừa xoa, uy bức lợi dụ.

Luận điệu môi hở răng lạnh, Lã Kế Thiện đã nghe đến chán tai rồi. Y đã luôn miệng giải thích lý do của Trần Hồng Mông cho đám sĩ tử quan viên và đám thân hào đại tộc địa phương, đáng tiếc những người này này căn bản nghe không vào. Thân sĩ đại tộc giữa Thái An và Tế Nam có nhiều quan hệ thông gia, mắt thấy Thái An tràn đầy nguy cơ, bọn họ sao có thể yên tâm được.

Đại hào Tế Nam Ông Chi tức giận nói:

- Trần Hồng Mông ư? Lão đạo giả thần giả quỷ kia có bản lĩnh cái rắm, rõ ràng là sợ chết không dám xuất binh. Đại nhân à, ngài là Sơn Đông Bố chính sứ, quan giai còn cao hơn hắn một bậc, thời gian chiến tranh ngài phụ trách phụ toàn, ngài phải ép hắn xuất binh nha.

Trần Hồng Mông tín ngưỡng đạo gia, chẳng những trong nhà cung phụng tượng tam thanh tổ sư, sớm hay tối đều thắp một nén hương, xưa nay còn lui tới với các đạo sĩ có đạo hạnh Tế Nam và danh sơn phụ cận. Bởi vậy danh môn vọng tộc, thân hào sĩ tử này mới gọi là Hồng Mông lão đạo.

Lã Kế Thiện liên tục cười khổ, y mặt mày nhăn nhó mà nói:

- Các vị, các vị, ta dù sao cũng là một văn nhân, nếu bàn về quân sự, không thể bằng Trần đại nhân được. Dương Hổ chí không ở Thái An, mà ở Tế Nam, xuất binh chỉ đem quân coi giữ Tế Nam tặng cho người ta. Trần đại nhân hiểu việc binh đấy, quân đội Tế Nam thích hợp thủ không nên công, đây cũng là hết cách.

Người này đang dây dưa, bỗng có người chạy tới báo cáo:

- Bẩm Bố chính sứ đại nhân, Thái An phủ phái đặc sứ tới cầu viện!

Quan viên sĩ thân có mặt nghe vậy lập tức tỏa sáng hai mắt, cũng không đợi Lã Kế Thiện chỉ bảo, liên tiếp nói:

- Mau, mau mời vào.

Người bên ngoài căn bản không cần mời, đã đích thân đi vào. Lã Kế Thiện đang sứt đầu mẻ trán vừa thấy người nọ đi vào, lập tức kính cẩn đứng dậy, chắp tay lạy dài, nói:

- Tiên sinh, ngài...sao ngài lại tới đây?

Bên ngoài tới là một lão đầu nhi, nguyên là học chính Chiết Giang, tên là Trương Đa Khí, vốn từng là ân sư của Lã Kế Thiện. Sau khi thoái sĩ quay về quê nhà Thái An dưỡng lão. Lã Kế Thiện đảm nhiệm Sơn Đông bố chính Sứ ti ngày lễ tết vẫn thường đi thăm hỏi ân sư, nay thấy lão đến, không khỏi nghiêm nghị đứng dậy.

Trên mặt lão đầu nhi có một đường đen một đường trắng, gầy gò, dưới cằm là một bộ râu dê, nhìn hết sức buồn cười. Vị học cứu này không phải là "cổ bản đông hồng", làm người khôi hài thú vị, hơn nữa bác học đa tài. Lúc trước đảm nhiệm Học chính rất được học trò kính mến.

Trương Đa Khí thấy Lã Kế Thiện thì tức giận, hừ một tiếng, đặt mông xuống ghế vỗ đùi nói:

- Tiên sinh? Lão đầu nhi ta sắp biến thành tiên tử rồi. Mấy chục vạn đại quân Thái Châu đang nghển cổ ngóng trông Lã Đại lão gia ngài phái binh cứu viện đó, trông mong đến mức cổ dài hơn ba tấc rồi, người cầu viện đến một thì bị đuổi về một, hiện tại lão đầu nhi ta cũng bị phái tới, nể mặt lão già ta là người quen, ngươi nói đi, rốt cuộc khi nào thì phái binh?

Lã Kế Thiện đi tới bên cạnh lão, khép nép nói:

- Tiên sinh, không phải học trò trơ mắt nhìn Thái An nguy nan, có điều Dương Hổ gian xảo, người người đều biết hắn vây công Thái Nguyên bấy lâu mà không đánh hạ, rõ ràng là muốn dụ Tế Nam xuất binh, lấy lệ dễ dàng lấy thành Tế Nam. Hiện giờ Uy Quốc công gia đã đến Đức Châu, hắn đánh bại phản quân Lưu Lục, nhất định dẫn Binh đến giúp. Thái An..... Ngài lão..... Ôi! Cố gắng chống đỡ nha.

Trương Đa Khí há miệng, chỉ vào miệng nói:

- Chống đỡ? Ngươi xem đi lão đầu nhi còn răng sao? Đã rụng sạch rồi, lấy gì mà cắn? Ngươi là Sơn Đông Bố chính sứ, không phải Tế Nam Bố chính sứ, Thái An cũng không phải là con dân của ngươi rồi hả? Ngươi cứ trơ mắt nhìn Thái An nguy nan, hơn mười vạn dân chúng bị phản tặc làm thịt à?

Lã Kế Thiện liên tục cười khổ, đối mặt với vẻ tức giận của ân sư, đành phải ôn hòa giải thích. Một đám quan viên địa phương, thân sĩ học cứu đứng bên đều đứng ra hát đệm nói chuyện. Lã Kế Thiện đang lúc cảm thấy không chống đỡ được, Trương lão đầu thở hổn hển, đột nhiên nhảy dựng lên, quỳ xuống trước mặt Lã Kế Thiện:

- Lã đại nhân, Lã lão gia, lão già ta van xin ngươi được không? Thái An sắp không thủ được rồi, ngươi phát binh đi, phát binh đi.

Lã Kế Thiện vừa thấy ân sư quỳ xuống, y cũng lập tức quỳ xuống, lạy dài, nhưng kiên trì nói:

- Từ bi có thể phát, nhưng binh không thể phát. Biết rõ là cạm bẫy, học trò không thể dẫn quân Tế Nam ngơ ngẩn nhảy vào trong cạm bẫy được.

Trương Đa Khí tức giận run người, lão run run lấy một chồng gì đó trong người, vuốt vuốt nói:

- Nhìn đi, nhìn đi, nhìn thấy không? Đây là lão phu viết, trên dưới Thái An, quan viên, nhân vật có tiếng tăm đều đã ký lên đó, là cáo trạng ngươi đấy. Ngươi cầm nhìn đi, nếu Thái An bị hạ, chúng ta sẽ đi kinh thành để tố cáo ngươi. Không tin không tố cáo ngươi được, khốn kiếp.

Lã Kế Thiện ngượng ngùng nói:

- Ân sư, lão nhân gia ngài cứ đứng lên trước đi, một chồng như vậy, ngài bảo học trò đọc như nào? Học trò biết ngài lão văn chương giỏi, muốn xem, vẫn nên đợi sau này đưa vào kinh để Hoàng thượng xem ạ.

Trương Đa Khí chỉ vào mũi y quát lên:

- Tốt, tốt! Ngươi không cần quan tâm có phải không? Ta...ta....

Lão hết nhìn đông tới nhìn tây, đứng lên đi tới bên một cây cột, căm giận nói:

- Ngươi rõ là muốn ép lão phu nha. Ngươi phát binh hay không? Ngươi không phát binh, lão nhân đập đầu vào cột luôn.

- Đừng nha, đừng nha ân sư, ngài ở gần cây cột như thế, đụng vào cũng không ảnh hưởng mấy. Ngài ngồi xuống, chúng ta từ từ nói...

- Từ từ nói cái rắm! Ngươi không đồng ý đúng không? Ta đây treo cổ ở ngay đây.

Trương lão đầu cởi đai lưng xuống, chỉ vào xà nhà rít lên.

Lã Kế Thiện cười mỉa nói:

- Tiên sinh, đai lưng ngài nhỏ như thế, mà chưa dài tới hai thước, cho dù ngài với lên được, nhưng đai lưng này cũng không quấn được xà nhà, làm sao mà treo cổ được? Ôi, muốn cắn lưỡi? Đừng nha tiên sinh, ngài không còn răng, nhìn miệng ngài kia..

Lã Kế Thiện biết lão đầu nhi tâm nhãn rộng, làm nhiều hành động như vậy là ép buộc y xuất binh, căn bản không có ý tự tử. Y vừa nhạo báng ân sư vừa đi qua, kéo tay gầy gò của Trương Đa Khí, ấn lão ngồi xuống ghế.

Lão nhân vỗ đùi, gào khóc:

- Trên dưới Thái An đều ngóng ngươi nể chút mặt mo này của ta, mấy chục vạn người đều đang chờ cứu mạng...Ngươi tâm địa sắt đá không dao động, lão đầu nhi ta nào còn mặt mũi nữa, ta nào có thể diện nữa...

Lão cầm chén trà lên, đưa lên cằm tiếp đó khóc lóc nói:

- Trương Đa Khí ta nào có mặt mũi nữa, mặt mũi của ta trong mắt Lã đại nhân còn không bằng ngón tay cái, vùi mặt vào trong chén trà này, là có thể chết đuối đấy. Ta còn thể diện gì đi gặp phụ lão Thái An đây...

Lão tự tử là giả, nhưng khóc là khóc thật. Lã Kế Thiện luống cuống tay chân, gã khuyên tiên sinh, đám quan liêu thân sĩ bên cạnh nhân cơ hội khuyên gã, mọi người đang ồn ào, bỗng nghe bên ngoài có tiếng binh khí va chạm, chỉ thấy hơn mười Giáo úy mặc minh giáp đằng đằng sát khi đi vào đại sảnh.

Đi trước là một viên tì tướng, y thấy Lã Kế Thiện lập tức chào theo nghi thức quân đội, ôm quyền cao giọng nói:

- Ty chức tham kiến Bố chính sứ Lã đại nhân, Đô Chỉ Huy Sứ Trần đại nhân điểm binh ở sàn đấu võ chuẩn bị đi cứu viện Thái An rồi, đặc biệt phái tôi tới mời Bố chính Sứ ti, Án Sát Sứ ti cùng các vị đại nhân tới sàn đấu võ, hiệp đồng an bài công việc phòng ngự Tế Nam.

Mọi người trong phòng ngây ra, một lúc lâu sau, Lã Kế Thiện mới ngơ ngác nói:

- Trần đại nhân muốn xuất binh rồi hả?

Viên tì tướng kia cười cười nói:

- Vâng! Uy Quốc công gia sớm bí mật hiểu dụ các phủ các đạo hiệp đồng xuất binh, cùng trừng phạt Bạch Y Đạo, thời gian định vào giờ mẹo ngày mai. Vì Tế Nam là trạm thứ nhất, đề phòng để lộ tin tức, cho nên vẫn giữ kín không nói ra.

Y nhìn một vòng, Trương lão đầu Trương Đa Khí lau lau nước mắt trên gương mặt khô héo, chớp chớp mắt để lấy lại tinh thần. Tì tướng khẽ mỉm cười, khoát tay nói:

- Chư vị đại nhân, xin mời!

Trong doanh trướng tạm thời trong giáo trường, các tướng lĩnh được khẩn cấp triệu đến vừa lúc nghe được Chỉ huy sứ Trần đại nhân công bố bí mật kế hoạch của Dương Lăng, trong doanh trướng lập tức xôn xao, tiếng tranh luận nổi lên bốn phía.

- Đại nhân, kế hoạch này quá mức mạo hiểm, Dương Hổ vẫn giám thị động tĩnh Tế Nam, chúng ta phải chịu trách nhiệm dụ địch, chỉ cần hơi có động tĩnh, Dương Hổ đều nhận được tin tức, thành Tế Nam có thể bị mất đó.

- Đại nhân, các lộ viện quân chỉ có trước đó định thời gian công kích, hiện tại liên lạc cũng không thông, một khi các lộ đại quân không tới đúng giờ, quân coi giữ Tế Nam phải một mình chiến đấu, đánh bất ngờ lại không thể mang theo binh khí trọng hình, kỵ binh lại quá ít, bộ kỵ chúng ta chỉ sợ chống cự không nổi mã đội Dương Hổ công kích nửa ngày toàn quân tán loạn rồi, quá mức mạo hiểm.

- Đại nhân, theo mạt tướng thấy, có nên phái thám mã đi thám thính tin tức các lộ viện quân trước hay không, phái một đội nhỏ ra khỏi thành dụ địch, đại đội nhân mã phát ra từ đâu? Nơi này cáchThái An cũng không khá xa, chúng ta hẳn là tới kịp.

Trần Hồng Mông hai tay đặt lên án, giữ im lặng, lẳng lặng nhìn chăm chú các tướng lĩnh thủ hạ. Người này dáng người cao ráo, khuôn mặt thanh quắc, hàm râu dài, nhất là chòm râu kia, khiến cả người toát lên vẻ thoát trần thanh dật, thật là một viên nho tướng.

Thời gian dần qua, các tướng lĩnh rốt cục an tĩnh lại. Trần Hồng Mông mới nghiêm trang nói:

- Ta biết chư vị cũng không hạng người ham sống sợ chết, mà là suy xét cho chiến sự. Nhưng đây là mệnh lệnh của khâm sai tiễu phỉ tổng đốc Dương đại nhân, giờ mẹo ngày mai binh mã chưa tới, chém tất cả đại tướng lãnh binh. Các lộ binh mã tề tụ Thái An, hiện tại đã có đội quân lên đường rồi.

Dương Hổ một đường truy quét, nhiều lần thành công công thành chiếm đất, toàn bộ các lộ nhân mã bên ta điều động không linh, làm theo điều mình cho là đúng. Trong chuyện này khó không có tướng lĩnh ôm thái độ tảo môn tiền tuyết, mới khiến phỉ thế lớn. Chúng ta đều là tướng phòng giữ Sơn Đông, có trách nhiệm giữ gìn đất đai, không thể gạt bỏ, một mặt theo thành cố thủ, thủ lĩnh phản loạn chiếm mà không đi, ngày đó khó yên.

Y chỉ một vị tướng quân trẻ tuổi đang đứng bên tướng soái, nói:

- Còn đây là Binh bộ Kiêu Kỵ úy Ngũ đại nhân, là quan tướng đốc chiến của khâm sai Tổng đốc. Uy Quốc công gia lấy kế minh tu sạn đạo âm thầm đưa một nửa binh mã đã từ Đức Châu ngay trong đêm hành quân đến rồi, sẽ lập tức tới ngay.

Chúng ta là mồi dục địch, khó không phải tiên phong quyết chiến. Các lộ binh mã, tấp nập như châu, liên miên mà không tuyệt, lo toan đã mất lo, còn có chỗ nào sợ? Dương Hổ, một thảo khấu, lại tàn sát bừa bãi Sơn Đông lâu rồi, thực là sỉ nhục cho tướng sĩ chúng ta. Ta mời các vị đồng tâm hiệp lực, thủ thành mà chiến, có tiến vô lui, còn sống vô tử, nhưng lâm chiến có người nói lui, giết không tha!

Sắc mặt Trần Hồng Mông bỗng nhiên dữ tợn, hung ác nói:

- Trung nghĩa lưu sử sách, thắng bại quyết cho ngày mai! Các ngươi nghe rõ chưa?

Các tướng cả kinh, nhất tề chắp tay nói:

- Mạt tướng hiểu được, cẩn tuân quân lệnh!

Trần Hồng Mông gật gật đầu, sát khí trên mặt thu lại, y quay người, đi đến một góc lều lớn. Các quan tướng dài cổ nhìn, chỉ thấy Trần đại nhân từ trên bàn nhỏ cầm ba nhánh hương, đốt lên bái ba bái, sau đó cung kính cắm hướng trong lư hương, bên trong bàn thờ cúng Tam thanh Đại đế, bộ mặt ba vị lão thần tiên hiền lành dễ thân.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 374: Lấy lợi trong hại

Đám binh lính đội mũ mặc giáp đi thẳng một mạch. Một vạn bộ tốt, trong đó có ba nghìn là thiết kỵ Ngoại tứ gia quân do Dương Lăng tự mình dẫn từ kinh tới, hai ngàn còn lại là thủ quân ở Đức Châu.

Dương Lăng trấn thủ Đức Châu, vốn không phải ở lại đây đôn đốc tác chiến, mà thật sự đấu với Dương Hổ. Hắn dừng ở Đức Châu, là vì tầm quan trọng của Đức Châu không thua gì Tế Nam, không bố trí ổn thỏa nơi đây, hắn không thể yên tâm mà gấp rút tiếp viện cho Thái An, đồng thời nhân lúc hỗn loạn khiến Dương Hổ lơ là, âm thầm điều chuyển thủ quân các nơi.

Tinh kỵ Lưu Lục ba vạn, tố chất quân đội cao hơn Dương Hổ, nhưng nhân số ít, hơn nữa không có sở trường về công thành, theo lẽ thường thì, không có gấp mấy lần chiến sĩ tinh nhuệ, phải đánh hạ một pháo đài quân sự đã được gây dựng nhiều năm, khó như lên trời vậy. Nhưng khí thế quan quân giảm xuống sẽ làm cho lực chiến đấu giảm xuống nghiêm trọng, hơn nữa thủ quân Đức Châu vàng thau lẫn lộn, xuất phát từ những nơi khác nhau, cho nên rất khó tuân lệnh cho đồng nhất, kết quả là viện quân nhiều hơn, nhưng không phát huy được hiểu quả như 1+1=2, trái lại còn thành ra yếu hơn.

Đây là nguyên lí thùng gỗ, nếu thùng gỗ được tạo thành từ những tấm ván gỗ dài ngắn khác nhau, vậy thì dung lượng lớn nhất của thùng gỗ không do tấm ván gỗ lớn nhất quyết định, mà sẽ được quyết định bởi tấm ván gỗ ngắn nhất. Thủ vệ thành trì, cần quân đội phối hợp chỉnh tề, hiệp đồng tác chiến. Sức chiến đấu mạnh yếu của một đội quân, thắng bại của toàn bộ chiến dịch, trên diện rộng không quyết định bởi vài người nào đó hay một chi đội vượt trội xông lên, càng không quyết định bởi tình hình tổng thể ở đó, mà quyết định bởi một số mắt xích yếu kém còn tồn tại có xông ra hay không.

Đức Châu quân có quan quân, có tuần bổ, có hương binh đinh dũng, có dân tráng, hơn nữa quan binh đến từ tứ phương, phe phái sơn đầu rất đông, hợp lại chừng ấy người, nghĩ thôi cũng biết là rất khó rồi. Dương Lăng lâm chiến ở Đức Châu hết sức quyết đoán hình sát lập uy, chỉnh đốn chi phối các lộ quân không đồng nhất, tạo nên quyền chỉ huy tuyệt đối cùng với uy vọng của La Sĩ Quyền, chính là vì trách nhiệm phải thủ vững Đức Châu.

Hắn sắp xếp Bảo Định và Thiên Tân, hai chi viện quân có số lượng lớn nhất đến Tang Viên Khẩu và mười hai liên thành. Triệu hồi toàn bộ thủ quân bản địa của Đức Châu quay về thành Đức Châu, đồng thời giữ lại đội quân dễ chỉ huy và nghe lệnh ở lại Đức Châu, tăng mạnh năng lực điều hành thống nhất, bảo đảm sự an toàn cho pháo đài quân sự Đức Châu này.

Đợi khi sĩ khí quân tâm vững vàng trở lại, lệnh của La Sĩ Quyền vừa ra, đủ để điều khiển thủ quân Đức Châu thống nhất, lúc này Dương Lăng mới đột nhiên tuyên thệ trước khi xuất quân, tự mình dẫn binh mã đi, nhân lúc nửa đêm lẳng lặng rời khỏi thành Đức Châu, lao tới Thái An trong đêm. Cờ soái chữ Dương trên đầu thành Đức Châu chưa bị gỡ xuống, Lưu Lục, Lưu Thất vốn không biết Dương Lăng đã im lặng rời đi, còn dẫn theo một vạn hai ngàn người.

Lúc này phía trong thành Đức Châu vẫn còn hai vạn sáu ngàn quan binh, trong tình huống bình thường cũng có thể giằng co với đại quân Lưu Lục, huống chi còn có hai lộ đại quân của Tang Viên Khẩu, và mười hai liên thành viện trợ lẫn nhau. Đại quân Lưu Lục không biết chi tiết, hơn nữa thương vong cũng thê thảm nghiêm trọng vô cùng. Vì giằng co một hồi, bề ngoài vẫn hùng hổ, bày ra thái độ muốn quyết chiến, kỳ thực đã thay đổi chủ ý muốn kìm chân Dương Lăng và quân đội Đức Châu, phối hợp với Dương Hổ cướp lấy Thái An, Tế Nam rồi.

Kế hoạch ám độ Trần Thương của Dương Lăng không thể nói là không lớn gan. Nhưng để giảm bớt nọc độc của Dương Hổ ở Sơn Đông, giảm tổn thất của Đại Minh xuống mức thấp nhất, đây là cách duy nhất, nếu không viễn cảnh Sơn Đông sẽ càng trở nên thối rữa, như một vòng tuần hoàn ác tính, bọn phỉ càng tiêu diệt thì chỉ càng nhiều thêm mà thôi.

Quan phủ truyền ra ngoài bọn hưởng mã đạo, Bạch Y Quân làm xằng làm bậy, bức ép loạn dân ra sao, kỳ thực có một số chuyện rất khó nói rõ ra ngoài. Dân chúng theo giặc, Dương Hổ, Lưu Lục trong mấy tháng ngắn ngủi tập hợp được mấy vạn binh, quyết không chỉ dùng cách bức ép hay dụ dỗ bằng lợi ích để xử lý, triều đình thi hành biện pháp chính trị quá hà khắc cũng là một trong số những nguyên nhân gây ra chuyện này.

Dân chúng Hà Bắc, Sơn Đông đã hơn trăm năm vì đảm bảo cung ứng ngựa cho biên quân quân Minh, gánh nặng lao dịch của mã hộ cực kỳ nặng nề. Vì đảm bảo nuôi ngựa cho tốt bọn họ phải trả cái giá rất đắt, không chỉ là chậm trễ việc cày cấy mà thôi. Hơn nữa khi chăm ngựa để ngựa chết hoặc ngựa giống sinh sản không đạt được hạn ngạch, còn phải bồi thường tổn thất, nông dân nghèo rớt mùng tơi không thể không bán điền sản, bán con cái, sung vào khoản thâm hụt, thật là khổ không tả xiết.

Khi biên quân tạm thời không cần nhiều ngựa trưởng thành như thế, quan phủ cũng sẽ không đoạt lại toàn bộ ngựa, bọn họ cũng không thể đảm đương chăn nuôi quân mã khổng lồ như vậy, vì thế phải nuôi trong nhà dân. Chia ra nuôi dưỡng ngựa trưởng thành trong nhà nông hộ cũng là để tiết kiệm. Lượng lớn chiến mã của hai đội ngũ Dương Hổ, Lưu Lục chính là nguồn gốc từ sưu cao thuế nặng mà có được. Bởi vì gánh nặng của dân chúng quá nặng như vậy, đến nỗi người đương thời than thở "Họa Giang Nam lương thực làm đầu, họa Hà Bắc ngựa làm đầu".

Cùng lúc, vùng gần kinh kỳ Hà Bắc, Sơn Đông, phú thân thương gia giàu có không bằng phía nam, nhưng địa chủ quan liêu lại mù quáng như cá diếc sang sông vậy. Như Diễn Thánh Công là một trong những địa chủ lớn ở Sơn Đông, có được triệu mẫu ruộng tốt. Đó là khái niệm thế nào? Dân chúng mấy huyện phụ cận hết thảy đều là tá điền của gã, làm địa chủ nếu khắc nghiệt một chút tham lam thu lại một ít, cũng đủ gây đau khổ cho muôn dân trong huyện rồi.

Mã chính bóc lột, thôn tính đất đai, đất đai bị thôn tính làm cho đồng cỏ giảm bớt, ngược lại làm cho mã chính bóc lột càng thêm trầm trọng. Cách của triều đình chỉ thấy cái lợi trước mắt, khiến cho rất nhiều dân chúng oán ghét quan phủ không ngừng. Một khi hủy hoại niềm hy vọng sinh tồn cuối cùng của dân chúng, đây sẽ là đội ngũ phản loạn, bọn họ vốn không trông mong gì vào triều đình mà lựa chọn theo phỉ. Thậm chí nông dân bị quan thân địa chủ chèn ép ít lâu, chủ động tiếp tế viện trợ mã tặc, lại nhìn quan phủ như nhìn kẻ thù vậy.

Bởi vậy, mặc dù Sơn Đông không phải nơi quá gần Kinh sư, chỉ dựa vào hoàn cảnh xã hội nơi đây cũng dễ dàng nảy sinh kẻ phản loạn, dễ dàng trở thành căn cứ ổn định của Bạch Y Quân. Dương Lăng cũng không thể không coi trọng, không thể không dốc toàn lực diệt trừ mối họa lớn này.

Chiến mã hí dài, chiến kỳ phần phật, khoái mã gọn nhẹ, đội ngũ kỵ binh hùng tráng nhanh nhẹn dũng mãnh phóng như bay về phía trước. Kiều Tứ Hải dẫn bộ tốt bám theo phía sau. Kiều Tứ Hải đã tham gia chiến tranh kháng Oa, kinh nghiệm lâm chiến rất phong phú, còn giỏi về mai phục, đánh đột kích, có thể trọng dụng.

A Đức Ny mặc quân trang, ngồi cạnh Dương Lăng, nàng để nón trụ sang một bên, mái tóc dài xinh đẹp xõa xuống, trong vẻ oai hùng lộ ra nét dịu dàng quyến rũ, rõ ràng càng thêm phần xinh đẹp.

Dương Lăng nhẹ nhàng đặt tay lên eo nàng, vuốt ve tóc nàng, thấp giọng nói:

- Một lát nữa là tới Vũ thành rồi, nàng nên hành động theo Kiều tham tướng thì hơn. Bên phía Thái An, đông binh mã, ta sợ không chiếu cố cho nàng được.

Xe lắc lư, A Đức Ny nhẹ nhàng cầm tay Dương Lăng, dịu dàng nói:

- Dương, tại sao không để ta cùng chàng sóng vai tác chiến chứ? Ta không chỉ có thể đi thuyền đánh giặc, mã thuật của ta cũng rất khá mà. Chàng..... đối chiến mà vẫn không nắm chắc ư?

Dương Lăng lắc đầu, trầm tư nói:

- Không, trận chiến này Dương Hổ tất bại. Quân đội của hắn mạnh thì mạnh thật, tuy nhiên thời gian ngắn như thế tập hợp đội quân khổng lồ như vậy, hắn sẽ không có thời gian chỉnh đốn ước thúc, khi chiến sự thuận lợi để tranh đoạt tài vật, ai trong bọn họ cũng đều dũng mãnh như hổ. Một khi gặp kẻ mạnh tay áp chế, sẽ lập tức sụp đổ. Phỉ, chỉ là phỉ mà thôi!

- Nhìn cục diện này, bọn họ chiếm ưu thế về số lượng, trên thực tế so sánh với đại quân triều đình, bọn họ vẫn là thế đơn lực bạc, toàn bộ quân đội tác chiến chỉ bằng khí thế, nông dân nghèo khổ theo phỉ thì có bao nhiêu kinh nghiệm tác chiến đây. Càng không có năng lực phối hợp với nhau khi mấy chục vạn đại quân hỗn chiến.

Dương Lăng cười lạnh nói:

- Ưu thế của bọn họ là cơ động linh hoạt, có thể tác chiến xuất kỳ bất ý, nhưng Dương Hổ vẫn không suy nghĩ đến chuyện thành lập căn cứ địa vững chắc, lấy Sơn Đông làm hậu phương lớn, bọn lính vẫn mệt mỏi bôn ba. Ta nghĩ hiện giờ quân nhu tiếp tế tiếp viện đã gặp khó khăn lớn. Việc này dễ dàng cho ta tập trung binh lực, một kích đánh tan.

A Đức Ny khẽ gật đầu, nhẹ nhàng tựa vào vai hắn, nói:

- Một trận chiến này có thể diệt hết phản quân Dương Hổ không?

Dương Lăng lắc đầu, thở dài:

- Nói dễ hơn làm, có là quân thần cũng không có được chiến quả như vậy, trừ phi Dương Hổ thề sống chết một trận, quyết không lui về sau. Nếu không, cho dù ta có điều đến một triệu đại quân, không tiếc tài lực từng bước bố trí công sự, tầng tầng vây quanh, phong tỏa tất cả đường giao thông hiểm yếu, hắn muốn dẫn một chi khinh kỵ khoái mã thoát khỏi vòng vây của ta cũng dễ như trở bàn tay.

Hàng mày đen nhánh của A Đức Ny khẽ chau lại:

- Ta hiểu, cho dù quốc gia của chúng ta nhỏ, một đội ngũ phản loạn rất nhỏ, tiếp tục bao vây tiễu trừ cũng tương đối khó khăn. Tuy nhiên... đến bây giờ bọn họ đều lén chạy trốn khắp nơi, sợ là sẽ tạo nên phiền phức không nhỏ cho quốc gia.

Dương Lăng hôn lên má nàng, khẽ cười nói:

- Cũng không hẳn thế, nếu như có thể lợi dụng thật tốt cuộc chiến, thiệt hại tạo ra chưa chắc đã bằng lợi ích.

Dương Lăng nháy mắt nói:

- Bắc chiến Thát Đát. Chúng ta cùng Đóa Nhan tam vệ và Nữ Chân tam bộ đã kiến lập nên liên minh chiến lược, đồng thời kéo hai bên giao dịch với nhau, xem như điều kiện trao đổi, chúng ta đã lập nên rất nhiều nông trường khổng lồ ở Liêu Đông.

Đánh giặc Oa, chúng ta thừa cơ phát triển thủy quân lớn mạnh, kiến tạo chiến thuyền và pháo kiểu mới, nắm trong tay hơn trăm kẻ trộm lưu lạc trên các đảo của Đông Hải, cho Lưu Cầu đóng quân, Bắc khống Đông doanh. Nắm trong tay Hoàng Hải, Đông Hải, bảo đảm thông thương đường biển.

Trợ giúp Mãn Lạt Gia và Phật Lang Cơ đánh nhau một trận? Hạt di châu. Khống chế Nam Hải, đóng quân cho Mãn Lạt Gia, bất cứ lúc nào cũng có thể vươn thế lực ra Ấn Độ Dương. Đồng thời đẩy mạnh giao lưu với hai phía Đông Tây, giao lưu buôn bán sắp tới còn muốn giao lưu và dung hòa văn hóa Đông Tây nữa.

Cho dù bình định Đô Chưởng Man ở Tứ Xuyên, nhân cơ hội bộ lạc hơn trăm năm lại đây không ngừng tác loạn này đã hoàn toàn tan rã, dùng chiến lược của ba tỉnh Vân Quý Xuyên khống chế nơi xung yếu nhất của Tự Châu, đồng thời đe dọa được mười lăm vị thổ ty Ba Thục càng ngày càng ương ngạnh. Thúc đẩy triều đình thay đổi những chính sách cố hữu dễ khiến các dân tộc tranh chấp.

Nếu chiến tranh chỉ có đánh thật thống khoái, chỉ có thắng lợi trên chiến trường, đó mới thật sự là thất bại. Tướng công của nàng bình Bắc Lỗ, bình hải đạo, bình giặc Oa, bình Nam Man, bình Tây di đều có thu hoạch, vậy bình phỉ thì sao? Có chỗ nào tốt? Nam tước hải đạo xinh đẹp các hạ, nàng nói thử xem.

A Đức Ny cười nói tự nhiên, ôm eo y, lười biếng nói:

- Chàng à, ở bên chàng, người ta mới không muốn hao phí đầu óc vì mấy tên phỉ này chứ. Hơn nữa, đối với Đại Minh chàng quen thuộc hơn ta nhiều, bây giờ lại là Công tước Đại Minh, người ta cho chàng một cơ hội thể hiện, chàng nói thử đi.

Dương Lăng bị sự quyến rũ động lòng người của nàng chọc cười, nhéo nhẹ một cái, rồi mới mở miệng:

- So sánh với những cuộc chiến tranh ấy, Bạch Y Quân, hưởng mã đạo tác loạn lần này, tuy có chút lí do cá nhân, nhưng bọn họ có thể có được đội ngũ lớn như vậy, không thể không khiến người ta lo nghĩ xa xôi được.

Loạn Sơn Đông, căn nguyên do Hà Bắc. Loạn Hà Bắc, căn nguyên do triều đình. Do triều đình, nảy sinh từ thể chế. Đây mới là gốc rễ của phản loạn, không giải quyết gốc rễ này, cho dù ta đánh trăm trận trăm thắng, giết hơn trăm vạn người, cũng chỉ là biện pháp không triệt để, trị phần ngọn mà không trị tận gốc.

Cho dù Lưu Lục chết rồi, Dương Hổ cũng không còn nữa, nói không chừng lại xuất hiện ngay một Lưu Lục, Dương Hổ mới, giết Lưu tặc không dứt, người chịu khổ trước sau vẫn là dân chúng. Chỉ có rút củi đáy nồi, thanh trừ tệ nạn đã kéo dài lâu ngày, cho dân chúng có con đường sống, mới có thể chân chính hoàn thành việc bình ổn Lưu tặc tác loạn. Nhưng muốn trị tận gốc nói dễ hơn làm?

Nó sẽ chạm đến lợi ích hiện hữu của cả giai cấp thống trị Đại Minh, giai cấp này bao gồm công hầu huân khanh, đủ loại quan lại trong triều, thân sĩ thiên hạ, thậm chí cả phiên vương, thế gia, nhà quyền quý các nơi, cho dù là Hoàng đế, cũng sợ không chống lại sức mạnh khổng lồ đến vậy. Nhưng mà, cảnh hỗn loạn do phản loạn Lưu tặc, người hứng chịu cuối cùng không chỉ là bách tính bình dân.

Toàn bộ giai cấp thống trị típ tắp trên cao, đều đã xúc động vô cùng, bọn họ đương nhiên sẽ ý thức được nếu muốn có được ổn định và hòa bình lâu dài, đạt được lợi ích dài lâu, nhất định phải đem lại cái lợi cho dân, thi nhau dùng những cách có tác dụng xoa dịu mâu thuẫn xã hội. Rất nhiều thói quen lâu ngày, chế độ xưa cũ bình thường khó có thể lay động, giờ lại giải quyết được dễ dàng.

Dương Lăng thản nhiên cười nói:

- Nói thật, ta đánh quá nhiều trận chiến như vậy, trong triều hao phí tâm tư thực hiện một số cải cách, vẫn chưa bao giờ chạm tới vấn để thể chế Đại Minh. Lần này... lần này là một cơ hội tốt, một trận hay. Với ta mà nói, mới là trận chiến quan trọng nhất. A Đức Ny, chiến trường chân chính của ta không phải ở đây, mà là ở trong triều, đánh thắng một trận ấy, ta mới thực sự giành được thắng lợi.

A Đức Ny ngẩng đầu lên, đôi mắt sáng nhìn Dương Lăng, chợt phát hiện có một chút hứng thú xa lạ. Ánh mắt này, trong sự cơ trí cương nghị mang theo chút quyết đoán sát phạt tàn nhẫn. Khi bàn về chính sự y không hề mang chút tình cảm cá nhân nào, chỉ bình tĩnh lo lắng đến vấn đề lợi ích lâu dài. Đây hẳn là một người có tố chất của một chính trị gia tài ba.

"Chàng ấy thật sự không có đủ sức một trận chiến toàn diệt Bạch Y Quân, vẫn cố ý tung tin phỉ gây loạn, trong hỗn loạn thúc đẩy việc thi hành những chính sách của chàng, nhằm mục đích đạt tới lợi ích chính trị lâu dài hơn?"

Trong lòng A Đức Ny đột nhiên hiện lên ý niệm hoang đường này, lập tức thầm tự trách mình: "Sao ta có thể nghĩ như thế? Không phải đâu. Dương vĩnh viễn không làm một chính khách ác nghiệt. Chàng chỉ khéo lẽo dẫn dắt, lợi dụng triệt để những nhân tố bất lợi không thể ngăn lại, biến nó thành những sáng tạo có ích mà thôi."

Dương Lăng cũng không nghĩ tới ý niệm đã vòng vo nửa ngày trong lòng A Đức Ny, lại có thể biết trong chốc lát đã tưởng tượng hắn thành một chính khách máu lạnh. Cõi lòng hắn chan chứa một cảm giác ấm áp dịu êm, nhưng là vì những tính toán nghĩ ngợi của riêng mình lúc này, càng muốn tiền đồ sáng lạn, trong lúc hưng phấn, hai tay nhẹ nhàng an ủi như một hành động theo bản năng. Hắn không có suy nghĩ hay ham muốn gì, vẻ mặt A Đức Ny đã đỏ hồng, dần dần thở dốc.

Dương Lăng vẫn không nhận ra, tủm tỉm cười:

- Nàng không tưởng tượng được cũng không thể trách nàng, triển khai chiến tranh tốt, có thể thúc đẩy chính trị, khoa học kĩ thuật, kinh tế nữa, ta cũng từ nước Mĩ ... à, từ mỗi... mỗi quốc gia có những cuộc chiến tranh trong lịch sử mà tìm tòi học hỏi điều này.

Lâm chiến không hoảng. Ra sức hóa giải cái bất lợi thành cái có lợi. Từ trong hỗn loạn sáng tạo ra điều kiện, lại có thể giảm thiệt hại chiến tranh xuống mức thấp nhất. Thậm chí mang lại lợi ích xa hơn cái hại nhất thời. Chiến tranh là cuộc vật lộn và tiêu hao thực lực của một nước. Để đối phó với chiến tranh, lập kế hoạch cho tốt, có thể gia tăng của cải, là động lực kéo nền kinh tế quốc dân phát triển, không tính toán thì sẽ dẫn đến hiếu chiến vô độ, hại nước hại dân.

Nói ví dụ nhé, cảng Thiên Tân là một trong ba cảng được triều đình mở thử nghiệm, nhưng phương Bắc chưa mở cửa phía Nam, đội ngũ có lợi nhất phần lớn là giai cấp địa chủ, đối với chuyện này vẫn giữ thái độ chống đối, cho nên cảng Thiên Tân cho tới nay vẫn có tác dụng như quân cảng.

Loạn Bạch Y Quân, khiến giao thông đường bộ nam bắc bị cắt đứt, đường sông cũng chịu ảnh hưởng. Nhưng bây giờ trên biển vẫn yên ổn, có thể nhân cơ hội mở rộng quy mô đường biển, đợi khi mọi người nếm thử vị ngọt của nó, mặc dù chiến tranh đã kết thúc, nó vẫn sẽ tiếp tục náo nhiệt. Dựa vào việc chính lệnh của triều đình không thể thúc đẩy, vậy thì càng dễ dàng thực hiện hơn.

Bách tính Sơn Đông bỏ lỡ việc cày cấy vụ xuân năm nay, nhờ lương thực chuyển từ bên ngoài tới mới giúp họ miễn cưỡng chống chọi được đến tháng mười, sang năm thì phải làm sao? Hiện giờ nạn dân chạy loạn không đất đai không tài sản, muốn trở về cũng không có cách nào để sinh tồn, ta sẽ đề nghị với triều đình định ra một số chính sách ưu đãi, đưa những dân chúng coi gia viên thổ địa như tính mạng, không dễ dàng đồng ý này xa xứ tới Quan Đông.

Người Hán bạc nhược ở Liêu Đông, ... Năm ấy Thái tổ Hoàng đế bắt người Sơn Tây đến Sơn Đông trú ngụ, bây giờ lợi dụng tình thế bất lợi này, bách tính chẳng những không phản đối, ngược lại còn cảm kích triều đình đã mở cho bọn họ một con đường sống. Đồng thời vùng Sơn Đông, Hà Bắc, Hà Nam rất nhiều nhà giàu và địa chủ phá gia bỏ mình, rất nhiều vùng đất hoang, lưu dân an cư trong cảnh chiến loạn, thi hành tân lương, công thương cũng trở nên dễ dàng.

Về phương diện quân sự, chế độ mộ lính vẫn không thể hoàn toàn thực thi quán triệt, dân loạn hoành hành gần trong gang tấc, Vệ Sở quân thối rữa vô năng hoàn toàn bại lộ trước đám quyền quý ở kinh sư. Bộ Binh muốn bỏ chế độ mộ lính, dần dần hủy bỏ Vệ Sở quân cũng dễ dàng hơn nhiều.

Về phần công thương, do chiến loạn, triều đình càng lúc càng phụ thuộc vào thuế phú Giang Nam, có thể nhân cơ hội nới lỏng những gông cùm xiềng xích của các thương nhân lớn, để bọn họ hình thành quy mô và tập đoàn hóa.

Ngoài ra, chiến tranh cần doanh trướng vũ khí, có thể mở rộng công xưởng và nông trường triều đình thiết lập tại Liêu Đông, đồng thời giải quyết việc làm cho di dân, chiến loạn xúc tiến giải thể mã chính, dần dần tăng cường chiến lực của quân đội.

Dương Lăng đắc ý cười nói:

- Do thiệt hại chiến tranh, tất cả các bộ phận đương nhiên bị trì trệ và cản trở. Nếu người thi hành biện pháp chính trị có thể nghĩ tới mấy vấn đề này, tích cực lợi dụng lần nội loạn này để tấn công, dựa thế mà thay đổi, đám quan phủ và quan liêu địa phương cũng sẽ tích cực hưởng ứng. Đây là bốn lạng thắng nghìn cân, việc mà bình thường phải dốc hết sức lực, uổng phí rất nhiều năm mới có được, lại có thể giải quyết dễ dàng.

- À... Dương, chàng thật vĩ đại!

A Đức Ny thở hổn hển ôm chặt Dương Lăng:

- Ta thực sự không nghĩ tới chuyện lợi dụng chiến tranh làm nhiều việc như vậy, chỉ xứng làm một võ sĩ. Mà chàng... mới là một kỵ sĩ chân chính.

Đại quân đang tiến lên bỗng dừng lại, tướng lĩnh tiền quân đi tới trước xa giá của Dương Lăng, chắp tay bẩm:

- Quốc công, phía trước đã là Vũ thành rồi.

Trong xe một mảnh xuân quang, hai người dù chưa kịp làm loạn, nhưng tình cảnh thân mật cũng đủ khiến người ta đỏ mắt nóng lòng rồi.

- Mau mau, sửa sang lại một chút, tác phong và kỷ luật quân nhân phải nghiêm chỉnh...

Dương Lăng nhỏ giọng thúc giục, nói xong chỉnh lại ống tay áo, hơi thở dần hòa hoãn, khụ khụ hai tiếng, uy nghiêm nói:

- Đại quân dừng lại tạm nghỉ trong thành, sau đó mời Kiều tham tướng và các vị tướng quân tới đây nghị sự.

Tướng lĩnh ngoài xe cung kính trả lời, thúc ngựa lên đầu truyền đạt quân lệnh đi. A Đức Ny dáng vẻ như mây mùa xuân, đôi mắt quyến rũ như tơ, hàm răng tuyết trắng cắn nhẹ đôi môi anh đào, dùng ánh mắt quyến rũ liếc sang Dương Lăng cười, lặng lẽ lấy từ trong tay áo một chiếc khăn lụa, nhẹ nhàng thấm lên cánh môi hồng nhuận ươn ướt.

Vũ thành cũng từng bị Bạch Y Quân tấn công, bây giờ mặc dù đã không còn phỉ, nhưng cả huyện lị hỗn loạn, một bộ phận quan viên địa phương đã bỏ chạy tới phủ Tế Nam, những kẻ khác cũng không quản lí địa phương. Tuy nhiên đại quân triều đình vào thành, động tĩnh lớn như thế, những quan viên này đương nhiên có nghe nói, không khỏi mừng rỡ như điên. Vội vàng mặc quan phục bào trở ra, hấp tấp tới bái kiến.

Dương Lăng hỏi qua tình hình địa phương, yêu cầu quan viên địa phương chịu trách nhiệm mọi việc, nhanh chóng chỉnh đốn địa phương, sau đó cho mọi người lui rồi gọi đám người Kiều tham tướng vào nghị sự.

Dương Lăng xác định lại việc bố trí quân sự một lần, sau đó cất cao giọng nói:

- Dương Hổ nhiều lần đánh bại quan binh, một là những nơi chúng ta đóng quân xảy ra chuyện ngoài ý muốn, không thể chân thành hợp tác. Hai là đại quân Dương Hổ phần lớn là kỵ binh, có thể đánh thì đánh, không thể đánh thì đi, cơ động linh hoạt vượt xa quân chúng ta.

Lần này tập hợp các lộ khinh kỵ trong binh mã để đột kích, dùng kỵ binh đấu với kỵ binh, lấy nhanh đánh nhanh, Dương Hổ tất nhiên sẽ làm lại trò cũ, chọn đường mà chạy. Các lộ bộ tốt của viện quân trung bộ chia ra thủ ở những con đường, thành trì hiểm yếu. Nhớ kỹ, các ngươi là bộ binh, bọn chúng là kỵ binh, cho nên ta không cần các ngươi toàn thắng, lại càng không trông đợi các người toàn diệt giặc Bạch Y tháo chạy.

Các ngươi phải lợi dụng lợi thế về địa hình bố trí mai phục. Dùng cung tiễn, súng ống, đem hết khả năng ra tiêu diệt địch nhân chạy trốn, khiến bọn chúng trở thành chuột chạy qua đường, chim sợ cành cong, khiến bọn chúng không dám dừng lại ở một tòa thành trì, một nơi sơn lĩnh, một con sông, hay một mảnh rừng nào. Phải khiến bọn chúng cảm thấy nơi nơicó quan binh, nơi nơi đều có mai phục, biến bọn chúng thành binh mỏi, binh yếu, binh sợ hãi!

Hiện tại, đại quân sẽ nghỉ ngơi tại chỗ hai canh giờ. Hai canh giờ sau, bổn Quốc công dẫn khinh kỳ tập kích bất ngờ thành Thái An, hội hợp với các lộ viện quân tấn công đại doanh Dương Hổ. Các ngươi cứ tự động đi tới địa điểm mai phục chặn đánh, quân Dương Hổ đến, chính là mệnh lệnh tác chiến. Cần phải tận trung với cương vị, anh dũng chiến đấu.

Các tướng lĩnh dạ ran, Dương Lăng quét mắt nhìn một lượt, nói:

- Giải tán, tự chuẩn bị đi.

Nha môn tri huyện đã bị Bạch Y Quân phóng hỏa đốt trụi, nơi này là một tửu lâu lớn, trong tửu lâu bị cướp sạch chẳng còn gì, chưởng quỹ của tiệm cũng chẳng biết đã đi đâu. Cho nên Dương Lăng tạm thời biến chỗ này thành nơi hội nghị. Bố trí xong liền ra khỏi tửu lâu. Chỉ thấy đại quân điều động qua lại đầy đường, dân chúng đứng đông nghịt ven đường quan sát.

A Đức Ny kề sát bên người Dương Lăng, thấp giọng nói:

- Dương, ta đã nói với Kiều tham tướng, lát nữa ta cùng đi với chàng.

Dương Lăng trừng mắt, trách mắng:

- Làm càn, ai cho phép hắn làm chủ hả? Ta đã đồng ý rồi sao?

A Đức Ny bĩu môi, quật cường đáp:

- Ta cứ đi theo chàng đấy!

Dương Lăng chấn động thân thể, hai mắt cố sức trừng lớn, thấy A Đức Ny không hề sợ hãi, không khỏi nhún vai, giận dữ nói:

- Cùng đi thì cùng đi, nàng có thể, ta không quản được nàng rồi.

A Đức Ny nghe vậy nhảy nhót không ngừng, vui mừng khoác tay Dương Lăng. Dương Lăng nghiêm mặt vờ không để ý tới nàng, A Đức Ny hồn nhiên cười hì hì không để tâm.

Vì bị Dương Lăng dùng nghiêm lệnh, các lộ quân trật tự rành mạch, không dám nhiễu dân chút nào. Dương Lăng đi thẳng một đường, thấy rất vừa lòng. Vừa đi tới lộ khẩu, chỉ nghe một người cao giọng réo lên:

- Dương Hổ chẳng là cái thá gì hết, hắn con bà nó là cái thá gì? Là tên giặc chẳng có gì tốt, bộ dạng lưu manh, toàn bộ đều không phải đồ chơi, ngươi dám nói có gì tốt?

Dương Lăng động tâm, quay đầu nhìn lại, thấy hai người dân ven đường xem náo nhiệt mà đang cãi cọ đằng kia, nhìn dáng vẻ nghèo túng ấy đều là lưu dân ở ngoài, từ trang phục đến đồ dùng đang mang trên người đều cho thấy điều đó. Người kia bị người này túm quần áo, mặt đỏ lên nói:

- Ta đây... ta đây chưa nói bọn chúng là thứ gì tốt, ta đây chỉ nói so với Bạch Y Quân của Dương Hổ, Hồng Nương Tử quân còn có chút đạo nghĩa hơn thôi.

Người mặc quan phục địa lý bào, quan viên lon ton theo sau Dương Lăng vừa nghe, lập tức lao ra, chỉ vào mũi người dân kia mắng:

- Khốn kiếp! Dương Hổ, Hồng Nương Tử đều là phản tặc, ngươi dám nói lời hay cho bọn chúng? Hay là ngươi cũng cùng một giuộc với bọn loạn tặc hả? Tới đây tới đây, bắt tên phản tặc này lại.

Người dân kia vừa thấy thế, bị dọa cho mặt mũi trắng bệch, liền vội vàng xua tay nói:

- Lão gia, ta đây đâu có nói tốt gì cho phản tặc, ta đây thật sự chưa nói, ta đây cũng không phải phản tặc, ngài nhìn ta xem, nếu không bị bọn họ làm hại, ta đây có thể chạy nạn thành bộ dạng thế này sao?

Dương Lăng qua đó, khoát tay đuổi tên quan cáo mượn oai hùm này, vẻ mặt ôn hòa nói:

- Không cần phải sợ, các người từ đây tới đây?

Hai người dân thấy Dương Lăng khoát tay chặn lại, mấy tiểu quan lập tức lui sang một bên, hiểu được vị quan này lớn hơn, người dân gây họa nơm nớp lo sợ đáp:

- Lão gia, ta đây từ huyện Bình Nguyên tới.

Người kia đã sớm buông lỏng y phục người này, cười nói:

- Lão gia, tiểu nhân từ phủ Hà Gian tới.

Dương Lăng nghe thế, thì ra là một người Sơn Đông, một người Hà Bắc, liền cười cười nói:

- Hà Gian Phủ, à, vì loạn Lưu Lục, Lưu Thất chạy tới.

Người nọ cười nói tiếp:

- Dạ dạ dạ, chính là Lưu Lý, Lưu Khí*, bọn chúng dẫn binh tấn công Hà Gian phủ. Tiểu địa sợ hãi quá, bèn chạy thẳng tới, sợ bọn giặc tìm người trút giận.

("Lưu Lý Lưu Khí" có nghĩa là bộ dáng lưu manh, đồng âm với Lưu Lục Lưu Thất)

Dương Lăng ngẩn ngơ, giờ mới hiểu được gã đọc Lưu Lục, Lưu Thất thành Lưu Lý Lưu Khí. Tâm tư Dương Lăng vừa chuyển, đột nhiên nghĩ không biết người ta nói bộ dáng lưu manh là có ý gì, hay chính là bộ dáng lưu manh mà Lưu Lục, Lưu Thất đã thể hiện ra?

Hắn thật sự đã đoán đúng, chỉ nghe người nọ lại nói:

- Lưu Lý, Lưu Khí, Chẳng là cái thá gì hết. Hắn gieo họa Hà Bắc, lại tới náo Sơn Đông, tiểu nhân cũng không biết nên tránh đi đâu nữa, bây giờ nhìn thấy nhiều quân gia như vậy, xem như cũng nhẹ lòng rồi.

Dương Lăng cười cười, nói:

- Các ngươi không cần tránh đi đâu hết, lần này triều đình nhất định có thể đánh bại bọn giặc hưởng mã đạo, Bạch Y phỉ.

Hắn xoay người đi hai bước. Đột nhiên nghĩ ra một chuyện, quay phắt đầu lại nói:

- Huyện Bình Nguyên? Bình Nguyên bị đội ngũ của Hồng Nương Tử tấn công rồi? Chuyện này xảy ra khi nào?

Họa kia từ miệng mà ra, người dân đang muốn lặng lẽ chuồn đi, bị hắn hỏi lại căng thẳng đứng lại, tất cung tất kính đáp rằng:

- Hồi lão gia, chúng ta... cũng không biết Hồng Nương Tử đã đánh Bình Nguyên chưa. Ta là người của Vương Phương Lâu ở huyện Bình Nguyên, trưa hôm trước người của Hồng Nương Tử đã tới chỗ chúng ta.

Dương Lăng nghe xong nhất thời hứng thú, vội vàng cẩn thận hỏi lại:

- Ngươi nói xem, rốt cuộc là xảy ra chuyện gì vậy. Hồng Nương Tử đã qua huyện Bình Nguyên? Cô ta đến từ đâu, đi tới nơi nào, ngươi có biết chút tin tức gì không?

Người nói thấy vị đại nhân này rất quan tâm tới chuyện này, vội đáp:

- Hồi lão gia, người của Hồng Nương Tử cũng mặc áo choàng trắng, nhưng trên đầu đội khăn đỏ. Chúng ta đều nghe nói qua, trưa hôm trước, đột nhiên có vài nghìn người tới chỗ đó, làm ta sợ hãi, rồi nhìn hình dáng bọn họ mới biết là nhân mã của Hồng Nương Tử.

- Cô ta...

Người này nhìn sắc mặt Dương Lăng, thấp giọng nói:

- Người của cô ta so với những cường đạo khác, còn phân rõ phải trái hơn, không cướp của người nghèo, cũng không ức hiếp nữ nhân. Chỉ đập phá nhà của Vương lão tài chủ đầu trấn đông. Nhà lão Vương có tiền, có thể bắt bọn họ chia ra. Cũng không còn lại bao nhiêu, chút ít còn lại này để cho mấy cô nhi quả phụ nhà họ.

Người này chậc chậc mấy tiếng, dường như nếu không chia lão còn rất tiếc nuối ấy, tiếp tục nói:

- Bọn họ ở trong thôn gần nửa ngày, ta đây cũng không thấy nghe nói người mặc y phục đỏ kia là Hồng Nương Tử, liền nghe người của bọn họ tán gẫu, những người đó cũng tùy tiện, vốn không để ý gì tới thiên hạ. Ta đây chợt nghe nói bọn họ từ Khúc Phụ đánh thẳng về Thanh Châu, lại bao vây Huệ Dân, lập ấp nơi này, nói là không hợp với Dương Hổ, muốn tới chỗ Ngô Kiều hội họp với Lưu Lý Lưu Khí.

Dương Lăng giật mình kinh hãi, bây giờ phỉ tới nhanh chóng, các nơi trong thành đều tự thủ, không có đại đội quan binh bảo vệ, căn bản không có thám mã đưa tin lui tới, nếu Hồng Nương Tử không tới thành lớn phủ lớn, chỉ tới mấy hương trấn, thị trấn ở giữa, bách tính này hiện giờ lại không có lòng lo lắng đến phủ huyện báo cáo, tin tức cực kỳ chậm trễ.

Hồng Nương Tử tới hội hợp cùng Lưu Lục, Lưu Thất, vậy là bọn họ sẽ lại tăng thêm một nhánh quân chủ lực. Trong lòng Dương Lăng bối rối, lấy lại bình tĩnh mới nghĩ đến Hồng Nương Tử chiêu binh thà thiếu chứ không thèm đổ bỏ đi, nhân số hiện tại hẳn là chưa tới năm ngàn người, xu thế công thủ Đức Châu sẽ không thay đổi, lúc này mới ổn định tâm thần, buồn bã nói:

- Cô ta... tới Ngô Kiều?

Người dân thành thật nói:

- Bọn họ không đi, không biết bọn họ đi đâu mà vừa nghe tin, nói vị Dương đại nhân đến Đức Châu này, còn là một Quốc công, bọn Hồng Nương Tử bỗng nhiên lại thay đổi chủ ý, không hợp lại với Lưu Lý, Lưu Khí, người của bọn họ xuống đường, đi dưới bến sông, qua Thanh Hà, muốn đi tìm người tên là Triệu Phong Tử.

Dương Lăng ngẩn ngơ:

- Từ Thanh Hà ra Sơn Đông, thế thì phải đi Sơn Tây, nàng... nàng muốn tránh mặt ta ư?

Lão nông kia thấy vị quan gia này mờ mịt nhìn xa xăm, lão cũng không dám đi, liền cung kính đứng trước mặt. Dương Lăng qua hồi lâu mới lấy lại tinh thần, thấy lão nhân vẫn đứng cạnh, vội vàng gật đầu nói:

- Ừm, đa tạ lão, lão có thể đi rồi.

Dương Lăng không còn tâm tư tiếp tục dạo phố nữa, hắn ngậm ngùi thở dài, thu lại nụ cười chậm rãi quay về:

- Ta tới Sơn Đông, nàng liền trốn sang Sơn Tây, ôi! Tạo phản tội lớn, đại họa ngập trời, Hồng Nương Tử à Hồng Nương Tử, nàng còn muốn gieo họa bao lâu mới vừa lòng bỏ qua đây?

Trong lòng Dương Lăng mặc dù có chút mất mát, tuy nhiên lại không khỏi thoải mái hẳn lên:

- Sơn Đông diệt phỉ, không thể né tránh, đánh Bạch Y Quân của Dương Hổ, sẽ tiện thể thượng nhân mã của Hồng Nương Tử, xung đột vũ trang với nàng trên chiến trường, Dương Lăng rốt cuộc có phải cảm nhận được gì hay không. Bây giờ nàng rời khỏi Sơn Đông, cũng vừa lúc mình không vướng bận.

Bất kể nói thế nào, quốc gia đại sự quan trọng hơn, hơn nữa trận phản loạn này, bản thân đang muốn lợi dụng nó, từ trước tới giờ chạm đến thể chế chính trị triều đình để cải cách một phen. Thời vận tự đẩy mình lên vị trí này, không thể phụ ý tốt của trời cao. Nhân sinh không thể ghi trong lòng, mặc dù thọ trăm tuổi, vẫn phải chết mà thôi! Tư tình nhi nữ, vẫn nên gác sang một bên trước đã

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 375: Thập diện mai phục

Ngọn lửa chiến tranh ngày càng lớn, từng vệt sáng như lửa đốt cháy cả bầu trời đêm. Dưới chân thành Thái An, tiếng chém giết rung trời.

Công thành vào ban đêm, là đề nghị của một quan quân cấp thấp trong Dương Hổ Quân. Y vốn là một quan quân, đồn điền mà Vệ Sở phân cho y, khi đo đạc bị người của Lưu Cẩn tham công, nói là thổ địa của địa phương, mà bị lấy mất. Y không có đất để trồng ruộng, chỉ đành lưu lạc lang thang, trốn khỏi Vệ Sở. Lúc Dương Hổ Quân tới Sơn Đông thì y đầu quân luôn.

Theo chủ ý của y, Dương Hổ Quân ngày đêm không ngừng tấn công thành, trong đó thế tấn công của ban đêm mạnh nhất. Vì ban đêm tướng thủ trên đầu thành không thể nhìn rõ cụ thể bố trí và hướng di chuyển của Bạch Y Quân bên dưới. Như thế thì không thể dự đoán trước bước tiến của địch và chuẩn bị phòng thủ. Cách làm này quả thật làm khổ binh lính thủ thành, thế công ngoài thành lúc mạnh lúc yếu, ngày đêm không ngừng. Đặc biệt là ban đêm không thể nhìn rõ quân số của đối phương, bốn cửa thành nơi nào đánh thật, nơi nào đánh giả, quả thật không cách nào biết trước. Chỉ đành ngày đêm phòng thủ căng thẳng, nên bây giờ binh lính đều đã rất mệt mỏi.

Tính nhẫn nại của Dương Hổ cũng sắp hết rồi. Y vốn định dùng Thái An làm mồi câu, dụ lính thủ thành Tế Nam ra thành quyết chiến, nên thế công cũng không phải vô cùng mãnh liệt. Không ngờ quân của Tế Nam luôn án binh bất động. Mấy mươi thuyền lương thực mà y cướp ở sông Vận Hà, người ăn ngựa ăn, không hề tiết kiệm, bây giờ đã không còn bao nhiêu, nếu không công hạ thành Thái An, toàn quân sẽ phải đối diện với tình cảnh thiếu lương thực.

Vì vậy hai hôm nay, Dương Hổ đã từ bỏ kế hoạch vây thành đánh viện binh, toàn lực công kích thành Thái An, nhất định phải hạ được nó, dùng kho lương trong thành bổ sung lương thực, dùng của cải mỹ nữ trong thành cổ vũ sĩ khí ngày một suy yếu của toàn quân.

Dương Hổ Quân có bốn khẩu pháo lớn, nhờ sức trâu sức ngựa kéo từ huyện thành quanh đó đến, nguyên quan quân của Vệ Sở mới đầu quân cũng không biết dùng pháo. Y chỉ biết rằng khi sử dụng đại pháo phải cố định thiết tiêu, đặt chống sắt và tường đất sau xe. Còn về độ nâng của miệng pháo, mục tiêu, cự li vâng vâng toàn bộ đều không biết. Nhưng một tòa thành lớn thế này ở trước mắt, mỗi một đợt pháo thế nào cũng trúng tường thành hoặc bắn trong thành là được.

Bên kia cổng thành, lính Thái An sử dụng tầng tầng lớp lớp thạch cao đắp thành bức tường, phòng ngự đại pháo của Dương Hổ. Tường thành bị đạn pháo làm cho loang lổ, nhưng khi trời vừa chớm sáng, đại pháo của Dương Hổ Quân phụt tắt. Hỏa dược của họ còn mấy thùng lớn, nhưng đạn sắt thì đã dùng hết. Tiên phong Dương Hổ Quân không hề để ý, vẫn múa may cây cờ hiệu trong tay, ra lệnh cho thuộc hạ toàn lực công thành, bất kể thương vong.

Pháo trên tường thành phát ra một tiếng nổ kinh thiên động địa, miệng phun khói đen, lựu đạn tấn công mãnh liệt trấn áp sự tiến công của quân Dương Hổ. Máy bắn đá, cầu hào, thang leo tường, không ngừng tập kết ở những góc chết của đại pháo. Các tảng đá, cầu lửa, cầu khói độc không ngừng được bắn lên trên tường thành. Từng mạng từng mạng người không ngừng bị chôn vùi trên chiến trường, mà không ai ngoái lại nhìn một cái.

Trong lều lớn trung tâm quân ngũ, Dương Hổ cau mày, đi đi lại lại một cách sốt ruột. Những tướng lĩnh thân tín như Mộc Vân, Đậu Hủ Lang im lặng đứng một bên. Dương Hổ đột nhiên ngừng bước, nói với giọng căm hận:

- Chỉ một cái thành Thái An thôi, mà lâu thế này vẫn chưa hạ được. Bây giờ đạn pháo thì dùng hết sạch, đại quân của Lưu Lục bị Dương Lăng chặn ngoài thành Đức Châu không thể tiến bước. Và nghiêm trọng nhất chính là lương thảo lại sắp dùng hết. Chẳng lẽ ta không thể không tử bỏ Thái An? Không cam tâm, ta không cam tâm!

Đậu Hủ Lang đảo mắt một cái rồi nói:

- Đại ca, hay là đệ dẫn một toán quân, đến các phủ huyện lân cận tìm kiếm thêm lần nữa, lương thực tìm thấy được thế nào cũng có thể để cho đại quân duy trì thêm mười ngày. Bây giờ quân ta cả người lẫn ngựa đều mệt mỏi, nhưng binh lính trong thành Thái An chỉ sợ còn gian khổ hơn. Đệ không tin, chúng có thể cầm cự thêm mười ngày.

Còn Mộc Vân thì nói:

- Đại ca, theo đệ thấy, chi bằng chúng ta đưa quân xuống phía nam, phía nam lương thảo sung túc, đủ để cung ứng cho nhu cầu của quân ta. Nếu ta chiếm được Nam Kinh, đưa một tông thân Hoàng thất họ Chu lên làm con rối, tệ lắm thì cũng có thể lấy sông làm biên giới, chia đất cai trị với Kinh Sư.

Đậu Hủ Lang cười lạnh:

- Tên họ Mộc kia, hình như những lời lẽ như là chiếm trọn đất Sơn Đông, liên kết ba nơi Sơn Đông, Hà Nam, Sơn Tây làm thòng lọng, siết chặt lấy nơi yết hầu của Kinh Sư là chủ ý của ngươi đúng không? Bây giờ thắng bại chưa phân, ngươi lại lên tiếng đòi đến Giang Nam rồi.

Mộc Vân mỉm cười, nói:

- Hành quân đánh trận, yêu cầu phải biết tùy cơ ứng biến. Kế hoạch ban đầu của chúng ta là chiếm đoạt toàn đất Sơn Đông, sau đó tiến quân ra Bắc, chiếm Kinh Sư, chém người đứng đầu. Như không ngờ triều đình phản ứng nhanh như vậy, quân đội của họ không còn theo sau chúng ta dốc sức tiễu trừ, mà là chia ra trấn thủ, ỷ thế thành trì mà đối kháng quân ta. Thế mạnh của chúng ta là dã chiến, bây giờ chỉ còn cách bàn con đường khác.

Đậu Hủ Lang khịt mũi dè bỉu, bất mãn nói:

- Một tên xuất thân thợ săn như ngươi, còn tưởng mình là Gia Cát Lượng? Cùng lắm thì chỉ là con cáo già. Nếu sớm chiếm được Thái An thì hết chuyện rồi. Không phải ngươi nói cái gì vây mà không đánh, vây rồi giả đánh, dụ quân Tế Nam ra thành, bây giờ Thái An đã sớm bị công hạ rồi.

- Được rồi, được rồi, đừng có cãi nữa!

Dương Hổ phiền não vung tay, nhìn ra ngoài lều, sắc trời đã sắp tỏ. Dương Hổ thở dài:

- Lệnh cho nhân mã của Dịch Thần Phong, Lý Dạ Ẩn lập tức phối hợp với Hàn Bách toàn lực công thành. Chúng ta đánh đến lúc trời sáng hoàn toàn, nếu vẫn chưa công hạ Thái An, sau khi "mai oa tạo phản" rồi thì rút quân ngay, thẳng tiến xuống phía Nam.

- Vâng!

Thấy Dương Hổ đã có quyết định, các tướng lĩnh trong lều đều cùng ôm quyền nhận lời.

Dương Hổ đi đến cửa lều, nhìn tường thành ở phía xa không ngừng bốc lửa và từng đợt âm thanh chém giết, trong lòng thầm keu gào:

- Là thành hay bại, tất cả đều phụ thuộc vào trận chiến sáng mai!

- Là thành hay bại, tất cả đều phụ thuộc vào trận chiến sáng mai!

*************

Bá Nhan Mãnh Khả vung roi gấp rút, không những mồ hôi nhễ nhại đầy người, mà ngay cả ngựa của ông cũng mồ hôi đầy mình.

Sáu ngàn kỵ binh, hai vạn con ngựa, phóng chạy hết mấy ngàn dặm. Mục tiêu: Hồ Thanh Hải, đại tướng phản nghịch Gia Tư Bố sở hữu ít nhất bốn vạn dân chúng.

Tốc độ hành quân của họ nhanh đến kinh người, một ngày ít nhất cũng đi được mấy trăm dặm. Để bảo tồn binh lực, chỉ đến lúc người ngựa đều mệt mỏi vô cùng mới dừng chân nghỉ nửa ngày. Chiến thuật tiến công sấm chớp trên đường dài của kỵ binh Mông Cổ, đều được hắn phát huy hết tác dụng.

Trọng binh tập kết ở quanh Tuyên Phủ Đại Đồng, giả bộ tấn công Đại Minh, che mắt thiên hạ, đích thân dẫn khinh kỵ tiến công ngàn dặm đến đánh y, Gia Tư Bố. Phần hào tình này, phần tự tin này, thật không hổ danh là huyết mạch đích hệ của Thành Cát Tư Hãn. Tâm thái cược tất cả cho hành động lần này, cũng chỉ có Bá Nhan Mãnh Khả mới có đảm phách như thế.

Y không thể không làm quyết định như thế, chiến bại không thể làm y suy sụp. Nhưng trong lúc y khó khăn nhất, đại tướng thân tín dưới trướng dẫn quân tạo phản. Nếu không nhanh chóng trừng phạt, y không thể khiến cho những bộ hạ khác nghe lệnh. Đáng sợ hơn, Gia Tư Bố không biết từ đâu tìm được Mãn Đô Hải sớm đã mất tung tích từ trước. Những quý tộc vốn thuộc hệ Mãn Đô Hải đều bắt đầu ngập ngừng do dự, một số bộ lạc nhỏ đã lặng lẽ đầu quân qua đó.

Nếu còn không giải quyết Gia Tư Bố, y cũng chỉ có thể chịu đựng khoảng nửa năm. Đến mùa đông năm nay, thế lực y lao tâm khổ tứ xây dựng mấy năm nay sẽ toàn bộ sụp đổ. Tìm đường sống trong cõi chết, y chỉ còn cách chiến đấu!

Chiến mã phi nước đại, rầm rầm trên thảo nguyên, một vạn thiết kỵ trông cứ như là một trận cuồng phong, mang theo sấm giật chớp lòe lướt qua, khiến choc him thú quanh đó sợ tới bỏ chạy hết.

Chỉ cần có đồng cỏ và nguồn nước, người Mông Cổ có thể không cần quân nhu nặng nề, hành lý nhẹ thì ngựa chạy nhanh, quãng đường dài ngàn dặm chỉ mất một khoảng thời gian ngắn. Đại quân áp sát Hồ Thanh Hải, bầu trời vẫn còn là một mảng màu đen. Bá Nhan Mãnh Khả ra lệnh cho đại quân dừng chân nghỉ ngơi. Khoảng nửa canh giờ sau, họ uống hết sữa ngựa và nước sạch, ăn hết luôn phần lương khô còn lại. Sau đó, nhân lúc ánh nắng bình minh đầu tiên chưa xuất hiện, phát động lần tấn công cuối cùng.

Hồ Thanh Hải sóng gợn mênh mang, vẫn còn chìm đắm trong khung cảnh nửa đêm nửa sáng. Chốc chốc, vài con cá quẫy đuôi vụt lên khỏi mặt nước, những con chim âu dậy sớm khẽ sà xuống mặt nước, đập cánh vỗ song, hòa cùng với tiếng kêu lâu lâu phát ra từ miệng chúng. Không gian vắng lặng mà tĩnh mịch.

Bên trong hang rào bên hồ là từng đàn dê và bò. Đất nơi đây màu mỡ, cây cỏ sum xuê, là nơi sống tốt của những con thú vật, là nông trường thiên nhiên rộng lớn, mảnh đất phì nhiêu đang chờ đợi khai khẩn.

Lúc này, chú chim trong lùm cỏ tung cánh bay cao, con hươu bào ngẩng đầu lên khỉ đám cỏ, trừng to đôi mắt nho nhỏ đen tròn cảnh giác nhìn quanh, rồi sau đó nhúc nhích cái đích mập ú vội vã bỏ chạy. Sau đó một giây, một tiếng sấm rền đánh ngay trúng chỗ nó vừa đứng.

Bá Nhan Khả Hãn giương roi thúc ngựa, từng làn gió mát trên Hồ Thanh Hải quét qua mặt y, các lều Mông Cổ trải dài vô tận dần hiện ra trước mắt y. Cái mà y cần tìm, chính là cái to nhất trong số đó, cái lều mà trước cửa có cắm một cột cờ cao chót vót. Từ xa truyền đến tiếng sấm rền, kinh động đến đám dê và bò cùng với chó chăn dê trước nhất, bọn chúng xáo động lên, bắt đầu phát ra những tiếng kêu, sủa hỗn loạn.

Khi thiết kỵ của Bá Nhan Khả Hãn phá vỡ phòng tuyến bên ngoài, nhanh chóng ập vào trung tâm doanh trại, các dũng sĩ của Gia Tư Bố đều vội đứng dậy, cầm vũ khí lên, leo lên lưng ngựa. Chúng không có quân do thám. Ở nơi này, quả thật có quá nhiều bộ tộc, mặc dù bộ tộc của Gia Tư Bố có sức mạnh to lớn nhất trong số đó, nhưng vẫn khó đảm bảo là không có kẻ khiêu chiến không tự lượng sức.

Nhưng những kẻ tấn công quá quả quyết, quá thần tốc, nên khi lính do thám nhìn thấy bóng người của họ, giục ngựa quay về báo tin, cũng chỉ nhanh hơn họ một tuyến đường nhỏ. Có người chỉ vào nơi như bị cả bầy sói thảo nguyên hung dữ nhào vô và hét lớn:

- Chính là chỗ đó, chính là chỗ đó!

Gia Tư Bố cưỡi ngựa nhìn về phía xa xa, chỉ thấy vạn con ngựa phi nhanh, phóng nhanh mà tới, khí th như mũi tên sắc nhọn lao nhanh về đích.

Gia Tư Bố vừa kinh ngạc vừa thấy kỳ lạ: Đây là quân của ai? Thanh Hải là nơi giao nhau của hai động mạch chủ: con đường tơ lụa và Đường Phiên cổ đạo, cho nên ở đây có rất nhiều nhân chủng, người Ả Rập, người Ba Tư, người Salir, người Hồi, còn có người Tây Tạng, người Duy Nhĩ Ngô, người Thổ Phiên. Nhưng vì bộ lạc của họ quá phân tán, không hề có một tổ chức thống nhất, không thể tập hợp thành một đội thiết kỵ phối hợp nhịp nhàng, khí thế như hổ thế này được.

Các chiến sĩ trong các lều Mông Cổ đều đã leo lên lưng ngựa, vội vã phi đến lều lớn trung tâm của y. Chỉ một lúc sau, sau lưng y đã tập kết được hơn sáu ngàn chiến sĩ, gần xa còn có chiến mã không ngừng chạy tới.

Gia Tư Bố cười một cách hài lòng. Chiến sĩ hợp chuẩn dưới trướng y ít nhất cũng có một vạn người, sau khi tới Thanh Hải, lại thu nạp thêm một số bộ lạc nhỏ tản cư như Thát Đát, Ngõa Lạc, thậm chí còn thu nhận một số dũng sĩ Thổ Phiên.

Từ khi có được Hoàng hậu Mãn Đô Hải một cách kỳ tích, Gia Tư Bố như hổ thêm cánh, lợi dụng uy vọng của nàng không ngừng sai người đi du thuyết những quý tộc phụ thuộc bộ lạc của Bá Nhan Khả Hán, truyền nhiều tin đồn bất lợi đối với Bá Nhan. Cho nên, lại lần lượt có một số bộ lạc lặng lẽ đầu quân cho y. Chiến sĩ của y bây giờ ít nhất cũng một vạn năm ngàn người, là lực lượng mạnh nhất Thanh Hải.

- Các dũng sĩ, xông lên, cho bọn xâm lược đó không còn đường về, dùng thân xác của họ bón cho thảo nguyên của chúng ta thêm phì nhiêu. Giết!

Gia Tư Bố cưỡi một con ngựa Thanh Hải cao to cường tráng, rút loan đao ra ra lệnh tác chiến.

Gia Tư Bố cao to anh vũ, khuôn mặt đen, hình dáng mặt sắc nét như dao cạo, cưỡi trên con Phiên Mã cao hơn những con ngựa Mông Cổ khác một cái đầu, vung đao chỉ về phía trước, khí thế hơn người. Hai ngàn thiên phu trưởng đã cầm đao thúc ngựa, tiếng "vâng" vang ngút trời, họ dẫn binh mã của mình reo hò đuổi theo hai cây tiễn Lang Nha Kình mà Gia Tư Bố bắn ra.

Binh mã phía sau cũng xung phong theo, binh mã của đối phương trông như một lưỡi dao, còn đại quân của Gia Tư Bố thì trông như vạn tiễn tề phát, phi nhanh về trước. Khí thế của chúng đủ để nuốt gọn đối phương vào bụng. Chính lúc này, nụ cười nhẹ nhõm trên mặt Gia Tư Bố đột nhiên khựng lại.

Đội quân xông đến từ xa, đang dần hiện rõ trước mắt chúng. Ánh sáng đầu tiên của buổi bình minh chiếu lên đầu của họ. Đầu tiên là một cái cờ lớn, trên đó là hình một cái đầu sói dữ tợn, tung bay trong gi, như muối nuột sống người. Gia Tư Bố đột nhiên cảm thấy tay chân lạnh ngắt: đó là vương kỳ của Đại Hãn Mông Cổ, biểu tượng của gia tộc Hoàng Kim. Người đến là Bá Nhan Khả Hãn.

Bá Nhan Mãnh Khả thân mặc giáp da, đầu đội trụ sắt, râu ria đầy mặt, xông lên trước đội hình. Vương kỳ của y ở ngay sau lưng y. Tin tức tối qua truyền về còn nói Bá Nhan Mãnh Khả đang cướp đoạt ở biên giới Đại Minh. Y... sao y lại ở đây?

Đại quân của Bá Nhan Mãnh Khả nhiệt huyết sôi người, trong mắt chỉ có sát ý lạnh lùng vô cùng. Rõ ràng nhân mã của đối phương nhiều hơn họ, nhưng họ không có tránh tiến công trực diện, sử dụng tấn công bên hông. Đối mặt với địch quân ồ ạt kéo đến, Bá Nhan Mãnh Khả ra lệnh, cây đao sáng bóng loáng vung lên, phản chiếu lại ánh sáng mặt trời.

Tiếng reo hò như sấm rền vang lên:

- Đại hãn chinh phạt kẻ phản nghịch, kẻ đầu hàng tha mạng! Giết!

Đại quân của Gia Tư Bố đều ngây người ra hết, chiến mã vẫn còn đang xông pha, nhanh cánh tay nắm dây cương lại bất giác thắng lại. Gang đao vẫn còn vung lên trong không trung, nhưng đã không còn khí thế ngút trời như ban nãy.

Bọn họ phản bội Bá Nhan Mãnh Khả chưa được bao lâu, tâm lý phục tùng vẫn còn ăn sâu trong tâm trí, tư tưởng gia tộc Hoàng Kim là không thể xâm phục vẫn còn ăn sâu trong đầu họ. Đột nhiên phát hiện, đối tượng tác chiến của họ chính là Đại Hãn mà ngày xưa họ thề nguyện phục tùng. Bọn họ nhất thời cảm thấy mơ màng, không biết nên làm như thế nào.

Nếu sớm biết tin Bá Nhan Khả Hãn tiến quân, nếu như Gia Tư Bố và những tướng lĩnh trung thành với y có thời gian tiến hành tổng động viên, những binh sĩ có thời gian suy nghĩ kĩ càng về tiền đồ của bản thân và gia đình, xem thủ lĩnh mà trước đó họ tôn kính nhất là thù địch. Nhưng bây giờ Đại Hãn đột nhiên xuất hiện, phản ứng đầu tiên trong đầu họ chỉ có phục tùng và tránh né.

Cuộc tiến công hơn vạn người như những cơn sóng lớn động trời biến thành từng đợt thủy triều vỗ nhẹ trên bờ cát của Hồ Thanh Hải. Bá Nhan Mãnh Khả một người một ngựa, tay cầm bảo đao, hét một tiếng, tay vung đao, tiếng "giết" của y như sấm rền. Kỵ binh của y giống như một cây kéo rạch rách một miếng vải đang căng ra, xông thẳng vào trung tâm của các sĩ tốt. Mục tiêu: Gia Tư Bố.

Thiết Kỵ nhanh như chớp, các tướng lĩnh thề chết trung thành với Gia Tư Bố cùng với tộc người thân tín thấy tình hình không ổn, lập tức rút đao thúc ngựa, hò hét xông lên. Loan đao cùng với trường mâu sáng bong chạm vào nhau trong nháy mắt, nhanh như sóng biển phủ lên đá ngầm vậy.

Kỵ binh của song phương tấn công nhau, đều sử dụng chiến thuật đâm xuyên chuyên dụng của kỵ binh Mông Cổ, giống như cây búa cây rìu đục thẳng vào trung tâm trận địa vậy. Các chiến sĩ lão luyện của song phương đều biết cách phối hợp nhau, hỗ trợ nhau. Dũng mãnh như nhau, thiện chiến như nhau, nhưng sĩ khí của binh lính bên Gia Tư Bố, thế nào đi nữa cũng không thể sánh ngang với sáu ngàn tử sĩ này.

Tiếng hí của chiến mã, dòng người lưu động, đao giáo vung lên, mục tiêu của người truy kích chính là cột cờ to hình đầu sói đó, mục tiêu của người xung trận cũng là cây cờ đó. Nó chỉ đi đâu, người xung phong và truy kích đi theo hướng đó. Dưới sự dẫn đường của nó, đâu đâu cũng là những cây kiếm cây giáo đang dốc sức chiến đấu. Không ngừng có người hét lên vả ngã ngựa, cho dù có bị thương hay không, ngã ngựa đồng nghĩa với chết.

- Giết!

Hò hét một cách phẫn nộ, Bá Nhan Mãnh Khả đỏ cả mắt, ánh mắt hung dữ của y nhìn thẳng người thuộc hạ đắc lực cũ. Y thúc ngựa phi nhanh, đao vung nhanh như chớp, chiến sĩ chết dưới tay y nhiều không kể xiết. Gia Tư Bố cũng đích thân tham chiến, cầm đao thúc ngựa, tung hoành trong mớ người hỗn loạn. Ánh mắt của cả hai người chạm vào nhau, nhưng vì người ngựa dày đặc cản trở, nhất thời không thể xông vào nhau.

Trước mắt, không ngừng có ánh đao và giáo vụt qua, không ngừng có cờ và chiến mã lướt qua, không ngừng có bóng người đang chiến đấu cản ánh nhìn của hai bên lại. Nhưng ánh mắt của hai người chưa từng bị những điều này cản trở, họ luôn có thể tìm thấy hình bong của đối phương trong thời gian ngắn nhất.

Bá Nhan Mãnh Khả vung bảo đảo, đá quý xanh đỏ khảm trên thanh đao lóe lên ánh sáng mập mờ, một kỵ sĩ xông thẳng vào y bị chém đôi. Ngay sau đó, y đạp lên ngựa, dồn sức nhảy lên cao, mượn thế ngựa đang phi nhanh, đương đầu chém một nhát mãnh liệt xuống, bổ đôi đầu con ngựa. Máu văng tung tóe, y to tiếng cười, thách:

- Gia Tư Bố, ra đây đấu với ta một trận.

Gia Tư Bố cũng đỏ cả mắt, nghe lời khiêu chiến, nghĩ cũng không nghĩ, rống một tiếng thật to như sét đánh, quay đầu ngựa, cầm chắc gang đao xông về phía Bá Nhan Mãnh Khả. Những chiến sĩ đang chém giết nhau quanh đó bất giác ngừng tay hết. Dưới cột cờ hình đầu sói đó, chỉ thấy ánh đao như chớp, chớp giật sấm rền, thúc ngựa như rồng, hình bong giao nhau qua lại đó, chỉ có đôi kiêu hùng ấy...

*********

Ánh mặt trời sáng như lửa, bên ngoài thành Thái An, tiếng "giết" rung trời.

Khí thế công thành của Dương Hổ đang hừng hực bùng cháy, nhưng thế nào y cũng không ngờ trận chiến lúc bình minh dưới thành Thái An, không phải với quân thủ thành, mà là với các đạo viện quân đột nhiên xuất hiện.

Y tung hoành Sơn Đông, rất hiếm khi gặp đối thủ như thế. Khi y tập kết binh lính công thành, do hành động thần tốc, mà các quan binh nếu muốn điều động thì phải có sự đồng ý của Đô Chỉ huy sứ Ti. Đợi khi Đô Chỉ huy sứ Ti nhận được tin tức, y sớm đã đạt được mục tiêu chạy đi nơi khác. Tốc độ vây đánh của quan binh chưa từng nhanh hơn tốc độ hành quân của y, nên y luôn không gặp một đối thủ xứng tầm.

Lần này vây đánh thành Thái An, đánh hết nửa tháng trời, y cũng từng nghĩ qua triều đình có điều viện quân tới tấn công hay không, nên trên những con đường chính ngoài thành Thái An bốn mươi dặm đều có quân do thám. Một khi có tin tức gì thì ngay lập tức quay về báo tin. Với thực lực và tốc độ điều quân của y bây giờ, bất luận là chiến đấu hay bỏ chạy, đều dễ như trở bàn tay.

Nhưng khả năng này rất nhỏ. Bởi vì binh lính bản địa Sơn Đông bây giờ đều trấn giữ trong các thành trì. Nếu không điều quân từ tỉnh khác, mà điều những nhân mã này đến tấn công y, chính là đang mạo cái hiểm y thoát khỏi vòng vây, phản công những thành trì trống không đó. Y bại trận, cũng chỉ là chết một số binh mã. Triều đình bại trận, mất thành trì, chủ soái tám chín phần mười sẽ vào ngục. Y không tin có ai điên cuồng như vậy.

Nhưng một thằng điên như thế địch thực xuất hiện. Không ngờ Dương Lăng lại điều binh ở tận Thanh Châu đến. Phần lớn quân triều đình đều là bộ binh, theo lẽ thường, đợi khi nhân mã của họ tới, y sớm đã chỉnh đốn xong quân ngũ, mọi người ăn no cơm, hát vào điệu nhỏ, nhàn nhã tự tại rời khỏi. Nhưng điên hơn nữa là, Dương Lăng điều động kỵ binh của các đạo quân đánh đầu trận. Còn đại đội bộ binh ngay cả bóng còn chẳng thấy.

Chi nên khi Dương Hổ nghe được tin này vừa kinh vừa mắc cười. Y thật sự không tưởng tượng nổi, kỵ binh trấn giữ trong các thành trì thường không quá ba ngàn người. Một đội kỵ binh nhỏ như thế thoát li khỏi đại đội, rốt cuộc là đánh trận hay đi tìm cái chết đây?

Nhưng rất nhanh thì y hết cười nổi. Bởi vì binh lính mà Dương Lăng điều tới toàn là kỵ binh, tốc độ không hề chậm hơn quân do thám của y. Khi người của y chạy về báo tin, kỵ binh các lộ quân cũng đồng thời tới nơi.

Nhân mã của họ hầu như đến đích cùng lúc. Họ đến từ những nơi khác nhau, trên những con đường khác nhau, nhưng lại cùng nhau xuất hiện ở cùng một địa điểm. Thậm chí một số nơi ở xa hơn, chẳng hạn như binh mã đến từ Thanh Châu, trên đường không ngừng sử dụng quân lệnh của Tổng đốc Khâm sai, triệu kỵ binh của các thành trì dọc đường nhập ngũ, khi đến thành Thái An thì đã hình thành một toán quân khoảng hai vạn tám ngàn người. Đội quân này lợi dụng địa thế núi cao gần đó, đủ để chống cự ít nhất năm lượt tấn công của Bạch Y Quân.

Từ Gia Lâu, Khâu Gia Điếm, Thái Bình Trang, Lão Tước Khẩu... rất nhanh, họ đã chiếm cứ hết các tuyến đường quan trọng quanh thành Thái An này. Không đợi Dương Hổ phản ứng, lập tức bắt đầu rải đinh, đặt chướng ngại vật, sau đó đào hố bẫy ngựa,... trên đường.

"Binh quý thần tốc", họ đã làm được. Nhưng không nhân cơ hội này tấn công, mà làm ra vẻ trấn thủ như thế là sao? Không lẽ họ mơ tưởng dùng cách hành quân thần tốc của kỵ binh, dùng khả năng cơ động linh hoạt như thế nhanh chóng chiếm cứ các con đường chính, sau đó đặt phòng tuyến đợi bộ binh tới? Có tới kịp không đây? Dương Hổ bị hành vi quái dị của quan binh các lộ làm cho khó hiểu.

Nghĩ hoài không ra, Dương Hổ quyết định không nghĩ nữa. Y quyết định chạy. Đến đâu? Tứ diện bát phương, ngoại trừ con đường tới Tế Nam này trống không, chẳng thấy bong ai, những con đường khác đều có quan binh canh giữ. Lần này, tướng lĩnh dưới trướng y đều cùng chung ý kiến:

- Không đi đường này, nhất định có mai phục!

Đúng là ý tưởng của anh hùng đều như nhau, Dương Hổ cũng nghĩ như vậy. Nếu đã sớm quyết định đi xuống phía nam, đến Giang Nam phát triển. Bây giờ vừa đúng lúc hành động. Dương Hổ quyết định tập hợp quân mình, đột phá vòng thủ ở Thái Bình Điếm, sau đó tìm đường thoát khỏi Sơn Đông, thẳng tiến xuống nam.

Thám mã nhanh chóng quay về báo tin, báo cáo về động thái của đại quân Dương Hổ. Dương Lăng tập kết với kỵ binh thủ thành Tế Nam, bây giờ có khoảng tám ngàn kỵ binh tinh nhuệ, yên tĩnh chờ đợi sau gò đất bên đường. Dương Lăng đứng trên đỉnh đồi, vừa nhìn ánh lửa dưới thành Thái An, vừa nghe báo cáo của thám mã.

Nghe nói Dương Hổ đã ngừng công thành, A Đức Ny vội nói:

- Dương, phát động tấn công ngay đi, dùng ba ngàn kỵ binh của chàng, xé một lỗ hổng, rồi ném lượng lớn thủ lôi nhân cơ hội này ra lệnh cho các lộ binh mã, cùng nhau tiến công, phỉ quân tất loạn!

Dương Lăng mỉm cười, nói:

- Đợi thêm chút nữa.

Chỉ một lát sau,lại ó thám mã đến báo: Trung quân của của Dương Hổ Quân chuyển dịch, xem phương hướng di động, có vẻ như là định trốn đi từ Thái Bình Trang, đội quân công thành đang lui về sau tập kết.

Lần này, ngay cả hai vị tướng quân du kỵ thống lĩnh kỵ binh cũng sốt ruột luôn. Họ đều nhìn Dương Lăng bằng con mắt nóng lòng muốn thử. Dương Lăng mỉm cười phẩy tay:

- Không cần vội, đợi thêm chút nữa.

Kế hoạch của A Dức Ny không tồi, nhưng đội quân tạm thời do các lộ quân tập hợp mà thành có một nhược điểm lớn nhất: Không muốn thống nhất phục tùng, không tốt trong việc chỉnh hợp. Tuy Dương Lăng đã tiên liệu từ trước, và đã ra lệnh trong đội kỵ binh mà các lộ phái tới chọn ra vài vị tướng lĩnh nhậm chức chủ soái. Đây là một sự tập hợp tạm thời, một khi chịu sự phản công điên cuồng của phỉ quân, đội hình có tan rã hay không rất khó nói. Hắn không dám mạo cái hiểm như thế.

Hắn có thể ra sắc lệnh, lệnh cho các lộ viện quân nếu đến giờ mà vẫn chưa tới thì chém chủ tướng, nhưng không thể qui định một cách không nói lí lẽ: bất kì lộ viện quân nào thất bại thì chém chủ tướng, như thế được. Trận đầu tiên, nhất định phải để hắn đánh, thắng đẹp thắng nhanh rồi, đánh cho con hổ xuống núi thành con chó rụt đầu chạy, các lộ viện quân sẽ từ lũ chó quèn biến thành bầy sói dữ.

Thay da dổi thịt, bắt nguồn từ sĩ khí, cái quân Minh thiếu chính là sĩ khí. Nhìn kỹ thì sẽ thấy, ngoại trừ thiết lỵ dưới trướng hắn nghiêm túc bình tĩnh, quan binh Đức Châu và Tế Nam nhìn sao cũng thấy hồi hộp lo lắng, đây còn là khi hắn đích thân chỉ huy, vậy thì tâm thái của các lộ quân khác thế nào đây. Thúc giục chúng tấn công, chỉ có thể biến thành một trận đánh tồi.

Nhưng còn Bạch Y quân? Bạch Y Quân thì tính là quân gì?

Khóe miệng Dương Lăng cười lạnh một cái, hắn thàn nhiên nói:

- Chúng có thể chiến đấu một cách tàn độc, nhưng không thể chiến đấu ác liệt. Đậy là hai việc hoàn toàn khác nhau, vong mệnh đồ tâm địa hiểm ác, nhưng không có nghĩa là chúng không tiếc mạng. Khi chúng cảm thấy tuyệt vọng, cũng sẽ bỏ chạy. Những người có thể chiến đấu ác liệt, tiếc mạng nhưng không sợ chết, luôn không dễ dàng nói thất bại, quân kỷ nghiêm chỉnh như thép. Bách Y Quân chỉ là một đám lưu phỉ, chúng có thể làm được như thế sao?

Dương Lăng chắp tay ra sau lưng, nhàn nhã nói:

- Tân Quý Hỉ, khi quân biên thùy tác chiến, đột nhiên chỉnh đốn quân ngũ tiến hành di chuyển, nếu như có mười vạn người, cần bao nhiêu thời gian?

Tân Quý Hỉ là thống lĩnh ba ngàn thiết kỵ của hắn, một trong những quân du kích trong đội quân biên thùy. Y ngẩn người, suy nghĩ một lát, mới cẩn thận trả lời:

- Từ lúc quân lệnh được thông báo đến toàn quân, tập kết chỉnh đốn xong, cho đến tháo lều nhổ trại...khoảng một canh giờ.

Dương Lăng cười cười, nói:

- Quân biên thùy được huấn luyện kĩ càng, mười vạn đại quân tập kết còn cần một canh giờ, huống hồ đám hãn phỉ không biết quân kỷ này? Công thành không hạ, khí thế đã yếu; đột nhiên biết mình bị vây đánh, quân tâm không vững; tập kết quân một cách gấp gáp, đột hình tất loạn! Trên có ý rút lui, dưới có ý bỏ chạy, lúc này đâm thêm một nhát vào tim chúng, hừ hừ!

Ánh bình minh đầu tiên đã chiếu tới trên đỉnh núi, cảnh vật trước mắt đột nhiên sáng lên, cây xanh núi biếc, thật là đẹp lạ lung. Ngay sau đó, ánh dương quang đầu tiên này bị mây che mất, ánh sáng vừa lóe lại chợt tắt.

Dương Lăng ra lệnh:

- Du kích Tân, lệnh cho người của ngươi xung phong, nhân lúc đại quân của chúng đang tập kết, không thể triển khai đội hình tấn công hiệu quả, nhanh chóng rạch một đường ngay bụng của chúng. Sau khi vào trong rồi, ném thủ lôi ra khắp nơi, nổ cho chúng tanh bành! Một doanh loạn thì toàn doanh loạn, trăm ngựa kinh tất vạn ngựa kinh. Đến lúc đó, chúng ngoại chạy tán loạn ra, thì không cò có thể phản kích một cách hiệu quả nữa rồi.

Tân Quý Hỉ ôm quyền, nghiêm nghị nói:

- Tuân lệnh!

Ngay lập tức tay phất chiến bào, sải bước xuống núi. Trên giáp của y có thêu một cái túi vải kì lạ, chia ra làm nhiều ngăn, trong mỗi ngăn đều để một hang ống gỗ nhỏ. Chúng lắc lư theo bước chân của y, trông có vẻ khá nặng.

Bành Tiểu Dạng ôm thùng thuốc súng màu đen, ảo não liếc nhìn Dương Lăng, thấy hắn căn bản không chú ý đến mình, cũng rón ra rón rén đi theo.

Dương Lăng lại triệu tướng lĩnh của hai toán quân Đức Châu và Tế Nam, bàn bạc với hai người hồi lâu, hai người này mới nhận lệnh rời khỏi. Dương Lăng mỉm cười nói với A Đức Ny:

- Đi, chúng ta lên cao hơn nữa, có thể thấy rõ hơn...

- Thấy... thấy cái gì?

- Thấy mười vạn đại quân như núi đổ!

- Ai, chàng thì yên tâm thật đấy, muội cứ thấy số quân tiên phong hơi ít.

A Đức Ny nhẹ nhàng than thở.

Dương lăng không xem nó là vấn đề:

- Có gì đáng lo? Đánh trận không chỉ xem quyền cước binh khí, quân nhu tiền lương, còn đánh tâm lý, đánh nhân tính. Huynh cũng là quan sát, nghiền ngẫm bọn hưởng mã đạo này, phong cách tác chiến của Bạch Y Quân, tố chất binh sĩ dọc đường đi, nên mới khẳng định như vậy.

Dương Lăng nắm bàn tay nhỏ bé ấm áp mềm mại của người phụ nữ lên, dương dương đắc ý nói:

- Hơn nữa, nhất ngôn nhất hành của chủ soái thống binh đều nằm trong mắt bộ hạ hết, cho nên càng lâm vào đại chiến, càng phải trấn tĩnh. Nàng xem, ngọn núi cao bên đó là ngọn núi cao nhất trong thiên hạ: Nhạc Thái Sơn. Người làm chủ soái, phải có tâm lý: núi Thái Sơn sụp đổ ngay trước mắt mà mặt không biến sắc.

- Bùm ~ bùm ~~!

Một tiếng nổ kinh thiên động địa vang lên, mặt đất dưới chân cũng rung chuyển. Vừa hay cụm mây dày đặc trên trời tản ra, vạn ánh dương quang xòa xuống mặt đất, cảnh vật trước mắt sáng hẳn lên, trông cứ như là sấm sét làm cho trời rung chuyển đến lộ ra một kẻ hở.

Dương Lăng nắm lấy cánh tay của A Đức Ny, thất kinh hỏi:

- Đây... đây là âm thanh gì?

---------oOo----------

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 376: Sét đánh mây tan

Ba nghìn kỵ binh của Du kích Tân đã quen với tiếng đại pháo. Nhưng để giảm thiểu cảm giác sợ hãi của chiến mã, họ vẫn nhét đầy lỗ tai của chiến mã, để phòng chúng bị thủ lôi làm cho kinh sợ.

Trời vừa sáng trưng, ba ngàn thiết kỵ theo chiều gió sớm, theo ánh triều dương xông thẳng vào đội Bạch Y Quân đang chỉnh đốn đội hình và rút lui, như dòng nước lũ chảy xiết không gì đỡ nổi. Ánh đao sáng rực, rậm rạp như rừng.

Không ngoài dự đoán của Dương Lăng, công thành không được không quan trọng, nhưng sau đó lại lập tức toàn quân di chuyển, mà không có lấy một giải thích hợp lý cho binh sĩ hoặc không có thời gian giải thích, thì đối với một đội quân chưa từng được huấn luyện quy củ mà nói, là làm mất đi nhuệ khí của họ một cách nặng nề, khiến họ suy đoán lung tung.

Nhất là vì thời gian cấp bách, quân Dương Hổ tập kết một cách rất gấp gáp. Đội quân đang công thành sớm đã không còn giữ được trận hình. Bây giờ vì muốn quay trở về đội của mình, ai ai cũng đi đi lại lại, binh không kiếm được tướng, tướng cũng chẳng thấy binh đâu, trông hỗn loạn cực kỳ. Sĩ quan thì lớn tiếng quát, chửi chửi bới bới, ra lệnh cho sĩ tốt.

Một số sĩ tốt nghe tin đại quân triều đình đang bao vây tứ phía, nhưng lại không biết tình hình cụ thể, các tướng lĩnh của Dương Hổ quân cũng không hay trao đổi thông tin chi tiết với các binh sĩ. Do không hiểu rõ tình hình, lại thấy các tướng lĩnh từ cao đến thấy đều khẩn trương ra lệnh cho quân của mình tập kết di chuyển. Vô hình trung, số lính triều đình trong tình thế bất lợi trước mắt bị các binh sĩ khuếch đại rất nhiều lần, thậm chí đến mười lần.

Kỵ binh của Tân Quý Hỉ phát động tấn công ngay trong tình huống như thế, đột nhiên xuất hiện trước mặt Bạch Y Quân. Thiết nghĩ bổn gia của Du kích Tân, Tân Khí Tật, năm xưa dẫn theo năm mươi khinh kỵ đột kích đại doanh của quân Kim, bắt sống Hán gian Trương An Quốc rồi vô sự quay về, cũng chỉ là như thế. Bọn họ đường đường hoàng hoàng xông vào trong đội ngũ của Bạch Y Quân trong sự ngạc nhiên của chúng, trong sự kinh ngạc đến khó tin của chính họ.

Từ khi đạt tới qui mô năm vạn người, Dương Hổ quân không còn áp dụng phòng thủ nữa, dù cho "lấy công làm thủ" có lộ sơ hở cũng mặc kệ. Lúc trước chỉ là những toán quân nhỏ, cho dù bị tấn công cũng có thể linh hoạt cơ động để tấn công hoặc tránh né. Nhưng một đội quân đang di chuyển lớn đến thế này, bị địch đột kích ngay khi hỗn loạn thế này cũng là lần đầu tiên.

Vả lại đói thủ còn là thiết kỵ thuộc quân biên thùy hiếu dũng thiện chiến nhất Đại Minh. Trong những lúc thế này, không ngờ chúng lại phạm hai lỗi lầm cơ bản nhất: một là quân đội chưa tập kết hoàn tất, mà chủ tướng trung quân đã nhổ trại đi trước. Tư duy của Dương Hổ là đại ca xung phong lên trước, làm gương cho đàn em theo sau. Nhưng nếu thế thì quân đội đang hỗn loạn bỗng gặp chuyện gì ắt sẽ như rắn mất đầu. Hai là khi đại quân di chuyển, không có để lại đội quân tâm phúc có sức chiến đấu mạnh nhất, và cũng đáng tin cậy nhất đoạn hậu phía sau.

Các đội kỵ binh của Minh quân lập phòng tuyến trên các tuyến đường giao thông quan trọng, đường Tế Nam này lại bày bố nghi trận, không thấy một binh một tốt. Những hành động này làm cho Dương Hổ nghĩ sai rằng: quân Minh phải đợi tới khi bộ binh tới rồi, mới xây một vòng tuyến quanh bốn phía thành Thái An vây chúng ở bên trong.

Một chủ tướng thiếu thốn kiến thức quân sự cơ bản như thế, lãnh đạo mười vạn quân, lại còn dùng cách đánh năm xưa của ba ngàn sơn tặc. Cứ như thế chỉ huy quân mình tới nước hỗn loạn thậm tệ như thế, hoàn toàn không thể thực hiện phản công một cách hiệu quả.

Nhìn thấy tình cảnh như thế, Du kích Tân cũng không khách sáo, ba ngàn thiết kỵ vừa kích vừa đá, mã đao chém ngang bổ dọc. Họ không hề ngừng nghỉ, cả đội xếp thành hình chùy, xông vào đại quân Dương Hổ huyên náo giết ra một con đường máu, cứ như là đang chặt thịt heo vậy. Họ tiến thẳng vào bên trong lòng địch.

Cảnh tượng hôm nay rất ứng với câu" con hổ lọt vào đàn dê". Bạch Y Quân tuyệt đối không phải bầy dê chờ chết, nhưng tình hình bây giờ ngay cả thần tiên sống cũng không có cách chỉ huy quân đội phản kích.

Người thì đang nhổ trại, người thì đang cột lương khô lên ngựa, người thì đang băng bó vết thương, người thì vừa mới từ trên chiến trường xuống chưa kịp ăn cơm đang ôm dưa, khô lương khô nhai ngấu nghiến, người thì đang đi tới đi lui nghểnh đầu tìm cờ chủ tướng của mình. Vả lại người này người nọ chen chúc nhau, khi vòng ngoài bị Tân Quý Hỉ xé rách xông thẳng vào một cách đột ngột như thế, rất nhiều người vẫn không biết đang xảy ra chuyện gì.

Nơi ba ngàn khinh kỵ đi qua, đều giống như lớp đất màu mỡ vừa được cày bới qua. "Lớp đất" phía sau "cái cày", bị xới tung lên về hai phía, con đường chính giữa thẳng tắp, bên trong nhuốm màu máu đỏ.

Du kích Tân lặng lẽ tính toán vị trí. Y vốn định giết thẳng vào giữa bụng của đại quân Dương Hổ, nhân lúc hỗn loạn xung kích thẳng tới vị trí hậu phương. Nếu gặp sự truy kích mãnh liệt, thì rút về, đến ngoài rìa đại quân thì ném thủ lôi vào trong. Nếu không làm vậy thì sức mạnh đáng sợ của cơn lũ kinh hoàng do vạn đại quân tạo ra, không phải sức người có thể đỡ nổi.

Nếu xảy ra cục diện như thế, ba ngàn kỵ binh của y chỉ sợ không chết trong tay quân Dương Hổ, mà sẽ bị vó ngựa của thiên quân vạn mã đạp chết. Nhưng không ngờ tấn công vào trong lại thuận lợi đến khó tin như thế. Du kích Tân tự tin hẳn lên, quyết định đi vào dòng người giết thẳng qua bên kia, đến phía bên kia rồi mới ném thủ lôi.

Đại quân Dương Hổ xếp thành đội hình hẹp và dài, vây quanh thành, hướng về phía Thái Bình Trang. Thiết kỵ của Du kích Tân giống như một đinh, chọc thẳng vào đại đội của y, giết thẳng qua phía đối diện. Bạch Y quân phía trước còn chưa biết rõ tình hình, thì đã nghe tiếng kêu thảm khốc của cả người lẫn ngựa. Khi quân của Du kích Tân gần giết tới phía trước, Bạch Y Quân ở hậu phương tức tốc đuổi theo, và đang giao chiến với hậu đội của Du kích Tân.

Du kích Tân nhìn thấy khoảng đất trống ở phía trước không xa, trong lòng thầm mừng: chỉ cần xông lên phía trước thêm ba mươi trượng nữa, là có thể ném thủ lôi được rồi, đám Bạch Y Quân ngạo mạn, đồ dân quê không biết trời cao đất dày, cho chúng bây nếm mùi lợi hại của vũ khí mới này.

Lúc này, Bành Tiểu Dạng dẫn theo hơn hai mươi thân binh xông tới góc đường, chỉ thấy Bạch Y Quân người ngựa tan hoang, còn quân của Du kích Tân thì như phong ba bão táp, đã không biết đi về đâu. Bành Tiểu Dạng không khỏi thầm tặc lưỡi.

Y là anh hùng trên nước, hảo hán của Nam quốc, nên thuật cưỡi ngựa rất tầm thường, nên chạy mãi mới tới đây. Với tài nghệ của mình, y cũng không sợ gì Bạch Y Quân, nhưng kêu y cưỡi ngựa xông vào đội quân nhìn không thấy biên giới này, y cũng không có gan.

Bành Tiểu Dạng nhảy xuống ngựa, nhét một quả thủ lôi dạng bự vào trong ống bắn, một thân binh bên cạnh lo lắng nói:

- Tướng quân, người... biết xài cái thứ này không?

Bành Tiểu Dạng nói như không hề để ý:

- Yên tâm, lúc A Đức Ny cô nương dạy Bắc quân trên giáo trường, ta đứng ngay kế bên. Cái này dễ lắm, dễ hơn cầm tay lái trên thuyền nhiều. Ngươi tránh xa chút, phía sau nó phun lửa ra đó...

Mấy thân binh vừa nghe, lập tức tránh ra hai bên. Bành Tiểu Dạng khiêng ống pháo lên, ngắm trái ngắm phải, thấy trước mắt toàn là người với người, cũng không biết bắn vào đâu. Lúc này một thân binh chỉ cột cờ nằm ở hướng bên phải trong quân, rồi nói:

- Tướng quân người xem, quân kỳ của Dương Hổ. Bắn nó đi, người ta thường nói chém tướng cướp cờ mà. Tướng không chém được, bắn gãy cờ của chúng cũng là một đại công.

Bành Tiểu Dạng nghe xong, thấy cũng có lý, vội đứng thẳng dậy, khiêng ống pháo trên vai, nhắm thẳng cột cờ trong quân ngũ kia.

Lúc này Bạch Y Quân trong cơn hỗn loạn này cũng đã phát hiện hai mươi mấy tên quan binh thậm thà thậm thụt đứng ở đằng xa. Chúng cũng không xông lên phía trước, mà còn xuống ngựa, đứng đó chỉ chỉ trỏ trỏ. Người đứng đầu chắc là tướng quan, đang khiêng cái ống khói trên vai không biết dùng để làm gì. Cho nên họ lập tức cầm cung bắn tên, tiếp đó bọn chúng.

- Tướng quân, cẩn thận, có tên.

Thân binh vội vã cảnh báo.

Bành Tiểu Dạng vừa mới châm ngòi ống pháo, nghe tiếng của thân binh liền khuỵu xuống một cách vô thức. "Bùm" một tiếng, một cái thủ lôi cỡ đại bắn ra khỏi ống pháo, ngả ngả nghiêng nghiêng bắn về phía Bạch Y Quân, cách xa cái cột cờ tới mấy chục trượng.

Bành Tiểu Dạng thầm ảo não, quăng cái ống pháo đi rồi đứng dậy, rút vũ khí ra, giận dữ quát:

- Mẹ nó, tên khốn nào phá hỏng chuyện tốt của ta thế?

Vừa dứt lời, một tiếng nổ đinh tai điếc óc chấn động màng nhĩ vang lên, ngay cả mặt đất cũng rung chuyển. Cảm giác lắc lư y như đang ở trên thuyền, "leng keng", Bành Tiểu Dạng làm rớt mất vũ khí, mồm miệng há hốc nhìn về đằng xa, thì thấy chỗ thủ lôi rơi xuống có một đám khói đen dày nổi lên, dư sóng của vụ nổ làm cho hơn hai mươi người và chiến mã quanh đó, và vài cái xe đã nát bét bay lên không trung khoảng mười lăm sáu trượng.

Bành Tiểu Dạng lắp bắp nói:

- Không đúng, lúc ở giáo trường đâu thấy nổ lớn như vậy, sao còn lợi hại hơn cả đại pháo thế này.

Một thân binh cạnh đó nơm nớp lo sợ:

- Tướng... tướng quân, đừng nghĩ nữa, chạy... chạy mau đi, đàn ngựa điên rồi.

Sau một khắc im thin thít, từ trong đội Bạch Y Quân truyền ra tiếng vang khủng khiếp, đó là tiếng hí đồng thanh của hơn vạn con chiến mã. Sau đó, bầy ngựa điên lên, không phân biệt trái phải trước sau, điên cuồng mà chạy, mà va vào nhau, giống như những con sóng dữ bị kẹt giữa bãi đá ngầm đang liều mình chèn ép, đánh tan bất cứ thứ gì có thể.

Mấy con chiến mã ngoài rìa tìm thấy đường ra trước nhất, bắt đầu bỏ chạy tứ tung. Mấy trăm con chiến mã mặc kệ tất cả, liều lĩnh phóng đi nơi khác. Có một số con còn có kỵ sĩ trên lưng, một số con thì ngay cả chủ mình cũng đã hất luôn xuống đất. Cái không khí điên cuồng này khiến cho nhưng người chưa từng thấy qua bao nhiêu đây con ngựa lớn phóng về phía mình như Bành Tiểu Dạng và thân binh thủy phỉ lập tức luống cuống cả tay chân.

- A? A! Chạy mau!

Bành Tiểu Dạng hét lớn một tiếng rồi quay đầu bỏ chạy. Y phóng lên thân ngựa, một tay nắm dây cương, một tay liên tục vỗ vào mông ngựa, hai chân vừa kích vừa đá. Con ngựa đó bị tiếng nổ làm cho hết hồn, bốn vó ngựa như cắm chặt xuống đất, không hề nhúc nhích.

Rồi tiếng ngựa hí, tiếng vó ngựa rầm rập, mấy mươi con chiến mạ chạy vụt qua y, giống như một trận cuồng phong vậy. Lúc này, ngựa của y mới như tỉnh thần, hí một tiếng dài, phóng theo sau đàn ngựa. Bành Tiểu Dạng hét lớn một tiếng. Từ xa nhìn, cơ thể của y không ngừng lắc lư trên yên ngựa, nhấp lên nhấp xuống, giống như chiếc lá cuối cùng trong làn gió thu vậy.

Dương Lăng vội vã đi xuống núi, trong lòng thấp thỏm không yên. Động tĩnh lớn như vậy, không giống tiếng nổ của thủ lôi chút nào.

Thủ lôi do A Đức Ny cải tạo, vừa nhỏ gọn lại dễ dàng theo bên mình, lại có đủ hỏa dược trong đó. Vả lại hỏa dược lúc đó uy lực có hạn, để gia tăng sức sát thương, lớp vỏ bọc bằng sắt bên ngoài không ngừng được làm mỏng, đã tới mức chỉ còn tác dụng là vật bao bọc mà thôi, toàn nhờ vào móc sắt, miếng sắt, đạn sắt bên trong đả thương người, đâu ra động tĩnh lớn đến thế.

Không lẽ là binh sĩ nào bất cẩn, làm nổ tung hết tất cả những thủ lôi trên người? Nổ như vậy, nếu còn dẫn đến những hiệu ứng sau khác nữa, người chịu đầu tiên chắc là ba ngàn thiết kỵ tinh nhuệ của hắn mất.

Lúc ở thành Đức Châu, Dương Lăng đã quan sát kĩ quá trình phát binh, thu binh của bọn hưởng mã đạo này, cũng hỏi kỹ càng đặc điểm tác chiến của những binh lính còn sống và chạy đến Đức Châu từ các huyện khác. Thế công mãnh như hổ, thế thủ thì phân tán, biến trận, di chuyển hoàn toàn không theo quy tắc gì cả, giống như đang tháo chạy vậy.

Cho nên kế hoạch ban đầu của hắn là các lộ kỵ binh đặt vòng vây, bày hư trận, buộc Dương Hổ thu binh di chuyển, lợi dụng lúc y tập kết quân đội, trận hình vừa lớn vừa loạn mới tấn công từ bốn phía, và đột phá. Từ khi có được thủ lôi đã qua cải tiến của A Đức Ny, Dương Lăng quyết định thay đổi kế hoạch gốc một chút xíu, lấy thủ lôi làm mồi dẫn, biến lượng lớn chiến mã của Bạch Y Quân làm vũ khí.

Lợi dụng thủ lôi làm cho chiến mã của Bạch Y Quân điên lên. Một khi chiến mã trở nên tán loạn, lương lớn chiến mã mà chúng dùng để đối kháng quân triều đình, sẽ phát huy uy lực của mười vạn đại quân tinh nhuệ. Dòng người xô đẩy, vót ngựa điên cuồng, chà đạp lên nhau, cũng đủ để cho Bạch Y Quân tập trung nhiều người và ngựa như thế tan rã. Thiệt hại của phía quân triều đình, nói không chừng có thể giảm tới tỉ lệ nhỏ nhất.

Do vận hành thích đáng, với cái giá nhỏ đến không ngờ, làm kẻ địch tổn thất gấp mười lần. Không phải chưa từng có tiền lệ rằng địch quân nhiều hơn mấy chục lần. Trận chiến "Thổ Mộc Bảo", Thái sư Ngõa Lạt cũng không quá ba vạn người, năm mươi vạn quân Minh bị y đánh tơi bời. Máu chảy thành song, xác chất thành núi, bình quân mỗi tên Thát Tử giết chết hơn mười quan bình, nhưng thương vong bên của y lại rất rất ít. Cho dù đội hình quân Minh tan rã tháo chạy, không lòng dạ nào chiến đấu, người của Dã Tiên cũng chỉ việc đuổi giết một đám người chạy nạn chỉ lo tháo chạy, không hề biết phản kháng.

Nổ doanh trại là một việc mà bất ì đội quân kỉ luật nghiêm minh nào cũng bó tay, chứ đừng nói tới quân Dương Hổ không hề có kỉ luật. Cho dù là Thiết kỵ có quân kỉ nghiêm minh nhất, một khi nổ trại, cũng chỉ là thiên quân vạn mã tương tàn, chà đạp lên nhau. Dù cho Tôn Võ có tái thế cũng bất lực. Nhiều thủ lôi như thế còn không bằng một tiếng rống năm xưa của Trương Phi sao?

Lòng Dương Lăng vốn hết sức chắc chắn, tự thấy phán đoán không sai. Nhân trận chiến này, không chừng còn được trở thành danh tướng thiên cổ lưu danh sử sách. Bây giờ đột nhiên nghe tiếng nổ lớn như thế, lòng hắn không khỏi thấp thỏm không yên.

Dương Lăng vừa đi xuống chân núi, thì thấy ở phía xa xa, chiến mã phi nhanh, xông qua đây với khí thế cuồng liệt không gì đỡ nổi. Dương Lăng không kịp suy nghĩ, lập tức lên tiếng:

- Lấy đây thừng chắn ngang chân ngựa!

Mấy cái dây thừng ở hai bên đường bị kéo căng ra, không ngờ ngựa phi quá nhanh, liên tiếp làm đứt hết hai cái, sau đó chiến mã mới phóng lên cao, tiếp xuống đất cách đó khoảng một trượng, hất văng tên kỵ sĩ trên lưng xuống đất, khiến hắn bị gãy cả xương. Tiếp sau đó lại là mấy con chiến mã xông tới nữa, lại một phen người ngựa hỗn loạn, tất cả các dây thừng đều đứt hết.

Phía trước còn có các chướng ngại vật chắn ngựa khác, dùng để đối phó với đàn ngựa đang điên cuồng này. Bọn chúng hầu như không hề biết né tránh là gì, quan binh nấp ở bên đường là có thể giết được người. Bạch Y đạo không trả giá, thì đừng mong thoát ra khỏi khu vực chết này. Khi chúng thoát ra khỏi đây rồi, thì cũng đã biến thành một đám tản binh du dũng không có tổ chức, không có đấu chí, còn có thể đối phó với quan binh được sao?

Nhìn thấy đàn ngựa điên này, Dương lăng biết kế hoạch của mình không thất bại, tâm sự cũng nhẹ hơn được một nửa. Nhưng vẫn còn một nghi vấn trong đầu, rốt cuộc là thứ gì có thể tạo ra tiếng nổ lớn đến thế?

Bọn đạo tặc trên ngựa muốn khống chế bọn ngựa điên này cũng đã tốn hết rất nhiều công sức. Hai tay chỉ có thể nắm chặt lấy dây cương, hoặc giả kẹp chặt yên ngựa. Quan binh hai bên đường ung dung dùng súng và cung tên bắn giết cường đạo, hoàn toàn là trận đồ sát của một bên.

Chính vào lúc này, trong đám ngựa liên tiếp chạy tới có người hô lên:

- Đừng bắn! Đừng bắn! Là tôi, là tôi!

Dương Lăng nghe tiếng liền thò đầu ra khỏi tảng đá ẩn thân bên đường. Chỉ thấy trên lưng một con ngựa đang phi như điên, Bành Tiểu Dạng đang dùng hai tay nắm chặt yên ngựa. Chiến mã phi chạy nhấp nhô lên xuống, hai chân của y đã rời khỏi cái bàn đạp, cái mông cũng nhấp lên nhô xuống, giống như là cái bao trên lưng ngựa vậy.

Cũng may y lái thuyền lâu năm, có thể chịu được xóc nảy, hai cánh tay lại sức lớn vô cùng, cho nên mới còn có thể trụ lại trên lưng ngựa. Thân binh của y cũng đã không còn bao nhiêu người, toàn bộ đều nửa đường bỏ ngựa lăn vô lề đường.

Dương Lăng nhớ ra phía trước còn có nhiều chướng ngại vật, không khỏi hét lớn:

- Đừng bắn! Tiểu Dạng, bỏ ngựa mau, bỏ ngựa mau!

Bành Tiểu Dạng thấy không còn kiên trì được nữa, lại nghe tiếng của Dương Lăng, vội thả tay ra khỏi yên ngựa, lăn ra phía ngoài, "rầm" một cái ngã xuống đất, rồi lăn sang hai bên đường. Khi y đang lăn vào lề, một con ngựa chạy từ phía sau lên, đến sát thân thể của y rồi mà vẫn né qua chạy tiếp một cách huyền diệu.

Bành Tiểu Dạng vừa lăn vừa bò đi ra khỏi chỗ đó, đứng dậy với khuôn mặt xám xịt:

- A... đáng sợ quá, thật là đáng sợ quá!

Dương Lăng vội kêu người kéo y vào sau tảng đá bên đường, hỏi:

- Xảy ra chuyện gì vậy, vừa nãy cái gì nổ vậy, sao mà lớn tiếng thế...

- Đáng sợ quá, thật là đáng sợ quá.

Bành Tiểu Dạng gãi gãi cái đầu tổ chim, nói như chưa hoàn hồn:

- Tôi chỉ bắn một phát thủ lôi thôi mà, ai ngờ lại biến thành như vậy. Đồ của A Đức Ny cô nương đáng sợ quá.

Cái thủ lôi mà Bành Tiểu Dạng bắn ra, rơi trúng ngay trên nóc một cái xe ngựa, trên đó là hỏa dược mà Bạch Y đạo thu gom được. Do đạn của đại pháo đã sử dụng hết, nên tạm thời không dùng tới hỏa ược. Bạch Y đạo cũng biết hỏa dược này là đồ tốt, vì vậy vừa nghe lệnh di chuyển, lập tức đem hết chúng lên xe ngựa, định mang theo đi, nhưng không ngờ cái xe đầy hỏa dược này lại trở thành mầm tai họa.

Uy lực khi xe hỏa dược đó phát nổ vượt xa thủ lôi mà Du kích Tân và thuộc hạ của mình mang theo. Nơi vụ nổ xảy ra biến thành một cái hố lớn. Lấy nó làm trung tâm, trong vòng bán kính hơn mười trượng, tất cả Bạch Y quân, xe ngựa, chiến xa đều bị thổi bay lên không trung. Dư chấn của vụ nổ đẩy người ngựa trong vòng mấy mươi trượng ra hết bên ngoài, đè nén đàn áp lên nhau.

Du kích Tân cũng nghe thấy tiếng nổ đinh tai nhức óc đó. Còn chưa kịp định thần, đàn ngựa phát điên do tiếng nổ cũng đã bắt đầu mất tiêu. Chiến mã của quan binh dưới trướng Du kích Tân đều đã quen với tiếng nổ, vả lại còn bị nhét đầy lỗ tai, tuy cũng có chút hoang mang, nhưng cũng đã bị những kỵ sĩ kỹ thuật cao cường khống chế. Nhưng sự xao động của bầy ngựa rất dễ lây sang đồng loại, tất cả chiến mã xung quanh đều gào rú phát điên, chạy như điên. Chúng ảnh hưởng tới ngựa của các quan binh, làm cho những con ngựa này cũng bắt đầu xao động, không chịu khống chế.

Sự chèn ép dồn nén do bầy ngựa nổi điên gây ra, hầu như không ai đỡ nổi. Trước mắt còn có hơn mười trượng cự ly, nhưng đàn ngựa điên chạy tán loạn khắp nơi. Do đại quân đang từ từ di chuyển về hướng tây nam, nên phần lớn chiến mã phát điên theo quán tính đều tăng tốc chạy cả về hướng tây nam. Nếu muốn xuyên qua dòng người điên cuồng như thế, mặc ho họ có chém thế nào đi nữa, ba ngàn kỵ binh cũng sẽ bị áp lực to lớn này đè bẹp.

Du kích Tân thấy tình thế không ổn, chỉ đành hô lớn:

- Thuận theo hướng của đàn ngựa! Thuận theo hướng của đàn ngựa!

Nói rồi, dẫn đầu quay đầu ngựa, tham gia vào dòng người đang lưu động về phía tây nam, đồng thời cũng cầm đao trên tay, không ngừng chém hết những tên chắn đường phía trước.

Những thuộc hạ ở đằng xa hầu như không nghe thấy tiếng nói của y giữa một tràng những tiếng hí, tiếng vó ngựa như thế. Nhưng họ đều là những binh sĩ thân kinh bách trận, vừa nhìn hành động của Tướng quân và những binh lính bên cạnh, lập tức hiểu ran gay. Cho nên họ cũng quay đầu ngựa, hòa nhập vào dòng chảy điên cuồng này.

Để đề phòng bị những con ngựa tăng tốc chen chúc sau lưng đụng phải, mã đao trong tay họ không ngừng vung lên chém xuống, máu văng tung tóe, nhưng đội quân điên cuồng này dường như đã chai sạn. Tình trạng hỗn loạn của cả chiến trường đã không còn ai có thể khống chế được nữa, những tiếng kêu thảm khốc, thấp có, cao có thanh có, trầm có, đan vào nhau tạo thành những âm thanh thê thảm đến rùng rợn. Bộ binh của Bạch Y Quân trở thành nạn nhân đầu tiên dưới móng ngựa trong trận điên cuồng này, người sống sót thì trăm người cũng không thấy một.

Từ Gia Lâu, một tuyến phòng thủ của kỵ binh Thanh Châu.

Nhiệm vụ gốc đột kích đổi thành thiết lập chướng ngại vật chặn kẻ địch. Mệnh lệnh khiến cho thủ quân Thanh Châu thở phào nhẹ nhõm. Lúc dã chiến, khí thế hung tợn không sợ chết của Bạch Y Quân, thiết kỵ xông pha uy phong lẫm liệt, thật sự là khiến họ sợ quá rồi.

Bọn Bạch Y đạo có thể vì cướp một bịch bắp, cậy một cái răng vàng, cưỡng hiếp một người phụ nữ mà lâm trận giết người. Tuy nói nhận lương đi lính thì phải lên chiến trường, nhưng muốn y tác chiến với một đám vong mệnh đồ, trong lòng thật sự là rất sợ. Giống như bây giờ...

Vó ngựa rầm rập như sấm tới, các quan binh đều căng thẳng lên. Họ vội vã chạy vào hai bên đường nấp, rồi cầm súng và cung lên. "Lưu Đại Bổng Chùy cầm cây thiết côn đen thui liếc họ một cái, hừ một tiếng khinh bỉ. Gã vừa gặm một cọng cỏ trong miệng, vừa ung dung đi lên trên sườn dốc, để tiện quan sát tình hình kẻ địch.

Trước mặt có đặt chướng ngại vật trên nửa dặm đường, toàn là chông, gai, bẫy, chặn... Bạch Y đạo có xông qua đây, trước hết phải hóa giải hết những thứ này đã. Quan binh không ngừng bắn tên quấy nhiễu, muốn hóa giải hết đâu phải chuyện dễ? Bọn chúng còn ở xa, thiệt tình, lo cái gì?

Nhưng sự khinh bỉ của Lưu Đại Bổng Chùy lập tức biến thành sự kinh ngạc. Miệng gã càng mở càng lớn, cọng cỏ trong miệng dần dần nghiêng xuống:

- Má ơi, mấy người này điên hết rồi sao? Có đánh trận kiểu này nữa sao? Cái này, vong mệnh đồ cũng không liều mạng đến thê chứ!

Bụi gai, trực tiếp xông qua, không hề lo lắng tới sự tổn thương đối với vó ngựa và chân ngựa. Hàng chắn, xông qua luôn, bị chúng đá tới nghiêng bên này ngả bên kia. Rất nhiều Bạch Y đạo bị văng ra khỏi ngựa khi chúng đang liều mạng phi nhanh mà không hề dể ý, cuối cùng họ bị chà đạp đền nỗi chỉ còn đống thịt nhão nhét.

Cự Mã Thương, chính giữa có một cái trục hình tròn, một đầu được chôn dưới đất, là một thanh gỗ lớn khoảng một cánh tay dài khoảng hai trượng, đầu thương nhọn hoắt nghiêng nghiêng chỉ lên không trung. Đám ngựa đang bôn đằng một cách điên cuồng cứ như là không nhìn thấy vậy, mặc cho kỵ sĩ trên ngựa ra sức kéo cương tới cỡ nào, chúng vẫn cứ lao đầu lên trước. Mũi thương nhọn hoắt đâm thẳng vào lồng ngựcngựa, rồi đầu kia xiên từ lưng ra, những kỵ sĩ không kịp nhảy ngựa bị dâm thẳng vào bụng, cả người lẫn ngựa đều bị xiên chặt vào nhau.

Khu vực hố lấp ngựa cũng một cảnh tượng người đổ ngựa ngã. Chân ngựa bị bẻ gãy một cách dễ dàng, chiến ngựa bị thương và đám cướp bị té ngã hay bị đè đều lăn lộn dưới đất một cách đau khổ. Nhưng chúng cũng chẳng đau khổ được bao lâu, vì phía sau liên tục không ngừng có kỵ sĩ lại xông tới, đạp chúng dưới chân. Bọn chúng ngang nhiên dùng mấy trăm, thậm chí mấy ngàn nhân mạng lấp thành một con đường trong nháy mắt.

Dây cung trong tay quan binh phát ra âm thanh, rồi mũi tên bắn sà xuống như mưa. Bọn cướp kẹp chặt thân ngựa để không bị hất xuống, cơ bản là không tài nào phản kích. Người có thân thủ cao minh còn có thể ẩn thân, còn người thân thủ kém thì chỉ còn nước trơ mắt nhìn mình bị bắn chết.

Chưa từng gặp qua cách đánh trận kì lạ như thế bao giờ, cũng chưa từng giết người mà nhanh gọn như cắt rau cắt thịt như thế. Một số binh sĩ thậm chí còn giết đến mỏi cả tay. Tình hình như thế cùng lúc diễn ra trên các đường giao thông yếu đạo.

Người của Du kích Tân đã không còn có thể vung đao chém người được nữa, một số thanh đao còn cong cả lưỡi đao. Người ngựa chen chúc, tốc độ ngày càng nhanh, bất cẩn một cái là sẽ ngã ngựa chìm trong dòng "nước lũ". Họ chỉ đành thu đao, khống chế gắt gao chiến mã của mình. Quan binh và thổ phỉ cùng chung một con đường, cả hai bên đều nhìn thấy nhau, nhưng không ai có thời gian vung đao. Quân chủ lực của Bạch Y quân kèm cặp, hỗ trợ nhau, xông thẳng ra Thái Bình Trang.

Phía trước đầy mùi máu tanh, cũng không biết đã hi sinh hết bao nhiêu thương vong, mới mở ra một con đường như thế. Vó ngựa đạp lên vũng máu, đống thịt nát bấy, phát ra âm thanh nghe rất kì lạ.

Xông ra Thái Bình Trang rồi, đại đội binh mã chạy thoát tứ phương, lại chạy thêm khoảng hơn hai mươi dặm nữa, những con ngữa điên mới dần bình tĩnh lại. Du kích Tân và thuộc hạ do đã nhét đồ vào tai ngựa từ trước, nên họ là những người đầu tiên khống chế được chiến mã. Họ vừa khống chế được chiến mã lập tức tập họp một cách có ý thức trong lúc chạy. Khi nhân mã của Bạch Y Quân cuối cùng cũng bình tĩnh trở lại, thì người của Du kích Tân cũng đã tập hợp hoàn tất.

Bọn họ cởi áo giáp ra, ca người đầy mồ hôi, trông nhếch nhác vô cùng. Số binh sĩ chết trong lúc xông vào doanh trại kẻ địch và bị chèn ép trong lúc chạy nạn là hai trăm người, còn lại khoảng hai ngàn tám trăm người xếp thành đội hình tấn công, Du kích Tân hô một tiếng ra lệnh thì ngay lập tức tấn công Bạch Y Quân vừa mới bình tĩnh trở lại.

Trận hình của Bạch Y Quân rối loạn, có người còn chưa hoàn hồn, thì bị thiết kỵ của Du kích Tân tấn công, chém giết cả một đám tản kỵ du dũng không hề biết phối hợp là gì. Sau đó, lợi dụng địa hình rộng lớn, Bạch Y Quân hoàn hồn trở lại và bắt đầu tổ chức phản công. Bốn phương tám phía đều là binh sĩ chạy thoát ra ngoài của Bạch Y Quân, chúng đều vội vã tập trung về nơi vang lên tiếng giết rung trời này.

Trải nghiệm chết chóc cực độ, khiến cho những binh sĩ sau sự kinh hãi cực độ nảy sinh một sự dũng cảm bệnh hoạn. Người của Du kích Tân lợi dụng ưu thế bình tĩnh và điều chỉnh đội hình trước, thúc ngựa xông lên như con hổ thoát khỏi chuồng, liều mình chém giết. Lợi dụng cơ hội số người của họ ít, mà Bạch Y Quân thì nhất thời không thể tập họp thành đội hình tấn công hiệu quả, giết hết bên này tới bên kia trong vòng vây của chúng.

Bọn họ dụ đám Bạch Y Quân đang phát cuồng đuổi theo chạy về một hướng, sau đó lại đột nhiên vòng ngược lại, với ý đồ "khuấy đục nước dễ bắt cá". Rồi Du kích Tân nhắm chắc cơ hội, nhảy ra khỏi vòng vây của Bạch Y Quân, nhanh chóng thúc ngựa xông về phía đông nam. Đội ngũ của Bạch Y Quân rất thưa thớt, dù sao mục đích quấy nhiễu Bạch Y Quân cũng đã đạt được rồi, bây giờ chúng mới là đối tượng săn mồi của quan binh, không cần thiết chỉ dùng hơn hai ngàn người này quyết đấu trong vòng vây của kẻ địch.

Y tính rằng đội kỵ binh xông ra đây cùng quân chủ lực này có khoảng ba vạn người. Theo kinh nghiệm chiến đấu của y, Bạch Y Quân chạy thoát mạng trên những con đường khác vốn đã ít, có thể sống sót mà thoát khỏi vòng vây lại càng ít hơn, tổng số người chắc cũng khoảng hơn một vạn. Nói cách khác, mười vạn Bạch Y Quân thí có ít nhất sáu vạn chôn thân dưới thành Thái An. Con số này có thể xem như đại thắng, toàn thắng rồi.

Kỵ binh tinh nhuệ của Ngoại tứ gia quân đều luôn chú ý đến động tĩnh của chủ soái, thấy y vung đao thúc ngựa phi về hướng đông nam, liền lập tức đi theo, xếp thành hình tam giác quật ngựa đuổi theo. Tản kị du dũng của Bạch Y Quân ở hướng đông nam không nhiều, thấy sắp không thể ngăn cản được thế công của họ, thì đột nhiên phía sau vang lên tiếng rống như sấm rền của ai đó. Mấy chục kỵ sĩ điên cuồng chạy tới, người dẫn đầu mặc áo choàng trắng bay phấp phới trong gió, ánh mắt hung hãn như mãnh thú, sát khí đầy mặt như con mãnh hổ sẵn sang xé xác người.

Y không ngừng hò hét, không ngừng quật ngựa. Trong tiếng hí dài của chiến mã, y đã đuổi kịp kị binh của Du kích Tân. Trong một tiếng quát dữ dội, cây trường thương trên tay phải y cứ như là cái lưỡi của con rắn độc, ung dung đâm tới.

Một kỵ binh đứng gần đó nhất lập tức giật ngựa vung đao, chém từ bên hông qua. Một tiếng "keng" chói tai vang lên. Y vốn đã né qua đầu thương, chém vào giữa thân của cây thương, nhưng không biết tại sao lại vừa chém đúng vào đầu cây thương. Cánh tay chấn động mã đao lại vung lên lần nữa, và để lại phần ngực không có gì bảo vệ. Cây trường thương vừa rụt lại vừa duỗi ra, và đâm thẳng vào tim của y, xuyên qua cả lớp giáp da.

Đầu thương nhọn hoắt chưa kịp nhỏ máu xuống, đại hán cầm thương ấy rống một tiếng, chỉ dùng một cánh tay, nâng người đó lên khỏi ngựa. Sau đó, hai tay nắm cán thương, xoay vòng như bánh xe, quẳng xác của người kỵ sĩ cường tráng ấy đi thật xa, rồi hai chân điều khiển ngựa, hai tay cầm thương, tiến thẳng về phía tướng quân Tân Quý Hỉ.

Du kích Tân tận mắt chứng kiến cái chết thê thảm của đồng đội mình, không khỏi trừng lớn con mắt, giật cương thắng ngựa, đột hiên quay đầu ngựa, tay cầm trảm mã đao có lưỡi đao hơi cong, cũng xông về phía đại hán đó.

Vó ngựa rầm rập liên tục, cả hai đều là tướng thiện chiến trên ngựa, lợi dụng và phát huy triệt để đà chạy của chiến mã. Một thương, một đao, chỉ tới khi giao chiến hai người mới đột nhiên bộc phát ra tiếng rống lớn. Khí thế của chiêu này quả thật kinh thiên động địa, mạnh như quả núi; lại mượn lực đạo to lớn khi chiến mã xing kích và lực eo của bản thân, và quan trọng nhất, là người ngựa hợp nhất. Đây là sự dung hợp hoàn mỹ giữa kĩ thuật cưỡi ngựa và võ công, sức mạnh được sử dụng khéo léo đến đỉnh điểm.

Ánh đao như lụa, thương múa như rồng. "Keng" một tiếng, thương đoạn đao vỡ. Hai con chiến mã chạy gần nhau, thanh gỗ dài khoảng ba tấc còn lại trong tay cảu bạch y nhân, "vút" một tiếng xoay ngược lại, đâm ngay hộ tâm kính sau lưng Du kích Tân. Du kích Tân phun ra một ngụm máu đỏ tươi.

Một bạch y nhân khác thúc ngựa chạy về phía này, từ xa gọi với tới:

- Hổ ca, thương này!

Một cán trường thương bay tới.

- Hổ ca? Người này chính là Dương Hổ!

Du kích Tân nắm chặt yên ngựa, thúc ngựa quay đầu, mắt thấy mây đen đầy trời, trong đó một cái bóng trắng phi nhanh đến, cây trường thương trong tay chuyển động như bay, vì tốc độ quá nhanh nên đầu thương phát ra tiếng xé không khí vô cùng chói tai.

- Tướng quân cẩn thận!

Vài binh sĩ thúc ngựa chạy tới, né con chiến mã chạy bán sống bán chết của Du kích Tân, mã đao dựng đứng như núi, chém thẳng xuống đỉnh đầu Dương Hổ. Dương Hổ hét lớn một tiếng, trường thương xoay một vòng trong không trung, mấy cây mã đao bị đầu thương hất đi chỗ khác, sau đó đầu thương như lưỡi con rắn độc đâm thẳng vào ngực của ba kị sĩ, máu phun tung tóe.

Một năm luyện đao, mười năm luyện kiếm, trăm năm luyện thành một cây thương. Dùng thương một cách thành thạo nhuần nhuyễn là khó nhất. Nhưng thương pháp của Dương Hổ quả thật xuất thần nhập hóa, đã tới cực đỉnh. Tiếng thương rất lớn, khiến người ta sợ từ đáy lòng. Cây trường thương trong tay Dương Hổ rất mãnh liệt, có địch không ta, rất ư là uy phong.

- Đừng luyến chiến, chạy đi!

Du kích Tân miễn cưỡng nén ngụm máu sắp phun ra xuống, hét lên một câu. Dương Hổ có dũng mạnh thế nào, thì cũng chỉ có một người, nhưng nếu dây dưa với hắn lâu quá, khi Bạch Y quân ở tứ phía tập họp lại rồi thì muốn chạy cũng không kịp.

Những kỵ sĩ vây đánh Dương Hổ dều bị Dương Hổ đông đỡ tây kích, chẳng mấy chốc đã bị giết chết, chỉ có một người để lại một nhát chém trên tay của y. Nhân cơ hội này, Du kích Tân và những người khác đã chạy xa được hơn hai mươi trượng. Dương Hổ rất hận đám quan binh đã phá hủy đại quân của y, lập tức đuổi theo không tha.

Phía sau có một kỵ binh phi nhanh tới, vừa chạy vừa gọi:

- Hổ ca, quan trọng nhất là tập họp đại quân, nhanh chóng thoát hiểm, đừng đuổi theo nữa!

Dương Hổ cắn chặt răng, không thèm nghe lời, đôi mắt đỏ lên vì giận dữ chằm chằm nhìn đám quan binh đang bỏ chạy phía trước không thôi. Mộc Vân thấy y không nghe, vừa tức giận vừa không ngừng quật roi đuổi theo. Hai người khó khăn lắm mới gần đuổi kịp, thì Du kích Tân và mấy quan binh phía trước đột nhiên liên tiếp ném cái gì đó ra.

- Hổ ca cẩn thận, có ám...

Mộc Vân nói được nửa chừng thì đột đột nhiên ngưng bặt:

- Ném xuống đất rồi là sao đả thương người?

"Ràm, rầm, bùm... bùm...

Tiếng nổ không hề mãnh liệt, nhưng đáng sợ là tiếng xé gió chói tai phát ra từ bốn phương tám hướng. Cho dù có người dùng chiêu "Mạn thiên hoa vũ" phát ám khí, cũng không thể có phãm vi sát thương rộng đến thế được, sức mạnh cũng không lớn như thế.

Cả hai người thất kinh, một người dùng đao, một người múa thương, đợ hết những gì bắn tới từ phía trước. Con ngựa của Dương Hổ thì bị vô số châm sắt mảnh sắt bắn trúng, đau tới la hét điên cuồng. Trong lúc chiến mã nhảy lên nhảy xuống, Dương Hổ chỉ cảm thấy phía mắt trái nhạt nhòa không thấy gì, lấy tay lau thì thấy toàn là máu, lúc này y mới cảm nhận được cơn đau thấu tim này.

Dương Hổ vừa kinh vừa giận, hai tay cầm thương ngửa mặt lên trời hét một tiếng điên cuồng:

- A....!

Rồi hai cánh tay dùng sức, "rắc" một tiếng, không ngờ y chỉ dùng hai tay mà làm cán thương đó gãy đôi ra. Cơ bắp hai cánh tay của Dương Hổ gồng lên, đâm mạnh xuống, hai cán thương gãy đâm sâu vào lưng ngựa. Chiến mã chịu đau, phi về trước ba bước, rồi ngã rầm xuống đất.

Mộc Vân thấy Dương Hổ thần uy đến thế. Dù Sở Bá vương có tái thế, chắc cũng chỉ dũng mạnh như thế. Y không khỏi thầm kinh hãi, vội vã nhảy xuống ngựa, chạy tới đỡ Dương Hổ dậy:

- Hổ ca...

Dương Hổ nhìn y với khuôn mặt nhăn nhúm vì giận dữ và một con mắt máu chảy thịt nát, run giọng nói:

- Ta... mắt của ta...

- Núi xanh còn đó, không sợ không có củi đốt. Hổ ca, quân tử báo thù mười năm chưa muộn. Bây giờ quan trọng nhất là quay về chỉnh đốn quân đội, thoát ly hiểm địa. Món nợ này, chúng ta sớm muộn cũng sẽ đòi lại! Nhanh lên, nếu còn không đi, đến khi quan binh vây đánh, với sĩ khí của chúng ta hiện giờ, không thể chiến đấu được đâu.

Dương Hổ đờ đẫn mặc cho gã giúp y sơ cứu, đờ đẫn mặc gã đỡ quay về, đờ đẫn mặc gã đỡ lên chiến mã. Mộc Vân lên ngựa, cao giọng nói:

- Nhanh, lập tức tập họp quân đội, tăng tốc tới Mã gia phụ, nơi đây không thể ở lại lâu hơn nữa.

Tàn binh Dương Hổ không kịp kiểm kê, liền vội vã leo lên ngựa bỏ chạy. Mộc Vân cưỡi trên ngựa, nhìn đại quân thất bại thảm hại này khẽ thở dài một cái. Khi thắng trận thì khí thế ngút trời, khi bại trận thì như thế này, khó trách phụ thân không hề đồng ý với kế hoạch chiếm cứ Sơn Đông, bắc áp Kinh Sư của y. Đội quân của Dương Hổ chỉ có thể kiêu ngạo nhất thời, nói gì đi nữa đây cũng chỉ là một đám ô hợp mà thôi.

Y cảm thấy bụng mình hơi mát mát, khẽ cúi đầu nhìn, đột nhiên ngẩn người. Bụng y đã nhuốm hết màu đỏ. Máu chảy nhiều thế này từ khi nào thế này? Là máu của người khác sao? Nhưng ta đâu có đích thân giao chiến với địch.

Mộc Vân đưa tay ấn nhẹ bụng mình, hơi hơi thấy đau. Trên áo bào không thấy có vết rách nào. Y đột nhiên thấy hoang mang, vội cởi áo bào ra, lau hết vết máu trên bụng, nhưng tìm nửa ngày rồi vẫn không thấy vết thương đâu, đưa tay sờ nhẹ, mới tìm thấy một chỗ khá đau. Mộc Vân thở phào một cái, xem ra là y bị thứ tạp vật nào đó trong hỏa khí kì lạ đó của đám quan binh bắn trúng, xem ra cũng không nghiêm trọng.

Y thở dài một cái, thầm nghĩ:

- Xem ra, chỉ đành theo kế hoạch của phụ thân thôi. Dẫn Dương Hổ quân tụ hội với Lưu Lục và Lưu Thất cùng nhau xuống Giang Nam, tạo thanh thế lớn cho Di Lặc Giáo ta khởi nghĩa. Lúc đại sự thành rồi, Lý Thế Hào ta chính là đệ nhất công thần trước mặt phụ thân. Còn Dương Hổ...

Lý Đại Lễ giả danh Mộc Vân lạnh lùng nhìn bóng lưng của Dương Hổ:

- Đợi tới lúc những chuyện cần ngươi giúp làm hết, người của ngươi chắc cũng gần chết hết rồi. Lúc đó xem ngươi thế nào?

Bạch Y quân công thành chiếm đất ở Sơn Đông, không gì cản nổi, và đang ngày càng kiêu căng cuối cùng cũng hứng chịu đả kích nghiêm trọng: Một trận chiến binh bại. Quan binh xung quanh thành Thái An tứ diện giáp công, đặt nhiều cạm bẫy. Đại quân phi ngựa giết qua giết lại, mãi cho đến lúc xác người khắp nơi, máu chảy thành song. Bạch Y Quân tháo chạy tán loạn.

Đại quân Dương Hổ tháo chạy về phía tây nam, trên đường không ngừng có quan binh mai phục. Một cây cầu, vừa mới có mười mấy con ngựa đi lên, thì lập tức rầm một cái rớt hết xuống song. Một con đường núi, thì đột nhiên có mưa tên tập kích từ trong rừng. Khó khăn lắm ra tới đường lớn, đại quân định tăng tốc, nhưng không ngờ ngựa vừa nhảy lên, thì đạp trúng thạch lôi mà quan binh mai phục, nổ cho người đổ ngựa ngã.

Điều khiến Bạch Y Quân kinh sợ nhất, chính là loại Thiên Lôi có tiếng nổ không lớn, nhưng miếng sắt móc sắt mánh liệt bắn ra tứ tung. Một khi nó phát nổ, ít nhất cũng mười mấy huynh đệ bị thương. Người chết rồi thì không nói, thê thảm nhất là những người chưa chết, người thì phá tướng, người thì tàn phế, liên lụy tới tốc độ hành quân không nói, còn khiến cho sĩ khí thấp tới cực hạn.

Đã bắt đầu có binh sĩ nhân lúc trời tối lặng lẽ bỏ chạy, Bạch Y quân từng rất ngạo mạn bây giờ chỉ như con chim thấy cung gặp cành cong cũng phát sợ. Quan binh vốn không hề để chúng có cơ hội chỉnh đốn quân ngũ, nghỉ ngơi chiến đấu tiếp.

Quan phủ dọc đường thiết lập những đội quân nhỏ ngăn chặn, tạo áp lực to lớn cho bọn chúng từ trên tâm lý, khiến cho sĩ khí ngày càng thấp. Vả lại không được nghỉ ngơi, đại quân vô cùng mệt mỏi, còn bị gần ba vạn kỵ binh của toàn tỉnh Sơn Đông theo đuôi, đảm bảo chúng không thể dừng lại kiếm chuyện với quan phủ địa phương, không thể đả kích báo thù cướp tiền của. Chúng chỉ có thể chạy, không ngừng chạy.

Vị du kích tướng quân từng bị Dương Hổ hắn đánh tới thổ huyết trong vòng một hiệp, nhậm chức chỉ huy kỵ quân. Chỉ huy kỵ quân phân tiến, hợp kích, đuổi địch, truy sát, bao vây. Tài dẫn binh đánh trận cao hơn gã đâu chỉ một phân nửa phân. Dưới tình trạng phía trước có mai phục, phía sau có truy binh, mười vạn Bạch Y quân tổn binh thất tướng, chạy bán sống bán chết ra khỏi Sơn Đông, hợp quân với Lưu Lục và Lưu Thất thẳng về Giang Nam. Chiến cục đột nhiên thay đổi đột ngột.

Mi lộc có ở Trung Nguyên, người ham muốn ắt có mưu đồ. Có người xua đuổi nó đi theo con đường mình định sẵn, người lập sẵn cái bẫy chờ đợi nó tự mình nhảy vào.

Dương Lăng trông có vẻ không hề tham gia trò đuổi hươu này. Hắn ở lại Sơn Đông thanh trừ nhánh tàn quân của Đậu Hủ Lang. Đậu Hủ Lang là chủ soái hậu quân của Bạch Y Quân. Lúc đàn ngựa trong doanh trại nổi điên, y xông ra ngoài từ con đường Từ Gia Lâu. Sau đó tìm kiếm tập hợp tàn binh bại tướng ở các nơi, được khoảng tám ngàn người, định giết về Thanh Châu, quay về núi Thái Hành Sơn.

Dương Lăng vừa truy diệt nhân mã của y, vừa trấn an lưu dân trên toàn cảnh Sơn Đông, giảm thuế miễn lương, thanh toán những người thừa loạn ăn cướp làm hại bá tánh, thanh lý vấn đề sản quyền không rõ ràng, tranh chấp ruộng đất do chiến tranh, tổ chức quan phủ bố thí cháo, kho1ch lệ lưu dân hồi phục công việc. Quan phủ phân phát thức ăn, nhà cửa vân vân.

Sau chiến tranh, nếu không cứu viện kịp thời, lưu dân ắt sẽ tái khởi chiến loạn. Dương Lăng một nhát đao một cây bút, vừa chặt cỏ, vừa nhổ gốc.

Hồ Thanh Hải lúc này cũng xông vào một con hươu. Các thế lực quan hệ phức tạp chằng chịt ở khắp các nơi trên Thanh Hải: Thát Đát, Ngõa Lạt, Cáp Mật, đều đang lặng lẽ quan sát tình hình Trung Nguyên. Đồng thời, cũng tập trung chú ý đến chỗ đó. Sự lưu chuyển biến hóa của bố cục thiên hạ, đang lặng lẽ bắt đầu.

----------oOo----------

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 377: Vận trù

Bờ hồ xanh biếc gợn sóng, mái đình giữa lòng hồ ngói xanh cột đỏ, bốn góc mái nhọn cong vút lên, tựa như một con chim én đang chuẩn bị bay vút lên trời. Chủ điện to lớn nguy nga, có tiền đường, chiếu bích, hồi lang, trung đường, hoa viên trong tứ hợp viện, hậu đường, vườn hoa phía sau, vườn phụ, phòng ốc kề nhau san sát, vườn uyển uốn lượn, thật đẹp đẽ hào hoa vô cùng.

Trước cửa là một tảng đá xanh to lớn, phẳng lì. Bên dưới đó có cống thoát nước, thông thẳng ra đến con kênh cách cổng trước của phủ Uy Quốc Công không xa. Có một cây cầu bắc qua con kênh đó, nối liền hai tòa phủ đệ với nhau. Với một tòa am đường mà nói thì sử dụng hán bạch ngọc để làm kiến trúc cơ bản; sử dụng một tấm bia cửa cao đến hàng trượng thì chỉ e là có phần quá phô trương. Nhưng Ngụy Bân Ngụy Công công đã nói qua rồi, đây đều là những nguyên vật liệu gỡ ra từ Huyền Minh Cung để mang tới đây, cũng đâu thể đập nát ra làm thành từng món nhỏ được, hao tiền hao sức của nhân dân từ đâu mà thành đây?

Ngụy Công công, một trong bát hổ của năm nào, giờ đây lại biết lo cho dân cho nước như vậy thì Dương Lăng còn gì để nói cơ chứ? Chỉ đành mặc kệ ông ta muốn làm gì thì làm. Trước cửa Hoàng am là một con sư tử đá cao to vô cùng, cũng là được mang từ Huyền Minh Cung tới đặt ở đây. Nếu như cưỡi trên lưng ngựa mà nhìn thì còn không thể nhìn thấy cái bờm của nó đâu, vì cái bệ để đặt nó quả thật quá cao lớn.

Tòa Hoàng am này vẫn chưa thi công xong, vẫn còn nhìn thấy đám thợ làm công đang ra ra vào vào vận chuyển đồ đạc. Dưới gốc cây bạch quả nghìn năm tuổi mới được đem từ nơi khác về trồng ở bên cạnh cửa có ba người đang ngồi ở đó, bên cạnh có đặt một chiếc bàn, trên bàn có ấm trà và bát để uống. Ba người đó đều mặc áo vải xanh bình thường, ngồi trên chiếc ghế nhỏ vừa uống trà vừa nói chuyện. Nhìn bộ dạng của họ thì chắc có lẽ là đám đốc công.

Những người thợ làm ở đây đều phụ trách những phần công việc khác nhau. Người thì phụ trách lầu đình, người thì phụ trách điện vũ, người thì phụ trách giả sơn, người thì phụ trách chăm sóc hoa cỏ, mỗi người một phần công việc khác nhau. Vì vậy nên đám thợ không biết ba người đó cũng không có gì là lạ. Nhưng khi đi ngang qua mặt bọn họ thì ai nấy đều cố gắng tỏ ra vẻ đang làm hết sức.

Ba người đó, một lão nhân tóc bạc và để râu, gương mặt nhân từ thân thiện; một công tử trẻ tuổi, mũi cao miệng rộng, đôi mắt sáng tựa như sao; còn có một người trắng trẻo nõn nà, gương mặt tuy không cười mà như cũng đang có ý tươi vui, tuy đã ngoài năm mươi tuổi nhưng dưới cằm không có đến một sợi râu, xem dáng vẻ tựa như một và lão nhân từ.

Một người đàn ông rách rưới nghèo đói đi quanh quẩn ở đó một hồi, sau cùng mới lấy hết dũng khí tiến lại gần chỗ ba người đó, cười nói:

- Ba vị lão gia, ở đây... có còn tuyển thêm thợ không?

Gã nhìn thấy người đàn ông không có râu trông dáng vẻ hiền lành nhất nên khi nói chỉ hướng về phía người đó. Không ngờ rằng lão nhân xem ra vô cùng thân thiện và không có râu đó tức thì sa sầm mặt, đanh giọng nói:

- Ừm! Ở đây sắp hoàn thiện rồi, không còn cần thêm thợ nữa.

- Ồ ồ, cảm ơn lão gia!

Đôi vai của người đàn ông đó trùng xuống, đáp lại một cách thất vọng.

Gã đang tính quay người bước đi thì chàng công tử trẻ tuổi đột nhiên cười nói:

- Nhị ca, huynh là người Sơn Đông?

Người Sơn Đông khi gặp mặt nhau, nếu là người đàn ông không quen thì sẽ không như những tỉnh khác gọi là đại ca, bọn họ sẽ gọi là nhị ca. Nghe nói đó là vì ở Sơn Đông có hai đại nhân vật nổi tiếng khắp vùng, một văn một võ, hai người đó đều xếp thứ hai trong gia đình. Hai đại nhân vật đó đương nhiên là Khổng phu tử và Võ Tòng.

Gã đàn ông nghèo đói đó thấy chàng công tử gọi mình là nhị ca thì bất giác thấy vui mừng và kinh ngạc lắm, lại cứ ngỡ là đồng hương Sơn Đông bèn vội vàng cười đáp lại:

- Vâng, tôi là người Sơn Đông.

Nói đoạn trong ánh mắt của gã lại gợi lên những tia hy vọng. Mong rằng chàng công tử này nể tình đồng hương mà sắp xếp cho gã một vị trí nào đó.

- Ồ... ở vùng nào Sơn Đông vậy?

- Liêu thành, Đông Xương phủ.

- Là Liêu thành sao, hà hà, mời ngồi, ngồi xuống cùng nói chuyện.

Gã đàn ông nghèo đó không dám ngồi xuống, cười nói:

- Không dám, tôi đứng hầu chuyện cùng công tử và các vị lão gia là được rồi.

Chàng công tử trẻ tuổi đó cũng không miễn cưỡng gã, mỉm cười và nói chuyện với gã một hồi lâu. Hóa ra tổ tiên của người này là người vùng Sơn Tây, thời Thái tổ mới di dân đến Sơn Đông.

Công tử đó cười nói:

- Ha ha, nếu như không có Hồ Đại Hải và đám nhạn bay về hướng Đông thì nhị ca huynh chắc là vẫn ở quê cũ Sơn Tây thôi phải không.

Gã đó nghe xong cũng vui vẻ cười đáp lại:

- Thì đúng là như vậy mà, nói vật thì chắc công tử ngài cũng cũng là đồng hương với tiểu nhân chăng?

Chàng công tử mặc áo xanh đó chỉ cười không nói gì.

Vậy ra năm xưa đã có biết bao nhiêu di dân Sơn Tây ngậm ngùi bỏ quê hương bản quán, bị ép buộc phải rời đi, chính vì vậy nên đem lòng thù hận triều đình. Rõ ràng là vì chiến loạn khiến cho người chết không kể xiết, nhưng bách tính di dân lại đi thêu dệt thành một câu chuyện khác. Nói rằng thuộc hạ dưới trướng Chu Nguyên Chương có một đại tướng tên là Hồ Đại Hải, năm xưa khi phải đi hành khất ở Hà Nam vì bộ dạng xấu xí nên chẳng có mấy người đồng ý bố thí cho y, ngược lại còn phải chịu không ít những lời lăng nhục. Hồ Đại Hải ở Hà Nam đã phải chịu không biết bao nhiêu là khổ nhục, vậy nên trong lòng ôm hận.

Sau này y đầu quân cho Chu Nguyên Chương, liên tiếp lập công, trở thành một đại tướng quân. Sau khi Chu Nguyên Chương đăng cơ thì bèn phong thưởng cho các tướng lĩnh. Hồ Đại Hải chỉ xin được cho phép y quay về Hà Nam để báo thù. Chu Nguyên Chương bèn hạ chỉ cho phép y về Hà Nam, trả thù mối thù xưa.

Khi Hồ Đại Hải đến Hà Nam thì nhìn thấy trên trời có một hàng nhạn chim nhạn bay ngang qua, trong đầu bèn nảy ra một ý nghĩ, y bắn một mũi tên vào đuôi chim nhạn để nó mang theo mũi tên mà bay đi, mũi tên đi tới đâu thì Hồ Đại Hải sẽ giết tới đó. Chim nhạn bay từ Hà Nam đến Sơn Đông, Hồ Đại Hải chém giết đốt phá dọc một dải Hà Nam đến Sơn Đông, khiến cho cả một vùng đó trở nên hoang tàn ngàn dặm, bách tính chẳng còn lấy một ai, triều đình mới buộc phải di dân đến Sơn Đông.

Bách tính muôn dân muốn mượn câu chuyện này để giải tỏa nỗi bất mãn trong lòng của họ đối với triều đình. Nhưng câu chuyện về những người di dân, Hồ Đại Hải và chim nhạn bay về hướng Đông đều là những chuyện đại kỵ. Tuy quan phủ không quá khắt khe với những câu chuyện truyền miệng như thế này, nhưng mọi người cũng chỉ dám truyền tai nhau chứ không có người nào dám công khai kể câu chuyện này ra. Hơn nữa câu chuyện này chỉ có những người bản địa Sơn Đông mới biết, vị công tử mặc áo xanh này ban nãy nói đùa với gã như vậy thì ắt hẳn cậu ta là đồng hương của gã rồi.

Gặp được đồng hương nơi đất khách quê người, cảm động nước mắt rưng rưng hai tròng. Gã đàn ông nghèo khó đó tức thì cũng trở nên thân thiện hơn, thái độ cũng trở nên tự nhiên hơn, gã thuận tay kéo một chiếc ghế nhỏ và ngồi xuống nói chuyện vui vẻ với chàng công tử đó.

Khi Bạch Y Quân nổi loạn ở Sơn Đông, gã bèn dắt theo cả nhà lớn bé già trẻ trở về Sơn Tây. Nhưng tuy nói tổ phụ luôn nhắc đến địa danh đó, nhưng dù gì thì cũng đã rời đi hơn trăm năm rồi, giờ còn lấy đâu ra một người họ hàng thân thích cơ chứ? Không lẽ lại đi nương nhờ người khác sao? Hơn nữa Triệu Toại đang ở Sơn Tây, nơi đó cũng chẳng được yên ổn. Vậy nên cuối cùng thì gã đưa cả nhà vào Kinh.

Chàng công tử mặc áo xanh cười hỏi:

- Triệu Phong Tử nha, nghe nói y ở vùng Sơn Tây không hề công thành cướp trại, mà lại chạy trốn vào Trung Điều Sơn chiêu binh mãi mã, thật có chuyện đó sao?

- Đúng là như vậy. Triệu Phong Tử không lưu manh vô lại như đám Dương Hổ. Y không đi các nơi càn quét cướp bóc, cũng không làm ra những chuyện đại loại như công thành phá trại, chém giết bừa bãi; lại cũng không dựa vào việc mở kho phát lương để thu hút nạn dân. Nghe nói y mở phủ xây nha môn ở trong núi sâu, luyện binh mãi võ, lại còn chiêu nạp lưu manh tứ xứ về trồng trọt. Nay Hồng Nương Tử cũng đã đầu quân về chỗ y.

- Bọn chúng ấy mà, nếu nói là thổ phỉ thì không giống thổ phỉ, còn nếu nói không phải là thổ phỉ thì lại chẳng có chút liên quan gì đến quan binh hết. Tiểu nhân cảm thấy bọn chúng hành động như vậy có cái gì đó không đúng nên mới không dám gia nhập.

Vị công tử đó cười hà hà rồi nói:

- Nhị ca, huynh làm như vậy là đúng rồi. Ừm... Kinh thành có quá nhiều người lưu lạc, muốn tìm được một công việc không phải là dễ. Tuy Sơn Đông đã ổn định lại tình hình, nhưng vụ xuân năm nay đã gặp phải nạn giặc loạn Bạch Y Quân, từ sớm đã bỏ qua vụ mùa, nay người dân tha hương có quay trở về Sơn Đông thì nha môn cũng chưa chắc có nhiều lương thực như vậy để mà cứu tế.

- Vâng, công tử nói đúng lắm, nếu không phải vì thế thì sao tiểu nhân lại không quay về đó cơ chứ?

Gã đàn ông nghèo dứt lời, mặt mày buồn bã tiu nghỉu nói tiếp:

- Nhưng quay về không còn đường sống, ở lại Kinh thành cũng không tìm được công việc để làm, vợ con gia đình của tiểu nhân làm thế nào mà sống được đây?

- Để ta chỉ cho huynh một con đường sống, huynh thấy sao?

Vị công tử đó trầm ngâm một lúc rồi nói:

- Nay triều đình đang khai phá Liêu Đông, xây dựng nông trại, có bao nhiêu người tham gia thì cần bấy nhiêu người. Nơi đó đất đai màu mỡ vô cùng, chỉ cần gieo hạt giống xuống là đến mùa thu có ngay một vụ bội thu. Rừng núi là nơi tốt nhất để nuôi dưỡng con người mà, nào những là gà rừng, hươu béo, thỏ rừng, đôi khi chỉ cần đi dạo trong bụi cỏ thôi cũng có thể bắt được cả một bầy ngay. Huynh ở lại Kinh thành đi làm công, kiếm được từng đó để ấm bụng, nhưng có thể nuôi được cả đời chăng? Theo ta thì nên đi tới vùng Quan Đông, chưa biết chừng còn có cơ đổi đời.

- Đi tới vùng Quan Đông?

Gã đàn ông nghèo tức thì do dự suy nghĩ.

Vị công tử đó khẽ thở dài một cái rồi nói tiếp:

- Nếu huynh chỉ có ý định đi làm công kiếm miếng ăn qua ngày thì kỳ thực có thể ở lại đây tiếp tục sống như vậy. Nhưng còn con cái của huynh thì sẽ ra sao? Huynh định để cho bọn chúng sau này trưởng thành cũng đi theo con đường như cha chúng hay sao? Ở Liêu Đông trồng trọt, săn bắn, làm việc trong xưởng thuyền, nông trại, thậm chí là những công việc buôn bán nhỏ trong chợ đều được coi là những công việc đàng hoàng. Cố gắng vài năm tích lũy cho con cái một sản nghiệp rồi dựng vợ gả chồng cho bọn chúng, sinh ra những đứa cháu bụ bẫm đáng yêu, như vậy có phải tốt biết bao nhiêu không?

Đó là nơi nhận được sự quan tâm của triều đình, đi tới đó sẽ được cấp nhà ở, cấp lương thực, hơn nữa huynh còn không phải tự lo lộ phí. Cổng thành phía Bắc đang dựng một cái trại "Tình nguyện đăng ký di dân", huynh tớ đó báo danh, quan gia sẽ sắp xếp thuyền bè đưa mọi người trong nhà huynh đi, dọc đường đi họ lo chu cấp thức ăn và chỗ ở. Huynh thấy sao?

Vì con cái, lý do này quả thật đã khiến cho gã phải rung động, suy nghĩ môt lát, gã tét đùi một cái quả quyết:

- Công tử nói đúng lắm. Tiểu nhân đã sống cuộc đời ăn mày cực khổ thì không để cho con cái của mình sau này cũng theo bước cha chúng được. Công tử ban nãy nói là ở cổng thành phía Bắc phải không? Tiểu nhân... có đến năm đứa con, chẳng hay nha môn có chịu nhận chúng tôi không?

Vị công tử đó nghe thấy thế buồn cười quá bèn đáp lại:

- Yên tâm đi, huynh chỉ cần đi báo danh là được rồi. Chút lương thực cho cả gia đình huynh triều đình vẫn có thể lo được. Nhưng đến nơi đó rồi thì tất cả phải dựa vào sức của mình lao động để mà có được. Muốn kiếm được tiền thì buộc phải chịu khổ.

Gã vỗ ngực kêu lên thành tiếng rồi cảm kích đáp lời:

- Xin công tử ngài yên tâm, tiểu nhân có sức khỏe và cũng không tiếc sức lực của mình. Giờ tiểu nhân sẽ đi báo danh, sau này nếu như tiểu nhân có cuộc sống tốt hơn thì cả đời này sẽ ghi nhớ ơn của công tử.

Chàng công tử nhìn theo bóng dáng gã đàn ông nghèo đang vội vội vàng vàng rời đi đó khẽ mỉm cười.

Những di dân đăng ký đi đến Nô Nhi Can Đô Chỉ Huy Sứ Ti lúc này đã vào đến đất Hắc Long Giang.

Nô Nhi Can Đô Chỉ Huy Sứ Ti là vùng đất thuộc Hắc Long Giang mà triều đình Đại Minh trực tiếp quản lý, là nha môn cao nhất của lưu vực Ô Tô Lý Giang. Phạm vi thuộc địa bắt đầu từ sông Oát Nan (nay là sông Ngạc Nộn), phía Bắc tới tận bên ngoài Hưng Yên Lĩnh, phía Đông ra đến tận Đại Hải, phía Nam tiếp giáp với sông Đô Môn, Đông Bắc vượt hải mà có Khố Hiệt Đảo. Vùng đất đó là nơi sinh sống của các tộc người Mông Cổ, Nữ Chân, Cát Lý Mê, Khổ Di, Đạt Oát Nhĩ v.v... đa số đều đánh bắt cá để mưu sinh, đại bộ phận đều là thần dân của Đại Minh.

Chư vệ phương Bắc bị Nữ Chân tam bộ và Đóa Nhan Tam Vệ xâu xé. Vùng Nô Nhi Can bị Hải Tây Nữ Chân, Dã Nhân Nữ Chân và Thẩm Dương Vệ phân chia. Thẩm Dương Vệ và Liêu Đông Vệ bị Kiến Châu Nữ Chân và Đóa Nham Tam Vệ tranh giành.

Hiện tại thế lực của những bộ lạc này đang ngày càng yếu đi, hơn nữa cũng chưa có mưu đồ phản Minh. Giữa các Vệ Sở với nhau vẫn chưa có sự liên hệ với nhau, chỉ cần bọn chúng liên kết lại với nhau thì thế lực sẽ càng ngày càng lớn mạnh hơn, từ đó sẽ sinh lòng tạo phản. Đến lúc đó thì vài đại quân doanh bám trụ tại đây ngay lập tức sẽ bị cô lập, bao vây và bị tiêu diệt.

Bước đầu tiên trong kế hoạch di dân của Dương Lăng chính là chuyển thật nhiều người Hán đến Nô Nhi Can Đô Ti, mảnh đất lùi về phía Bắc nhất của triều đình Đại Minh. Số lượng di dân người Hán ngày càng nhiều sẽ làm thay đổi được kết cấu dân tộc trong khu vực Nô Nhi Can Đô Ti, đồng thời cũng sẽ nâng cao một cách đáng kể sức ảnh hưởng của triều đình đối với vùng đất đó.

Hơn nữa Nô Nhi Can Đô Ti nằm sát cạnh Hải Tây Nữ Chân, là bộ tộc lạc hậu nhất trong số ba tộc Nữ Chân, bọn họ chỉ biết đến săn bắn và bắt cá. Những di dân người Hán biết làm ruộng, trồng trọt, để có thể đồng hóa được cuộc sồng bầy đàn nguyên thủy của các bộ tộc Nữ Chân này quả không phải là chuyện dễ dàng gì.

Một mẫu đất có thể thu hoạch được bao nhiêu lương thực? Một mẫu đồng cỏ có thể nuôi sống được bao nhiêu con bò con dê? Những người dân lạc hậu này không phải là những kẻ ngốc, bọn họ chỉ là không suy nghĩ quá nhiều, ngược lại chỉ cần biết đến những món lợi thực tế mà thôi. Chỉ cần việc làm ruộng trồng trọt, chăn gia súc có thể mang đến cho họ nhiều lợi ích hơn thì dân tộc của những kỹ sĩ dũng mãnh thiện chiến bẩm sinh này trải qua hai thế hệ sau sẽ trở thành những người nông dân trung thành chất phác bậc nhất của triều đình Đại Minh.

Ở đây từ sớm đã có những người dân tha hương cầu thực tìm đủ mọi cách để đến được nơi này, còn đây là lần đầu tiên quan phủ tổ chức một cuộc di dân với quy mô lớn như vậy, sau này ắt hẳn những cuộc di dân như thế này sẽ liên tiếp diễn ra...

Trên dòng Hắc Long Giang khí thế hùng vĩ ngút trời này, có đến hơn mười đại thuyền đang ngược sóng ngược gió lướt như bay đến gần. Bên trái là đại bình nguyên rộng lớn ngút ngàn, gió thổi nhè nhẹ, dập dờn những thảm cỏ xanh trải dài một màu xanh ngắt như những con sóng. Bên phải là rừng đại ngàn nguyên thủy vô cùng cô tận.

Những cánh rừng nguyên thủy nhìn từ đằng xa tựa như những chiếc nấm màu xanh mọc lên trên đại bình nguyên rộng lớn, nhưng khi đến gần nhìn thì mới phát hiện ra rằng những gì nhìn thấy được đều là những cây cổ thụ khổng lồ cao hơn mười trượng, cây tùng, cây phong, cây bạch dương, cây sồi... mọc xen kẽ san sát bên cạnh nhau, có những cây phải cần đến sáu bảy người mới có thể ôm được trọn thân cây.

Khi thuyền dừng lại đôi lúc để cho những người trên thuyền lên bờ giải quyết vệ sinh cá nhân, bọn họ được đặt chân vào khu rừng nguyên thủy chưa từng có bất cứ một ai trước đó từng tới, khắp nơi tràn ngập những rau dại, tổ ong, bướm bay lượn vòng quanh, nấm, quả hạt dẻ, vô vàn các loại cây quả dại. Đôi lúc vô ý còn giẫm phải những tổ trứng của chim cút hoặc trứng gà rừng.

Ở đây có rất nhiều thú săn, điều khiến cho bọn họ cảm thấy thích thú nhất chính là những con hươu rừng, bọn chúng dường như chưa từng nhìn thấy người bao giờ. Nhìn thấy những sinh vật khác lạ ở trước mắt, bọn chúng không quay đầu chạy đi luôn mà cứ đứng ngây ra đó nhìn một cách lạ lẫm. Chỉ cần mang theo một quả hạt dẻ đi tới trước mặt bọn chúng là đã có thể tóm gọn được một con rồi. Đám hươu đó từ sau khi có con người đặt chân tới đã có thêm một biệt danh nữa đó là: Hươu ngốc. Nhiều năm sau có người đã dùng cái biệt danh đó để ám chỉ những người ngờ nghệch.

Những con cá lớn trong dòng sông này họ cũng chưa từng nhìn thấy bao giờ, những con cá màu xám, trên người có những đốm đỏ, chỉ cần mở miệng ra là đã nhìn thấy những chiến răng sắc nhọn, nhưng thịt của bọn chúng là có mùi vị vô cùng đặc trưng, rất tươi ngon. Người lái thuyền nói lại với bọn họ rằng đó là cá hồi, loài cá này chỉ ở đây mới có.

Khi thuyền đi đến giữa lòng sông thì cùng với những đợt sóng dữ cứ lao đến tới tấp đập vào mũi thuyền, khiến cho cả con thuyền lắc thật mạnh. Thuyền trưởng đã xuất hiện với một đôi chân trần, tựa như một con cua vậy. Ông ta giẫm lên boong tàu đã bạc màu vì bị phơi nắng, đôi vai lắc lư nghiêng ngả, lảo đảo đi về phía đầu tàu, quay phắt người lại, hướng về phía khoang thuyền hỏi lớn:

- Trên thuyền có người Sơn Đông không?

Liêu Đông Vệ là quản hạt thuộc tỉnh Sơn Đông, vậy nên từ sớm những người có thể vượt Liêu Đông để di cư ra bên ngoài đại bộ phận đều là người Sơn Đông. Lâu dần ở đây lưu truyền một câu chuyện kể rằng Hắc Long Giang trước kia có tên là Bạch Long Giang, trong lòng sông có một con bạch long tính khí hung bạo sinh sống ở đó. Sau này có một Long thần mới đến, đó chính là con rồng cụt đuôi mà một người dân Sơn Đông nhà họ Lý sinh ra. Nó đánh bại bạch long và biến nơi đây thành động phủ của mình, từ đó nơi này chuyển tên thành Hắc Long Giang.

Chính vì thế nên khi thuyền đi tới đây, bất luận trên thuyền có người Sơn Đông hay không đều phải gọi lớn một tiếng lên như vậy. Còn những người trên thuyền thì bất luận có phải là người Sơn Đông hay không thì đều phải đáp lại một câu "Đúng". Chỉ có như vậy thì con rồng cụt đuôi họ Lý đó mới biết được là có đồng hương đi qua đây, sẽ bảo vệ cho những người trên thuyền được thuận buồm xuôi gió, không lật thuyền. Đây chính là quy tắc trong nghề đi thuyền.

Những người trên thuyền đại bộ phận đều là người Sơn Đông, ngoài ra thì còn có cả người Hà Bắc, người Hà Nam, nhưng khi nghe thấy người lái đò hỏi như vậy thì tất cả bọn họ tuy giọng địa phương khác nhau nhưng đều không chút do dự đồng thanh trả lời:

- Có! Có tôi là người Sơn Đông!

Trên thuyền còn có vài vị hòa thượng, đạo sĩ và hai người giáo sĩ Tây Dương. Tin tức Đại Minh xây dựng giáo đường Tây Dương ở trong Kinh sư đã nhanh chóng được thông báo đến sứ thần các nước, loan tìn đến cả Lã Tống, Đông Doanh, có rất nhiều giáo sĩ Tây Dương vui mừng tới Đại Minh. Hai vị này đều hùng dũng xung phong đi đến đại sa mạc phương Bắc để truyền đạo bố thí.

Lúc khởi hành đã hỏi như vậy một lần, đến lúc vào lòng sông lại hỏi một lần nữa, những người ở trên thuyền đã quen với quy tắc đó rồi. Mấy vị hòa thượng và đạo sĩ đều mỉm cười không nói gì. Hai vị hòa thượng mắt xanh tóc vàng cũng quả biết nhập gia tùy tục, thấy vậy bèn nói lên mấy tiếng ngọng ngịu kỳ quái:

- Chúng tôi cũng hệ, chúng tôi hệ người Sơn Đông.

Người lái đò tạm thời này chính là Bành tướng quân Bành Tiểu Dạng, gã trừng cái đôi mắt to lồi như mắt ếch lên nhìn, giận dữ lườm một cái sắc lạnh gia đình lớn bé già trẻ của những người di dân, trong lòng thầm nghĩ: Mẹ nó chứ, đều là lũ ăn no phởn rồi phải không, hét to như thế để làm gì? Chúng ông mày chết cũng là chết ở Sơn Đông nhà chúng mày!

Gã ta quay người thuận tay kéo mái che lên nhìn đăm đăm về phía trước, trong lòng nghĩ thầm: Nơi đây còn cách Khả Mộc Vệ bao xa nữa đây? Dương đại nhân cũng thật tàn nhẫn mà, ta chẳng qua cũng chỉ là bắn một quả đại pháo thôi mà, cũng đâu có gây ra đại loạn gì đâu, có nhất thiết phải đầy ta đi xa xôi như thế này, sung quân đến cái chốn này không?

Nhưng ta không đi cũng không được. Phụ thân coi trọng kính phục Dương đại nhân nhất mà, ta không nghe theo lời Dương đại nhân thì phụ thân không chừng lột da ta ra chứ chẳng chơi à? Binh Bị Đạo Phó Sứ kiêm Tổng Đoàn Luyện Sứ, hai cái chức vụ này sao có thể oai phong bằng lúc trước làm Tướng quân được cơ chứ. Nhưng nghe nói rằng Thượng mã quản quân, Hạ mã quản dân. Ừm, quản cũng rộng đó chứ.

Nô Nhi Can Binh Bị Đạo không chỉ đơn thuần phụ trách việc chỉnh đốn sắp xếp quân bị. Đối với một khu bán quân sự như thế này thì nha môn của Binh Bị Đạo cũng phải phụ trách việc thu thuế, luyện tập quân đoàn, lương thực ngân tiền, thủy lợi, đất ruộng, buôn bán muối trà, quản lý dịch trạm thậm chí còn có cả hình danh, gần gũi bình ổn các bộ tộc địa phương, đập tan các âm mưu phản loạn. Nô Nhi Can Binh Bị Đạo chức quan này không chỉ quản lý tất cả các quan văn thuộc phủ, châu, huyện, mà đồng thời còn có thể tiết chế các võ quan của các đô ti, thủ bị, thiên tổng, bả tổng.

Nơi đây chính là cơ cấu hành chính cấp một của Nô Nhi Can Đô Chỉ Huy Sứ và hơn một trăm người bán quân bán dân ở đây. Đô Chỉ Huy Sứ vừa quản lý quân sự vừa quản lý dân sự. Một trọng trách lớn như vậy Bành Tiểu Dạng đương nhiên là không thể hoàn thành được rồi. Gã chỉ là một phân tuần đạo dưới cấp của Binh Bị Đạo mà thôi, chủ yếu là tập luyện binh mã thủy lục quân và tập luyện quân đoàn di dân mà thôi.

Triều đình phái Thiêm Đô Ngự Sử của Đô Sát Viện là Mã Luân nhậm chức Nô Nhi Can Binh Bị Đạo, tăng thêm hàm Tuần Phủ, chủ yếu quản lý nhưng đại sự quan chính dân chính quan trọng. Lại Khoa Cấp Sự Trung Dương Thận được cử đi nhậm chức Binh Bị Đạo Phó Sứ, chủ yếu quản lý dân chính. Bành Tiểu Dạng và hai viên tham tướng mà Đông Bắc Vệ Sở đề cử chủ yếu quản lý quân chính.

Bành Tiểu Dạng thoắt một cái lao đến bên mạn thuyền, ngồi lên trên lan can phía đầu thuyền, hai chân đong đưa, bọt sóng bay vùn vụt qua chân, thi thoảng lại có mấy con cá lớn dài chừng hai ma mét kinh hãi nhảy vọt lên khỏi mặt nước.

Bạch Tiểu Dạng mặt mũi âu sầu ôm lấy lan can, gương mặt đen to của gã áp vào cây trụ gỗ nhẵn nhụi bị nắng chiếu đến nóng bỏng, thở dài đánh thượt một cái thật mạnh: Bảo ta làm thủy sư thì cũng đành, lại còn bắt phải quản kỵ binh, luyện bộ binh, đây chỉ là một đám nạn dân thôi mà, lại còn bắt phải luyện tập đến mức độ lên ngựa thiện chiến, xuống ngựa rành chuyện nhà nông. Haizz! Ở những nơi khác thì coi binh là dân để quản lý, còn Dương đại nhân thì mặc nhiên coi dân là binh để tập luyện, khó quá đi thôi... Ta... còn học cưỡi ngựa trước đã.

Nhớ đến cưỡi ngựa, Bành Tiểu Dạng thót tim sợ hãi: Nếu sớm biết thế này thì ta đã không đi cùng A Đức Ny đến Đức Châu, đều là do đám phụ nữ gây chuyện mà... đều là do đống pháo đốt đó gây chuyện mà!

Gã ôm lấy cột cờ, ngón tay gõ cồm cộp từng hồi, buồn bã nhìn về cánh rừng phía xa, vẻ mặt u sầu.

- Mọi người đều tứ phương đôn đáo tìm công việc để làm, nhưng chưa từng nghe thấy chuyện quan viên tự nguyện di dân. Xem ra quan phủ vẫn còn cần phải thắt chặt thêm việc tuyên truyền cho lão bách tính mới đúng.

Một lão nhân quắc thước gầy gò vừa vuốt râu vừa cười nói. Người này chính là trí sĩ cáo lão hồi hương, tên là Lý Đông Dương, Lý Đại học sĩ.

Thanh Y Công tử Dương Lăng cười khà khà đáp lại:

- Dân vô gia cư không có nơi ở cố định, có một số người biết tin hơi muộn, ngoại trừ quan phủ, phu xe chèo thuyền. Khắp các nơi đều có sắp xếp người đi tuyên truyền. Hôm nay không gặp ta thì những người đó sớm muộn gì cũng nghe phong thanh được tin tức thôi.

Lý Đông Dương gật gật đầu, hơi chau mày lại nói:

- Di dân kiến nghiệp là việc cần phải được duy trì trong một thời gian dài, rất lâu sau mới có thể thấy được kết quả, đồng thời đó là những thành quả ổn định, ưu việt và toàn diện, có liên quan đến cả quân, chính, kinh, văn v.v... tất cả các lĩnh vực. Tương ứng với các vấn đề gặp phải khi thực hiện kế hoạch di dân là cần phải kịp thời có những chính sách liên quan để giải quyết các vấn đề phát sinh khoảng thời gian ngắn sẽ không có vấn đề gì.

Hiện nhiệm vụ cấp bách vẫn là phải bình định được nạn giặc thổ phỉ làm loạn. Triệu Toại khí thế đằng đằng tiến quân vào Sơn Tây nhưng lại tạo ra cái vỏ bọc muốn làm Sơn Đại Vương, án binh bất động, lại còn cho binh lính khai phá sơn điền. Theo ta thấy thì người này chí hướng không nhỏ đâu. Đám Lưu Lục, Lưu Thất, Dương Hổ hợp binh, ra khỏi Sơn Đông vào Hà Nam, tiến tới Hồ Quảng, rồi đến Nam Trực Lệ, dọc đường đi đều là thói ăn cướp ăn hiếp của lũ thổ phỉ. Hiện tại áng chừng bọn chúng có đến năm vạn binh mã, số đó đều là thiên quân vạn mã rèn luyện mà thành, chiến lực có thể mạnh hơn mười vạn đại quân của Dương Hổ.

Nay triều đình đã thực hiện trao trách nhiệm cho từng nơi, từng vùng phải chịu trách nhiệm bảo vệ an toàn cho đất đai dân chúng của mình, không để cho bọn giặc thừa cơ lấn tới. Tuy bọn chúng không có một nơi cố định để xây dựng căn cứ nhưng nếu cứ tiếp diễn theo tình trạng như hiện giờ thì không biết sẽ còn bao nhiêu lão bách tính phải chịu cảnh khốn khổ lầm than. Chỉ cần bọn chúng vào được đến Trung Nguyên thì phạm vi để cho bọn chúng có thể vùng vẫy sẽ trở nên rộng lớn vô cùng. Quân binh triều đình có muốn truy kích tiêu diệt chỉ e là khó khăn không ít.

Dương Lăng gật đầu nói:

- Đại nhân nói phải lắm, bổn quan cũng muốn ra một đòn tiêu diệt sạch bọn chúng, nhưng đám giặc đó lại trốn tránh không đánh, đâu phải chúng ta muốn đánh là được đâu. Nhưng đội quân của bọn chúng có một nhược điểm lớn nhất đó là, quân lực và tướng lĩnh ở hai đầu đều có thực lực tương quan với nhau. Điều này thể hiện rằng giữa bọn chúng với nhau chỉ tồn tại mối quan hệ hợp tác cùng có lợi mà thôi, chứ không phải thực sự cùng sinh tử trên một chiến tuyến.

Bọn chúng chạy ngược chạy xuôi, lấy những thứ đánh cướp được để mà nuôi quân chiến đấu, ban đầu chúng thừa cơ nhân lúc triều đình không kịp trở tay mà hành động mới có được chút ít kết quả. Nhưng nay quân giặc đi đến bất cứ nơi đâu thì cũng đều vấp phải tình cảnh phòng thủ nghiêm ngặt, hoang vu sơ tàn, quân đội bảo vệ, truy binh theo sát, truy đuổi không ngừng. Bọn chúng không còn bất cứ một cánh quân nào được nghỉ ngơi dưỡng sức, liên tục phải chiến đấu trong một thời gian dài đã khiến cho bọn chúng đang ngày lao đến bờ vực diệt vong.

Dương Lăng nhìn thấy sự lo lắng trong cặp mày đang chau lại của Lý Đông Dương bèn an ủi mà nói:

- Một trận chiến đánh lưu động đằng đẵng vô đích như vậy thì cốt lõi là ở thực lực của nhau, không phải chỉ có thể dựa vào một hai viên tướng giỏi là có thể giải quyết được vấn đề. Vì bọn chúng không có được một mục tiêu cụ thể cho nên chúng ta cũng không có cách nào mà phán đoán được động thái phương hướng của bọn chúng để mà có phương án bủa vây. Hơn nữa tin tức trên chiến trường thì thay đổi theo từng phút từng giây, hoàn toàn chỉ có thể dựa vào sự chủ động chiến đấu của quan binh mà thôi.

Dương Lăng ngây người suy nghĩ một lúc rồi nhấc chén trà lên nhấp một ngụm, thở dài nói tiếp:

- Bọn chúng đang ở Giang Nam, Triệu Toại ở Sơn Tây. Theo tình hình hiện tại thì có vẻ như Triệu Toại đang là kẻ an phận nhất, nhưng ta lại có cảm giác chính bọn chúng mới có sức up hiếp đến triều đình lớn hơn rất nhiều đám Dương Hổ, Dương Lục. Ta muốn tìm cơ hội đi Sơn Tây một chuyến, vừa là để vây binh Triệu Toại, vừa là thăm hỏi để giữ hòa khí, nếu như có thể giải quyết được trong hòa bình thì là tốt nhất rồi.

Lý Đông Dương tán thưởng nói:

- Ừm! Bá Nhan vượt ngàn dặm đến tập kích Hồ Thanh Hải, chém đầu Gia Tư Bố, chiếm lấy bộ tộc của y thành thuộc địa của mình. Một số những bộ tộc du mục không thuộc quyền quản lý của triều đình Đại Minh tuy đã định cư ở Hồ Thanh Hải, ở nơi đó sinh sôi nảy nở ổn định cuộc sống, nhưng bọn chúng không thiết lập một chính quyền chính thức. Triều đình không đủ tinh lực để đối phó, quản lý được vùng Thanh Hải đó, nên chỉ đành làm ngơ cho qua.

Nhưng Bá Nhan thì không giống như vậy, y chiếm được Thanh Hải thì có khả năng sẽ cắt đường lui của Cáp Mật Vệ; phía Bắc là địa bàn của Ngõa Lạt và Hỏa Si, bọn chúng cũng sẽ không ngồi yên làm ngơ để cho Bá Nhan xưng chủ trên mảnh đất quan trọng như vậy. Chỉ cần bọn chúng xuất binh Nam tiến đánh vào Thanh Hải, Cáp Mật Vệ sẽ bị liên đới vào trong trận chiến đó. Đồng thời sẽ làm nguy hại đến Cam Túc và Tứ Chủng, tới lúc đó thì triều đình không muốn xuất binh cũng không được.

Hiện tại thế cục vô cùng nguy hiểm, biên cương bên ngoài Sơn Tây là cửa ngõ phía Tây Bắc của triều đình, đảm nhận trọng trách bảo vệ Kinh sư. Giải quyết được những mối lo ở nơi đây thì triều đình mới có thể xuất binh đánh Thanh Hải được.

Dương Lăng nghiêm nét mặt lại nói:

- Ta cũng nghĩ như vậy đó. Nếu Triệu Toại biết điều an phận thì đó quả là chuyện đại thiện trong thiên hạ, phong cho y một chức đại quan cũng chẳng có gì là không thể. Nhưng nếu y không chịu dừng lại âm mưu của mình thì bất luận như thế nào cũng phải đuổi bằng được y ra khỏi đất Sơn Tây. Tuyệt đối không thể để cho y gây dựng căn cứ ở đó được. Thế cục bao vây Trung Nguyên đang ngày càng bước vào giai đoạn thu lưới, đến lúc đó cứ để cho y cùng với đám Dương Hổ cùng nhau đi đến vực thẳm chết chóc.

Lão nhân trắng trẻo không có râu nhẵn nhụi đó chính là Ngụy công công. Hai người bọn họ đang nói chuyện thật không tiện để xen ngang, thế là kẻ đang đứng ngây giả câm giả điếc ở đằng kia lúc này nghe thấy Dương Lăng hùng hồn nói vậy thì mới nhân cơ hội mà xen ngang khen ngợi một câu:

- Quốc công gia tính toán như thần, quyết thắng thiên lý, đám giặc nhãi nhép đó nhất định sẽ bại dưới tay ngài.

Dương Lăng cười điềm đạm nói:

- Đây cũng là vạn bất đắc dĩ, nếu như không phải vì Thanh Hải đột nhiên xảy ra chuyện thì ta sẽ chuyên tâm đối phó với đám Lưu Lục, Dương Hổ, Triệu Toại muốn ở Sơn Tây nghỉ ngơi dưỡng binh thì cũng tạm để cho y tự do tự tác, triều đình cũng mệt mỏi rồi, cũng cần phải ngưng một thời gian để dưỡng sức.

Nhưng với tình thế hiện tại thì không thể như vậy được nữa rồi. Nếu để mất Thanh Hải thì thông đạo hẹp dài hiểm yếu của Cam Túc vùng Tây Bắc ngay lập tức sẽ bị chặn đứng, vĩnh viễn mất đi hy vọng lấy lại Cáp Mật. Cáp Mật là con đường giao thông quan trọng để qua hành lang Hà Tây ra đến Ngọc Môn Quan, là cuống họng của con đường tơ lụa. Muốn kinh doanh thuận lợi với chư quốc Nam Dương thì Mãn Lạt Gia tuyệt đối không thể để thất thủ; muốn thuận lợi cai trị chư quốc Tây vực thì Cáp Mật cũng tuyệt nhiên không được để bị thất thủ.

Chỉ cần cả khu vực Tây Bắc liên kết lại thành một khối với nhau thì Đại Minh ta sẽ mất đi một vùng đất rộng lớn mà rất khó mới có thể lấy lại được, hơn nữa từ đó trở đi sẽ bị phân cách với Tây vực, sẽ không còn hy vọng lấy lại được các vùng đất màu mỡ xung quanh lưu vực trù phú của sông Hoàng Hà. Nơi đó sẽ trở thành biên duyên kiên cố của người Man, bọn chúng có thể xuất binh tấn công Đại Minh bất cứ lúc nào, công kích vào yếu địa của Đại Minh... Ngụy Công công, thế cục Thanh Hải ở ngàn dặm xa xôi kia còn quan trọng gấp trăm gấp nghìn lần nạn giặc loạn Lưu Lục trong yếu địa Trung Nguyên đó.

Ngụy Bân nghe vậy mới giật mình tỉnh ngộ: Chẳng trách Uy Quốc công khi nghe thấy tin Bá Nhan đã đánh vào đến Thanh Hải thì ngay lập tức từ Sơn Đông vội vã trở về Kinh sư. Bách quan trong triều đại đa phần đều là tài tử Giang Nam, nhìn thấy lũ giặc lan tràn tàn phá quê hương của mình, Uy Quốc Công lại không hề thừa cơ mà truy kích, có người thấy thế thì lấy làm phẫn nộ lắm còn nói ông ta cậy công ngạo mạn. Uy Quốc Công mặc nhiên không bận tâm đến những điều đó, ra là vì lẽ này đây.

Nếu như ta đem những chuyện ở đây kể lại cho Hoàng thượng nghe thì ắt hẳn người sẽ khen ngợi ta hiểu biết sâu xa.

Ngụy Bân nghĩ đoạn bèn vội vàng đứng dậy nói:

- Ôi thôi chết, Quốc Công gia, Lý Đại nhân, hai ngài cứ ngồi nói chuyện tiếp nhé. Tiểu nhân chợt nhớ ra là bên phía trường ngựa còn cần phải trồng thêm một ít cỏ, hàng rào tứ phía cũng phải đóng lại cho chặt chẽ hơn một chút để còn nuôi vài con hươu, con gà rừng gì đó, tiểu nhân phải đi trông nom việc này mới được.

Nhìn theo bóng dáng Ngụy Bân đang vội vội vàng vàng rời đi, Dương Lăng ngây người kinh ngạc một hồi lâu rồi mới thở dài một tiếng, cười khổ nói:

- Đây... là xây dựng Am đường sao? Còn xây trường ngựa, còn nuôi động vật? Thật không thể tưởng tượng được, ni cô cưỡi ngựa...

Lý Đông Dương cũng chẳng hiểu được nguyên do sự tình ra sao, ông ta chau mày đáp lại:

- Chuyện ni cô cưỡi ngựa thì cũng chẳng có gì là hiếm gặp đáng ngạc nhiên, chỉ là không phải vội vàng gì mà lại đi xây một khu vườn trong Hoàng am để nuôi ngựa thì quả đúng là có hơi cổ quái. Nhưng... khí thế Hoàng gia mà. Hơn nữa Hoàng thượng cảm thấy có lỗi với Vĩnh Phúc Công chúa nên chắc vì thế mà muốn bù đắp hơn nữa.

Mà chưa biết chừng Hoàng thượng muốn nhân cơ hội này để xây riêng cho mình một khu vườn. Dù sao thì cũng là dùng tiền của đám phú hộ trong Kinh quyên góp để xây dựng, lại tiện đó mang lại công ăn việc làm cho những nạn dân vô gia cư, cũng coi như khống chế được bọn họ không sinh chuyện làm loạn... Chỉ có điều cứ nghĩ đến việc xếp mõ tụng kinh xuất Am đường, mặc áo tu hành mà cưỡi ngựa thì quả thật là khiến cho người khác phải cảm thấy nực cười.

Haizz, lão phu ta tính toán cái chuyện này để làm gì cơ chứ! Quốc Công à, lão phu cho rằng xuất binh đánh Thanh Hải là chuyện không nên. Tầm quan trọng của Thanh Hải thì tất cả chúng ta đều đã biết rồi, nhưng ta tin ngài cũng hiểu rằng hiện này nếu muốn xuất binh tiến Thanh Hải thì cần gấp mười lần số lương thực và tiền bạc để đi diệt giặc Bạch Y Quân, triều đình... hiện không còn khả năng để xuất binh nữa rồi!

- Ta biết điều đó, lần này trên đường vội vàng trở về Kinh ta đã nghĩ đến chuyện này rồi.

Dương Lăng cũng chau mày lại nói tiếp:

- Nhưng thế cục chiến sự không nhất định phải phát động chiến tranh để mà giải quyết. Hiện tại vẫn cần phải dốc sức nhanh chóng giải quyết nội loạn Bạch Y Quân, còn về Thanh Hải... Ta muốn dùng một cách khác để đuổi Bá Nhan đi.

Dương Lăng uống ngụm trà rồi nói tiếp:

- Thanh Hải trên danh nghĩa là thuộc về Đại Minh, nhưng trên thực tế thì người thực sự sử dụng mảnh đất đó lại bao gồm rất nhiều các dân tộc du mục. Bá Nhan chiếm cứ Thanh Hải, lấy thân phận Đại Hãn Mông Cổ của mình xưng chủ thì nhất định sẽ khiến cho những quốc gia Tây vực như Cáp Mật, Biệt Thất Bát Lý, Tát Mã Nhĩ Hãn, Hỏa Thổ Lỗ, Vu Điền, Thất Lạt Tư, An Đô Hoài v.v... phải ngấm ngầm dè chừng.

Ngoài ra thì còn bao gồm rất nhiều những du mục dân vùng Thanh Hải, những bộ lộc Mông Cổ không còn chịu sự thống trị của Thát Đát hoặc Ngõa Lạt. Bọn họ chúng là những người lo sợ bị Bá Nhan thâu tóm nhất. Đồng thời tuy là Bá Nhan đột kích Thanh Hải, nhưng đại bản doanh của y vẫn còn đang ở trên thảo nguyên Thát Đát. Sau khi dẫn đại binh mã đến đánh Thanh Hải, đại quân lưu lại làm nghi binh đã nhanh chóng trở về thảo nguyên.

Nhánh quân này đã trúng mai phục của đám Hoa Đương thừa cơ xuất binh thảo phạt, một vạn kỵ binh hoặc thiệt mạng hoặc buộc phải đầu hàng. Nghe nói vị Hoàng hậu mà y sủng ái nhất cũng đã bị rơi vào tay của Hoa Đương. Nỗi nhục đó đối với một kể cao ngạo như Bá Nhan thì y sao có thể chịu được cơ chứ. Đồng thời Bá Nhan cũng không cam tâm từ bỏ mảnh đất thảo nguyên rộng lớn phương Bắc. Dù biết rằng sự lựa chọn sáng suốt nhất vẫn là ở lại Thanh Hải, nuôi quân tích lương nâng cao năng lực chiến đấu, thì nhất định y cũng sẽ có ý định dẫn bộ tộc của mình quay lại thảo nguyên quyết chiến một phen.

Nếu đã vậy thì chúng ta tung ra đòn hiểm, buộc Bá Nhan rời đi, chưa biết chừng chẳng cần đổ một giọt máu, mất một tên lính nào mà vẫn có thể tạm thời giải quyết được vấn đề ở Thanh Hải, khiến cho chúng ta có tinh lực để tập trung đối phó tiêu diệt bọn đạo tặc Bạch Y Quân.

Ánh mắt Lý Đông Dương rực sáng lên một cái, vuốt râu nói:

- Thượng binh phạt mưu, không đánh mà khuất phục được kẻ địch mới là thượng sách. Chỉ có điều chẳng hay Uy Quốc công có kế sách gì hay chưa?

Dương Lăng đáp lời:

- Chiều nay ta sẽ đi bái kiến Hoàng thượng, thuyết phục Hoàng thượng để cho người mời những Mật tông Pháp vương, Phật sống, những Đại A Bạc Môn đức cao vọng trọng của Hồi Giáo đến trao đổi một chút. Sẽ chở những vị Pháp vương, Phật sống, A Bạc Môn này về Thanh Hải, nơi đó dân du mục rất sùng đạo, sức ảnh hưởng của những người này không thể thua kém người đứng đầu các bộ tộc.

Dương Lăng lại nói:

- Đó mới chỉ là vệ mặt chính trị, còn về mặt kinh tế mà nói thì giao dịch thông thương ở khu vực phía Tây vực luôn thịnh vượng đông đúc. Sau khi phương Bắc mở cửa, phía Tây lại càng trở nên tự do hơn nữa về mặt kinh tế. Tơ lụa, đồ sứ, lương thực, đồ sát, trà bánh, muối dầu, rượu ngon lại còn có cả đồ đạc nạm vàng nạm ngọc từ Trung Nguyên thông qua Thanh Hải mà vào tới Tây vực. Giá cả của vải vóc, muối ăn, trà bánh và những nhu yếu phẩm hàng ngày khác sẽ theo đó mà thụt giảm xuống, người dân Tây vực sẽ trục lợi được không ít.

Đám gia súc trâu, ngựa, dê, lạc đà của bọn họ sẽ lũ lượt được bán về Đại Minh. Những món đồ khác nào là da thú, thịt gia súc, lông gia súc, thảm dệt thủ công đều phụ thuộc vào sức mua của Đại Minh. Chẳng những đám Vương công quý tộc ở đó được hưởng lợi ích hậu hĩnh mà ngay cả bách tính lê dân cũng trở nên giàu có hơn.

Ta sẽ kiến nghị với Hoàng thượng viện lý do vì Bá Nhan đang chiếm cứ Thanh Hải, để đảm bảo cho sự an nguy của thương dân nên hạ chỉ cho Tứ Xuyên và các khu vực có giao thương với Tây vực đóng cửa vô thời hạn các hoạt động buôn bán. Cho đến khi nhân vật nguy hiểm Bá Nhan đó đi khỏi thì lệnh cấm vận đó mới được chấm dứt. Lúc đó ắt hẳn giá muối ăn, lương thực, trà bánh và những nhu yếu phẩm hàng ngày khác sẽ lập tức tăng vọt.

Khổ mà được sung sướng thì nhanh quen, chứ đang sung sướng mà phải chịu khổ thì không phải là chuyện dễ dàng đâu. Chỉ cần đã quen với chất lượng cuộc sông cao, nếu bắt bọn họ phải ăn thịt mà không bỏ muối, trên bàn ăn không có trà sữa, không có gạo nấu thành cơm, thì ắt hẳn bộ tộc của bọn họ nhất định sẽ tập trung lại phản đối mãnh liệt. Đám Vương công quý tộc đang được ngồi trên núi vàng núi tiền kia, bỗng nhiên lại chặn đứt mất con đường làm ăn của bọn chúng. Vậy thì cái tên tội đồ đó số phận sẽ ra sao đây?

Những thủ lĩnh địa vị tối cao của các phe phái tôn giáo phản đối, đám Vương công quý tộc thủ lĩnh của các bộ tộc phản đối, kỵ sĩ của dân du mục phản đối, tất cả đều phản đối sự hiện diện của Bá Nhan. Tới lúc đó chúng ta phái mật thám ở Thanh Hải tung tin đồn khắp nơi trong Tây vực rằng Đại Minh chuẩn bị phát binh, Ngõa Lạt chuẩn bị Nam tiến quyết chiến với Bá Nhan. Tin tức đó sẽ khiến cho chư bộ ở Tây vực bốn dĩ đã phẫn nộ đến cực điểm nhưng lại e sợ châm ngòi chiến đấu làm hại đến bản thân mình, nhận thấy thế cục thay đổi mà sẽ có những hành động kịp thời.

Nếu chư quốc, chư bộ của Tây vực đều coi một kẻ ngoại lai như Bá Nhan là quân địch thì mặc cho y có dũng mãnh kiêu hùng tới đâu cũng không thể đọ lại dược sự tấn công tứ phía của các thế lực, phía Bắc có Ngõa Lạt, phía có Đại Minh, phía Tây, phía Nam thì còn phải đối phó với quan đội các nước như Cáp Mật, Hỏa Đất Lỗ, Vu Điền v.v... Bá Nhan chỉ còn một lựa chọn duy nhất đó là tháo chạy về thảo nguyên phương Bắc, đòi lại tất cả những thứ đã bị mất về tay Hoa Đương, lấy lại sự tôn nghiêm đã bị đánh mất.

Lý Đông Dương trầm ngâm suy nghĩ một hồi lâu rồi gật đầu nói:

- Lão phu cho rằng kế sách này của Quốc công có tính khả thi. Sự sắp xếp đó của chúng ta sẽ khiến cho Bá Nhan cầm chắc tình thế buộc phải rút lui về thảo nguyên phương Bắc. Vậy thì Hoa Đương và Hỏa Si, hai kẻ đang thâu tóm lãnh địa của y, sẽ cùng với Bá Nhan hình thành thế tam hổ đoạt mồi. Chúng ta sẽ có nhiều thời gian và tinh lực hơn nữa để giải quyết nội biến ở trong nước.

Dương Lăng lặng lẽ nhìn Lý Đông Dương một cách chăm chú và nói:

- Lão đại nhân, "Tĩnh Chính Thập Nhị Sớ" của ta đã gửi cho ngài xem qua rồi, ngài thấy... có tính khả thi chăng?

Hai mắt của Lý Đông Dương khép hờ, gương mặt dạn dầy sương gió chốn quan trường chợt lộ ra một nụ cười hàm ý sâu xa:

- Quốc công, quan trường có những quy tắc riêng của quan trường, đó là những quy tắc đã hình thành từ hàng ngàn năm nay. Ngài xông pha chiến trận, trảm tướng diệt giặc lập được công lớn cho triều đình, có sức ảnh hưởng lớn đến triều chính. Nhưng tiếp xúc với thể chế của chốn quan trường thì bắt buộc phải cẩn trọng vô cùng.

Quam trường, cốt lõi của nó là ở một chữ "Quyền", không có quyền thì không có quan trường. Mà cốt lõi của "Quyền" là ở chữ "Lợi". Chữ lợi này cũng đa nghĩa, lợi là lợi ích của quốc gia, nhưng cũng có lợi ích của cá nhân. Chữ lợi này là lợi ích của giang sơn xã tắc nhưng cũng có lợi ích của chính bản thân mình, lợi ích về một phương diện nào đó của mình. Chỉ khi nào sắp xếp thỏa đáng các mối quan hệ lợi ích đó thì ngài mới có thể đánh đâu thắng đó, bằng không thì ngài có thể được đẩy lên đến đỉnh điểm của quyền lực thì cũng có thể bị đám quan viên lớn bé liên kết lại kéo ngài xuống.

Lý Đông Dương nhìn Dương Lăng một cách thật sâu lắng rồi nhẹ nhàng nói tiếp:

- Đừng coi thường sức mạnh quyền lực của một nhóm những quan lại chức sắc bé hơn mình. Bằng không cho dù ngài có thực hiện được kế hoạch sách lược của mình rồi thì cũng tuyệt đối không thể tiến hành nó một cách hiệu quả nhất. Ngài không có nghìn mắt nghìn tay để giám sát thì nhất định phải suy tính đến lợi ích của nhóm người đó, bao gồm cả những người đang đi theo ngài nữa. Thúc ngựa là để cưỡi ngựa; vậy những người đi theo ngựa thì để làm gì đây?

Lý Đông Dương cười hà hà rồi đứng dậy, vừa cười vừa nói:

- Lão phu đã không còn là người ở chốn quan trường nữa rồi, ta chỉ có thể truyền lại cho ngài những kinh nghiệm đúc rút được từ mấy chục năm lăn lộn chính sự. Quốc công ngài vẫn nên cân nhắc cẩn trọng hơn nữa.

Theo ý lão phu thì tốt nhất ngài nên tìm một nhân vật bình thường nào đó để cho gã trình tấu lên Hoàng thượng cuốn "Tĩnh Quốc Thập Nhị Sách" đó, đừng để chuyện đó có liên quan gì đến ngài. Đợi đến khi chiếu chỉ được công bố, quan sát xem có những người nào phản đối, đều phản đối tập trung vào những vấn đề nào. Tập trung nhắm mũi tên cho trúng đích, chuẩn bị các biện pháp đối phó, thay đổi những phương án không thể điều tiết được. Đôi lúc cần tiến hành những biện pháp thỏa hiệp thì mới có thể nhanh chóng thuận lợi để đạt được mục đích.

Lý Đông Dương vuốt râu cười nói:

- Lão phu xin phép về trước, Quốc công không ngại thì có thể bàn bạc thêm cùng Tiêu Các Lão. Gã đó nhân tình thế sự, quy tắc quan trường đều thuần thục nhuần nhuyễn trong lòng bàn tay, quả đúng là một con cáo già thành tinh, sao ngài cần mà không đến chứ? Ha ha ha...

Tiễn Lý Đông Dương đi khỏi, Dương Lăng ngoảnh đầu lại nhìn công trình Hoàng am đang chuẩn bị kết thúc, trăm nghìn việc to việc nhỏ, nhất thời tất cả các mọi chuyện đều đổ dồn đến khiến cho hắn phải lo lắng:

- Hoa Đương dã tâm không nhỏ, chỉ cần khống chế được địa bàn của Bá Nhan thì khó mà có thể khẳng định rằng y sẽ không quay đầu lại mà đối phó với Đại Minh. Rồi việc di dân đến Quan Đông, Bị quân đang tiến hành mọi việc. Chiến sự vùng Thanh Hải, Giang Nam, Sơn Tây rồi lại còn đại sự xây dựng lại vùng Hà Bắc, Sơn Đông sau chiến sự kết thúc.

Chỉ chưa đầy hai tháng nữa thôi là Hoàng am sẽ được xây dựng hoàn tất, chẳng biết nàng Tiểu Vĩnh Phúc vừa đáng thương vừa đáng yêu đó có cạo trọc đầu mà tới nơi này ở hay không. Sắp mãn hạn quốc tang nửa năm rồi, hôn sự của Hoàng thượng và Nhất Tiên đang ngày càng cận kề. Chuyện quốc gia, chuyện nhà, chuyện thiên hạ, không có chuyện nào là không phải nhọc lòng bận tâm.

Dương Lăng đầy tâm sự trong lòng, mơ mơ màng man quay về phủ, chầm chậm thả bước dưới giàn nho ở hành lang phía sau nhà: Chuyện nước, chuyện nhà... chuyện nhà... Ồ đúng rồi, hành tung của đám Bạch Y Quân nhanh như chớp. Lúc bọn chúng công kích Triết Giang đã bị đại quân vốn được ta sắp xếp, bố trí từ trước phản kíchnay đã có những dấu hiệu đang tiến về Nam Trực Lệ.

Chỉ e là Nam Trực Lệ lại có chiến sự, tuy nói rằng thành Nam Kinh phòng thủ kiên cố vững chãi, đám người Dương Hổ bị thất trận ở Thái An chưa chắc đã dám đánh Nam Kinh, nhưng để đảm bảo an toàn thì vẫn nên đón mẹ con Liên Nhi về thì hơn. Mấy ngày tới đây cần phải lệnh cho Ngũ Hán Siêu và Tiểu Ái đi Giang Nam một phen, đón hai mẹ con Liên Nhi đi đường thủy về đây.

Còn cả A Đức Ny, tiểu mỹ nữ Tây Dương xinh đẹp, đó nữa. Lần trước ở trên xe, hai người đều đã thân thiết ân ái đến như vậy rồi, tuy chưa thành đại sự gì nhưng lẽ nào lại bỏ mặc người ta như vậy sao? Làn da bánh mật, thân hình uyển chuyển gợi cảm, sự ngọt ngào hiền dịu đó... Ồ, quốc nạn cận kề mà ta lại nghĩ về phụ nữ, phải chăng là có chút vô sỉ?

"Hẳn cũng không đến nỗi chứ..."

Quốc công đại nhân tự mình lặng lẽ an ủi mình: Việc công việc tư đều không được sao nhãng, chiến sự với phải đánh, ân ái thì... vẫn phải có chứ!

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 378: Màn trướng

Trên chiếc giường La Hán ở phía bên hông hậu đường, Tuyết Lý Mai đang chơi đùa với con trai, sắp được mười một tháng rồi. Tiểu Dương đại nhân rất là xinh xắn, rất được các dì yêu thích. Cậu vịn vào đồ vật đã có thể đứng dậy đi tới lui. Lúc này, Dương đại nhân (Dương đại nhân này là chỉ con trai của Tuyết Lý Mai, không phải chỉ Dương Lăng) đang đặt tay lên bệ cửa sổ ở đầu sặp, nhón mũi chân nhìn ra ngoài cửa sổ, lúc lắc nhìn mấy cái, liền ngồi phịch xuống.

Một loại giường/sạp của người Hán thời xưa, hơi dài, có ba tay vịn dài ở ba phía, một số người gọi là sạp ba thành.

Tuyết Lý Mai uể oải nằm trên sạp, gối đầu lên chiếu gấm, lộ ra một đôi thiên túc trắng như tuyết, chỉ cần Dương đại nhân vừa ngồi xuống, nàng liền giơ chân đỡ lấy. Tiểu tử này mặc quần yếm, cái mông mềm mịn trắng nõn, mát như ngọc. Tuyết Lý Mai có lẽ còn mắc di chứng của gia pháp Dương thị, đặc biệt thích chạm vào cái mông đó.

Thiên túc: để chỉ chân của những người phụ nữ chưa bó chân.

Gần đây nàng đã trở nên đặc biệt uể oải, lúc nào cũng thích ăn chua cả. Diệu thủ của Cao đại tiểu thư vừa sờ vào, thì biết cô gái này đã trúng chiêu, đã mang thai rồi. Gia nghiệp to lớn của Dương gia, sinh thêm con cái là chuyện tốt. Hàn Ấu Nương vui mừng khôn xiết, chỉ có Ngọc Đường Xuân khóc không ra nước mắt: Đám tỷ muội thích nhất là theo lão gia chơi ngọc thủ hậu đình hoa đều đã mang thai hết rồi, bụng mình thì lại không có chút động tĩnh, ông trời thật không có mắt.

Hai ngày nay Ngọc Đường Xuân quấn quít lấy Cao Văn Tâm, không ngừng lãnh giáo từ nàng cách để sinh quý tử. Điều dở khóc dở cười, là hai người đều bình thường, phải đợi cơ duyên mà thôi, thế thì muốn nhau sống sao? Nếu có bản lãnh của Quan Âm Tống Tử, thì bụng mình cần gì phải bằng phẳng như thế này?

Không thể làm gì hơn, nàng đành phải kê mấy thang thuốc bổ cho nam nhân và nữ nhân, tuy nhiên sức khỏe của lão gia nhà mình là quan trọng hơn, nên mấy thang nàng kê đều là điều tinh bổ khí, cường thân kiện thể, không có một vị thuốc hổ lang nào.

Nói đi cũng phải nói lại, lão gia nhà mình không biết luyện khí thế nào, hay là đã học thành hành phòng tam thập bát pháp của Thành Khởi Vận. Sự dũng mãnh đó, hay khiến cho nàng hồn phi phách tán, rụng rời tay chân, lần nào cũng phải liên tục năn nỉ xin tha. Nằm yên cả ngày trời mà đến ngón út cũng không còn sức nhúc nhích, thật sự chưa phải lúc dùng dược vật.

Tiểu tử kia lại lần nữa ngã ngồi lên chân của dì Tuyết Nhi. Cậu sốt ruột xoay người, nhìn thấy dì Tuyết Nhi đang cười mỉm chi lấy ô mai đưa vào trong miệng, hai mắt không khỏi sáng lên, lập tức chỉ vào trong miệng nàng, kêu a a hai tiếng.

Bây giờ cậu vẫn chưa biết nói, ngoài Hàn Ấu Nương ra, bốn người mẫu thân xinh đẹp hằng ngày thay nhau dạy cậu gọi ma ma. Tiểu Dương đại nhân vẫn kiến quyết, không mở kim khẩu. Phàm cần gì, muốn đi đâu, cậu liền ra vẻ lớn lối chỉ tay ra, đơn giản chỉ nói ra chữ "A", lập tức muốn gì được nấy.

Tuyết Lý Mai đưa lan hoa chỉ lên, dùng hai ngón tay như cọng hành nhặt cục ô mai lên trêu đùa cậu. Tiểu Dương đại nhân giơ tay bắt lấy hai lần vẫn chưa lấy được, thế là nhếch miệng lên, chuẩn bị gào thét. Tuyết Lý Mai liền cười nói:

- Bảo bảo ngoan, đừng khóc, cho cho cho này!

Nàng cong miệng lên, nhả ra non nửa cục ô mai đã nát. Tiểu Dương đại nhân vội vàng nhanh chóng bò qua, đưa miệng tiếp lấy, vừa nuốt vào nhấp nhấp hai cái, thì khuôn mặt nhỏ nhắn của cậu liền nhăn nhó, với một vẻ mặt quái dị xuất hiện, cậu liền phun ra ngoài.

Tuyết Lý Mai cười rung rung hết cả người. Nàng vừa dùng tay hứngô mai Tiểu Dương đại nhân phun ra, vừa cười khanh khách:

- Ai bảo con tham ăn, cái gì cũng khoái, còn ăn nữa hay không? Hả?

Đôi môi anh đào của nàng mở ra, Tiểu Dương đại nhân sợ đến mức quay đầu bò đi, cái mông nhỏ lắc qua lắc lại trông vô cùng khôi hài. Đúng lúc này, Dương Lăng đang suy nghĩ về chuyện băn khoăn trong lòng, đi vào. Hắn đi đến hậu đường phải lách sang trái hoặc phải, bên trái là phòng đàn, bên phải có giường La Hán này chính là nơi phụ nữ ở nhà trọng gặp mặt nữ khách, bình thường là một trong những nơi mấy nữ nhân trò chuyện, cho nên Dương Lăng thường đi bên này.

Thấy Dương Lăng tiến vào, Tuyết Lý mai vội vàng ngồi xuống, chỉnh lại mái tóc hơi bù xù, cười ngọt ngào nói:

- Lão gia đã về. Lý đại nhân đã về thành rồi sao?

- Ừ, đúng vậy. Hầy, nàng không cần đề ý, cứ chơi với con đi. Ta đi đến chỗ Vận Nhi xem thử tư liệu mà cô ta và A Đức Ny đã chỉnh lý như thế nào rồi.

Dương Lăng nói xong liền đi đến bên cạnh giường lò, chơi đùa với con trai:

- Bảo bối ngoan, ngày mai lão tử dẫn con đi câu cá, nào, gọi tiếng ba ba đi.

Đứa bé vẫn chưa biết nói, hắn chỉ là thuận miệng nói ra, nói xong liền xoay người rời khỏi, đi đến bên cửa, chỉ nghe trên giường truyền đến hai tiếng non nớt:

- Ba ba ba, ba ba

Dương Lăng bước đi như bay, cũng đã ra đến cửa rồi, đột nhiên đùng một cái lại nhảy trở về, khinh công Võ Đang "Thê Vân Tung" trong tay hắn có thể nhảy ngược hai mét rưỡi, đã xem như đạt đến đỉnh cao rồi.

Dương Lăng không kìm được vui mừng nhìn con trai, luôn miệng nói:

- Con nói gì? Mau mau, tiếp tục gọi, gọi ba ba.

Trong cái miệng nhỏ nhắn của Tuyết Lý Mai còn một miếng ô mai, đôi mắt cũng trợn lên, kinh hỉ đến trong như ngớ ngẩn.

Đôi mắt đen lay láy của Tiểu Dương Đại Nhân tỏa sáng nhìn cha, một mặt nắm chặt lấy chân của dì Tuyết Nhi, một mặt cười vui vẻ, chầm chậm nói:

- Ba ba, ba ba!

- Ah ha!

Dương Lăng mừng rỡ, hắn chạy sang ôm lấy con trai một cái, hôn lên hai má phúng phính của cậu, sau đó uy phong tám bề mà nói:

- Ai nói con trai học nói chậm? Đó là vì còn phải xem là ai. Con trai ta là người thế nào chứ, giống ta, thông minh lắm nha, ha ha ha ha

Dương Lăng nói xong vui mừng ôm con trai muốn chạy ra, miệng còn dương dương tự đắc:

- Ta mang con trai đi cho các nàng xem thử, ha ha, các nàng dạy hàng ngày, ta thì không cần dạy, mở miệng thì biết gọi ba ba.

Tuyết Lý Mai vội kéo lê giày dưới đất, gắt gỏng:

- Đừng gấp, con chơi đến đầy mồ hôi, cẩn thận gió thổi, xem chàng vui chưa kìa.

Dương Lăng vội đặt con vào lồng ngực nàng, nói:

- Vậy nàng mang nó theo, ta đi gọi bọn Ấu Nương đến.

Trong chốc lát, chỉ thấy Dương Lăng dẫn theo Hàn Ấu Nương, Cao Văn Tâm, Ngọc Đường Xuân, còn có tiểu nha hoàn Vân Nhi tiến vào.

Trong lồng ngực của Tiểu Vân còn một một con chó Pug (con này các vip có thể tham khảo google để biết thêm.), loài chó này là do một người nuôi chó trong kinh sư vừa đào tạo ra, Dương Lăng vừa nhìn đã biết là chó Pug, nhưng lúc bấy giờ lại là một vật hiếm có. Bá tánh kinh sư cảm thấy loài chó nhỏ này vừa đáng yêu vừa hiếm. Trước mắt vì số lượng ít, nên chỉ có gia đình hoàng thân quý tộc mới mua được. Còn chó nhỏ này là một trong những bạn chơi của đại thiếu gia Dương gia.

Hàn Ấu Nương kinh hỉ nói:

- Mau để thiếp xem thử, con trai bảo bối thật sự biết gọi cha rồi à?

Chỉ thấy Tiểu Dương Đại Nhân ôm lấy chân của dì Tuyết Nhi, đang không ngừng gọi "ba ba". Tuyết Lý Mai cười nghiêng ngã, cười đến ra nước mắt, thấy bọn họ tiến vào, nàng cười khanh khách nói:

- Lão gia mừng hụt rồi. Tiểu bảo biết gọi ba ba, nhưng chỉ là biết gọi là thôi, nó gặp cái gì cũng gọi.

Quả nhiên, Tiểu Dương Đại Nhân nhìn thấy con chó Pug trong lòng Vân Nhi, liền vui vẻ buông chân của dì Tuyết Nhi ra, chỉ về phía con chó Pug kia, a một tiếng, rồi sau đó gọi "ba ba, ba ba".

Mấy người Hàn Ấu Nương, Cao Văn Tâm không nhịn được cười, còn Dương Lăng thì dở khóc dở cười, đặt mông ngồi ở đầu giường lò, chỉ vào con trai nói:

- Tên tiểu khốn kiếp nhà ngươi, thật sự là làm cho lão tử đẹp mặt đấy, còn không bằng không biết gọi. Được rồi được rồi, không cần gọi nữa.

- Ba ba, ba ba

Mấy người Hàn Ấu Nương càng cười dữ đội hơn. Dương Lăng không thể đỡ được, đành phải cười gượng hai tiếng, nói:

- Tuy rằng không hiểu rõ ý gì, nhưng ít nhất nó còn biết gọi. Ha ha, các nàng muốn nó gọi, nó còn mặc kệ không để ý đến.

Con trai cuối cùng cũng biết mở miệng nói chuyện, đây chính là một chuyện vui lớn, không còn người nào để ý để Dương Lăng hắn. Mấy người Hàn Ấu Nương lập tức vậy quanh Dương đại thiếu gia, mồm năm miệng mười nói:

- Con trai ngoan, bảo bảo giỏi, lại đây, gọi một tiếng ma ma nghe xem nào.

Tên tiểu tử trừng đôi mắt đen như nước sơn, kinh ngạc nhìn nhìn mẫu thân và dì hơi có vẻ kỳ quái, sau đó xoay người lại, lắc cái mông nhỏ bò về phía Dương Lăng, suốt quãng đường cứ gọi ba ba, sà vào trong ngực của hắn, chỉ chổng mỗi cái mông lên, rõ ràng là đã bị các nàng dọa cho sợ rồi.

Ngọc Đường Xuân thở dài, dùng cái chân to chỉ lên cái mông của cậu một cái, giận dỗi nói:

- Con sói con mắt trắng này, rốt cuộc vẫn là người của lão Dương gia người ta mà, đến gọi dì một tiếng cũng không chịu, thật nhỏ mọn!

Dương Lăng ôm con trai thoải mái cười to. Hắn tạm thời gác lại công sự, gọi người lấy dưa hấu ướp lạnh, nước ô mai đến, cùng kiều thê ái thiếp còn có đứa con trai yêu dấu, cười nói tán dóc, vui vẻ ấm áp.

Dương Lăng đi đến ngồi trên giường lò, ăn dưa, hoa quả, trò chuyện cùng cả nhà. Đứa bé cùng với con chó Pug nhỏ, chui đi chui lại giữa hai chân bọn họ, chơi đùa vui vẻ. Tình cờ bốn mắt nhìn nhau với Ấu Nương, Dương Lăng và Ấu Nương nhìn vào mắt lẫn nhau, thỏa mãn, ấm áp, thân tình và ngọt ngào.

Đúng vậy, những năm tháng gian khổ nhất sớm đã qua đi rồi, những chuyện sống chết có nhau trong gian khổ cũng sẽ không xuất hiện nữa, theo thời gian trôi đi, những chuyện chua xót lúc xưa sẽ trở thành những hồi ức đẹp. Có lẽ đến một ngày nọ, lúc hai người già đến không đi nổi, ngồi trên xích đu, con cháu thì giống như bây giờ, có mấy đứa nhỏ chơi đùa ở đó, rồi cứ mãi kể với chúng về những chuyện năm xưa.

Hiện tại, thứ tích lũy được, là tình cảm ngày càng sâu đậm của họ. Cuộc sống của họ, tình cảm của họ, hạnh phúc hơn tuyệt đại đa số người trên thế giới. Hạnh phúc, thế này đã đủ rồi.

Dương Lăng đi đến chỗ Thành Khởi Vận, chỉ thấy hai tiểu mỹ nhân Thành Khởi Vận, A Đức Ny đang tranh cãi đến đỏ mặt tía tai, Sở Linh chống cằm ngồi trước bàn, cười ha ha coi bộ rất thích thú.

Dương Lăng ngạc nhiên nói:

- Chuyện gì mà tranh cãi ghê gớm thế?

Hai người vừa thấy Dương Lăng, lập tức chen lấn nhau cáo trạng:

- Đại nhân, ngài đến phân xử thử xem, có một vấn đề liên quan đến thuế phú

- Dương, Vận Nhi tỷ tỷ quá bảo thủ rồi, chỉ là sửa đổi đối với thể chế cũ, theo ta thấy, phải đao to búa lớn

- Ngừng ngừng ngừng!

Dương Lăng bị các nàng cãi nhau đến đau cả đầu, liền một tay kéo một người đến trước bàn, ấn lên vai của các nàng rồi nói:

- Ngồi xuống hết cho ta.

Hắn liếc mắt nhìn Sở Linh xinh đẹp đang cười khanh khách, nói:

- Không cần giữ lễ tiết, ngươi cũng ngồi xuống đi.

Nói đoạn bản thân hắn cũng ngồi xuống, châm cho mỗi người một ly trà, cười ha ha nói:

- Được rồi, thanh thiên đại lão gia ở đây, có oan khuất gì, cứ việc nói từng cái một.

Hai tiểu mỹ nhân đồng thời khẽ hừ một tiếng, yêu kiều lườm hắn một cái, sau đó nhìn nhau, nhưng cũng không nói tiếng nào.

Dương Lăng thấy hai khẩu súng máy đã tắt ngúm, liền cười cười nói:

- Sở Linh, ngươi nói đi.

- A! Tiểu nhân tiểu nhân nói à

Sở Linh rụt rè nhìn bà chủ, bà chủ không tỏ vẻ phản đối, nàng đành phải miễn cưỡng nói với ông chủ:

- Là như thế này. Chẳng phải Quốc công gia đã nói hai vị cô nương bàn luận về "Tịnh Chính Thập Nhị Sơ" của ngài đó sao. Cái này về phần lại trị, đất đai, thuế phú, còn có quân chế, à ờ cách nhìn của A Đức Ny cô nương và tiểu thư trái ngược hoàn toàn, tranh luận với nhau chỉ hơi kịch liệt một chút thôi, Quốc công gia cứ yên tâm.

Dương Lăng nghe xong liền hiểu. Kỳ thực hắn bảo hai người thảo luận, chỉ là muốn tham khảo một chút ý kiến của các nàng, chủ ý của hắn là luôn nối liền với đám người Dương Thận, Tiêu Phương, Dương Nhất Thanh, tùy thời mà thay đổi theo ý họ.

Thành Khởi Vận hiểu rất thấu triệt về nhân tính, tâm lý. A Đức Ny đến từ phương tây, đối với chế độ của phương đông không quen từ nhỏ những tập quán ở đây, để nàng giúp xem xét kỹ càng, nói không chừng từ góc độ của một người bàng quan có thể nhìn ra được cấu tứ gì đó. Dương Lăng bảo các nàng nghiên cứu kỹ, là muốn từ góc độ của các nàng mà càng hoàn thiện chế độ hơn một chút, giảm thiểu những lỗ hổng đi một chút, như vậy một khi trình lên, những cản trở gặp phải mới có thể giảm đến thấp nhất.

Kỳ thực lúc bấy giờ bất luận là thể chế chính trị hay là thể chế kinh tế, thậm chí bao gồm chế độ khoa cử tuyển tài bị người đời sau lên án khá nhiều, so với phương tây đều tương đối hoàn thiện và tiên tiến hơn. Nhưng phương đông duy danh, so với quan niệm giá trị của phương tây duy lợi, không thể nghi ngờ là phương tây thiết thực hơn, về phương diện chế độ dân chủ so với phương đông cũng tiên tiến hơn một chút.

Dương Lăng chỉ là bảo hai người tùy ý xem xét, cho vài ý kiến, không ngờ hai người thật tình như thế. Hắn vừa cảm động, vừa cảm thấy buồn cười. Dương Lăng ngẫm nghĩ một hồi, rồi nói với Thành Khởi Vận:

- Ừ, ta hiểu rồi. Được, trước tiên chúng ta nói về lại trị. Nàng nói thử xem, sự khác nhau của các nàng tập trung chủ yếu ở chỗ nào?

A Đức Ny cướp lời nói:

- Ta cho rằng chọn hiền tài để bổ nhiệm, phải giải quyết vấn đề từ căn nguyên. Việc cấp bách bây giờ là cắt giảm người thừa, tuyển chọn nhân tài. Chọn nhân tài phải không hỏi xuất thân, lai lịch, mạnh dạn đề bạt quan viên trẻ tuổi, bọn họ có tầm nhìn sâu rộng, dám đổi mới, tinh lực dồi dào. Ở địa phương, người tuổi quá năm mươi chỉ có thể thu làm tạp quan, không được làm trưởng của một châu huyện. Thưởng người ưu tú, trừng trị tham quan, yêu cầu phải làm hết bổn phận.

Dương Lăng xoa xoa cằm, trầm ngâm một hồi rồi nói:

- Ừm, nói thì nói như thế, nhưng thi hành cụ thể, làm sao nắm chắc được thước đo này? Ai sẽ đi phán định người trẻ tuổi nào là người ưu tú? Rồi còn ai không phải là người hợp cách? Hơn nữa hơn năm mươi tuổi lại không được làm chủ quan chính đường, nhất định sẽ ảnh hưởng đến quan viên địa phương, dẫn đến sự cản trở của bọn họ, mà quan viên gần ngũ tuần, rất nhiều người cũng sẽ không yên tâm về chính sự, mà chuyên đầu cơ luồn cúi, kiếm lợi cho bản thân. Mấy vấn đề này làm sao giải quyết đây?

Khuôn mặt của A Đức Ny đỏ lên, Dương Lăng cười cười, an ủi:

- Nếu như thân làm người ngồi ngôi trên thanh liêm tài đức, sau đó chủ quản mỗi phủ một con đường, với cách chỉnh đốn như vậy, thì có thể dùng. Đặt vào một quốc gia rộng lớn, tin tức truyền cực kỳ chậm chạp, đó là chỗ không thích hợp. A Đức Ny căn cứ theo tình hình của quốc gia các cô mà nghĩ ra cách, mà quốc gia các cô không lớn hơn một phủ của nơi này, hạn chế như thế, chẳng trách cô được.

A Đức Ny tuy là thiếu nữ bác học đa tài, nhưng đối với việc hiểu rõ về cổ quốc phương đông, hiểu rõ chi tiết về quan trường và văn hóa hình thành qua mấy ngàn năm của nó, đương nhiên không bì được với Thành Khởi Vận, cho nên lời nói ra không khỏi hơi xa rời thực tế. Thành Khởi Vận nghe ra được hắn không đành khiến cho A Đức Ny khó chịu, không khỏi hé miệng cười.

Dương Lăng trừng mắt nhìn nàng, hỏi:

- Vậy nàng nói xem, nàng có cao kiến gì?

Thành Khởi Vận mỉm cười nói:

- Thiếp cho rằng, chính sách thi hành, là từ trên xuống dưới, muốn chỉnh đốn lại trị, thì phải lấy pháp trị làm hạt nhân lý chính, cộng thêm quyền lực khống chế của triều đình, mới có thể đảm bảo tân pháp thi hành được. Cách làm cụ thể, đại nhân đã lót một con đường đi thật tốt, thực hiện cũng dễ hơn.

- Đô Sát viện, Hàn Lâm viện, những Ngôn quan của mười ba đạo Ngự sử, không phải vừa được chỉnh đốn lại đó sao? Hiện tại quan viên được giữ lại và người mới được đề bạt lên, bất luận là phẩm chất hay là năng lực đều tương đối tốt. Đại nhân trước tiên phải tăng mạnh sức mạnh khoa đạo, lấy lục khoa Cấp sự trung chế ngự lục bộ, tầng tầng khống chế, tầng tầng khảo hạch, thưởng phạt phân minh, trách nhiệm rõ ràng, đề cao mức độ các bộ các ti chấp hành chính lệnh.

Dương Lăng thầm gật đầu: "Trước mắt ở xã hội phong kiến đại nhất thống như thế này, nếu muốn cải cách thành công, chỉ có làm từ trên xuống dưới, làm cho được chức quyền quy về một. Nếu như không gia tăng sức khống chế đối với các cấp cơ cấu của triều đình, thì cải cách chỉ là nói suông. Bên trên hao tổn tâm cơ chế định ra chính sách, thì bị bên dưới sắp xếp theo ý mình, căn bản không thể thực thi một cách quán triệt.

Cho nên, tăng cường trung ương tập quyền là điều tất yếu. Kỳ thực tập quyền cũng được, phân quyền cũng được, đều có một thời đại bối cảnh phù hợp với nó. Trên cơ sở chính trị, kinh tế, văn hóa trước mắt, và với trình độ khoa học kỹ thuật năng lực truyền tin lúc bấy giờ, nếu như muốn phân quyền, muốn dân chủ, thì thật sự là đưa đầu cho lừa đá rồi. Đem chủ nghĩa không tưởng ra mà thực hiện, không làm cho thiên hạ đại loạn mới lạ.

Đương nhiên, tập quyền như thế này lại có chỗ khác. Nếu như đại quyền toàn bộ nằm trong tay Hoàng Đế, lúc Hoàng Đế là minh quân, vậy thì hằng ngày phải xử lý trăm công nghìn việc rồi, có thể khiến cho ngài mệt chết. Còn nếu như đó là hôn quân, vậy thì thiên hạ ai nấy cũng đều hủ bại.

Trên thực tế, đề nghị của Thành Khởi Vận là tăng cường năng lực cầm quyền trong Nội các, mà năng lực này, lại đặt dưới sự giám sát của hệ thống giám sát. Cứ như vậy, Nội các không phải là ở dưới một người, chính tích của các quan viên và phẩm tính cá nhân lại chịu sự khống chế khá mạnh mẽ, đích thật là biện pháp tốt để đề cao hiệu suất của đội ngũ quan liêu.

Quan trọng nhất là, điều này hoàn toàn phù hợp với phân tích về quyền lực mà Lý Đông Dương nói. Mặc kệ là cải cách gì, nhất định phải tổn hại đến quyền lợi của một bộ phận, mấu chốt của vấn đề là ngươi có thể tranh thủ sự ủng hộ của một bộ phận quan liêu khác hay không. Dựa theo phân tích này, quyền lực của Nội các được gia tăng, quyền lực của khoa đạo được gia tăng, vậy thì đầu tiên mình sẽ tranh thủ cả hệ thống giám sát, trở thành người ủng hộ kiên định bất di bất dịch của cuộc cải cách của mình.

Trước khi Dương Thận đi Nô Nhi Can, từng đề cập những kiến giải tương tự với hắn, hiện tại không mưu mà hợp với những điều mà Thành Khởi Vận nói, Dương Lăng không khỏi khen ngợi không ngớt lời. Hắn và Thành Khởi Vận lại tỉ mỉ thảo luận vài điểm, về phương pháp khảo hạch của khoa đạo quan đối với quan viên, như trưng thu thuế phú, kiểm tra cuối nhiệm kỳ, chế độ bổ nhiệm và miễn nhiệm của chính tích khảo hạch.

Trong quá trình phân tích, một vài điều vừa hay chính là cái mà lúc trước Lưu Cẩn từng làm, chẳng qua Lưu Cẩn làm như vậy hoàn toàn chỉ là vì chỉnh đốn mọi người, mượn việc khảo hạch để tuyển tài cho mình, kết quả là khiến cho lão nghĩ sai lệch. Giờ nhắc lại chuyện xưa, nhớ đến Lưu Cẩn, Dương Lăng không khỏi xúc động thật lâu, đồng thời cũng cảnh tỉnh bản thân:

Dùng thái độ nhập thế mà làm việc, dùng thái độ xuất thế mà làm người.

Cái quyền lực này mìnhthể cần, cũng quyết không thể giao cho một cá nhân nào. Quyền lực thi hành này, nhất định phải thật sự buông bỏ, đưa vào tay lục khoa thập tam đạo, nhiều khoa đạo quan như vậy, giữa bọn họ có thể chế ước lẫn nhau, phòng ngừa có người quyền lực tập trung quá nhiều, huống hồ bên trên còn có Nội các kiềm chế lẫn nhau nữa.

Khảo hạch đối với quan viên tập trung vào trưng thu thuế phú, kiểm tra cuối nhiệm kỳ, thì đảm bảo khảo hạch có căn cứ, có chừng có mực, mà không phải là do quan viên giám sát nói ra. Lại trị chỉnh đốn là gốc, hiển nhiên là do nó có liên quan đến rất nhiều phương diện khác, tỷ như vấn đề đả kích những cường hào phạm pháp, truy kích cường hào nợ thuế. Từ đó cứ kéo dài ra, hai người lại vừa nhớ vừa viết một hồi, thì đến vấn đề khiến người ta đau đầu nhất.

Thành Khởi Vận nói:

- Kỳ thực, tất cả những cải cách này, đều là những mắt xích đan xen nhau, bổ trợ lẫn nhau. Lại trị chỉnh đốn, ảnh hưởng đến trưng thu thuế phú và pháp luật, về phương diện liêm chính, vấn đề đất đai lại lại liên quan đến hình danh liêm chính và trưng thu thuế phú. Nói đến vấn đề đất đai bị kẻ quyền quý thâu tóm, đây lại phải nhắc đến một phần công lao của Lưu Cẩn Lưu công công.

- Lão đo đạc đất đai là vì làm nổi bật chính tích cá nhân, vì lấy hết đất đai nằm trong khả năng để tranh công, hại rất nhiều người nhà tan cửa nát, nhưng hiện tại sau khi kiểm tra đối chiếu thực tế đất đai của những khổ chủ đó rồi trả về, số lượng đất đai còn lại thật sự là đúng số lượng.

- Quan lại thân sĩ bá tánh thật sự có bao nhiêu đất đai hợp pháp, bị lũ cường hào địa phương giấu nhẹm đi không báo cáo hoặc đã chiếm lấy bao nhiêu đất đai của triều đình, cũng đều đã ghi chép trong án rồi. Chỉ mỗi đất đai giấu giếm không báo thì đã có một trăm bốn mươi bẩy vạn khoảnh, có đến tám mươi vạn khoảnh trốn thuế, đúng không? Có những số liệu này, trưng thu thuế phú, thậm chí là là cải cách thuế phú cũng dễ dàng hơn nhiều.

Thành Khởi Vận hé miệng cười nói:

- Đại nhân đã liệt kê ra một số địa phương đang làm thăm dò thử phương pháp thuế phú hợp lý hơn, tỷ như "Lý giáp ngân" thi hành ở Ứng Thiên phủ, "Quân bình ngân" ở Chiết Giang, Quảng Đông, "Cương ngân" ở Phúc Kiến, còn có "Thập đoạn gấm" ở Giang Nam. Nhưng phương pháp thuế phú này phần lớn đã thay đổi thuế phú bằng hiện vật truyền thống, đổi thành dùng bạc để nộp, vừa thuận tiện cho triều đình trưng thu, mà vận chuyển hay bảo quản, cũng không cần lo lắng về khâu bảo quan cho khỏi bị hư hao.

- Nhưng thiếp cảm thấy trong những phương pháp này, vẫn là phương pháp gom nhiều loại thuế thành một hay nhất. Thực hiện phương pháp này, tất cả các lao dịch, tạp phí, đều nhập lại làm một thứ, sai dịch quy vào thuế ruộng, tất cả đều tính theo thuế ruộng đất, vừa không giảm ngạch, lại không tăng thuế, dân nghèo không có đất không cần nộp thuế, mà phú hào không thể được ưu tiên, lao dịch công bằng, nên sẽ không có ai oán thán là bất công nữa.

Dương Lăng gật đầu nói:

- Đúng, hơn nữa lấy ngân lượng thay cho thuế bằng hiện vật, lao dịch, sẽ mở rộng lưu thông tiền tệ, làm suy yếu mối quan hệ phụ thuộc của nông dân đối với các giai cấp khác, đồng thời những người bán hàng rong và thợ thủ công cũng được tự do. Việc này rất quan trọng đối với phát triển công thương.

Điều này, Dương Lăng đã âm thầm thảo luận với một vài đại thần trong triều, cũng đã được sự tán thành của bọn họ. "Nhất Điều Tiên" pháp (tập hợp tất cả các loại thuế vào thuế đất), đảm bảo thuế phú triều đình sẽ ổn định, sẽ không khiến người giàu càng giàu, người nghèo càng nghèo, cho đến lúc túng quẫn tạo phản. Tăng cường phát triển công thương, nông dân có đất vui cày cấy, phú hộ trong thành vui bán buôn, cũng sẽ không xâm phạm quá nhiều đến lợi ích của quan lại thổ hào, nên tránh được phản đối mạnh liệt ở địa phương, làm cho tâm huyết của mình đổ sông đổ biển.

Nhất Điều Tiên pháp khiến cho quan viên khó có thể tiếp tục lợi dụng thuế phú để tham ô, giảm bớt gánh nặng cho dân nghèo, gia tăng thu vào cho triều đình, hơn nữa những quan lại thổ hào có thể tiếp nhận trong phạm vi. Đây là sách lược cải cách khá thiết thực, nếu như thật sự nóng nảy, muốn cưỡng ép trả đất cho dân, đánh thổ hào chia ruộng đất, thì mình trước tiên đã dẫn một đội ngũ lên núi đánh du kích rồi.

Hai người càng nói càng vui vẻ. Suy nghĩ trong lòng Dương Lăng cũng càng lúc càng rõ ràng, hắn vui mừng nói:

- Nói rất hay, hiện tại mấy người Tiêu Các lão, Dương Nhất Thanh có lẽ đã đặt nha môn. Ta đi vào thành xem thử, thảo luận với bọn họ một chút, hai ngày nữa sẽ trình lên Hoàng Thượng.

Dương Lăng chỉ lo mừng rỡ, mà không chú ý đến chuyện lời khuyên của A Đức Ny không được coi trọng khiến nàng oán giận. Thấy hắn vội vàng đứng dậy rời khỏi, A Đức Ny lại càng tỏ vẻ lạc lõng

- Kỳ thực Hoàng Thượng đã từng nhìn thấy những điều này, chính thức dâng thư chẳng qua chỉ là cho đưa ra một tín hiệu cho thiên hạ, một tín hiệu cải chế mà thôi. Bổn Quốc công phụ trách quét sạch cường đạo, an trí lưu dân, mắt thấy tai nghe ở những địa phương, biết rõ nếu không thể khiến nước giàu binh mạnh, bá tánh lạc nghiệp, thì diệt phỉ sẽ không hoàn thành được, mà không thể loại bỏ tệ nạn, thi hành chính sách mới, thì không thể nước giàu binh mạnh.

- Đương kim Hoàng Thượng tuổi còn trẻ, đang muốn có một phen thành tựu. Các vị đại nhân đều là thần tử trụ cột của nước nhà, xin hãy tận tâm tận lực, phát biểu ý kiến của mình, sau cùng ta lại cân nhắc một lần nữa về những tờ sớ can gián này, để giúp cho chính sách mới có thể thực hiện thuận lợi. Lưu đại nhân, ngài có ý kiến gì không?

Dương Lăng đảo mắt nhìn quanh, cao giọng nói. Trong phủ của Tiêu Phương, mấy vị đại nhân được mời đến ngồi xung quanh, đang tiến hành bước cân nhắc cuối cùng đối với chính sách cải cách mới.

Thứ mang lên bàn tiệc vĩnh viễn là món đã nấu xong. Việc thực hiện và quyết sách của một chính sách, chẳng thể nào không phải là kết quả có từ điều tra, nghiên cứu tỉ mỉ, cân bằng các thế lực, và được cân đối trước đó. Giống như hiện tại, Dương Đình Hòa và Dương Nhất Thanh không hợp, nhưng thế lực của y đã chiếm hai ghế trong Nội các, đối với việc thi hành quyết sách đều có ảnh hưởng hết sức quan trọng.

Mặc dù cải cách lại trị đã định cực kỳ có lợi đối với Nội các, sẽ không đụng chạm đến quyền lợi của y, ngược lại còn tăng thêm quyền lợi, nhưng trước đó cứ giấu diếm không nói, gạt y ra ngoài khó tránh sẽ khiến y sinh lòng ngăn cách, cho nên Dương Lăng cũng mời Hộ bộ Thượng thư Lưu Trung đến. Y là người của Dương Đình nha, y có mặt, thì coi như bất cứ lúc nào cũng có thể kể lại cho Dương Đình Hòa về những việc y nghị định.

Ý kiến mà Lưu Trung nói ra, mọi người đều hiểu ngầm với nhau, đương nhiên biết đó chính là đại diện cho ý kiến của Dương Đình Hòa. Cho nên Dương Lăng nói xong, liền nhìn y đầu tiên, muốn biết ý kiến của Đại học sỹ Dương Đình Hòa, Lương Trữ.

Lưu Trung khiêm tốn cười nói:

- Lúc hạ quan ở Hàn Lâm viện, chỉ biết cổ vũ văn tự, đả kích tệ nạn đương thời, đối với một số chuyện chính trị thấy mà như không thấy, không ai thay đổi, cảm thấy không thể tin nổi, chỉ cho rằng quan trong triều không lo làm việc, không làm đúng chức vụ, mãi cho đến khi làm được chức Hộ bộ Thượng thư này, hữu tâm vô lực, bước đi gian nan, mới biết tệ nạn đã ăn sâu, không dứt khoát thì khó mà đạt hiệu quả.

- Trước mắt việc sát nhập đất đai quan trọng, lưu dân bốn phía, dịch họa nổi lên, quốc khố trống rỗng, chi phí thiếu thốn; bắc có Thát Đát, tây có Thanh Hải cũng có dị động, Cáp Mật đóng quân tiến thoái lưỡng nan, phía nam thổ ti tranh quyền đoạt lợi, cải chế cách tân là vô cùng cấp bách, hạ quan vô cùng tán đồng.

Đây chính là kết quả của việc phân phối quyền lực, nếu như không làm như vậy, ngay cả Dương Đình Hòa đồng ý trong lòng, cũng khó tránh khỏi bị làm khó dễ. Dương Lăng nghe vậy rất vui, chỉ nghe Lưu Trung nói:

- Hạ quan chỉ có một đề nghị, những người tay to mặt lớn chiếm cứ đất ruộng, có thể ép họ phân phát lại cho nông dân. Bên cạnh đó không quan tâm đất đai bọn họ chiếm cứ là bao nhiêu, bao gồm điền sản giấu diếm chưa đóng thuế, chỉ có thể tăng mạnh quản lý, thu thuế phạt tiền, mà không thể tịch thu chia cho bình dân.

- Nhất Điều Tiên pháp, có chỗ tốt cực lớn đối với bần dân, nhưng lại không hướng về nông dân không có đất. Lưu dân là căn nguyên của tai họa, lại không thể giải quyết vấn đề này. Hạ quan cho rằng, hiện tại công thương phát triển, mở thông đường biển, thông thương lẫn nhau, Quan Đông di dân có thể giải quyết một bộ phận lớn lưu dân, đất đai chiếm cứ đo đạc ra được còn có thể giải quyết một bộ phận.

- Ngoài ra, phải mời Binh bộ Lục đại nhân nhọc lòng hơn nữa, cải cách binh chế, triệt tiêu Vệ Sở, phải chú trọng quản lý đo đạc quân điền đồn điền thanh lý. Mảnh đất lớn này còn có thể sắp xếp cho một bộ phận lưu dân. Đến lúc đó, ngay cả có còn lưu dân đi nữa thì số lương vẫn hữu hạn không thể làm nên trò trống gì, trừ phi xuất hiện thiên tai nhân họa cực lớn, mà triều đình không đủ sức cứu tế. Bằng không cũng sẽ không xuất hiện cục diện, một người hô cao, vạn chúng hưởng ứng tạo phản đâu.

Dương Lăng khẽ vuốt cằm, thầm nghĩ: "Đây nhất định là trù tính của Dương Đình Hòa rồi. Người này rất thực tế, có thể bao quát lợi ích các phương diện, phản đối mà chính sách nhận được về các phương diện không quá kịch liệt, lại có thể giải quyết các vấn đề một cách hữu hiệu, quả nhiên là tài năng."

Lục Hoàn lo lắng nói:

- Nhất Điều Tiên pháp tuy sẽ khiến đám quyền thân bị chút tổn thất, nhưng các thân sỹ tiến bộ, thân sỹ giữ đúng pháp luật vốn dĩ là chiếu theo ruộng đất nộp thuế, cơ bản là không có ảnh hưởng gì. Vì dùng bạc nộp thuế, không cần dùng lượng lương thực tương đương do quan phủ quy định để nộp, bọn họ thu hoạch còn nhiều hơn, sẽ ủng hộ sách này. Hạ quan cho rằng ảnh hưởng chỉ là những thân hào quyền quý xưa nay giấu diếm đất để trốn thuế.

- Bộ phận này bất mãn là điều chắc chắn, nhưng thông qua chỉnh đốn lại trị có thể triệt tiêu sự cản trở của một bộ phận quan lại thế gia, lại thêm sự khuấy động của lần lưu dân tạo phản này, đại bộ phận bọn họ sẽ hưởng ứng. Phải nói rằng, người khó có thể chạm đến, có lẽ là vương hầu công khanh. Thật sự muốn thực hiện, Quốc công gia, nhất định có người sẽ động tay chân.

Dương Lăng thản nhiên cười nói:

- Điều này, ta đã đoán ra rồi. Một tay cầm cà rốt, một tay cầm gậy to. Ta vốn không trông cậy nói hay thương lượng hay khiến mọi người đồng ý. Có mấy người, chẳng qua chỉ cần giết gà dọa khỉ. Vậy thử đao từ đâu đây?

Lục Hoàn gật đầu nói:

- Quốc công gia diệt phỉ thì chỉnh đốn chính trị trước, đây là kế sách quét sạch từ gốc. Hoàng Thượng cũng có lòng làm, thì hạ quan đương nhiên dốc hết toàn lực. Chỉ có điều hiện tại đang dụng binh, lúc này cải cách binh chế dễ khiến quân tâm dao động, không thể không lo. Mà quân đội hủ bại, đồn điền thất thoát, lại liên quan đến lại trị và cải chế đất đai, việc trọng đại. Hạ quan lao tâm khổ tứ, cảm thấy có thể dùng cách dung hòa

Y vê râu nhìn Binh bộ Thượng thư tiền nhiệm Dương Nhất Thanh, nói:

- Về cải cách binh chế, hạ quan cho rằng có thể tách ra từ trong Thập Nhị Sơ, chậm rãi tiến hành, lửa chậm nấu nhừ, làm không ầm ĩ. Hiện tại sức chiến đấu của đoàn luyện các nơi không dưới Vệ Sở binh, thậm chí còn muốn mạnh hơn mấy phần. Triều đình không ngại đưa chiếu lệnh đến tuần phủ các nơi, mở rộng đoàn luyện, chỉnh đốn quân bị.

- Hiện tại chẳng phải lưu dân nổi lên bốn phía sao? Có thể thay đổi quy định đoàn luyện chỉ chiêu mộ binh sỹ bản địa, tiếp nhận một bộ phận binh sĩ là lưu dân nhập ngũ, như vậy tố chất binh sĩ được bảo đảm, lại khiến phản tặc không có lưu dân để dùng. Sau khi chiến sự kết thúc, lại tuyên bố đổi đồn điền nuôi binh làm mộ binh. Những Vệ Sở binh từ lâu đã không muốn tham gia quân ngũ thậm chí còn tìm cơ hội bỏ trốn đương nhiên sẽ vui vẻ phục tùng. Lỗ hổng binh sĩ trong quân đội cũng có thể lập tức dùng đoàn luyện binh đã huấn luyện để bổ sung vào. Mộ binh chế có thể tiến hành vừa nhanh vừa ổn định rồi.

Dương Nhất Thanh cầm binh đã lâu, trước giờ y luôn đảm nhiệm chức vụ trong đội ngũ biên quân, mà đại bộ phận biên quân dùng mộ binh chế, binh sĩ vốn dĩ không hạn chế là người bản địa, cho nên y suy nghĩ một hồi lâu, liền gật đầu tán thành nói:

- Từ nhi đồ chi, tòng dung binh bị (từ từ mà đạt được, ung dung chỉnh đốn quân), bổn quan cho rằng có thể làm được. Chỉ có điều phải lệnh cho Binh bị đạo, Đoàn luyện sứ các nơi phải gia tăng thăm dò binh sĩ, đừng chiêu mộ kẻ vô lại, có tiền án vào đội ngũ.

Lục Hoàn cười nói:

- Dương đại nhân yên tâm. Hiện tại loạn phỉ nổi lên bốn phía, sau khi đoàn luyện mới được thành lập, phải tham dự bao vây tiễu trừ lưu phỉ. Trong chiến sự, binh sĩ có đủ tư cách hay không, tự sẽ được khảo nghiệm phù hợp.

Tiêu Phương thấy không ai phản đối nữa, liền ghi chép điều này vào hồ sơ. Lễ bộ Thượng thư Vương Hoa nói:

- Đạo trị quốc không ngoài mưu cầu phú cường, nhưng sĩ tử văn nhân tôn sùng, đa phần là lý học Tống Chu, coi trọng tâm ngoại vô vật, bất giả ngoại cầu (ngoài tâm không có gì cả, không cần phải cầu từ bên ngoài). Những người thế này đã làm quan thì không trọng quốc kế dân sinh đâu. Bọn họ bốc phét, ba hoa, xem thường thực tế dân sinh, dùng lời nói suông làm hại đất nước.

- Hạ quan cho rằng, có thể tập trung một đám Hồng học đại nho, quan viên thoái sĩ, giáo huấn về hưng vong thịnh suy, đề xướng học thuyết pháp chế vô thường, cận dân vi yếu, cổ kim dị thế, tiện tục vi nghi (một học thuyết trong biến pháp của Trương Cư Chính), khiến quan viên các cấp từ bỏ quy tắc cũ, lấy nước giàu binh mạnh làm nhiệm vụ hàng đầu, quét sạch những lời lẽ suông vô dụng, đòi hỏi hiệu quả thực tế trong thực hành, đem trị học lý chính và giải quyết quốc kế dân sinh kết hợp lại, quét sạch áp lực dư luận.

Dương Lăng vui mừng đồng ý, nói:

- Đúng vậy, lời Vương Thượng thư nói chí phải. Thi hương năm nay, khoa cử phải gia tăng phần thời sách chính luận, giảm bớt thi từ ca phú, sau này đề thi cũng phải như vậy. Để có thể thi đậu, các học sinh sẽ chú trọng hiện thực, quan tâm đến dân sinh quốc sự. Theo ta thấy chuyện này mới là đại sự hàng đầu của Lễ bộ, nhất định phải thay đổi thói nói suống không thực tế từ tận gốc, bồi dưỡng nhiều năng thần có tài thật sự cho triều đình, mà không phải là đạo học hủ lậu.

Các quan viên hợp mưu hợp sức, trau chuốt lại sách lược tân chính chuẩn bị thi hành lần sau cùng, rồi mới cáo từ.

Tiêu Phương ghi chép lại ý kiến về các phương diện, các đoàn thể lợi ích, rồi nói với Dương Lăng:

- Quốc công, tân sách đưa ra không khó, khó ở chỗ thi hành. Sách lược chính trị lớn này, Nội các và Lục bộ còn có Khoa đạo đều tán đồng, hơn nữa Hoàng Thượng vô cùng ủng hộ, lại là vì giải quyết ảnh hưởng chính trị của các phương diện trong triều đình, lý do đường hoàng, người phản đối rất khó có thể đưa ý kiến phản đối của mình ra.

- Nhưng biến cách này, bất kể là điều nào cũng liên quan đến lợi ích của rất nhiều người. Mỗi con đường đều có mấy con cọp lớn. Cọp lớn chặn đường không bị đánh gục, người rảnh rỗi sẽ đều bắt chước theo. Vậy thì bất luận quốc sách có hoàn thiện bao nhiêu, cũng chỉ có một đường thua mà thôi.

Dương Lăng nói:

- Ừm, điều này ta đã tính trước. Đừng thấy Hoàng Thượng tán thành, Nội các thực hiện, mỗi con đường có vẻ đều rất thông thuận, nhưng khó tránh có vài người trong lòng ôm suy nghĩ cầu may, hơn nữa sẽ đẩy ra mấy đại nhân vật đến gánh vác. Cửa ải này, đừng bàn đến nữa.

- Ta vội vã trở về kinh đích thân tọa trấn. Một là lo lắng thế cục Thanh Hải, cũng chính là do suy nghĩ này. Mặc kệ hổ lớn gì, đều phải nghĩ cách quật ngã nó. Ta sẽ ở trong kinh chờ thêm mấy ngày nữa, đợi các sách lược bước đầu thi hành, ta lại đi Sơn Tây.

- Khụ khụ khụ!

Tiêu lão đầu ho khan mấy tiếng, ngữ diệu có hơi quái dị, nói:

- Có một con hổ lớn, nhất định sẽ bị người ta đẩy ra trước làn tên.

Dương Lăng trầm giọng nói:

- Là người nào?

- Đương kim Diễn Thánh Công gia.

Dương Lăng khẽ giật mình:

- Diễn Thánh Công? Y lại làm gì rồi à?

Loại thế gia đã không còn tiếp diễn được bao nhiêu triều đại này, giỏi nhất là khiến người khác đau đầu. Năm Thành Hóa bính tuất, tháng ba, Diễn Thánh Công Lỗ Hồng Tự cưỡng hiếp hơn bốn mươi phụ nữ, cưỡng sát bốn người bá tánh vô tội, chỉ bị đoạt tước vị, do đệ đệ thay thế, mà sau khi y sinh con trai, vẫn muốn đòi tước vị về. Giết người hại mạng, Hoàng Đế trừng phạt cũng là lẽ thường.

Chân nhân được kế thừa duy nhất của Sơn Tây Long Hổ sơn Trương Nguyên Cát đã vi phạm quyền hạn sử dụng khí vật, cướp đoạt phụ nữ, vì lợi lộc trước sau đã hại chết hơn bốn mươi bình dân bá tánh, trong đó có một nhà ba người đều bị mưu hại. Kết quả là cũng bị tước đi phong hiệu. Cái gì gọi là đặc quyền? Đặc biệt đến nỗi Hoàng Đế cho rằng ảnh hưởng đối với giang sơn của việc giết một phạm nhân còn hơn cả giữ gìn tôn nghiêm của luật pháp. Lực lượng thế gia như thế này đã lên đến tột cùng rồi.

Chỉ nghe Tiêu Phương nói:

- Diễn Thánh Công về quê còn chưa đến nửa tháng, hiện tại đã có hai vụ án cáo đến kinh. Tam ti không dám quản, Lục bộ không dám nhận, liền đẩy qua chỗ ta. Đây chỉ là một chuyện nhỏ, nhưng triều đình muốn chỉnh đốn lại trị, muốn thanh lý ruộng đất bị chiếm, nhất định sẽ có người làm lớn chuyện này để khiến triều đình khó xử, cho nên phải sớm nghĩ cách.

Hóa ra sau khi Diễn Thanh Công hồi hương thấy phủ đệ bề bộn, lương thực đều tịch thu, thực căm hận không nguôi. Quãng thời gian đó, tính khí y không tốt lắm. Đất của nhà y, hơn trăm vạn mẫu thẳng cánh cò bay không thấy bờ, kéo dài đến mấy huyện.

Vừa lúc huyện lân cận có một mảnh đất của nhà y, ở giữa có một con rạch chảy qua, mà thượng du là mấy mươi mẫu đất của một tiểu địa chủ. Lúc này triều đình đã phân phát loại lương thực dễ trồng sớm chín, các nhà đều gấp rút gieo trồng. Khổng gia chê nguồn nước sử dụng không tiện, liền có gút mắc với hộ gia đình nọ, Khảo lão thái gia tính khí không tốt cho lắm chỉ cần bày mưu một chút, tự nhiên sẽ có người lấy tội danh qua lại với giặc phỉ hại dân đi kiếm chuyện với gia đình nọ, cuối cùng dùng cái giá vô cùng rẻ để cưỡng ép "mua" đất của nhà nọ.

Một chuyện khác là trong nhà y có tên hạ nhân, là tiểu quản gia có địa vị coi như cũng khá cao. Huynh đệ của y có công diệt phỉ trong quân, thăng làm Bách hộ, đi Khổng phủ thăm đại ca. Hai người nói rất vui vẻ, muốn về nhà thăm cha mẹ một chuyến, đi về chẳng qua chỉ mất thời gian không quá ba ngày. Khổng lão thái gia không đồng ý. Bách hộ kia đụng chạm mấy câu, lão thái gia giận dữ, lập tức lôi từ nhà bếp lên tận nhà trước, đè tên Bách hộ này và ca ca của gã xuống đất, đánh mỗi người sáu mươi đại côn, đánh đến hai người mình đầy thương tích.

Lúc này là thời chiến, tàn phỉ Sơn Đông còn chưa diệt sạch, chỗ dựa của quan binh khá vững chắc. Vị Tham tướng lãnh binh chính là Kiều Tứ Hải. Y đau lòng cho quan tướng của mình. Quan viên Sơn Đông Tam ti không dám quản, y liền cáo trạng lên kinh. Thuận theo đó, sẽ đem chuyện Khổng lão thái gia chiếm phi pháp hơn mười vạn mẫu đất mà quản gia nọ biết báo lên trên không sót chút nào.

Dương Lăng nghe rõ chân tướng, cẩn thận suy nghĩ một hồi, mơ hồ đã có một chủ ý hay để xử lý. Hắn cười mà như không, nói:

- Ta biết rồi. Chuyện này, dù sao cũng phải để các tướng sĩ đang đổ máu đánh trận dùng ác khí nói ra mới được. Về phần đất đai chiếm cứ không hợp pháp, cũng phải khiến cho y nhả ra. Chuyện này ta sẽ bắt đầu chuẩn bị ngay bây giờ, không thể để cho y trở thành chướng ngại vật cho công cuộc cải chế cách tân của ta.

Tiêu Các lão ừ một tiếng, lại nhỏ giọng nói:

- Quốc công gia, môn hạ có thể nghĩ đến, còn có một người, không chắc ngài có gan đủ lớn để lôi người đó ra.

Dương Lăng cười ha ha, lạnh nhạt nói:

- Nói đi, lại là con hổ lớn nào?

Tiêu Các lão lắc lắc đầu, nói:

- Vị này không phải là hổ, mà là rồng, một con rồng thật sự!

- Hả?

Dương Lăng trố mắt ra, nói:

- Đương kim Hoàng Thượng! Hoàng Thượng có cái thóp nào?

Tiêu Các lão kề tai hắn, nhỏ giọng thủ thỉ

Dương Lăng từ chỗ của Tiêu Phương trở về phủ, vào gian phòng của Ấu Nương. Hài tử chơi mệt hiện đang nằm ngủ, lộ ra đôi chân trần nhỏ bé mũm mĩm tựa như hai cái ngó sen, trên bụng đắp một tấm chăn mỏng, khuôn mặt đỏ hồng hây hây, chóp mũi lấm tấm mồ hôi.

Hai người ngồi ở bên giường thì thầm hồi lâu, Hàn Ấu Nương nghe xong câu chuyện của Dương Lăng lo lắng nói:

- Tướng công, đó là tấm gương của vạn thế, hậu duệ của Khổng Thánh, không thể khinh động được. Thiên hạ này chỗ nào mà chẳng có người đọc sách làm quan, đến lúc đó đắc tội với ai còn không biết chừng.

Dương Lăng cười nói:

- Nàng yên tâm đi, ta sẽ không hành động theo cảm tính đâu. Chuyện sảy ra với y đến thật là đúng lúc, ta muốn bố trí một chút, lợi dụng sức ảnh hưởng của Khổng gia nhà y để thổi thêm sức gió vào con thuyền cải cách, cũng coi như giúp y lấy công chuộc tội vậy.

Ta sẽ không làm to chuyện của y ra đâu, tuy nói quyền của y to cỡ nào cũng không thể bằng quyền lực của vua, có điều, chiếm đất của dân, ỷ lớn hiếp nhỏ là chuyện sảy ra nhan nhản, cũng không thể coi là chuyện to tát gì. Nếu thực sự đem y ra thử đao, quả thực có chút chuyện bé xé ra to, lại khiến y cảm thấy ta có ý đối phó y. Muốn thử đao, ta cũng sẽ không chọn miếng thịt khó chặt như vậy.

Trách người làm việc xấu không nên quá cay nghiệt, phải xem họ có thể tiếp thu đến đâu, khuyên người làm việc thiệnnên quá kỳ vọng, phải xem họ có thể làm được đến đâu. Tướng công đây hiểu đạo lý này chứ, ha ha! Không phải xem tướng công giống như tiểu tử chưa ráo máu đầu không hiểu sự đời đấy chứ.

Hàn Ấu Nương liếc mắt nhìn hắn một cái, cười như không cười, nói:

- Ồ? Tướng công rất hiểu sự đời sao, ha ha, vậy chuyện gì lại khiến cho cô nương A Đức Ny phải buồn như vậy chứ?

Dương Lăng ngẩn ra, hỏi ngược lại:

- Sao lại nói như vậy? Nàng ấy sao lại không vui chứ?

Ấu Nương khẽ cười nói:

- Thiếp thấy nàng ấy rầu rĩ không vui, suốt cả buổi chiều chỉ ở hậu hoa viên, nhìn thấy thiếp cũng chỉ miễn cưỡng giả bộ vui vẻ. Chuyện này nha, bọn thiếp khuyên không được, ngoại trừ chàng ra, nghĩ tới nghĩ lui cũng không tìm được nguyên nhân thứ hai. Ôi! Quê nhà của người ta xa ngoài vạn dặm, vậy mà vẫn toàn tâm toàn ý đi theo chàng. Chúng ta cũng không thể để người ta phải chịu ủy khuất. Chàng thấy có đúng không?

Dương Lăng cười khổ nói:

- Nàng đó nha, lúc nào cũng chỉ biết cảm thông người khác, tướng công của nàng là người như vậy sao? Thôi được rồi, ta đi xem sao, xem nàng ấy có tâm sự gì.

Ấu Nương "Ừ" một tiếng, ôn nhu khoác lên người hắn chiếc áo choàng nhẹ. Dương Lăng thản nhiên đi về hướng hậu viên.

Nơi này bởi vì tăng cường xây dựng phòng ốc, nên lại mở rộng thêm một mảnh lớn. Chỗ luyện võ của Ấu Nương được chuyển đến bên trên Noãn Diếu, còn mảnh đất bên cạnh Quả Lâm vẫn đang trồng rau xanh, còn có mấy luống ngô, khoai lang, khoai tây, cà chua và gần đây có thêm cây lạc là cây được du nhập vào Trung thổ sau khi đường đi Nam Dương được khai thông.

A Đức Ny đang ngồi trên một tảng đá bên cạnh luống cà chua, trong tay cầm một cây gỗ gõ một cách bâng quơ xuống mặt đất, vẻ mặt cô đơn, si ngốc xuất thần.

Dương Lăng rón ra rón rén đi đến bên cạnh của nàng, A Đức Ny cả kinh, bờ vai giật nhẹ một cái, nhìn thấy là hắn, vừa muốn đứng lên. Dương Lăng đã đặt tay lên bờ vai của nàng, mỉm cười ấn nàng ngồi xuống, dịu dàng nói:

- Làm sao vậy, có tâm sự gì ư?

A Đức Ny lắc lắc đầu, nói:

- Không có.

Dương Lăng vẫn chăm chú nhìn nàng, ánh mắt của A Đức Ny dần dần hoảng loạn lên, rốt cục, nàng hơi nghiêng đầu, than nhẹ một tiếng nói:

- Muội phát hiện ra, những hiểu biết của muội lại không có đất dụng võ ở Đại Minh, ngoại trừ chế tạo vũ khí giết người. Muội không hiểu về Đại Minh, rất nhiều sự việc cũng chỉ đành cho là đương nhiên phải vậy. Những điều muội tưởng là đúng, thì đôi khi lại trở thành hành vi rất buồn cười.

Dương Lăng hơi ngẩn ra, lập tức tỉnh ngộ:

- Hẳn là thiếu nữ thiên tài xinh đẹp người Tây Ban Nha này từ nhỏ đã là người cao ngạo được mọi người tán tụng, hơn nữa sự cao ngạo của nàng không phải đến từ dung mạo, mà là tài học của nàng. Tri thức mà nàng thông hiểu không chỉ vẻn vẹn giới hạn ở lĩnh vực vũ khí, nhưng hiện tại là ở Đại Minh, một khi rời khỏi chiến trường, rời khỏi lĩnh vực chế tạo vũ khí sở trường của nàng, những ý tưởng hết sức tinh vi và phức tạp đều bị phủ định một cách dễ dàng, khiến cho lòng tự trọng của nàng bị tổn thương đến mức chịu không nổi nữa rồi.

Dương Lăng cười rộ lên, vóc dáng của người phương Tây trưởng thành sớm, hơn nữa nàng nhiều lần trải qua biến cố, tính cách lại càng kiên cường độc lập, bản thân mình đã quên mất nàng vẫn còn là một tiểu cô nương, trên phương diện tâm lý vẫn còn rất yếu đuối. Không nghĩ tới nàng bởi vì một phen tranh luận thất bại với Thành Khởi Vận, bản thân hắn lại vội đi gặp vài vị trọng thần của triều đình, đối với nàng có chút sao nhãng, khiến cho nàng sinh ra cảm giác mất mát.

- Nha đầu ngốc, ai nói muội vô dụng hả! Ha ha..., chỉ có muội mới có ý nghĩ kỳ quái như vậy, nữ nhân Đại Minh chúng ta còn tin tưởng mù quáng rằng nữ tử mà vô tài thì hẳn là đức độ nữa đó, ha ha...

Dương Lăng vô cùng thân thiết ôm nàng vào trong lồng ngực cười phá lên.

A Đức Ny nhíu mày, rất chân thành nói:

- Muội nói thật mà, nữ công muội không biết, làm bếp muội không thạo, chốn quan trường muội cũng không giúp được huynh, đợi đến khi gả cho huynh, chẳng lẽ lại chuyên môn phụ trách chế tạo súng đạn cho Dương gia? Trên phương diện là một nữ nhân, muội quả thực là vô dụng!

- Ai nói muội vô dụng?

- Vậy hữu dụng ở chỗ nào?

- À thì...không tạo ra súng đạn, muội vẫn có thể tạo ra...người mà, trước tiên sinh cho Dương gi một hài nhi ngoại quốc đã!

A Đức Ny run người trong khoảnh khắc rồi mới có phản ứng, hai ráng mây hồng tức thời ửng lên trên đôi má của nàng, nàng ngượng ngùng đánh Dương Lăng hai cái, sau đó áp sát vào trong lồng ngực của hắn, u uẩn nói:

- Dương, không nên gạt muội, huynh thực sự yêu thích muội sao?

- Sao kỳ vậy! Chúng ta đã... như vậy như vậy rồi, nếu không thích muội, sao huynh lại làm... như thế như thế với muội?

Hai má A Đức Ny nóng bỏng, rúc vào lồng ngực của hắn, gắt giọng:

- Vậy thì chưa chắc, nam nhân các ngươi phong lưu chơi bời quen rồi. Muội... Muộn vốn cũng nghĩ rằng huynh nhất định sẽ yêu thích muội, nhưng tới nhà huynh rồi, muội mới phát hiện, không chỉ có Khởi Vận tỷ tỷ xinh đẹp tuyệt trần, Ngọc Nhi, Tuyết Nhi, còn có Ấu Nương phu nhân, mỗi người đều xinh đẹp đáng yêu, hơn nữa làn da của các nàng thật mềm thật trắng, người đã xinh đẹp, lại giỏi việc nội trợ, muội thật sự cảm thấy tự ti.

- Ha ha..., Muội cũng có sở trường của mình, thông minh, tự lập, thân hình bốc lửa... Hài...! Đừng lúc nào cũng nghĩ rằng nhất định phải trợ giúp được gì cho sự nghiệp của huynh thì mới chứng tỏ được giá trị của muội, hãy nghĩ đơn giản một chút. Muội xem, Ấu Nương, Ngọc Nhi, Tuyết Nhi, các nàng ấy không phải là rất vui vẻ sao?

A Đức Ny ôm chặt lấy hắn, hạ giọng nói:

- Dương, muội ở Viễn Đông, chỉ có thể yêu mình chàng, chỉ có mỗi chàng để mà nương tựa. Vận nhi tỷ tỷ nói, đây... chính là lo được lo mất vậy, muội cứ lo bản thân mình không xứng để được chàng yêu, hễ về tới kinh thành là thấy điểm nào cũng đều kém mấy vị phu nhân, khiến muội cảm thấy...cảm thấy chàng quả thực sẽ lãng phí cuộc đời nếu chung sống cùng với muội.

Dương Lăng vỗ trán một cái:

- Ôi trời ơi! Càng nói càng nghiêm trọng, không đến mức như vậy chứ? Ài... Muội mắc chứng tự kỷ phải không? Lãng phí cái gì chứ? Sinh mạng, nên lãng phí ở chỗ người đẹp và vật tốt, muội ở trong lòng của huynh, là bảo bối mà người khác không thể thay thế được, sao cứ phải tự làm khổ mình như vậy.

A Đức Ny nghe xong, đôi con ngươi như bảo thạch phát ra tia sáng rạng rỡ, vui vẻ nói:

- Dương, lời huynh nói là thật chứ?

Dương Lăng ôn nhu đem nàng ôm vào lồng ngực, nhẹ nhàng ngửi ngửi mái tóc của nàng nói:

- Đương nhiên là thật. Các nàng đều là bảo bối trong lòng ta. Ấu Nương là bến cảng của ta, mặc kệ ta ra khơi xa cỡ nào, đều phải trở về bên nàng ấy ta mới an tâm; Vận Nhi là trợ thủ của ta, cùng nàng ấy sóng vai đi thuyền, ta mới yên tâm; Tuyết Nhi là một loại quả vui vẻ, nàng ấy lúc nào cũng nghĩ ra mọi biện pháp để khiến ta vui; Ngọc Nhi là một dòng suối nước nóng, hai ba ngày không hưởng thụ một chút sự dịu dàng của nàng ấy, ta liền cảm thấy ngứa ngáy.

A Đức Ny nghe xong ánh mắt trở nên mông lung, ôn nhu khẽ nói:

- Dương, muội ở trong lòng huynh thì là cái gì?

- Nàng?

Đang ôm ấp nàng, Dương Lăng cũng bị câu hỏi này làm cho rạo rực, hắn ghé sát vào một bên tai của vưu vật rực lửa này, khe khẽ nói:

- Nàng...Nàng chính là một viên hợp hoan tán của ta. Nàng đến ngồi ở đây, khiến ngay cả cà chua ở trên kệ cũng trở nên gợi cảm rồi đó.

Từ 'Hợp Hoan Tán' này, hắn vốn tưởng rằng A Đức Ny nghe không hiểu, lại không biết rằng A Đức Ny ở trên thuyền hải tặc từng làm huấn luyện viên, những thuyền viên này hễ cứ lên bờ liền điên cuồng tầm hoan tác lạc, đến khi lên thuyền lại điên cuồng bàn tán về nữ nhân. Mưa dầm thấm lâu, đừng nói hợp hoan tán, những thứ mà nàng nghe được còn nhiều hơn thế. Nếu không một nữ tử chưa bao giờ đụng chạm với nam nhân như nàng, khi ở trong xe ngựa trên đường đi Tế Nam làm sao lại biết dùng loại phương pháp này để thỏa mãn hắn?

A Đức Ny nghe vậy thì vô cùng xấu hổ, nàng cắn môi nhõng nhẽo đánh hắn mấy cái, nghĩ tới cách hắn so sánh, lại không kìm nổi phì cười. Nét mặt A Đức Ny cuối cùng cũng khôi phục được thần thái vui vẻ, tự tin trở lại.

Nàng nhẹ nhàng quàng tay vào cổ của Dương Lăng, bằng vào thanh âm ôn nhu, ngọt ngào, thần thái kiều mỵ nói:

- Vậy thì....Dương thân yêu, chàng chuẩn bị khi nào thì ăn viên hợp hoan tán là ta đây thế?

Dương Lăng do dự một chút. Nếu là chiếu theo nghi lễ nạp thiếp, chỉ sợ nàng không quen, hơn nữa cô nhỏ này có lòng tự trọng rất cao, hiện tại có thể nhập gia tùy tục mà làm tới được bước này đã là quá khó cho nàng rồi, không thể để nàng quỳ bái từng vị phu nhân được, nhất là cái nghi lễ quỳ lạy kia, nàng chắc chắn không thể thích ứng.

Chi bằng, Dương Lăng linh cơ vừa động, thầm nghĩ:

- Tổ chức hôn lễ theo kiểu phương Tây được không nhỉ? Dường như đạo của phương Tây chỉ cho phép một vợ một chồng thôi. Kệ, nhập gia tùy tục, cha sứ mà không thay đổi quy củ, vậy cứ đợi năm trăm năm sau hãy quay lại đi, nam nhân thời đại này có ai mà chịu gia nhập đạo giáo của ông ta chứ. Hẳn là không thành vấn đề, đám cha sứ này ngay cả giáo điều 'Thượng Đế tạo ra thế giới' mà cũng dám sửa để có thể lấy lòng người dân Đại Minh, sửa mỗi cái nghi thức chủ trì hôn lễ cũng chẳng nhằm nhò gì.

Nghĩ đến đây, Dương Lăng nói:

- Ờ..., mấy ngày nay đang bận quốc sự, như vậy đi, để lát nữa huynh nói với cha sứ Nhã Các Tư một tiếng, bảy ngày sau, sẽ tổ chức cho chúng ta một hôn lễ kiểu phương Tây, muội thấy thế nào?

Ráng chiều lan khắp trời, trong tiếng chim hót ve kêu, hai bóng người đang tựa vào nhau:

- Thật sao? Dương thân yêu!

- Quân tử nhất ngôn!

- Quất ngựa truy phong!

Lần này, A Đức Ny nghe không hiểu.

*************

Báo Viên, một gian phòng lớn, nơi Hoàng đế Chính Đức kết hợp tất cả chức năng làm việc, vui chơi, nghe kinh, thưởng thức ca múa vào làm một, một đội ngũ đông đảo gồm pháp vương, Phật sống, cao tăng, ăn mặc long trọng đang ngồi khoanh chân, mặc trên người tăng bào và pháp bào màu đỏ sẫm và vàng sẫm, trên đầu đội mũ có chóp đỏ của giới tăng ni hoặc mũ hộ pháp khảm bảo thạch của đạo gia.

Hoàng đế Chính Đức cũng đang mặc y phục làm phép, khoác áo cà sa, đội mũ ráng mây, ngồi ở vị trí trên cao, hai bên là hai cây nhang cỡ bự quý giá đang cháy, tỏa ra khói hương bện vào thân thể ngài, bảo tướng trang nghiêm, y hệt như Phật sống tại thế.

Ngài vốn cũng là phật, tự phong là Đại Khánh Pháp Vương Đại Định Tuệ Phật, được đám cao tăng này tôn làm thủ lĩnh. Thường ngày khi cùng đám Lạt Ma này đàm kinh luận đạo, ngài cũng ăn mặc như vậy, hiện tại đương nhiên là phải trang phục chỉnh tề.

Chỉ có điều, ngài hiện tại đang nói tới lại không phải là phật pháp, mà là chính sự.

- Vùng đất Đóa Cam (bao gồm Thanh Hải) kể từ sau khi Trung Sơn Vương Từ Đạt của bản triều tiễu trừ tàn dư của triều Nguyên là Vương Bảo Bảo, chính là biên giới của Đại Minh ta, triều đình đã thiết lập ra Hà Châu Vệ, Tây Ninh Vệ, An Định Vệ, A Đoan Vệ, Khúc Tiên Vệ và Hãn Đông Vệ, Tất Lý Vệ, là vì sự tiện lợi cho dân chúng, đồng thời cũng thể hiện sự tin tưởng của triều đình. Quan viên các Vệ này đều là do người đứng đầu các bộ tộc ở địa phương đảm nhiệm.

Hoàng đế của triều ta thậm chí còn coi trọng các Pháp Vương, Phật sống thuộc các giáo phái như Ninh Mã Ba (Hồng giáo) do Liên Hoa Sinh Đại Sĩ truyền lại, Cát Cử Ba (Bạch giáo), Tát Ca Ba (Hoa giáo), Cách Lỗ Ba (Hoàng giáo), tại Cù Đàm Tự, triều đình đã lập ra Tây Ninh Tăng Cương Ti, tại Dân Hòa Hoằng Hóa Tự cũng đã lập ra Tăng Cương Ti.

Đối với các thủ lĩnh địa phương, tăng lữ, triều đình ta còn gia tăng sự tôn kính, ngay cả đối với dân chúng địa phương, triều đình cũng nỗ lực để phát triển đồn điền, xây dựng trường học, khuếch trương buôn bán, ân đức không thể nói là không sâu dầy.

Nhưng hiện tại trẫm rất thất vọng, vô cùng thất vọng, vô cùng khiến trẫm thất vọng rồi. Trẫm giao Đóa Can cho các thủ lĩnh trông coi, Trẫm đem Thanh Hải Hổ phì nhiêu giao cho bọn họ để làm mục trường, bọn họ lại ngồi yên nhìn Gia Tư Bố, Bá Nhan Mãnh Khả trước sau xâm lấn. Hồ Thanh Hải là của Trẫm ban cho các bộ tộc của Đại Minh, chứ không phải là nơi để nuôi dưỡng loại ác lang như Bá Nhan Mãnh Khả.

Hôm nay, Trẫm mời gọi các vị Pháp vương, Phật sống, Đại đức cao tăng tới đây là muốn nói cho các vị biết, nếu các thủ lĩnh ở Đóa Cam đã không thể chống đỡ được sức tiến công của đám ác lang đó, giáo hóa phật pháp cũng không thể cảm hóa được hung tính và dã tâm của kẻ địch, vậy thì chỉ còn cách là Trẫm đóng vai Nộ mục Kim Cương (vị Kim cương có ánh mắt hung ác). Trẫm nhất định sẽ không ngồi yên nhìn Đóa Cam rơi vào tay Bá Nhan đâu.

Trẫm có trong tay đại quân hai trăm vạn, lẽ nào lại để Bá Nhan Mạnh Khả chiếm đoạt Thanh Hải làm của riêng được? Hắn nghĩ rằng Đại Minh đang có nội chiến nên có thể thừa cơ sao? Nực cười! Của cải của Trẫm rải khắp bốn phương, ngân khố quốc gia sung túc, đừng nói hai mặt khai chiến, cho dù có khai chiến thêm nhiều nơi nữa thì đã làm sao? Bắc đánh Bá Nhan, Đông bình Oa Khấu, Nam đuổi Phật Lang Cơ, chỉ một vài trận là thành công, hễ chiến là thằng, không gì không phá được.

Trẫm hiện giờ đang bị đám quân ô hợp không tới năm vạn người ở Hà Bắc, Sơn Đông cầm chân thật sao? Sơn Đông cướp, Hà Bắc trộm! Những địa phương này từ xưa đã vậy, chẳng có gì đáng phải bận tâm. Nếu các thủ lĩnh, Phật sống ở Thanh Hải không có năng lực đuổi đám ác lang Bá Nhan này đi, Trẫm thông cảm cho cái khó của các ngươi, Trẫm sẽ tự mình phát binh để đánh đuổi hoặc tiêu diệt bọn chúng.

Chính Đức uy phong ẫm lẫm, đảo mắt qua bốn phía, chỉ thấy các vị Phật sống, Pháp vương trên mặt lộ vẻ vẻ bất an, xì xào bàn tán, khóe miệng của y không khỏi lộ ra một tia cười ranh mãnh.

Địa khu Thanh Hải đa số là bộ lạc, giữa các bộ lạc đều không phục nhau. Chính vì nguyên nhân này, bọn họ trước sau không thể hình thành được một chính quyền tập trung có đủ sức mạnh, cho nên đối với Đại Minh càng thêm nhún nhường. Từ khi Đại Minh lập quốc đến nay, bọn họ hàng năm đều đến triều cống, hàng tháng đều lên triều nghị sự, tuy nói chỉ là hình thức, nhưng có được lợi ích thực sự lại chính là bọn họ, chí ít cũng thể hiện ra là mình phục tùng.

Triều đình ở địa khu Đóa Cam thực hiện chế độ tự trị. Tướng lĩnh và binh lính các Vệ đều là người của các bộ tộc ở địa phương. Bọn họ ở xa Hoàng đế, tự do tự tại, sao mà không thoải mái cho được? Nhất lại là có sự hợp nhất giữa chính trị và tôn giáo, nhóm người Pháp vương và Phật sống thân phận tôn quý, lại càng hiểu được chỗ lợi ích ở bên trong.

Triều đình phát binh? Đại quân Triều đình vừa đến, trong lúc chiến loạn, nhà của vườn tược của bọn họ sẽ ra sao? Mấu chốt nhất chính là, nếu như binh mã của các Vệ sở thuộc sự quản lý của các bộ tộc địa phương đã khiến cho Hoàng đế Đại Minh kiêm Quốc Khánh Pháp vương Tây Thiên Giác Đạo Viên Minh Tự tại Đại định Tuệ phật tiên sinh rất thất vọng, rất không vui, vậy đại quân của ngài một khi tiến vào Thanh Hải, liệu có rút đi nữa không?

Những Phật sống này đều thuộc tầng lớp cao nhất, được sinh ra trong một xã hội mà ở đó chính trị và tôn giáo là đồng nhất, suy xét vấn đề cũng vô cùng tỉ mỉ. Hậu quả lâu dài sau chiến tranh lập tức được họ cân nhắc tới.

Nếu chẳng may Hoàng đế tiểu Phật gia ngại việc đi tới đi lui quá tốn kém, chỉ mua vé một chiều, đánh trận xong nhân tiện hủy bỏ chức vụ chỉ huy của tộc trưởng thuộc sáu Vệ sở kia, đem binh mã cũng đổi thành kiêu binh mãnh tướng người Hán vừa mới thắng trận, toàn bộ đều lưu lại không đi nữa, khả năng này không phải là không có, kế "Mượn đường phạt Quắc" chẳng phải là một trong ba mươi sáu kế mà người Hán đã nghĩ ra sao.

Nếu Hoàng đế Đại Minh thật sự vừa phát cỏ vừa bắt thỏ, thực hiện cùng lúc hai mục tiêu, vậy thì bọn họ còn có thể duy ngã độc tôn ở Thanh Hải sao? Các vị lãnh tụ tôn giáo, mỗi người đều có lòng riêng, khẩn trương nhẩm bảng cửu chương, tính toán lợi ích được mất của bản thân mình.

Hoàng Đế Chính Đức đảo mắt, lại gia tăng thêm áp lực:

- Theo trẫm được biết, sau khi Bá Nhan xâm lược Hồ Thanh Hải, b Ngõa Lạt và Hỏa Si đối với việc Bá Nhan chiếm giữ vùng đất vào sâu trong lãnh thổ của họ cảm thấy vô cùng bất an, các nước ở Tây Vực lo lắng một khi thế lực của Bá Nhan lớn mạnh sẽ tôn tính bọn họ, nên cũng đang tích cực liên kết, chuẩn bị phát binh tới Hồ Thanh Hải. Hồ Thanh Hải nha, sắp sửa biến thành nơi nước sôi lửa bỏng rồi, trẫm thương yêu bách tính, nhưng trẫm cũng không còn cách nào khác rồi.

Hôm nay mời chư vị Pháp vương, Phật sống đến, là muốn nói với các vị phải lập tức trở về, quản lý cho tốt tín đồ, đệ tử của mình, bảo bọn họ rời xa nơi nguy hiểm, tránh bị tai bay vạ gió trong khói lửa chiến tranh, thảm hoạ chiến tranh cũng khốc liệt như lửa vậy.

Đồng thời, trẫm thông báo trước cho các vị một quyết định của mình. Để phòng ngừa hàng hóa vật tư của Đại Minh trong quá trình vận chuyển bị Bá Nhan đoạn được, phòng ngừa tin tức tình báo về sự điều động quân đội của Đại Minh bị thám mã của Bá Nhan biết được, trước khi Bá Nhan Mãnh Khả rút khỏi Hồ Thanh Hải, trẫm sẽ phong tỏa biên giới, đình chỉ hết thảy hoạt động giao dịch chà và ngựa giữa các thành thị.

Cái gì? Các nước Tây Vực kết bè kết phái kéo tới đánh giết, bộ tộc Ngõa Lạt, Hỏa Si cũng muốn đến góp vui, Đại Minh cũng gấp rút xuất binh, lại còn đình chỉ giao thương giữa các thành thị. Đây đúng là biến Hồ Thanh Hải thành điểm tập kết của các phương rồi.

Vở 'Quần Anh Hội' này một khi đã xướng lên, vậy thì Thanh Hải liệu còn có thể bình yên nữa sao? Bản thân bọn họ đều là Trụ chì, Viện chủ, Pháp vương Phật sống, dưới trướng có cả ngàn người trực tiếp phục vụ, có thể chốn đi đâu được đây. Chỗ phồn hoa nhất thì lại gặp phải chiến tranh, giao thương lại bị đình chỉ, vậy bản thân mình phải dẫn người nhà tới nơi hoang vắng nghèo khó để hít gió Tây Bắc sao?

Đến lúc này đám Phật sống quả thật đã rất sốt ruột, bọn họ châu đầu ghé tai, lời nói vừa nhanh vừa gấp, sóng âm dần dần cao lên, cũng không biết là đang tranh luận những gì.

Hoàng Đế Chính Đức ngồi nghiêm trang, vẻ mặt từ bi bác ái, từ bi một lúc lâu, chư vị Phật gia phía dưới còn chưa thương lượng xong Tử Ngọ Dần Mão. Chính Đức liền thở dài một tiếng, thủ kết "Bất động căn bản ấn", tiến nhập vào trạng thái minh tưởng, động mà không động...

Cũng không biết trải qua bao lâu, tiếng nghị luận trong đại sảnh dần dần lắng xuống, xem ra đám Phật sống này đã đạt thành hiệp nghị rồi, Hoàng Đế Chính Đức vẫn đang ngồi đả tọa, đám Phật sống cũng không dám quấy rầy y, cũng may ngồi thiền đối với những người này thật sự không thành vấn đề, thế nên mọi người đều kết thủ ấn, dứt khoát cùng Hoàng thượng tu hành.

Hoàng đế Chính Đức cuối cùng cũng thu công, đám Phật sống cùng y tịnh tu, nhưng thực tế trong lòng lo lắng vạn phần kia, lập tức cũng đều tỉnh lại.

Một vài vị Phật sống ngồi ở hàng đầu, địa vị tôn quý thì thầm vài câu, Phật sống Ôn Già cung cung kính kính thi lễ nói:

- Đại Hoàng đế bệ hạ, chúng ta đều nhất trí cho rằng, lao sư viễn chinh, chiến hỏa liên miên đối với chúng sinh mà nói không phải là chuyện may mắn. Chúng tôi khẩn cầu xin được lập tức trở lại Đóa Cam, tận một phần tâm sức, dùng lực lượng của Phật môn chúng tôi để trục xuất Bá Nhan Mãnh Khả khỏi Hồ Thanh Hải. Xin Đại Hoàng đế bệ hạ hãy tạm hoãn việc phát binh, nếu như chúng tôi thất bại, lúc đó mới xuất binh cũng chưa muộn.

Hoàng Đế Chính Đức xúc động nói:

- Binh đao vốn vô tình. Trẫm hết lòng tin theo ngã phật, sao lại muốn sát sinh chứ? Nhưng Bá Nhan vào Thanh, hậu hoạn vô cùng, trẫm cũng vì bất đắc dĩ mà thôi. Chư vị Phật sống tình nguyện đi làm việc thiện có ý nghĩa như vậy, trẫm sao có thể không đồng ý đây? Như vậy đi, trẫm lập tức phái người hộ tống các vị Phật sống trở lại Thanh Hải, nếu như có thể biến can qua thành bạch ngọc đó là tốt nhất, còn nếu không thể, các vị Phật sống cũng đã tận tâm tận lực, chuyện còn lại cứ để cho trẫm gánh vác đi.

Chúng Phật sống nghe xong lộ ra vẻ mừng rỡ, làm gì còn tâm tư lưu lại, lập tức người người đáp ứng, cáo từ rời đi, lập tức chuẩn bị thu thập hành trang để trở về Thanh Hải.

Gian phòng rộng lớn như vậy trong thoáng chốc đã trống trơn, Hoàng đế Chính Đức rướn cổ ra nhìn trái nhìn phải, nhịn không nổi phì cười, y vội nghiêm mặt lại, một tay lật hướng lên trời, một tay hướng xuống đất, chỉ Thiên họa địa, bệ nghễ chúng sinh, miệng niệm "Úm Mạ Ni Bá Mê Hống...", tùy ý kết xuất Đại Uy Đức Kim Cương Ấn, quả thực là vô cùng thành thục.

Cửa bên chợt mở, hai bóng người nhanh như thiểm điện lướt vào bên trong, người đi đầu nhìn thấy bộ dạng của Chính Đức, cười khanh khách nói:

- Coi ngài kìa, diễn cũng giống lắm, ngồi tê cả chân rồi phải không, mau đứng dậy đi.

Đường Nhất Tiên vừa cười vừa đá đá chiếc bồ đoàn nơi Chính Đức đang ngồi, gắt giọng nói:

- Làm cái gì thế, mau đứng dậy đi.

Chính Đức mặt mày nhăn nhó nói:

- Đừng đụng vào, đừng đụng vào, cái bàn này mà để lâu cũng chịu không nổi nữa là, chân của ta tê rần rồi, ai da, nàng đừng có động vào ta.

Y nhăn nhó đặt chân xuống phản, cẩn thận ruỗi ra, vừa ngồi yên chờ cho huyết mạch lưu thông, vừa cười nói:

- Thế nào, ta diễn kịch cũng có nghề đấy chứ?

Dương Lăng tiến đến gần điện thi lễ:

- Thần tham kiến Hoàng thượng, Hoàng thượng vạn tuế, vạn tuế, vạn...

- Ta nói rồi Vạn Niên huynh, đã nói ở chỗ này không cần câu thúc nghi lễ quân thần, ta sắp thành hôn rồi, sau này, đây chính là nhà của ta và Nhất Tiên. Ở nơi này, ta sẽ sống một cách bình dị dân dã. Ái dà, huynh đừng giận ta, Ta không động đậy được, đúng là không thể so được với người cả đời ngồi đả tọa, ái, tê quá, huynh tự tìm chỗ ngồi đi.

Đường Nhất Tiên cười hì hì đem một cái ghế đến, Dương Lăng thấy Hoàng thượng ngồi trên bồ đoàn, bản thân mình ngồi ghế sẽ cao hơn y, liền cầm lấy một cái bồ đoàn, ngồi đối diện với Chính Đức, Đường Nhất Tiên thấy vậy, tự mình cũng cầm cái bồ đoàn đến, lại lấy thêm một đĩa nho từ trên thư án của vua đặt ở giữa ba người.

Chính Đức vỗ nhẹ lên đùi nói:

- Bá Nhan chiếm cứ Hồ Thanh Hải, cứu tế ở Sơn Đông, dân di cư khai hoang ở Liêu Đông, tên điên họ Triệu ở Sơn Tây chiêu binh mãi mã tại Trung Điều Sơn, lại còn Bạch Y quân ở Giang Nam...có sống có chết, có hy vọng và cả thất vọng, trẫm cũng vừa buồn lại vừa vui.

Dương Lăng thản nhiên cười nói:

- Chính là muốn bọn chúng Nam tiến. Miền Bắc cưỡi ngựa, miền Nam đi thuyền, một khi đến Giang Nam, bọn chúng sẽ phát hiện nơi ấy đích thực là giàu có vô cùng, nhưng ưu thế trên ngựa của bọn chúng cũng không còn nữa. Tận lực phân hóa chia rẽ, tập kích và làm suy yếu, sau ba bốn tháng thì đem đám tàn binh còn lại đuổi về phía Bắc. Trời đông giá rét mặt đất đóng băng, lại thiếu y phục và lương thực, từ lúc khởi sự đến khi cáo chung, bọn chúng ồn ào không được tới một năm, Hoàng thượng cứ việc yên tâm.

- Về phía Thanh Hải, cứ chờ xem năng lực của đám Phật sống kia thế nào, nếu bọn họ không giải quyết được Bá Nhan, khi đó chúng ta cũng đã giải quyết xong Bạch Y Đạo, có thể rảnh chân rảnh tay rồi. Chuyện ở Liêu Đông cũng không khó giải quyết, đây là chuyện cần giải quyết lâu dài, giống như dò đá để vượt sông vậy, phát hiện ra vấn đề gì thì giải quyết ngay vấn đề đó, triều đình chỉ cần quan tâm nhiều hơn, đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ hơn là được.

Về phần Triệu Toại ở Sơn Tây, đợi những việc ở đây có chút kết quả, thần muốn đích thân đi một chuyến, nếu có thể chiêu an được thì tốt, bằng không tuyệt đối không để cho y phát triển lớn mạnh. Đám phỉ lưu lạc này một khi có được căn cơ vững chắc, vậy thì rất khó để trấn áp, nhất định phải đuổi y đi.

Chính Đức gật gật đầu, vẻ mặt nghiêm chỉnh lại:

- Nói rất đúng. Trải qua việc này, những khiếm khuyết của công tác Triều chính đều đã bộc lộ ra, đây chẳng phải là một chuyện tốt sao. Giải quyết kịp thời có thể tránh cho mâu thuẫn bị đẩy lên cao trở nên gay gắt. Trẫm cũng muôn văn có thể an bang, võ có thể định quốc, làm nên một phen sự nghiệp, nhưng vấn đề của bản thân mình còn cả một đống chưa giải quyết xong, đã nghĩ đến việc mở mang bờ cõi, đó là tham vọng viễn vông, đúng là có thực mới vực được đạo.

Dương Lăng nghe vậy rất mừng, nói:

- Kiến giải của Hoàng thượng rất hay, thần và mấy vị đại nhân Nội các, Lục bộ thương nghị một phen, đem mười hai điều trong sách lược cải cách tinh giản xuống còn mười điều, cảm thấy đã vô cùng ổn thỏa rồi, chuẩn bị trong hai ngày tới trước hết cử người dâng tấu chương lên, trước tiên lộ ra một chút tin tức, để cho mọi người trong lòng có sự chuẩn bị, sau đó sẽ chính thức do Nội các tấu lên Hoàng thượng xin được thực thi. Thần xin nói trước một cách vắn tắt cho Hoàng thượng nghe kết quả thương nghị của chúng thần để ngài có sự cân nhắc.

Dương Lăng nhặt ra những điểm quan trọng nhất thuật lại một lượt, về phương diện cải cách chế độ thuế khóa, chúng quan viên sau khi trải qua thực hiện thí điểm các chính sách thuế mới tại địa phương, như "Lý Giáp Ngân", "Quân Bình Ngân", "Cương Ngân", "Thập Đoạn Gấm", cuối cùng chọn ra chính sách có tính ưu việt nhất là "Nhất Điều Tiên Pháp". Chính Đức nghe đến đó, phun ra một nhúm vỏ nho, liên tục gật đầu nói:

- Được! Được! Được! Những chính sách lạc hậu về thuế khóa của Đại Minh cũng nên sửa đổi rồi, Nhất Điều Tiên Pháp rất phù hợp.

Giang Sơn Đại Minh to lớn như vậy, Trẫm muốn dùng binh mà không có ngân lượng, Trẫm muốn cứu tế mà không có ngân lượng, đến quốc khố cũng vét sạch sành sanh, đáng thương đến mức độ như vậy, bách tính nghèo khổ vẫn còn nói bị thuế má đè tới nỗi không thở nổi, chẳng lẽ Đại Minh thật sự nghèo đến như vậy ư? Chỉ là vì đánh thuế không đúng đối tượng thôi, người giàu thì b không tới một sợi lông bò, nhưng dân nghèo thì lại phải nộp thuế tương đương nửa năm thu nhập.

Kết quả là nuôi một số người não toàn những mỡ, đánh rắm cũng có thể chảy ra dầu. Ta nghe nói Giang Nam có phú thương muốn ăn cháo lưỡi vẹt, liền giết hơn một trăm con vẹt, loài vật cảnh này thực sự ăn rất ngon sao? Sĩ diện thôi. Muốn ăn râu cá liền mua về trăm con cá chép, chỉ cắt lấy râu để dùng, xa xỉ như vậy, trẫm còn chưa được hưởng nha.

Dương Lăng có chút kinh ngạc, phần kiến giải này điểm đúng chỗ mấu chốt, chỉ là không hiểu sao Hoàng thượng hiện tại lại nói nhiều từ thô tục như vậy, hơn nữa đối với chuyện trong dân gian lại biết cũng không ít, nếu nói là do Xưởng Vệ báo cho y biết, thì cũng không thể dùng những từ thô tục như vậy để nói với Hoàng thượng, đại bất kính nha.

Hắn đưa mắt nhìn Đường Nhất Tiên, trong lòng có chút hiểu ra:

- Tám chín phần mười là do cái miệng toang toác của tiểu ni tử này nói xằng nói bậy với Hoàng thượng rồi, Hoàng thượng cũng tình nguyện để cho nàng ta làm vậy, thích được người ta đối đãi với mình như đối với người thường, hai người đó, một tình nguyện đánh một tình nguyện bị đánh, bản thân mình cũng không phải là thày dạy giáo dục công dân, loại chuyện nhỏ nhặt này cũng chẳng đáng để mà can ngăn.

Những lời này nếu để cho đám người Vương Quỳnh, Lưu Kiện thậm chí hiện tại cả Dương Đình Hòa, Lương Trữ nghe thấy, chỉ sợ đều sẽ thất kinh biến sắc, lập tức tận lực khuyên ngăn, yêu cầu vua của một nước cần phải thận trọng từ lời nói đến hành vi cử chỉ, thậm chí sẽ phát động quần thần tổ chức một cuộc nghị sự lớn tại triều đình, kiến nghị Hoàng thượng cần kiểm điểm môt cách sâu sắc. Cũng chỉ có Dương Lăng căn bản không quá coi trọng chuyện này, Chính Đức ở trước mặt hắn càng thoải mái tự tại, làm người càng đỡ mệt mỏi, chẳng trách có chuyện gì cũng tình nguyện nói với hắn.

Dương Lăng vừa nói đến cải cách trong tổ chức quân đội, Chính Đức lúc này huyết mạch đã lưu thông, vỗ đùi tràn đầy đồng cảm nói:

- Điều này rất hay, có phải do Lục Hoàn đề xuất không? Ừm, chủ ý này của ông ta không tệ. Hiện tại liền chiếu theo phương pháp luyện binh trong dân, vừa giúp triều đình luyện binh lại không phải tốn chi phí của triều đình. Đợi đến thời điểm thích hợp, trực tiếp thay thế quân tại các Vệ sở. Đúng là một chủ ý hay nha, nói thực lòng, Trẫm hiện giờ không có tiền, chế độ trong quân đội lại không thể không sửa đổi, cần phải nghĩ ra biện pháp khôn khéo thôi.

Hiện tại hễ xem báo cáo của bộ Binh là Trẫm lại tức giận, nói là có hai trăm vạn quân, nhưng trong đó có bao nhiêu người chỉ biết làm ruộng đây. Nếu không phải là ái khanh ngươi lãnh binh giúp Trẫm chút giận, không hiểu trận đó đã đánh ra cái con bà nó tình trạng gì rồi? Người muốn nhập ngũ thì lại không được tuyển, người không muốn nhập ngũ thì lại bị bắt phải đi, như vậy liệu có tâm lý đánh trận sao? Cần phải thay đổi!

Dương Lăng dần dần nói đến mục đích thực sự của hắn lần này, hắn nói tới tính nghiêm trọng và nguy hại của tình trạng thôn tính đất đai, sau đó liếc trộm Chính Đức một cái, thấy y vẫn đang nghe một cách nghiêm túc, Dương Lăng thở dài một hơi, lo lắng nói:

- Hoàng thượng, có sự ủng hộ của Hoàng thượng, việc cải cách nhất định có thể được phê duyệt, lực cản trong triều cũng sẽ không quá lớn, điều thần lo lắng chính là, sau khi phê duyệt mười điều cải cách này, việc triển khai thực hiện liệu có được nghiêm túc hay không?

Những người thôn tính đất đai, không phú thì quý, bảo bọn họ nhả miếng thịt đã ở trong miệng ra, ai mà cam tâm chứ? Đám người quyền quý đó lại có lớn có nhỏ, tất sẽ bắt trước so bì với nhau. Người đại hiển đại quý không chịu tuân theo chế độ của triều đình, người tiểu hiển tiểu quý sẽ học theo, chính lệnh của triều đình ban bố xuống sẽ bị đem gác xó, chỉ trở thành một kiện công văn được lưu giữ mà thôi, như vậy chẳng phải là kiếm củi ba năm thiêu đốt một giờ sao.

Chính Đức đảo mắt, cười ranh mãnh nói:

- Ha ha, muốn Trẫm nghe mười điều cải cách? Sau khi tấu chương trình lên chẳng lẽ Trẫm lại không xem được sao? Biết ngay là khanh có chủ ý khác. Khanh yên tâm đi, không cần biết hắn là Vương Hầu Khanh Tướng, hay là Hoàng thân Quốc thích, hoặc giả là quan viên nhất nhị phẩm, nếu dám không tuân chính lệnh, Trẫm sẽ đứng sau chống lưng cho khanh, nhất loạt trừng trị!

Dương Lăng vẻ mặt đau khổ, lắc đầu nói:

- Vô ích thôi. Nếu người này... chức quan quá lớn, quyền hành quá lớn, thì dù Hoàng thượng có chống lưng, thần cũng không dám đắc tội hắn.

- Ha...!

Chính Đức bật cười:

- Được rồi, khanh cũng đừng vòng vo với Trẫm nữa, Khanh cứ chỉ đích danh là ai, Trẫm muốn xem xem là ai mà oai phong như vậy.

- Người này, chính là Hoàng thượng ngài!

- Trẫm?

Hoàng đế Chính Đức ngẩn người, hơi giận:

- Trẫm có thôn tính đất đai sao? Đất trong thiên hạ đều là của vua, Trẫm cần gì phải thôn tính của ai? Trẫm chỉ muốn mở mang bờ cõi, dùng sức mạnh đối với ngoại bang, chỉ là chưa đúng thời điểm thôi. Khanh nói đi, Trẫm như thế nào lại trở thành kẻ đầu sỏ thôn tính đất đai vậy?

Đường Nhất Tiên thấy vậy, vội vàng cầm lấy hai chùm nho đưa cho mỗi người:

- Nào nào, ăn nho đi.

Không ai để ý tới cô ta. Dương Lăng nhìn thẳng vào mắt của Chính Đức, rất chân thành nói:

- Hoàng Trang (Trang viên của Hoàng gia)! Hoàng thượng đã quên mất Hoàng Trang rồi sao?

- Hoàng Trang?

Hoàng đế Chính Đức kinh ngạc không hiểu:

- Khanh nói tới Hoàng Trang? Khanh thử nói xem Hoàng Trang như thế nào mà lại tính là thôn tính đất đai hả?

Dương Lăng nói:

- Hoàng thượng lựa chọn Hoàng Trang cho tới nay đã có hai mươi mốt nơi được khoanh vùng, ước tính khoảng hai triệu mẫu đất, Hoàng thượng như thế, các Phiên Vương ở địa phương lại càng như vậy, Phiên Vương trên lãnh địa của mình thông qua sự chỉ định của Hoàng thất, mỗi người đều sở hữu không dưới mấy trăm vạn mẫu đất, số lượng khổng lồ, khiến người người kinh sợ,...

Hoàng đế Chính Đức tức đến sắp bể phổi, nhất thời có chút bi phẫn, y quát lớn:

- Trẫm còn gây ra tội ác tày trời cơ đấy! Khanh đã từng thay Trẫm quản lý bảy cái Hoàng Trang, chắc cũng biết sự tình trong đó, cái gì mà Trẫm sở hữu mấy vạn hecta đất, rồi Phiên Vương sở hữu bao nhiêu vạn hecta đất, đây đơn thuần chỉ là tin đồn bậy bạ, cụ thể thế nào, chẳng lẽ Khanh lại không rõ sao?

Đường Nhất Tiên căng tròn con mắt, liếc bên trái một cái, liếc bên phải một cái, thấy hai huynh đệ sắp tranh luận đến mức đổ vỡ rồi, vội vàng lại cầm lấy hai chùm nho khuyên nhủ:

- Nào nào, ăn nho đi.

Hai người vẫn không hề để ý tới nàng ta, Đường Nhất Tiên oán hận ngắt một quả nho xuống, ném vào miệng.

Dương Lăng khẽ cười nói:

- Khi thần thay mặt Hoàng thượng quản lý Hoàng Trang, ngài cũng biết, đấy chẳng qua chỉ là để ngụy trang, có điều lần này vì sự cải cách, thần đã điều tra lại một cách tỉ mỉ, hiện tại đương nhiên đã hiểu.

Chi phí của Hoàng thất, vương thất, vốn là do tài chính của triều đình chi trả, số tiền này từ đâu mà có? Từ tiền nộp thuế của dân chúng. Dân chúng mọi nơi đều phải nộp thuế, đây là điều hiển nhiên. Những vùng đất mà Phiên Vương được phong, Hoàng thất chỉ định (hay còn gọi là Vương Điền), không phải có ý nghĩa ở chỗ vị Vương gia này có bao nhiêu ruộng đất, mà là ở chỗ thuế thu được trên những vùng đất này không phải giao nộp lại cho Hộ bộ, mà do người của Vương thất cử ra để quản lý, trực tiếp do Vương thất sử dụng. Hoàng Trang của Hoàng thượng cũng là như vậy.

Chi tiêu của Hoàng thất, Vương thất vốn chính là do tài chính của triều đình cung ứng, phần đất đai được quy hoạch thành Hoàng Trang, phía Hộ bộ liền căn cứ vào số lượng để cắt giảm tiền cung ứng, sự tồn tại của Hoàng Trang và Vương Trang, chỉ là khiến tiền thuế của dân chúng không phải nộp qua khâu trung gian là Hộ bộ, mà trực tiếp giao nộp cho đối tượng vốn nên hưởng dụng nó là Hoàng thất, Vương thất sử dụng.

Nộp Hoàng thuế, Vương thuế, thì không phải nộp Quan thuế, không hề có sự trùng lặp về thu thuế. Vì vậy, gọi đó là Quan thuế hay Hoàng thuế cũng đều như nhau, chỉ khác ở khâu quản lý, đối với bách tính mà nói, kỳ thực không có gì khác biệt.

Sắc mặt của Chính Đức từ từ dịu xuống, Dương Lăng tiếp tục nói:

- Hơn nữa, thuế đất mà Hoàng trang, Vương trang trưng thu được ấn định theo tỉ lệ là một mẫu đất thu ba phần thuế, so với tỉ lệ trưng thu bình thường của địa chủ còn ít hơn một chút, gánh nặng mà nông dân canh tác trên ruộng của Hoàng trang phải chịu nhỏ hơn so với nông dân canh tác trên ruộng đất thông thường.

Hoàng đế Chính Đức hừ một tiếng, giọng buồn bực nói:

- Khanh biết rồi mà còn nói như vậy? Ban nãy đúng là làm Trẫm tức chết mà.

Dương Lăng khẽ mỉm cười, nói:

- Hoàng thất dù thế nào cũng cần phải có nguồn thu để ứng phó với chi tiêu hàng ngày, không thu từ Hoàng trang, thì lại thu từ Quan địa (đất đai do quan lại quản lý), không trực tiếp thu, thì do Hộ bộ cấp, như vậy thì đất đặt tên là Hoàng trang và Quan địa có gì khác biệt?

Thuế thu trên một triệu mẫu đất mỗi năm ước khoảng một vạn lượng, một số Thân hào, Thương nhân buôn muối, Thương nhân buôn bán trên biển, mỗi năm kiếm lời lớn hơn rất nhiều so với con số này. Thuế mà Hoàng gia thu nạp xem ra cũng không thể khiến người nghe cảm thấy kinh sợ, cũng không thể tính là thôn tính đất đai, khiến dân chúng không có đường sống.

- Nhưng...,

Dương Lăng trở nên nghiêm túc, nói:

- Dân chúng thấp cổ bé họng ai sẽ tính toán những khu đất này một năm phải nộp bao nhiêu? Hoàng gia trưng thu bao nhiêu? Bọn họ chỉ nghe nói hoàng gia tự mình giữ lấy mấy trăm vạn mẫu đất, đã cảm thấy kinh thế hãi tục rồi. Hơn nữa nghe nhầm đồn bậy, ăn nói bừa bãi, vốn là chuyện thường tính của con người. Người dân cũng thích được trò chuyện tán gẫu, thổi phồng sự việc.

Thân sĩ thì lại thích những tin truyền bá như vậy, khi truyền bá những tin như vậy, chính là tạo ra cái cớ để bọn họ tiến hành thôn tính. Người truyền tin càng nhiều, người tin vào nó cũng sẽ càng nhiều, thậm chí còn lưu truyền hậu thế, khiến cho người đời sau không rõ chân tướng sự việc sau khi nghe rồi cũng cảm thấy lòng đầy căm phẫn.

Những lời thần vừa nói vẫn chỉ là tình huống bình thường, trong điều kiện bình thường, không hề có chuyện bức hại nhà nông, việc khoanh vùng lựa chọn Hoàng Trang, Vương Trang đã vô cùng bất lợi đối với Hoàng thất như vậy. Vậy rốt cuộc liệu có chuyện Hoàng Trang bóc lột hay không? Những nông dân canh tác trên ruộng đất của Hoàng Trang có thật sự được nộp thuế ít hơn so với nông dân canh tác trên đất của Quan phủ quản lý hay không, được ưu đãi thực sự hay không? Kỳ thực là rất ít, vô cùng ít.

Hắn đón lấy ánh mắt có phần kinh ngạc của Chính Đức, giải thích:

- Nguyên nhân rất đơn giản, vì Hoàng Trang nằm ngoài sự quản lý của Quan phủ, tự lập ra bộ máy nhân sự để quản lý. Tiền công của những người này đến từ đâu? Lông cừu được lấy từ thân cừu (mỡ nó rán nó), cuối cùng vẫn là lấy từ tiền thuế đất. Vì thế công thêm tiền công của bọn họ, thì thuế đất từ Hoàng Trang đã không còn thấp hơn so với thuế đất giao nộp cho Quan phủ nữa rồi.

Ngoài ra, những người làm quản sự của Hoàng Trang, các sư gia, chính là đang làm thay nhiệm vụ của Quan phủ. Bọn họ, trên thì đối diện với nhóm Hoàng thân Quốc thích thân phận cao quý mà những người tá điền vĩnh viễn không có khả năng giáp mặt, dưới thì đối diện với những tá điền canh tác trên ruộng đất của Hoàng Trang. Địa tô nhiều hay ít chẳng phải là xuất phát từ một câu nói của bọn họ sao? Bọn họ có điều kiện thuận lợi như vậy, có thể không tham sao?

Hoàng thượng cho rằng bản thân mình định ra thuế suất là một mẫu đất b phần thuế thì dân chúng sẽ được bảy phần lợi tức, nhưng trên thực tế, trăm họ cực khổ cả một năm, chân chính nhận về đến ba phần còn chưa được, phần lớn nhất ở giữa đó bị tầng tầng quản sự, sư gia và đám tay chân tham ô chia nhau hết. Dân chúng có biết là ai là người bóc lột bọn họ như vậy không? Món nợ này đương nhiên là tính cho Hoàng thất rồi.

Ngữ khí của Dương Lăng trầm trọng hẳn lên, tiếp tục nói:

- Thần nói đây mới chỉ là Hoàng Trang của ngài, về phần Phiên Vương các nơi... Khụ khụ! Thần không dám giấu Hoàng thượng, Ngài chắc cũng biết, trong các Phiên Vương cũng có kẻ hiền người ngu, không phải ai cũng biết thương xót dân chúng địa phương. Nếu Phiên Vương nào đó bản thân ham tiền tài, liều mạng áp bức, nâng cao thuế suất, cộng thêm tầng tầng quản sự ở giữa bóc lột, dân chúng năm được mùa thu về may ra cũng chỉ dư được một phần lợi tức, miễn cưỡng có thể duy trì cuộc sống, một khi thiên tai mất mùa, bọn họ nếu không làm dân lưu vong, không tạo phản, làm sao có thể sống được?

Chính Đức nghe đến đây, liền hít vào một hơi khí lạnh, kinh ngạc nói:

- Lại...lại có thể có chuyện này sao?

Dương Lăng nghiêm nghị nói:

- Đúng vậy, cho nên Hoàng Trang, Vương Trang là kiểu thôn tính đất đai nhưng không tước đoạt quyền sở hữu đất đai, còn kiểu thôn tính của đám thân hào quyền quý bọn họ là ngay cả quyền sở hữu đất đai cũng tước đoạt nốt, thoạt nhìn có một chút khác biệt, kỳ thật hai loại này đều nguy hại độc nhất vô nhị.

Chính Đức nghe xong cúi đầu không nói, vẻ mặt vô cùng uể oải.

Y tuy rằng thích chơi đùa càn quấy, nhưng từ trong đáy lòng cũng muốn làm một minh quân, làm một Hoàng đế tốt, không thể tưởng được việc mình trực tiếp lập ra Hoàng trang để tạo nguồn cung ứng chi tiêu của Hoàng cung, trung gian bị người tầng tầng lợi dụng để bóc lột, không ngờ lại làm hại dân chúng nhiều như vậy, lần này dân lưu vong tạo phản, nói không chừng có một phần dân chúng là bị mình bức bách, cho nên trong lòng vô cùng khổ sở.

Khóe miệng đột nhiên mát lạnh, từ trong trầm tư Chính Đức đảo mắt nhìn sang, chỉ thấy Đường Nhất Tiên đang cầm một trái nho, đưa đến bên miệng của y, ôn nhu cười với y, trong mắt chan chứa sự an ủi, cổ vũ. Trong lòng Chính Đức cảm thấy ngòn ngọt, bất giác mở to miệng, đem trái nho kia ngậm vào miệng.

Đường Nhất Tiên lại đưa cho Dương Lăng một chùm nho, sẵng giọng:

- Đại ca, huynh đã có biện pháp hay thì nói đi, chớ để Hoàng thượng phải khổ sở.

Chính Đức ánh mắt sáng lên, nói:

- Dương khanh, khanh có kế sách gì hay không?

Dương Lăng nói:

- Không cần kế sách gì cả. Chỉ cần bỏ hết nhân viên quản sự, tiền thuế đất của Hoàng Trang Vương trang vẫn tiến hành thu và giao cho Hộ bộ quản lý, cuối năm Hộ bộ kết toán trích ra để giải ngân cho việc chi tiêu. Về danh mục đất đai, cần thay thế sổ mới và đổi tên thành Quan địa, không đặt tên là Hoàng trang nữa là được.

Chính Đức trố mắt nói:

- Chỉ đơn giản như vậy sao?

Dương Lăng cười nói:

- Đối với Hoàng thượng mà nói thì đúng là đơn giản, đối với người thay Hoàng thượng quản lý điền trang mà nói, lại cực kỳ khó khăn. Thần đang làm đây là cắt đứt đường tài lộc của người ta, tin rằng không đến bao lâu, sẽ có tấu chương tố lên Hoàng thượng về việc hoàn trả Hoàng trang sai lầm chồng chất như thế nào, rồi Hộ bộ giải ngân chậm chễ và tham ô ra sao, chi bằng Hoàng thượng tự mình trông coi đất đai, đề nghị điều trần chắc phải phủ kín Long án của ngài mất.

Chính Đức ngẩn ra, bật cười nói:

- Không vấn đề gì, để trẫm xem ai đến, kẻ nói với trẫm như vậy khẳng định là phường đại tham ô, trẫm kêu Xưởng Vệ trước tiên tra xét tổ tôn ba đời, họ hàng hang hốc nhà hắn, nếu quả thật không có tham ô, lại đến khuyên can cũng chưa muộn.

Dương Lăng nói:

- Còn có một chỗ khó xử nữa, chính là Vương trang. Về mặt lý thuyết, bổng lộc mà Hoàng gia ban cho Vương thất không hề giảm bớt, chỉ là chuyển đổi từ trực tiếp thu thành quan phủ cấp cho. Nhưng những Phiên Vương tự ý nâng cao thuế suất để vơ vét kiếm lời tất nhiên cũng muốn phản đối, có điều, lý do để phản đối này thì không thể nói ra miệng.

Hoàng thượng đi tiên phong trong việc trả lại đất đai, làm gương cho người khác, những Phiên Vương hiền đức tự khắc sẽ noi theo bệ hạ, một số Phiên Vương có lòng tham nhưng biết cân nhắc nặng nhẹ, không có người chống lưng, cũng sẽ tuân theo mệnh lệnh của Hoàng thượng. Chỉ sợ một số Phiên Vương to gan lớn mật, kiên quyết không trả lại ruộng đất, cản trở việc thi hành chính sách mới. Bọn họ không trả, vậy thì các công hầu khanh tướng cũng sẽ không trả, cường hào thân sĩ cũng sẽ không trả. Vấn đề thôn tính đất đai liền khó giải quyết rồi.

Hoàng đế Chính Đức cười lạnh nói:

- Không tới phiên bọn họ quyết định, triều đình hoạch định một năm cho bọn họ bốn vạn lạc bạc tiền thuế từ bốn triệu mẫu đất, hiện tại đất đai qui về Hộ bộ quản lý, một năm vẫn cấp cho bọn họ bốn vạn lượng, bọn họ lấy lý do gì để bất tuân thánh chỉ? Những trò xấu xa của bọn họ chẳng lẽ lại đem ra nói với Trẫm? Khanh yên tâm, cửa ải này, Trẫm cầm chắc! Trẫm lập tức hạ chỉ từ bỏ Hoàng trang, trả lại Hộ bộ.

- Chậm đã, Hoàng thượng chậm đã.

Dương Lăng vội vàng nói:

- Hiện tại không vội, việc từ bỏ Hoàng trang phải chọn thời điểm thích hợp thì mới hiệu quả tốt.

Chính Đức ngây ra nói:

- Việc này... mà cũng phải chọn ngày hoàng đạo sao?

Dương Lăng lộ ra vẻ tinh quái, ghé sát tai Chính Đức nói thầm mấy câu. Chính Đức vỗ đùi mừng rỡ, mặt mày hớn hở nói:

- Hay! Hay! Hay! Cái này hay, Trẫm rất muốn xem dáng vẻ chật vật không chịu nổi của bọn họ, ha ha!

Y cười gian hai tiếng nói:

- Chẳng phải là đào sẵn cái hố cho người ta nhảy xuống sao, Trẫm chính là thích lừa người, hô hô hô, chuyện này thì Trẫm chính là chuyên gia.

Y duỗi duỗi chân, đứng lên nói:

- Trời nóng quá, chuồng thú ở đằng sau bốc mùi khó chịu, hôm nay không xem đấu hổ nữa, đi, chúng ta...

- Chậm đã Hoàng thượng, thần còn có việc phải khởi tấu với Hoàng thượng, nếu Hoàng thượng duyệt rồi, thần còn phải xin Hoàng thượng hạ chỉ.

Chính Đức nghi hoặc nói:

- Còn chuyện đại sự gì nữa?

Dương Lăng đem chuyện của Diễn Thánh Công kể lại một lượt. Chính Đức cau mày nói:

- Chiếm đất của dân, những cường hào địa chủ như vậy số lượng cũng không ít, quốc cữu Trương Hạc Linh vì chuyện này mà không chỉ một lần bị đám người Lý Đông Dương buộc tội, thân phận của ông ta lại khá đặc thù, vì một chuyện nhỏ thế này mà khiển trách nặng, sợ khiến người ta chê cười. Công tước đánh mệnh quan triều đình, vốn là một chuyện không nhỏ, đáng tiếc....

Chính Đức cười khổ nói:

- Nếu Dương khanh ngươi hiện tại không được giao nhiệm vụ, lại tự tiện tra tấn mệnh quan triều đình, thì mắc phải tội lớn rồi. Nhưng duy chỉ có Diễn Thánh Công là có thể làm vậy, đây là quy củ truyền lại từ đời Tống, phủ của ông ta tam Đường đủ cả, ngay cả nhà tù cũng có, còn tuyển mộ cả quân lính riêng. Trẫm nhìn cũng không thuận mắt, nhưng nhiều lắm cũng chỉ có thể trách ông ta dùng hình quá nặng, còn có thể như thế nào nữa? Nếu như hạ một đạo thánh chỉ, cũng chỉ có thể giáo huấn hai câu, chẳng phải trở thành trò cười à?

Dương Lăng cười nói:

- Thần biết chuyện này nói lớn không lớn nói nhỏ không nhỏ, Hoàng thượng mà ra mặt thì có vẻ chuyện bé xé ra to, Hoàng thượng không ra mặt thì không ai dám quản lý ông ta. Chuyện này nếu cứ mặc kệ, đến khi thực hiện cải cách nhất định sẽ có người đưa ông ta ra làm bia đỡ đan, chi bằng xuống tay trước giải quyết luôn.

Thần muốn mượn chuyện này để buộc ông ta cũng phải vì sự cải cách của triều đình mà có sự đóng góp và cống hiến. Diễn Thánh Công vẫn còn có chút lực hiệu triệu đấy, hơn nữa ông ta là hậu duệ của Khổng Thánh, nếu ông ta đồng ý đứng lên hô hào, nếu không có tác dụng lớn thì chí ít cũng khiến cho đám hủ nho, học sĩ thủ cựu phải ngậm miệng, khiến bên tai Hoàng thượng thanh tĩnh, bớt ồn ào hơn.

- Hả? Vậy thì khanh muốn làm như thế nào?

Dương Lăng lại ghé sát tai giải thích một phen, Hoàng đế Chính Đức liên tục gật đầu nói:

- Được! Được! Được! Khanh muốn có thánh chỉ, trẫm liền viết cho khanh.

Y đấm nhẹ lên ngực Dương Lăng một quyền, cười ha hả nói:

- Khanh cũng không tồi, rất biết lừa người nha, chủ ý xấu xa cũng không ít.

- Ha ha ha ha...

Hai người đang cười một cách kỳ quái, Đường Nhất Tiên hai tay chống lên eo thon, oán hận lườm bọn hắn một cái nói:

- Nhìn các huynh xem, ra dáng một chút có được không? Các huynh một người là Hoàng thượng, một người là Quốc công, lại ở đây bàn cách để lừa người ta, không thấy xấu hổ, ngược lại cảm thấy đắc ý! Ôi! Muội thực là phục hai tên dở hơi các huynh rồi!

Nàng hừ một tiếng, xoay người rời đi.

Hoàng đế Chính Đức xoa xoa lên chiếc quai hàm, nói:

- Đi, cùng trẫm đi Bắc Hải Tử tránh nắng, chúng ta chèo thuyền câu cá, câu mấy con cá chép tươi về cho Nhất Tiên làm súp cá, tay nghề của nàng cũng rất được đấy.

- Hoàng thượng không dỗ nàng sao? Hoàng thượng sợ nhất chính là tiếng rống của sư tử Hà Đông đó nha.

- Hài! Nàng cũng không giận thực sự, Trẫm mà cứ lúc nào cũng khẩn trương, nàng cũng sẽ chán. Chúng ta không phải lúc nào cũng có thể gặp nhau, hơn nữa, nữ nhân mà, buồn vui thất thường, chính là như vậy.

- Đúng vậy nha, đúng vậy nha, Hoàng thượng nói quá đúng, không gặp được thì còn muốn, gặp nhiều quá thì phiền phức đến phát hoảng... À, đúng rồi, Hoàng thượng, thần hai ngày nữa sẽ kết hôn, dùng nghi lễ của Tây Dương để tổ chức, biết Hoàng thượng thích xem náo nhiệt, Người có đi hay không?

- Đi chứ, đi chứ, náo nhiệt thế này thiếu Trẫm làm sao được? Thuận đường đi xem Hoàng Am, Hoàng Am sắp xây xong rồi...Hoàng Am...Hoàng muội sắp dọn tới rồi...

Một đôi huynh đệ gian trá, vừa trò chuyện, vừa ngất nga ngất ngưởng đi xa dần.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 380: Du hí nhân sinh

Công cuộc cải cách được Chính Đức gióng trống khua chiêng sau khi kế vị rốt cuộc đã bắt đầu rồi. Kỳ thật trước đó Lưu Cẩn đã đã tiến hành cải cách một lần, chỉ có điều, lần cải cách đó xuất phát từ trong quan lại, hơn nữa căn bản không thông qua thảo luận của triều thần, nội dung cải cách cũng không có trọng điểm, sao có thể khiến mọi người thực thi, còn lần này tuy rằng chỉ có mười điều, nhưng mỗi điều đều bao hàm những vấn đề nóng hổi nhất của toàn bộ xã tắc: Lại trị (chế độ cai trị hành chính), chế độ thuế, đất đai, chế độ tổ chức quân đội cùng với một phần chế độ giáo dục.

Khi Lưu Cẩn còn đương chức, nắm toàn bộ quyền hành, phàm những ai phản đối cải cách của y lập tức bị đổ cho các loại tội danh rồi bị giam cầm hoặc bãi chức. Còn lần cải cách này được sự ủng hộ của Nội Các, Lục Bộ và toàn bộ hệ thống Khoa Đạo (ban khoa học kỹ thuật), hơn nữa Dương Lăng và người của Nội Các thảo luận nhiều lần, nhằm vào những vấn đề có khả năng bị chất vấn, để hoàn thiện chính sách và bổ sung vào những chỗ còn thiếu sót. Mỗi điều khoản đưa ra, đều thuyết minh một cách chi tiết những khuyết điểm của chế độ chính sách cũ, chính sách mới nhằm vào những đối tượng nào, vì sao lại có sự đổi mới, khiến cho những ai phản đối không thể biện hộ được. Vì vậy, ngay sau khi được Hoàng thượng phê chuẩn, việc đưa ra chính sách mới cực kỳ thuận lợi.

- "Đại Minh khám loạn pháp ", " Pháp luật về chiêu mộ binh lính của Đại Minh ", " Pháp luật về thuế của Đại Minh ", " Pháp luật về công thương của Đại Minh ", "Pháp luật về di dân của Đại Minh ", " Pháp luật về thi cử của Đại Minh", "Chế độ thi cử Quan lại " lần lượt được công khai, nó giống như một dòng suối mát rót vào một triều đình khô cứng và hủ bại trong thời điểm nội bộ Đại Minh đang phát binh tiễu phỉ, Giang sơn Tây Bắc đang nổi lên phong ba bão táp.

Những sĩ phu có nhận thức trong triều cũng không ít, nhất là lần tạo phản này của dân lưu vong đã trở thành một động lực vô cùng lớn cho sự cải cách. Những người tạo phản chỉ trong một thời gian ngắn đã tập hợp được nhiều người hưởng ứng như vậy, vô số gia đình thân hào ở mấy trọng trấn lớn phía Bắc không chỉ tan cửa nát nhà mà còn bị diệt môn, tài chính triều đình chỗ nào cũng gặp cảnh túng quẫn, những chuyện như vậy đã thức tỉnh bọn họ từ trong ảo cảnh về một thế giới thái bình thịnh trị. Vô số những bi kịch như vậy đã khiến cho bọn họ tràn đầy xúc động, bọn họ cũng biết ý dân không thể trái, triều đình cũng nên tiến hành một phen cải cách rồi.

Hoàng đế Chính Đức hạ chỉ, một lần nữa làm rõ việc miễn thuế lương thực cho các địa phương như Kinh kỳ, Sơn Đông, Hà Nam, Hà Bắc... Đồng thời tuyên bố đối với những dân lưu lạc muốn khôi phục cơ nghiệp, quan phủ sẽ cấp lương thực, nhà cửa, ruộng đất, trâu bò nhằm an ủi lòng dân lưu lạc, đồng thời đối với di dân ở Quan Đông thi hành vô số chính sách ưu đãi, đất đai được khai hoang sẽ thuộc quyền sở hữu cá nhân, trong ba năm không phải nộp tiền thuế...Cứ như vậy, rất nhiều người dân bình thường cũng bắt đầu động tâm suy nghĩ.

Đặc biệt là đối với những gia đình có nhiều con cái, bao gồm cả những hộ gia đình có người trong quân đội, vì theo thông lệ của dân gian, gia sản do con trưởng đích tôn kế thừa, những người con trai khác đều phải tự tìm cho mình sinh lộ, thừa dịp tuổi còn trẻ ra quan ngoại lập nên một mảnh cơ đồ, có được đất đai, điền trang cho riêng mình, sao lại không vui vẻ mà làm cơ chứ? Huống hồ, những người này không có nỗi lo ở hậu phương, một khi thất bại có thể quaychốn cũ. Vì thế rất nhiều thanh niên trẻ tuổi không phải là con cả trong gia đình đều đến báo danh, trong đám di dân tiến vào ba Vệ ở Đông Bắc bắt đầu có sự gia tăng số lượng người không mang theo gia quyến để đi khai hoang. Những người này tương lai sẽ trở thành lực lượng chủ chốt để rèn luyện thành binh lính.

Nội bộ triều đình cũng tiến hành chỉnh đốn, hiện tại trong Nội Các thì Tiêu Phương đứng đầu, nhưng sự hăng hái như dòng nước xiết của Lý Đông Dương đem lại cho vị Tiêu Các Lão tuổi cao rồi mới có cơ hội thi triển tài năng này rất nhiều động lực và cảm xúc, Ông chủ động xin chỉ, dùng tấm thân già nua đi tuần tra Sơn Đông, Hà Nam, Hà Bắc, Sơn Tây...

Những địa phương này có tổng cộng hơn ba mươi vạn dân tị nạn do chiến loạn mà phải rời bỏ quê hương. Đám người này giống như cỏ khô có thể bị đốt cháy bất cứ lúc nào, hiện tại bọn họ đi ăn xin khắp nơi, vẫn chưa nhìn ra được mầm mống phản loạn, nhưng chỉ cần mùa đông năm nay những người này vẫn chưa tìm được nơi an cư, không chốn nương thân, không quần áo, không lương thực, thì chuyện tạo phản lúc nào cũng có thể phát sinh.

Tiêu Phương xin thánh chỉ dùng thân phận khâm sai đi tuần tra các địa phương, đốc thúc các nhà kho ở châu phủ tích trữ lương thực, hạ thấp giá cả, thu nạp ngân phiếu, bán cho nông dân. Đồng thời lệnh cho các Bố Chính Sử ở những địa phương nói trên tại những nơi có đông dân tị nạn tiến hành biên chế thành những Lý giáp (một Lý giáp tương đương với một trăm mười hộ), lập làng xã mới, an trí tại chỗ, phòng ngừa người dân tiếp tục chạy loạn.

Những địa phương có dân lưu vong rải rác, thì địa phương đó thu xếp vào những hộ tịch sẵn có tại các hương thôn phụ cận của các Châu Huyện, nhưng cũng phải lập ra Lý trưởng mới để tăng cường quản lý, lại tiến hành phân phối trâu cày, hạt giống cho các nơi có đồng ruộng bỏ hoang hoặc vùng bồi đắp của sông Hoàng Hà, khiến dân lưu vong có thể tự mình sản xuất. Nông dân có nhà, có đất, có hy vọng để sinh tồn, thì tuyệt đối sẽ không đem thủ cấp của mình treo ở đai quần để đi tạo phản.

Đại sự trong triều do Dương Đình Hòa chủ trì, trở thành người chấp chưởng triều chính trên thực tế. Đây cũng là sự điều chỉnh quyền lực tinh tế, nhằm tranh thủ sự ủng hộ hết mình của Dương Đình Hòa và phe cánh của ông ta. Dương Đình Hòa loại bỏ những ảnh hưởng chính trị xấu, giảm nhẹ việc trưng thu lương thực và thuế khóa tại những địa phương nghèo khó, cho hồi hương cung nữ và nhạc công, phóng thích tù nhân vô tội, thanh tra các khoản quân lương khống. Chỉ bằng vào những hoạt động này hàng năm là có thể tiết kiệm được cho triều đình cả trăm vạn lượng.

Thân sĩ Giang Nam nhân cơ hội này cổ súy người đại diện cho lợi ích của bọn họ, thỉnh cầu triều đình giảm thuế cho Giang Nam. Đối với yêu cầu này, Dương Đình Hòa kiên quyết từ chối. Giang Nam chính là trọng điểm để tiến hành cải cách của Dương Lăng, những quan viên kia thỉnh cầu Dương Đình Hòa không được bèn tìm đến thỉnh cầu Dương Lăng, đương nhiên là kèm thêm rất nhiều lời dèm pha dành cho Dương Đình Hòa, lại đem nỗi khổ của người dân Giang Nam nói tới mức sắp không chịu nổi.

Giang Nam giàu có nhất thiên hạ, điều này Dương Lăng biết, người dân Giang Nam giàu có hơn người dân các địa phương khác, về điểm này hắn hai lần đi Giang Nam cũng đã biết rất rõ. Dương Đình Hòa giảm thuế cho địa phương nghèo, tăng thuế tại những địa phương giàu có, chính sách này cũng giống như thuế điều tiết thu nhập cá nhân của thời nay vậy, là môt đòn bảy để cân bằng cán cân thu thuế rất hiệu quả, vì thế Dương Lăng hoàn toàn ủng hộ ông ta, những quan lại đi du thuyết kia đều bị đuổi về.

Hai người tuy vì Dương Nhất Thanh mà quan hệ cá nhân không được tốt, nhưng đều lấy đại cục làm trọng, ngầm phối hợp với người kia để hành động. Kỳ thật, nói thuế hiện tại áp cho dân chúng Giang Nam nặng là không sai, nhưng căn nguyên không phải do thuế suất của triều đình cao, mà là do sự thôn tính đất đai và chế độ thuế khóa cũ gây nên.

Việc thôn tính đất đai bản thân nó không phải là có hại, nếu đất đai toàn bộ do nhà nước sở hữu, đó liệu có thể coi là một dạng thôn tính đất đai quy mô lớn? Đất đai thuộc nhà nước cũng tốt, thân hào cũng được, đều cần có người để canh tác. Cứ cho là có một quyền lực nào đó có thể đem toàn bộ đất đai trả về cho nông dân, khiến người người đều có ruộng đất của riêng mình, nông dân, bất luận là làm công việc quản lý tài chính gia đình, hay trồng chọt buôn bán, tố chất mỗi người có cao có thấp, trải qua hơn trăm năm, người khôn thì sống, kẻ yếu kém sẽ bị đào thải, cuối cùng đất đai cũng sẽ quy về tay một bộ phận thiểu số một cách hết sức tự nhiên.

Vấn đề là ở chỗ, người thôn tính đất đai đều là Hoàng thân Quốc thích, các thế gia giàu có và quyền năng. Một khi bọn họ độc chiếm đất đai vào trong tay mình, thì sẽ lợi dụng đặc quyền để luồn lách trốn thuế, đất đai bị thôn tính càng nhiều, thuế mà triều đình thu được càng ít. Hoàng thân Quốc thích, bao gồm công thần có tước vị cao, thái giám có quyền thế, thân hào danh tiếng ở địa phương, đều dựa vào đặc quyền, hối lộ quan phủ, chiếm dụng hộ khẩu phi pháp, giấu đất trốn thuế, lẩn tránh sai dịch.

Như vậy là, thuế của triều đình đều đè hết lên đầu người nông dân, chế độ thuế đinh cũ của triều đình là tính thuế trên đầu người. Những người nông dân không có đặc quyền kia, ruộng đất chẳng có là bao, thuế phải nộp lại ngày một nhiều hơn, kết quả là càng ngày càng nghèo đi, ruộng đất còn lại không thể không mang đi cầm cố ở chỗ người giàu, cuối cùng bản thân trở thành tá điền. Vì thế nguồn thu thuế của triều đình ngày càng giảm đi.

Nhất Điều Tiên Pháp, chia đinh nhập mẫu, đã giải quyết được nan đề này của chế độ thuế khóa lao dịch. Đả kích những đặc quyền phi pháp của Thân hào, đồng thời căn cứ vào tình hình giàu nghèo, đất đai phì nhiêu hay bạc màu ở các nơi, quan lại định ra mức trần địa tô, không cho phép bọn họ bóc lột quá mức người nông dân, do đó đã giải quyết được vấn đề khó khăn nêu trên.

Những điều lệ mới về đất đai, thuế khóa của triều đình đã vạch ra một cách rõ ràng những khiếm khuyết của chính sách cũ, hơn nữa luật lệ mới về thuế cũng chỉ khiến cho những khoản trốn thuế của Thân hào được truy thu về Quốc khố của triều đình, và không thể kiếm tiền phi pháp được nữa. Bọn họ dù sao cũng giàu có một phương, cho nên không cần thiết phải bức họ đến mức phải tạo phản, đồng thời cũng khiến họ không dám coi thường chính sách mới đã được trên dưới triều đình thống nhất. Những cây bút của Khoa Đạo chính là đang trừng mắt theo dõi chờ nắm được sai lầm của bọn họ.

Đám người này phẫn hận không biết kêu ai, liền chút giận lên người đề xướng là Dương Lăng, không ngừng dâng biểu công kích hắn vi phạm chế độ tham chính, tự ý can dự vào công việc của triều đình. Dương Lăng đối với tình huống này sớm đã chuẩn bị, lập tức cáo ốm ở nhà.

Dương Lăng vừa 'ốm', lập tức dâng tấu thỉnh cầu Hoàng thượng thu hồi lại ý chỉ đã ủy quyền cho hắn phụ trách những việc như tiễu phỉ, cải cách triều chính..., nói hắn mắc phải bệnh nặng, cần nghỉ ngơi để dưỡng bệnh, điều này khiến cho những quan viên chỉ trích hắn chỉ biết dương mắt nhìn. Tiếp sau đó lại truyền ra tin Dương Lăng nạp thiếp, khiến đám người này dở khóc dở cười: Thân lâm trọng bệnh ư? Bệnh cô đơn ư?

Vậy nhưng, ngươi công kích ta can dự triều chính, ta liền về nhà lấy vợ bé chơi đùa nha...Ngươi còn muốn thế nào nữa?

Đấu pháp vô lại của Dương Lăng khiến những người này trong nhất thời thật sự là nghĩ không ra sách lược để đối phó.

Hoàng đế Chính Đức của hiện tại cũng không còn giống như năm xưa. Triều đình được y khống chế chặt chẽ trong tay, Nội Các, Lục Bộ, Khoa Đạo, tất cả đều ủng hộ chính sách mới của Hoàng đế, y chẳng thèm quan tâm tới sự phản đối của một số ít quan viên.

Hoàng đế Chính Đức liên tiếp hạ ba chiếu thư trong ba ngày, hơn nữa không phải dùng phương thức hạ chiếu thông thường, mà dùng nghi thức chính thống, thông qua Nội Các truyền đạt xuống, yêu cầu Dương Lăng phò giúp việc triều chính, xử lý công việc. Chiếu thư loại này cần phải chép lại trên bảng thông báo để cho quần thần xem, Chính Đức biểu thị thái độ rất rõ ràng cho người trong thiên hạ: Trẫm ủng hộ hắn!

Theo lời một số thái giám trong nội cung, cả ba đạo chiếu thư trên, Hoàng thượng khi đọc lời cho chiếu thư toàn dùng từ chửi mắng, có điều thông qua ngòi bút mượt mà của Dương Đình Hòa, đã trở nên văn nhã hơn nhiều.

Sáng sớm ngày thứ nhất, Ti lễ thái giám Đỗ Phủ mang theo đạo thánh chỉ thứ nhất tới tuyên:

- Kỷ cương bại hoại, sức nước yếu đuối, quân đội hủ hóa, tài chính túng quẫn, đều là do quan viên lợi dụng những lỗ hổng của chính sách cũ mà gây nên. Dương Lăng một lời chấn động, tựa như hạn hán lâu ngày gặp mưa, Trẫm vô cùng tán thưởng. Nay việc nước rất gấp, là lúc Quốc công cần đưa vai gánh vác, lập chí tiến thủ, lấy lợi ích chung làm trọng, cùng đồng tâm hiệp lực với quần thần, không nên vì lời thị phi mà chùn bước.

Dương Lăng tiếp chỉ, tạ ơn, và từ chối khéo.

Rạng sáng ngày thứ hai, Đỗ Phủ mang đạo thánh chỉ thứ hai tới tuyên:

- Ngày nay quốc gia nguy nan, cần người có tài cứu thế giúp đời nhìn xa trông rộng như khanh, để cùng hóa giải, sao có thể dùng lời thoái thác, kiên trì buông xuôi. Khanh là trụ cột của nước nhà, là cánh tay đắc lực của Trẫm. Quốc công không được tham chính, không phải là quy định của pháp luật Đại Minh, chẳng qua chỉ là quy ước đã lạc hậu. Đại thần Dương Lăng khẩn trương ra trông coi việc nước, chớ phụ ân Trẫm.

Những lời này, Hoàng thân Quốc thích, Huân thần Công khanh toàn bộ đều nghe thấy, như vậy chẳng phải bản thân họ sau này sẽ có cơ hội lộ mặt ở triều đình rồi? Ngay cả những người kiếm được ít tiền hơn do chính sách cải cách mới cũng vỗ tay khen hay, đương nhiên rồi. Hiện giờ Dương Lăng khai thông đường biển, bọn họ tiền nhiều thế lớn, chở thành đại phú hào buôn bán với ngoại quốc, lợi nhuận khổng lồ, cũng không còn quan tâm tới chút lợi ích từ đất đai nữa rồi.

Dương Lăng tiếp chỉ, tạ ơn, tiếp tục từ chối khéo.

Sáng sớm ngày thứ ba, Đỗ Phủ tiếp tục mang thánh chỉ tới tuyên:

- Lời thị phi lại có trọng lượng hơn mệnh lệnh triều đình? Kỷ luật nhà nước còn đâu? Việc tiễu phỉ rất gấp, cải cách rất gấp, an dân rất gấp, chấn hưng giang sơn rất gấp, Dương Lăng nên sớm quay lại triều đình trông coi việc nước. Cửu Khanh Khoa Đạo không được phép nghị luận mù quáng, nếu òn người nào gièm pha quấy nhiễu, nhất loạt giao cho Trấn Phủ Ti nghiêm trị.

Dương Lăng lĩnh chỉ, tạ ơn, tâu lại với Hoàng thượng:

- Quân thượng coi trọng như vậy, vi thần cảm động đến rơi nước mắt, đợi bệnh của thần chuyển biến tốt hơn một chút, nhất định lập tức vào triều, hết lòng tận tụy để chia sẻ nỗi lo với Hoàng thượng.

Hoàng đế nghe vậy vô cùng vui mừng, ngày hôm sau sau buổi lâm triều liền khởi giá ra ngoài thành, đi thăm hỏi bề tôi đắc lực của mình, nhằm biểu thị ân sủng.

Những quan viên công kích trong triều sau khi nghe ngóng, biết Uy Quốc công hôm nay nạp thiếp, cái mũi của bọn họ thiếu chút nữa thì xẹp xuống:

- Cái này cùng với sự kiện Thái tử gia đăng cơ, bá quan văn võ ba lần thỉnh cầu liệu có gì khác biệt? Đây chẳng phải là cố tình trọc tức người ta sao?

Người bị chọc tức chính là bọn họ. Cử trọng nhược khinh (xử lý việc khó một cách nhẹ nhàng), đùa với người đời, trong chò đùa tưởng như hoang đường ấy, lại chính là lúc chỉnh đốn đám hủ nho, tham quan ô lại, đây đúng là trò hay quen dùng của vua tôi nhà này.

Dương gia cũng không tổ chức quá long trọng, tuy rằng thân phận của Dương lăng cao quý, nhưng nạp thiếp thì vẫn là nạp thiếp, chiếu lý mà nói, căn bản không cần phải quá phô trương. Hoàng thượng nạp phi cũng chỉ là rước kiệu đi qua cửa ngách vào cung là xong. Dân thường cưới vợ cũng là chuyện bình thường, tổ chức long trọng quá ngược lại khiến người cười chê.

Có điều, hôm nay Dương Lăng tổ chức hôn lễ theo nghi thức phương Tây, hơn nữa Hoàng thượng cũng tới tham dự, đây phải nói là một điều cực kỳ vinh dự.

Vinh dự không chỉ là toàn gia Dương phủ, đám cha sứ Nhã Các Tư bọn họ cũng cảm thấy vô cùng vinh dự. Đây còn là lần đầu tiên chủ trì hôn lễ kể từ khi bọn họ tới Đại Minh, cho nên giáo đường từ trên xuống dưới trang trí mới hoàn toàn, các cha sứ đều mặc những tấm áo choàng mới tinh

Lần trước giáo đường khánh thành, Hoàng đế đến thăm quan, khiến cho ở Kinh sư dấy lên một hồi chấn động rất lớn. Hiện tại bọn họ đã phát triển được hơn hai ngàn giáo đồ, tuy tuyệt đại đa số đều là những phụ nữ ở vào độ tuổi già và trung niên, nhưng thành tích trong một năm này cao hơn nhiều so với vài năm trước, thời bọn họ lăn lộn tựa như những tên ăn mày, cộng lại. Hiện tại, Hoàng đế lại một lần nữa đến thăm, hơn nữa chủ nhân của hôn lễ lại chính là Công tước của Đại Minh, sức ảnh hưởng là vô cùng sâu xa.

Bọn họ hiện tại đã liên hệ được với người ở quốc gia của mình, thậm chí Giáo Hoàng nơi đó cũng nghe nói bọn họ ở Phương Đông có được sự tiến triển vượt bậc. Các giáo sĩ đang tổ chức lại thành tùng nhóm, mua sắm thuyền bè, kêu gọi tình nguyện viên, thu thập các tài liệu về khoa học, văn hóa, tôn giáo..., chuẩn bị tiến hành phái thêm giáo sĩ tới Trung thổ truyền giáo với quy mô lớn hơn trước.

Những giáo sĩ rải rác ở những nơi khác như Đông Doanh, Lã Tống...thông qua thương nhân biết được sự phát triển của đồng nghiệp ở Đại Minh cũng nhanh chóng tới đây. Bởi vì việc truyền giáo của bọn họ tại những nơi đó là vô cùng khó khăn so với ở Đại Minh, hơn nữa người dân ở những nước như Đông Doanh, Lã Tống...khi tranh luận thường rất thích vận dụng những câu nói, tư tưởng của cổ nhân Trung Quốc và coi đó như là một dạng quyền uy.

Thậm chí trong lúc truyền giáo, bọn họ còn bị dân địa phương ở đó mỉa mai, đều nói đại ý là: "ngay cả người của Đại Minh còn không tin vào Chúa của các ngươi, không tin vào giáo lý của các ngươi, đừng lấy nó ra để lòe người". Đại Minh có ảnh hưởng về văn hóa hết sức sâu đậm đến các nước nhỏ xung quanh, nên bọn họ cho rằng chỉ cần công phá được thành lũy kiên cố này, việc truyền bá tín ngưỡng và giáo lí ở địa phương khác liền dễ hơn nhiều.

Dương Lăng cũng không dám khinh thường vai trò của bọn họ. Các giáo hội phương Tây vào thời đó luôn nắm giữ những kiến thức tiên tiến nhất về văn hóa và khoa học kỹ thuật của phương Tây. Ba trụ cột của Thiên Chúa giáo vào cuối thời Minh là Từ Quang Khải, Lý Chi Tảo và Dương Đình Quân chính là tiếp thu rất nhiều tri thức của phương Tây, nên trên các phương diện toán học, thiên văn, lịch pháp, quân sự, chắc đạc, nông nghiệp và thủy lợi đều có những thành tích đáng kể.

Duy trì chặt chẽ mối liên hệ với bọn họ, đồng thời thường xuyên thu hút giáo sĩ phương Tây đến đây, sẽ đem lại rất nhiều những quan niệm mới, kiến thức mới của phương Tây. Đặc biệt khi họ dừng chân ở Kinh sư của Đại Minh, việc truyền bá sẽ phát triển rất nhanh, rồi bị dung hợp trong vô thức, sẽ ảnh hưởng tới một Đại Minh đang trong thời kỳ manh nha hình thành những tư tưởng mới, khoa học kỹ thuật mới và văn hóa mới.

Do đây là hôn lễ, nên bên ngoài giáo đường không có bố trí quan binh, nhưng lại có khá nhiều bách tính đến chúc mừng. Trong đám người này đa phần đều là thanh niên ngoài hai mươi tuổi, dáng người khôi ngô dũng mãnh, trong người giấu đao sắc bén. Có câu ba tầng trong, ba tầng ngoài, đám người này quả thật được phân làm ba tầng, tầng trong cùng chính là Đại nội Cẩm Y Vệ, ở giữa là thị vệ của Ngự Mã Giám, tầng ngoài cùng chính là người của Đông Xưởng. Hoàng đế đang ở đây, không thể không cẩn thận.

Cái gọi là khách quý trừ người của ba Xưởng một Vệ ra cũng chỉ có người nhà của Dương gia. Giờ phút này ở Dương phủ đang loạn thành một cục, Dương Lăng tức giận hổn hển nói:

- Ta biết ngay mà, ta biết ngay mà ta biết ngay không nên nói cho y biết. Các ngươi nhìn xem, ngay cả hình mẫu ta cũng đã vẽ cho y rồi. Đây mà gọi là áo đuôi én sao? Đuôi én...cũng không nên để cái đuôi vểnh lên như vậy chứ.

Một đám thê thiếp cười khanh khách, Đường Nhất Tiên hất khuôn mặt xinh đẹp nói:

- Khụ khụ! Không được báng bổ quân vương, đây là bộ lễ phục được nhất trong mười sáu bộ mà Hoàng thượng tự mình tìm người để may đấy, huynh coi, đội thêm cái mũ này lên liền giống như...con dơi nha.

Dương Lăng tức giận trừng mắt nhìn nàng, lầm bầm:

- Ta đã nói rồi mà, hôn lễ không cần Hoàng thượng xử lý, y chỉ việc tới dự là được rồi, khụ! Y cứ nhất quyết muốn một mình ôm lấy mọi việc, còn nói nhất định khiến ta vừa lòng, kết quả, đến tận bây giờ mới cho ta xem, Cái này... cũng kịp sửa nữa rồi, đi thôi, đi thôi, nhanh đến giáo đường.

Dương Lăng mặc một bộ lễ phục màu đen, trên đầu đội một chiếc mũ thóp cao có đuôi, vểnh lên như đuôi chim yến, khí độ hiên ngang đi ra ngoài. Tuyết Lý Mai che miệng cười khanh khách:

- Muội nhìn thế nào cũng không thấy lão gia nhà ta giống như chim yến, mà giống con chồn mới đúng.

Hàn Ấu Nương trừng mắt nhìn nàng, nhưng bản thân mình cũng không nhịn được cười.

Cao Văn Tâm nửa đùa nửa thật nói:

- Nữ nhân như nước mà, có nước thì sẽ có cá, cho nên trên người của nữ nhân còn có mùi tanh, nam nhân họ chính là người đi ăn vụng vị tanh, cho nên Chồn thì thích hợp hơn so với chim yến, thích vị tanh.

Nàng luôn miệng nói đến chuyện ăn vụng vị tanh, người nói vô tâm, người nghe hữu ý. Thành Khởi Vận dáng người thướt tha yểu điệu tựa như nhánh hoa mảnh khảnh đứng ở gần đó, khuôn mặt chợt hồng, nàng liếc trộm sang, thấy Cao Văn Tâm vừa nói vừa cười, không giống như là đang châm chọc mình, trong lòng mới âm thầm thở phào nhẹ nhõm.

Nữ nhân không ai là không ghen, ghen tuông vốn là chuyện bình thường. Thê thiếp trong Dương gia sở dĩ hòa thuận, thứ nhất là do Dương Lăng đối xử bình đẳng, không thích nữ nhân trong nhà mình lục đục với nhau, thứ hai là bởi các nàng đều là người thông minh, biết việc tranh giành sự sủng ái không những không khiến cho Dương Lăng vui vẻ, ngược lại còn trở thành cái đích cho mọi người chỉ trích. Hơn nữa, các nàng thích bầu không khí hiện tại, cho nên cũng cố gắng hết sức để duy trì nó, không muốn làm cho cả nhà bất hòa, Cao Văn Tâm quả thật không hề có ý châm biếm nàng.

May quá! May là không có nhiều người đến tham dự, bằng không với bộ dạng này hẳn là xấu hổ chết đi được.

Dương Lăng vuốt vuốt chiếc đuôi cứng ngắc đang vểnh lênh do được một sợi thép cố định, căn bản không hề để ý tới đám đồng liêu đang cười trộm ở hiện trường.

Dựa theo thông lệ cưới hỏi của người theo đạo Thiên Chúa ở Tây Ban Nha, hôn lễ là do phụ mẫu của cô dâu tiến hành tổ chức, thời gian tổ chức hôn lễ tại giáo đường là vào buổi chiều, vì vậy việc Chính Đức đợi khi tan triều mới đến cũng không bị muộn thời gian. Hôm nay là một ngày vui, Dương Lăng trong bối cảnh ở giữa một đám đặc vụ mặt thì nghiêm nghị miệng thì cười to chạy đến giáo đường, đám cha sứ nhìn thấy bộ dạng của chú rể như vậy cũng không nhịn được mà bật cười. Chỉ có đám đặc vụ của Xưởng Vệ là có thể tự chủ, người nào cũng cố nhịn, vờ như không nhìn thấy.

Phù rể Chính Đức thân phận đặc thù, cho nên không theo Dương Lăng đi Dương phủ, y đang đứng trên lễ đường tranh luận cùng với Nhã Các Tư, hy vọng có thể tự mình kiêm nhiệm vai trò cha sứ, điều này có vẻ hơi hoang đường, Nhã Các Tư cười khổ liều mạng lắc đầu. Nhìn thấy Dương Lăng tiến vào, Chính Đức lập tức bỏ mặc Nhã Các Tư, hớn ha hớn hở chạy tới, nhìn một lượt từ trên xuống dưới, chậc chậc khen:

- Xem nào, bộ y phục Trẫm may cho khanh quả thật là rất vừa nha...À, có điều y phục của người phương Tây quả thật có chút kỳ quái.

Dương Lăng cười gượng hai tiếng, hận không thể lập tức kết thúc hôn lễ, để có thể cởi bỏ cái bộ đồ chết tiệt này ra, hắn vội vàng hỏi:

- Hoàng thượng, hôn lễ có thể bắt đầu được chưa?

- Được! Được! Được! Bắt đầu đi!

Hoàng đế Chính Đức mặc trên người một bộ võ phục tay áo bó sát kiểu Trung Quốc, mi thanh mục tú, môi đỏ tựa chu sa, cũng là một mỹ thiếu niên anh tuấn phong độ, so với một Dương Lăng với chiếc mũ chóp cao kèm thêm đuôi yến quả thật là có thần hơn nhiều. Y vội vàng chạy vào một góc, quơ lấy một thanh đao và một tấm khiên rồi chạy trở về.

Dương Lăng ngạc nhiên, giật mình nói:

- Hoàng thượng, cái này là có ý gì?

Chính Đức trang nghiêm nói:

- Dựa theo tập tục của phương Tây, chẳng phải sẽ có ác long và ma quỷ cướp đoạt tân nương, phù dâu phụ trách mê hoặc ma quỷ, phù rể hiệp trợ bên cạnh chú rể diệt trừ yêu ma sao? Trẫm cảm thấy, dùng mỹ nhân kế hơi mất thể diện của nam nhân, trách nhiệm này nên để cho Trẫm một mình gánh vác đi, không thể để cho Nhất Tiên mạo hiểm!

Dương Lăng không biết nên khóc hay nên cười, hắn ngẩng đầu nhìn Nhã Các Tư, Nhã Các Tư nhún vai một cái, dang hai tay, bĩu môi, lắc đầu, ông ta cũng hết cách, ai bảo người ta là Hoàng thượng chứ. Lần này thì nhường, kế tiếp tiến hành chủ trì hôn lễ cho người ta, quyết không thể như thế này, bằng không đợi Giáo Hoàng tổ chức đại đội nhân mã đi tới Đại Minh, nhìn thấy bản thân mình thay đổi nghi thức như vậy thì mặt mũi để đâu...

Ông ta và Dương Lăng ngơ ngác nhìn nhau, trong lúc nhất thời có cảm giác không quen...

Tân nương bắt đầu tiến vào giáo đường. Việc tân nương tự mình may lễ phục sẽ không đem lại may mắn, hơn nữa phải đợi đến lúc xuất phát đi tới hiện trường tổ chức hôn lễ mới được hoàn tất đường may cuối cùng, vì vậy y phục của tân nương cũng đều do một tay Chính Đức lo hết.

Cũng may, váy cô dâu không giống như y phục đuôi yến (măng tô), có thể khiến cho y mặc sức phát huy chí tưởng tượng của mình. Lụa thưa thượng đẳng dùng may áo cưới trắng tinh đại khái cũng có vài phần thánh thiện giống như lễ phục của phương Tây, hơn nữa không hề xấu chút nào mà cô cùng xinh đẹp.

Viền áo xõa tung, eo nhỏ xiết chặt, thánh khiết tựa như một thiên sứ, mặt được che bởi một tấm khăn màu vàng sáng, tay cầm hoa tươi trước ngực, trên đầu đội vòng hoa, dưới lớp khăn che mặt không thấy được tâm trạng của A Đức Ny như thế nào. Nàng khoan thai đi tới, từng bước từng bước một, dáng đi vô cùng tao nhã khoáng đạt, Dương Lăng nhìn mà vô cùng sốt ruột.

A Đức Ny không dám đi nhanh, vốn dĩ khăn che mặt có màu vàng da cam, mỏng và thưa, nhưng Chính Đức lại lý giải vấn đề theo kiểu của phương Đông, tức giống như khăn voan đỏ. Để tỏ ra long trọng, y còn đặc biệt dùng vải gấm tốt nhất màu vàng sáng của Hoàng thất chuyên dùng để làm một chiếc khăn chùm đầu hình bát giác có điểm xuyết thêm đá ru-bi cho A Đức Ny.

Y vốn định điểm xuyết bằng tám viên trân châu, nhưng nghe cha sứ nói trân châu giống như nước mắt tân nương, mang điềm xấu. Cho nên tạm thời lấy tám viên đá ru-bi đính lên. Chỉ đáng thương cho A Đức Ny, căn bản là không nhìn thấy gì ở phía trước nên nào dám đi nhanh, chỉ đành nhìn xuống mũi chân, từng bước từng bước đi về phía trước.

Dải áo dài phía sau của váy cưới được một đôi Kim đồng, Ngọc nữ nhỏ tuổi nâng đỡ, Đường Nhất Tiên một thân y phục diễm lệ, cười dịu dàng đi bên cạnh A Đức Ny. Ngũ Hán Siêu, Tống Tiểu Ái khuôn mặt đỏ bừng, cố gắng nín cười đi phía sau A Đức Ny, liên tục lấy hoa tươi từ trong giỏ rải ở phía trên đầu của nàng. Bọn họ vốn dĩ là phù dâu và phù rể do Dương Lăng chỉ định, không ngờ Chính Đức lấy việc công làm việc tư, nhất định cùng với Đường Nhất Tiên giành lấy vai này, hai người bọn họ trở thành thất nghiệp, bị rớt xuống làm hoa đồng (người rải hoa)

Đôi vợ chồng xui xẻo gặp phải một Hoàng đế Chính Đức không thể lay động, thật sự là dở khóc dở cười. Hai người đều ước hôn lễ mau mau kết thúc. Vị phù rể nhiệt tình thành phá hoại kia còn tưởng mình thiên phú kì tài, chỉ cần nghe người ta nói qua một chút là có thể bắt trước giống y như thật.

Y hùng dũng hiên ngang đứng bên cạnh Dương Lăng, tay trái cầm khiên gỗ vẽ hình miệng hổ, tay phải giơ một thanh đao sáng loáng lên, trong tiếng nhạc thánh ca có phần lạc điệu của Nhã Các Tư, thưởng thức kiệt tác do chính mình sáng tạo ra.

Nhã Các Ti với vai trò là người dẫn chương trình bắt đầu tuyên đọc:

- Lạy Chúa, Chúng con ở trước mặt người. Xin hãy chúc phúc cho đôi nam nữ đang tiến đến lễ đường hôn lễ thần thánh này. Chiếu theo ý nguyện của người, hai người hòa hợp làm một, làm lễ thành hôn, bách niên giai lão, đời đời kiếp kiếp. Kể từ giờ phút này, cùng trải qua kiếp nhân sinh, thương yêu, đùm bọc, bảo ban, tin tưởng lẫn nhau. Chúa trời ban phúc, cho đôi vợ chồng được hưởng hồng ân, Thánh linh cảm hóa, tôn kính đấng cứu thế, trọn đời trọn kiếp ca tụng người.

Mắt của Dương Lăng mở to muốn rách ra mà cũng không nhìn thấy nét mặt của tân nương, đành phải từ bỏ, chuyển sang nghe cha sứ làm lễ:

- Á Lỵ A Đức Ny, con có nguyện ý lấy người đàn ông này làm chồng, cùng anh ấy ký kết hôn ước? Bất luận khi đau yếu hay mạnh khỏe, hay trong mọi hoàn cảnh khác, đều yêu thương, chăm sóc, tôn trọng anh ấy, chấp nhận anh ấy, suốt đời chung thủy với anh ấy cho đến khi nhắm mắt xuôi tay?

Lời này nghe rất quen thuộc. Dương Lăng không kìm lòng nổi nhìn về phía Ấu Nương, Ấu Nương cười khẽ nhìn hắn, trong ánh mắt có sự ngọt ngào và chua xót đan xen, hiển nhiên là đang cùng với hắn nghĩ tới những ngày tháng khó khăn trước đây.

- Ta đại diện cho Thánh phụ, Thánh tử, và Thánh linh...

- Còn có Thánh Thiên sứ.

Hoàng đế Chính Đức vội vàng lên tiếng nhắc nhở.

Thánh Thiên sứ? Liên quan gì đến Thánh Thiên sứ? Dương Lăng hơi ngạc nhiên, hắn ngẩng đầu nhìn xem, chỉ thấy Nhã Các Tư nhếch nhếch miệng, dường như sắp khóc, cha sứ hàm hồ nói theo một câu, sau đó mới cất cao giọng nói:

- Tuyên bố các con đã chính thức là vợ chồng, cầu chúa ban phúc, nhẫn cưới sẽ đại biểu cho lời đính ước của các con.

- Nhẫn! Hoàng thượng, nhẫn!

Hả? À à! Hoàng đế Chính Đức ưỡn ngực đứng ở một bên, đang tính toán ưu khuyết điểm của nghi thức hôn lễ kiểu này với kiểu của Trung Quốc, hòng áp dụng cho hôn lễ của bản thân, chợt nghe cha sứ nhắc nhở, lúc này mới giật mình trở về thực tại. Keng! Cạch! Một tiếng, y vội vàng ném đao và khiên xuống, thò tay vào trong ngực, chỉ nghe âm thanh "Đinh Đang" vang lên, đã thấy một chuỗi nhẫn liên hoàn khá dài được y móc từ trong ngực áo ra.

Mọi người trong giáo đường đều bị sáng kiến của Hoàng đế Chính Đức làm cho đứng hình, Dương Lăng giờ mới hiểu được vì sao y lại thêm vào cả sự chúc phúc của Thánh Thiên sứ. Hóa ra, người phương Tây thời đó khi kết hôn rất chuộng nhẫn vàng nguyên chất, vàng là đại biểu cho sự hồn nhiên, bởi vậy không dùng kim cương. Hình thức được ưa chuộng của thời đó là một chuỗi hai hoặc ba chiếc nhẫn được lồng vào nhau.

Đáng lẽ chỉ cần hai chiếc nhẫn là vừa cho cặp vợ chồng. Sở dĩ có ba chiếc liên hoàn là để đại biểu cho Thánh linh, Thánh phụ, Thánh tử tam vị nhất thể. Chiếc nhẫn thứ ba dùng để tặng cho một nhân vật đặc biệt trong hôn lễ, ví dụ như bà mối hoặc người làm chứng cho hôn nhân. Chính Đức cảm thấy như vậy không tốt lắm, người này có, người kia không có thì thật là khó ăn nói, những người đến dự chẳng phải đều có giao tình sao?

Cho nên vị nhân huynh này mới làm ra một chuỗi nhẫn vàng thật lớn, nặng trình trịch cho vào trong ngực áo. Chẳng phải đã nói mỗi chiếc nhẫn phải đại biểu cho một vị thần sao? Vậy thì thêm vào một vài Đại thiên sứ, thiên sứ chẳng phải là được rồi sao?

Hôm nay trên sân khấu có một vị "Chúa" như vậy, một người đa mưu túc trí như Dương Lăng cũng hết bài, đành phải cắn răng tháo hai chiếc nhẫn từ chuỗi liên hoàn xuống để cùng với A Đức Ny tiến hành trao nhẫn. Chính Đức và Đường Nhất Tiên vừa cười tươi, vừa bắt đầu ân phát nhẫn cho mọi người, mỗi người một chiếc, không thiếu một ai.

Dương Lăng nhân cơ hội này gỡ khăn che mặt của A Đức Ny xuống, tân nương được trang điểm kỹ càng, xinh đẹp cuốn hút, tựa như một trái dâu tây thơm ngon, kiều diễm ướt át, cực kỳ sexy. A Đức Ny cười ngọt ngào với tân lang của mình, đôi mắt đẹp đảo một cái, nhìn Đường Nhất Tiên cười nói:

- Nhất Tiên, bắt lấy!

Vừa nói xong, liền vung tay ném bó hoa bay đi.

Đường Nhất Tiên theo bản năng bắt được bó hoa, nhưng không rõ nguyên nhân. Chính Đức cũng chưa hề nghe qua thủ tục này, vẫn cứ nghĩ trao đổi nhẫn xong thì coi như nghi thức kết thúc, thấy thế, y vội vàng chạy tới cạnh Dương Lăng, oán giận nhỏ giọng nói:

- Ngươi xem, hoa tươi không cần nữa thì ném sang một bên, tuy nàng là nghĩa muội của ngươi, nhưng cũng không thể coi như người hầu như thế được.

Dương Lăng đảo cặp mắt trắng dã, giải thích nói:

- Hoàng thượng của thần ơi, điều này...điều này có ý là, ai nhận được bó hoa, người đó sẽ là tân nương kế tiếp...

- Ngươi trừng cái gì mà trừng, ta có nói là làm tân nương của ta đâu.

Dương Lăng thầm rên rỉ một tiếng nói:

- Ý của thần là: đó là người con gái tiếp theo sẽ kết hôn, sẽ trở thành cô dâu, là một lời chúc đối với cô gái ấy, thần còn cố ý dặn A Đức Ny, phải tặng hoa cho Nhất Tiên. Hoàng thượng, thần... có chút hơi đau đầu.

Chính Đức bừng tỉnh đại ngộ, vui vẻ nói:

- Thì ra là thế, ha ha. Hay hay, cái này hay. À...vậy...vậy còn Trẫm? Trẫm cũng phải có cái gì chứ? Nàng sắp làm tân nương rồi, vậy trẫm sao có thể không làm chú rể đây?

Dương Lăng lập tức nghẹn lời, vật đưa cho tân nương chính là quả cầu hoa, vật đưa cho chú rể kỳ thật cũng có, Hắn là vì nửa đùa nửa thật thuận miệng hỏi A Đức Ny một câu mới biết được. Thời đó, phương Tây đã xuất hiện nịt tất, hơn nữa quý tộc nam càng thích sử dụng nịt tất hơn so với nữ, bọn họ sử dụng nịt tất đủ mọi màu sắc, miệng tất có đường viền tơ khá tinh xảo. Đồng thời, ở vị trí mặt bên của đầu gối còn trang trí nơ hình con bướm.

Trong hôn lễ, nếu chủ rể cởi nịt tất của cô dâu ra, người bị nịt tất ném trúng chính là nam nhân tiếp theo nhận lời chúc sẽ trở thành chú rể kế tiếp. Dương Lăng đương nhiên là không nói ra điều này, giỡn à! Học hỏi người ta thì cũng phải chắt lọc, không phải cái vớ vẩn gì cũng nhắm mắt tiếp thu. Thời đó, khi quý tộc Châu Âu kết hôn, cô dâu còn phải mặc nội y, nằm ở trên giường để quan khách đến hôn hít nữa cơ. Điều này là không thể được.

Dương Lăng lắc đầu quầy quậy, giống như đang đánh trống:

- Không có, không có, nam nhân không có.

Chính Đức gấp quá nói:

- Sao có thể như vậy được, dựa vào cái gì mà nam nhân lại không có, ài! Chi bằng để Trẫm hỏi A Đức Ny.

- Đừng! Đừng! Đừng! À...thần nhớ ra rồi, Ha! Ha! Ha! Dương Lăng cười gượng hai tiếng, thuận tay cởi cúc áo, đem cái áo có đuôi vểnh lên như đuôi yến trên người cởi ra:

- Hoàng thượng, ngài mặc vào, còn có mũ nữa, người mặc bộ đồ này, chính là chú rể kế tiếp đấy.

Chính Đức mừng rỡ, lập tức nhận lấy, đem tấm áo choàng dài đó mặc lên trên người, sau đó lại đội chiếc mũ thóp cao lên đầu. Dương Lăng rốt cuộc cũng lừa được y một vố, chút được cơn ấm ức trong lòng.

Nghi thức kết thúc, tiếp theo là về phủ bày yến tiệc. Giáo đường cách Dương phủ không xa, có thể đi bộ. Đôi vợ chồng mới cưới sóng vai đi phía trước, phù rể phù dâu đi kèm hai bên.

Mặt trời chiều ngả về Tây, ánh dương quang vàng rực phủ xuống. Với chiếc mũ thóp cao tựa như ống khói, vạt áo phía sau vểnh lên nghênh ngang tựa như đuôi chim yến, tay trái cầm khiên, tay phải giơ đao, Đương kim Thánh thượng Chu Hậu Chiếu trở thành một điểm nhấn hoa lệ nhất trong đội ngũ tham gia hôn lễ.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 381: Quay lại triều đình

Gia yến của Dương phủ bởi vì Hoàng đế đến tham dự cho nên tổ chức rất long trọng. Các nữ quyến tự bày một bàn ở hậu đình, Chính Đức và Dương Lăng, Trương Vĩnh thì uống rượu tại tiền đường. Chỉ có tân nương tử thì theo quy củ lễ nghi Trung Quốc trở về Dương phủ, trong tân phòng của nàng đã có một hỉ nương chờ sẵn để hầu hạ, không thể ra ngoài.

Chính Đức Hoàng Đế bởi rằng bên mình đều là những cận thần thường gặp hằng ngày, cho nên vô cùng thoải mái vui vẻ, mọi người uống rượu trò chuyện rất vui. Lúc họ trở về sắc trời cũng đã muộn. Trời đã tối, tuy nói xưa nay Hoàng thượng ở lại Báo viên, không ngại cấm cung đã đóng, nhưng trở về thành cũng không thể quá muộn.

Dương Lăng liền mỉm cười khuyên nhủ:

- Hoàng thượng, sắc trời đã muộn, thần cũng không dám giữ bệ hạ lâu, nếu không sẽ bị Khoa Đạo khiển trách. Hoàng thượng ngài nên trở về cung rồi.

Chính Đức Hoàng Đế đã uống ngà ngà, nghe vậy nói:

- Hài, không sao không sao, muộn một chút kêu cửa thành mở là được.

Dương Lăng cười nói:

- Hoàng thượng, tuy nói hưởng mã đạo Bạch Y Phỉ đã đuổi tới phía nam, nhưng khó tránh khỏi sẽ có một số ít du binh nhân loạn mà chạy thoát, vẫn còn ở phương bắc. Hoàng thượng thân thể vạn kim, không thể nhất thời mà mạo hiểm. Chim mệt về tổ nha, chúng ta uống cũng đã tận hứng rồi, nếu Hoàng thượng không khởi giá, bọn thần sẽ lo lắng, rượu này không thể uống nổi nữa.

Chính Đức dương dương tự đắc, không chút cảm giác mình mũ cao đuôi én, mà giống như một người chim rất lớn, nghe vậy còn cười ha hả không chịu đi về. Đám Mâu Bân lo lắng an nguy của Hoàng đế, bọn họ cũng không dám mạo hiểm phiêu lưu, đừng nói là có người gây tổn thương cho Hoàng thượng, dù chỉ là có người va đụng vào thánh giá, cũng đã đảm đương không nổi rồi.

Mâu Bân đảo mắt, dán tai Hoàng thượng thì thầm vài câu. Chính Đức nghe xong ôm bụng cười to, cái đuôi lớn phía sau run rẩy không ngừng vô cùng quỷ dị. Chính Đức tươi cười nói với Dương Lăng:

- Hóa ra chim mệt về tổ là thế. Ha ha, khanh tự về tổ đi, trẫm sẽ khởi giá về cung, tránh làm lỡ việc tốt của khanh. Hà hà hà...

Dương Lăng nghe vậy không nói gì, thấy Hoàng thượng nâng cao đuôi to lảo đảo đứng lên. Nữ quyến hậu đường nghe được cũng bận rộn đi ra chào, cả nhà tiễn Chính Đức lên kiệu, Ngự lâm quân bảo vệ bốn phía khênh kiệu trở về thành.

Tiễn con chim lớn này đi rồi, mọi người mới thở phào nhẹ nhõm, tôi tớ thu dọn đống chén bát hỗn độn ở tiền đình. Dương Lăng đi vào phòng khách hậu đường với các thê thiếp và Đường Nhất Tiên, Thành Khởi Vận, gọi người châm trà mang đến. Dương Lăng vừa mới giả vờ giả vịt ngồi, đã bị Đường Nhất Tiên và Tuyết Lý Mai cười hì hì bước đến, đẩy hắn ra.

Dương Lăng cười cười, hé mắt nhìn, tất cả mọi người đang dùng trà trò chuyện ở trong sảnh, lúc này mới thản nhiên đi đến chỗ ở của A Đức Ny. Sắc trời mờ tối, hôm nay có việc vui, đan lồng treo sáng ở viện tử. Lúc này đã qua thời kỳ để tang Thái Hoàng Thái Hậu, đèn lông đã đổi một loạt thành màu đỏ, nhìn mà tâm tình thoải mái vui vẻ.

Vừa vào phòng ngủ của A Đức Ny, chỉ thấy sắc màu rực rỡ, nến đỏ long phượng đang cháy, hỉ nương thấy lão gia tiến vào, cười khanh khách cúi chào, sau đó lui ra ngoài. A Đức Ny ngồi ở bên giường, trên người mặc trang phục màu trắng, ngọt ngào nhìn Dương Lăng.

Dương Lăng đóng cửa phòng, đi đến ngồi bên nàng, cầm tay nàng cười nói:

- Ăn gì chưa?

A Đức Ny e lệ gật đầu nói:

- Rồi, hỉ nương có cho muội ăn chút điểm tâm, cháo nóng, đã ăn rồi.

Nàng nhẹ nhàng rút tay ra, đi đến bên bàn, rót ly trà nóng hổi đưa đến cho Dương Lăng. Dương Lăng nhận lấy, thấy là dầu trà sáng bóng, lóe hồng nhuận sáng, không giống bình thường, liền tò mò uống một hớp, căn bản không phải trà, rất ngọt, giống như trà pha mật ong.

Dương Lăng ngạc nhiên nói:

- Đây là mật ong?

A Đức Ny ngọt ngào nhìn phu quân, dịu dàng nói:

- Đúng vậy, hằng ngày muội và huynh đều uống loại nước mật này.

Nàng đảo đôi mắt, ngọt ngào nói:

- Mật ong là tượng trưng của sinh mệnh, khỏe mạnh, và sinh dục. Sau hôn sự của chúng ta ba mươi ngày, cần phải uống mật ong hằng ngày để cầu nguyện cuộc sống của chúng ta sẽ ngọt ngào như mật ong. Đây là 'Tuần trăng mật' của chúng ta đó.

Giờ Dương Lăng mới biết căn nguyên của câu "Tuần trăng mật.". Hắn uống thêm một hớp, ngậm mật ong trong miệng, đặt chén xuống, sau đó ôm eo nhỏ của A Đức Ny, đón lấy miệng nàng. A Đức Ny xấu hổ nhắm hai mắt lại, dâng đôi môi mọng đỏ như đóa hoa lên. Hai người chia sẻ mật ngọt qua miệng, thân hình hai người từ từ ngã xuống giường, nến đỏ vẫn cháy rực, hơi thở hổn hển, tiếng rên rỉ mềm nhẹ đầy quyến rũ.

Qua rất lâu sau đó...

Dương Lăng bỗng nhiên ngồi dậy, tức giận hổn hển nói:

- Cái váy này, muội nói xem váy này cởi thế nào đây?

A Đức Ny quần áo hỗn độn, hai má hồng nhuận làm người ta tai nóng máy mắt, nhưng dây rợ của chiếc váy kia thật sự là không thể tháo ra được, vẫn thít chặt tấm lưng thanh nhã từ ngực xuống eo.

A Đức Ny xấu hổ tự cởi váy, nhưng mất nửa buổi cũng không cởi được. Dưới chiếc váy là dây thép dài thành từng vòng từ nhỏ đến lớn chống đỡ, nằm như vậy ở giường, bên trong lộ ra đôi chân thon dài đi tất màu đen khiến người khác nhìn mà nhiệt huyết sôi trào, nhất là lại không động đậy được.

Hai người chiến đấu với chiếc váy trên người A Đức Ny, chiếc váy này cũng không biết Chính Đức Hoàng thượng chế tác như nào, lúc trước một đám tôi tớ ba chân bốn cẳng giúp nàng mặc vào đấy, sau khi bị Dương Lăng vừa túm vừa giật vừa xé thì căn bản bây giờ không thể cởi ra nổi. Hai người vã mồ hôi hột, cuối cùng đã hết hy vọng rồi.

Ủ rũ nhìn nhau chốc lát, hai người không khỏi phì cười, sau đó thì phá lên cười to.

Dương Lăng nhảy bật dậy, vỗ vỗ bờ vai nàng an ủi:

- Đừng nóng vội, mật đường của ta. Ha hả, ta có cách.

Dương Lăng quay người mở cửa đi ra ngoài, nhìn nhìn chung quanh, sau đó nhanh như chớp biến mất trong bóng đêm. Đám người Hàn Ấu Nương, Cao Văn Tâm ở phòng khách cắn hạt dưa trò chuyện vẫn chưa tan, thấy Dương Lăng quần áo không chỉnh tề chạy vào, không khỏi ngạc nhiên.

Dương Lăng không ngờ các nàng ấy vẫn còn ở đây trò chuyện, hắn cười gượng hai tiếng nói:

- Ầy, ta tìm...đúng rồi, chính là nó.

Dương Lăng sáng mắt lên, bổ nhào qua chụp lấy cái kéo lớn cắt cành hoa ở trên bệ cửa sổ, làm động tác "soẹt soẹt" hai cái, hài lòng cười nói:

- Tốt lắm, muộn rồi, mọi người về ngủ đi, ta cũng đi ngủ đây.

Dương Lăng giơ kéo nghênh ngang đi. Một đám thê thiếp hồng nhan ngơ ngác nhìn nhau: Đêm tân hôn, hắn...cầm kéo lớn để làm gì?

Tuyết Lý Mai đảo mắt, kéo tay Đường Nhất Tiên nói:

- Đi, chúng ta đi xem, xem lão gia chơi trò bí mật gì.

Đường Nhất Tiên mặc dù hiếu kỳ, nhưng là loại chuyện nghe trộm này, nhỡ nghe phải động tĩnh xấu hổ gì đó, mình lại là cô nương chưa lấy chồng thì nào dám gặp người khác? Nàng ngượng ngùng giãy tay ra nói:

- Không đâu. Ta không đi.

Tuyết Lý Mai trời sinh tính hoạt bát, xưa nay không sợ Dương Lăng, từ lúc có bầu lại càng yên tâm có chỗ dựa chắc, nàng càng không sợ. Nghĩ nghĩ, nàng lại kéo tay Ngọc Đường Xuân:

- Đi, Ngọc nhi đi theo ta.

Hai người cầm tay nhau vừa đi đến cửa, Đường Nhất Tiên ở phía sau kêu lên:

- Hài, có trò hay, lát quay về nhớ kể lại cho ta nha.

Tuyết Lý Mai hếch mũi lên, hừ một tiếng, kéo Ngọc Đường Xuân đi thật nhanh.

Trong phòng tân hôn, một bộ áo cưới bị Dương Lăng cắt tán loạn, lộn xộn, cuối cùng đã lộ ra thân thể của A Đức Ny, cặp tất chân cũng không có tâm tình thưởng thức nữa, bị hắn buồn bực cắt đi. Dương Lăng vừa cắt vừa thở dài nói:

- Ôi mẹ ơi, xem như...xem như...

Dương Lăng miệng nói mà mắt nhìn chằm chằm. Bởi vì thấy Dương Lăng chợt im bặt, A Đức Ny hơi bất an, nàng không biết tư sắc của mình có khiến phu quân vừa lòng không, đôi chân thon dài theo bản năng xoắn lại. Chân của nàng lúc ở trên biển thường lộ ra ngoài, bắt nắng biến thành mầu mạch nha, rắn chắc, mượt mà trơn bóng như ngà voi, càng toát lên vẻ yêu mị khó diễn tả.

Dương Lăng bị đôi chân rắn chắc kia vặn vẹo làm cho bừng tỉnh, hô hấp hắn dồn dập, khuôn mặt anh tuấn nổi lên ý cười tà mị, quần áo lót bị hắn vội vàng lột đi, sau đó cười gian xảo với A Đức Ny:

- A Đức Ny.

- Vâng?

Thanh âm từ trong mũi đi ra.

- Có nhớ ta nói gì với muội không, quân tử nhất ngôn, thượng mã dương tiên? Hắc hắc hắc, ta tới đây, em yêu!

Dương Lăng nói xong, như con hổ nhào lên giường.

"Rầm!"

Sau một lúc lâu, A Đức Ny vô cùng lo lắng:

- Dương, huynh làm sao vậy?

- Không... Không sao.

Dương Lăng cắn răng, trong con ngươi sắp phun ra lửa:

- Đau quá, đầu gối ta đau quá. Đập đến xuất huyết rồi!

Hắn oán hận nhìn thắt lưng đồng dài vẫn còn một nửa rũ ở bên giường kia, khóc không ra nước mắt:

- Sao lại dẫm lên nó chứ?

Bên ngoài Tuyết Lý Mai, Ngọc Đường Xuân lén lút đứng ở cửa, dán tai vào lắng nghe động tĩnh trong phòng.

- Ôi chào, còn nói không sao, huynh bị chảy máu rồi, trời ạ, làm sao đây?

- Không sao, không sao. Đừng loạn nữa, đêm tân hôn, ta chảy máu mất phong độ quá.

Tuyết Lý Mai khẩn trương cắn ngón tay:

- Sao ...sao lại là lão gia chảy máu chứ? Đây cũng quá dọa người rồi!

Nàng liếc Ngọc Đường Xuân, cũng thấy khuôn mặt xinh đẹp của Ngọc Đường Xuân trắng bệch.

Trong phòng, A Đức Ny đã nhặt lên kéo lớn kia lên, cắt chiếc áo cưới của mình thành một miếng vải, nhanh chóng băng bó đầu gối cho Dương đại nhân. Dưới tình thế cấp bách, nàng cũng bất chấp mình bị lộ cảnh xuân.

Dương Lăng nhìn tiểu mỹ nhân gợi cảm động lòng người này, bất chợt ôm chầm lấy thân hình mềm mại của nàng, kéo nàng đến ngồi lên người mình, cười nói:

- A Đức Ny. Tướng công ta nghĩ lên ngựa không được rồi. Tuy nhiên "'Nhất trụ kình thiên" vẫn còn miễn cưỡng được. Tối nay, đành phải thiệt thòi cho muội hát bài "Nữ nô trở mình" rồi.

Cùng đêm hôm đó.

- Sở Yến, không cần quá lo lắng, Bạch Y Phỉ đột nhiên trở về Sơn Đông, từ Tú Thiên cướp lấy hai mươi ba thuyền lớn qua Hoàng Hà, tránh quan binh chủ lực Giang Nam tập kích bất ngờ thành Kim Lăng, chỉ có thể đánh xuất kỳ bất ý. Quân đội bố phòng các nơi sẽ nhanh chóng khép về, bọn họ không thể ngang tay giở mánh cũ, lợi dụng ưu điểm hành động nhanh chóng lại bỏ trốn mất dạng.

Sở Yến chà xát tay, cười khổ nói:

- Tỳ tử s có thể không lo lắng được cơ chứ? Tiểu thư đã giao an nguy của ngài cho ta, lại nói Quốc công gia đã truyền lệnh đến, sắp tới sẽ phái người tiếp ngài Bắc tiến, nếu ngài có một sơ suất gì, quốc công gia sẽ lột da ta đó.

Mã Liên Nhi cười khanh khách, dùng nhung thảm ngăn tai con gái lại, tránh cho con gái bị tiếng hét làm tỉnh dậy.

Mã Liên Nhi vẫn xinh đẹp như trước, nhưng lại chín chắn thành thục hơn, cử chỉ chân thành, tiếng cười thoải mái, trên người nàng toát lên một vẻ quyến rũ rung động tâm hôn:

- Sẽ không đâu. Vị Quốc công gia chúng ta là người vô cùng thương hoa tiếc ngọc đấy, chỉ biết lột xiêm y nữ nhân, sẽ không lột da nữ nhân đâu.

Sở Yến đỏ mặt lên. Nàng từ nhỏ đã sống ở thanh lâu, dù sao vẫn là thanh quan. Mã Liên Nhi trêu chọc, nàng cũng không biết nên nói gì.

A Đức Ny xung phong nhận việc vận chuyển hỏa khí bắc tiến, Mã Liên Nhi thông minh làm sao không hiểu ý tứ của nàng ấy? Hiện giờ trong lời nói rõ ràng lộ ra ý ghen tuông. Đây là chuyện nhà của người ta, nàng cũng không dám thêm lời.

Mã Liên Nhi đi đến bên cửa sổ, nhìn bầu trời lóe lên ánh lửa và tiếng pháo, đôi mày thanh tú cong lại:

- Đám người Dương Hổ, Lưu Lục này thật đúng là có thể gây sức ép. Nơi nơi tập kích đến thì thôi, vậy mà lại dám tấn công Kim Lăng. Thủ đô thứ hai có đóng trú trọng binh, hơn nữa tường thành cao dày, pháo vô số, dựa vào bọn chúng có thể tấn công đến được sao? Thật không hiểu đám lưu phỉ này nghĩ gì muốn gì.

Sở Yến hé miệng cười nói:

- Tiểu thư chớ xem thường bọn họ. Nghe nói đám lưu phỉ này công phu trên lưng ngựa rất cao cường. Dù là ở dưới thành Thái An bị Quốc công gia cho ăn quả đắng, nhưng tung hoành bắc quốc vẫn chưa gặp đối thủ. Tới Giang Nam Hà Xuyên tung hoành, tuy rằng bất lợi đối với đại đội binh mã tác chiến, nhưng nam Binh so với quân phương bắc ít có chiến sự, chiến lực mệt mỏi. Bọn chúng tự nhiên không để vào mắt rồi.

Mã Liên Nhi nửa cười nửa không gật đầu, nói:

- Xoa dịu ta chính là xoa dịu bản thân? Yên tâm đi. Ca ca ta tốt xấu là vị Du Kích tướng quân, dưới tay đông binh mã, hơn nữa công phu trên đất liền huynh ấy đều không kém, không có việc gì đâu.

Sở Yến nghe vậy sắc mặt càng đỏ, tựa như quả vải đỏ, miệng nhỏ nhắn há ra, khẩn trương vân vê vạt áo nhưng nhưng lại không biết nói cái gì cho phải. Mã Ngang này công lợi tâm mặc dù lớn chút, tuy nhiên võ nghệ quả thật không tầm thường, hơn nữa chiến không sợ chết, Giang Nam bình Oa y bị điều đến Kim Lăng không thể kiến công, trong lòng vẫn canh cánh. Lần này có cơ hội tác chiến, sao hắn không đắc chí chứ.

Ngăn cách giữa Mã Ngang và muội muội đã được hóa giả, tình cảm của hai người lại tốt đẹp như ban đầu. Sau khi Mã Liên Nhi sinh con gái Mã Ngang đã đặt mua một tòa nhà ngay trong thành cho muội muội, xưa nay vẫn chăm sóc rất tốt, y cũng rất yêu thương cháu ngoại của mình.

Sở Yến đi theo Mã Liên Nhi, thường xuyên có cơ hội nhìn thấy vị Du Kích tướng quân này. Sở Yến mặt mày như vẽ, sóng mắt hồ lệ, môi đỏ mọng một đường, thanh xuân xinh đẹp, là một cô gái rất thanh tú, Mã Ngang vừa gặp đã thương. Mã Ngang nhân tài xuất chúng, quan chức không thấp, Sở Yến cũng rất có tình ý với y. Cho nên hiện tại mặc dù nàng vẫn mở miệng xưng tỳ tử với Mã Liên Nhi, nhưng thật ra trong lòng hai người hiểu rõ, sớm muộn gì nàng cũng sẽ gả vào Mã gia làm đại tẩu đấy, tình cảm giữa hai người dĩ nhiên không giống tầm thường nữa.

Mã Liên Nhi hít vào một hơi, đi trở lại bên bàn, cầm bút cười nói:

- Đánh giặc là chuyện của nam nhân, ngươi đứng ở đằng kia xem cũng sốt ruột thôi. Nào, chúng ta tiếp tục sửa sang lại sổ sách, việc buôn bán của Giang Nam rất quan trọng đối với tên vô lương tâm kia. Ta muốn trở về kinh, đôi hồ ly Thành tỷ tỷ và A Đức Ny kia chắc chắn sẽ không đến Giang Nam. Phỏng chừng đến lúc đó khả năng lớn sẽ là ngươi và Sở Linh tiếp nhận. Đại chưởng quỹ, chúng ta tiếp tục làm việc đi.

Đầu thành lửa đạn mấy ngày liền, Sở Yến thấy nàng vẫn bình thản thong dong, không khỏi vui lòng phục tùng. Nàng chạy đến bên bàn, cũng cầm một quyển sổ sách, khẽ thở dài:

- Tiểu thư tu dưỡng tâm tính thật là tốt. Quốc công gia cũng thật là người may mắn nhất thiên hạ. Nữ tử hiền tài trong thiên hạ này đều bị quốc công gia lấy rồi.

Mã Liên Nhi nghe nàng nói vậy, không khỏi đặt bút xuống, ngây ra một lúc lâu, nghĩ cũng đã đến lúc xua mây mờ nhìn trăng tỏ, sắp được quay về kinh, ở bên người mà mình vừa yêu vừa hận vừa tương tư kia, đôi mắt xinh đẹp cong lên thành hình trăng khuyết, trong lòng ngọt ngào hơn cả uống mật ngọt.

Trên đầu thành, lửa đạn mù mịt.

Bạch Y Quân thay nhau tiến hành công kích tường thành, binh lính kéo lá chắn xe thang mạo hiểm lửa đạn lao tới dưới thành. Nam trấn phủ ti trấn phủ sứ Tiền Ninh, trấn thủ thái giám Nam Kinh Phùng Thừa Dực mặc giáp trụ đích thân tới đầu thành đốc chiến. Chỉ huy tướng sĩ liều chết đánh trả.

Bạch Y Quân tử thương vô số, trước mắt lại không hề tiến triển, bọn họ tuy rằng giết hồi mã thương, đột nhiên dọc Hoàng Hà trở về Sơn Đông. Một đường đi nhanh, lợi dụng cơ hội khoái mã nhanh hơn dịch trạm truyền tin của quan quân, đoạt trước tấu báo quân tình mà bất ngờ đột kích Túc Thiên, đoạt được hơn hai mươi chiếc thuyền lớn đưa đại quân qua Hoàng Hà, lập tức tiến vào địa cảnh Giang Tô, tránh được quan binh Đại Cổ của biên giới Hà Nam Giang Tô, tập kích bất ngờ thành Nam Kinh, không ngờ thành Nam Kinh đã có phòng bị từ sớm.

Chu Đức An mới nhậm chức Phó tổng binh Nam Kinh nghe nói Bạch Y Quân bắt đầu một đường hoạt động hướng Giang Nam, ngay tại ngoài thành Nam Kinh đào vài đạo hào sâu. Tin tức Bạch Y Quân tập kích bất ngờ vừa đến, y lập tức dẫn quân ra khỏi thành, lấy chiến xa, Bách Hổ Tề Bôn Tiễn, hỏa súng, khinh hình pháo và cung nỏ bày liệt xa trận ở sau một đạo chiến hào cuối cùng nghênh địch.

Dương Hổ bịt một bên mắt, chỉ trợn trừng mắt còn lại đằng đằng sát khí, suất lĩnh cấp dưới đầu tàu gương mẫu vọt ra. Mấy vạn thiết kỵ Bạch Y Quân ở phía sau giống như hồng thủy vỡ đê lao đến trận địa quân Minh. Đây là lần xung phong thứ sáu rồi.

"Oanh! Rầm rầm!" Đại pháo đầu thành Nam Kinh bắn về phía trước. Các loại vũ khí trước xa trận chiến hào cũng đồng loạt phóng ra. Cung nỏ, khinh pháo, hỏa súng, hỏa khí dày đặc có hiệu quả tác dụng trong cận chiến hơn so với dùng cung nỏ. Từng hàng Bạch Y Quân trong tiếng nổ vang ngã xuống.

Chu Đức An lãnh binh tác chiến quả thật có bản lĩnh. Y không phải là bị động thủ thành, mà là chủ động ra khỏi thành tác chiến. Quan thủ bị tại thành đầu chỉ huy chiến pháo viễn trình uy lực cực lớn, không ngừng trút lựu đạn xuống giữa và sau Bạch Y Quân, mà tặng tiên phong cho Chu tổng Binh. Bọn họ lợi dụng đại pháo ngăn cách thế công liên miên không ngừng của Bạch Y Quân. Mà Bạch Y Quân vọt tới tiên phong khuyết thiếu quân đội phía sau tiếp viện, lại có vài đạo hào sâu ngăn trở tốc độ đột tiến của mã đội bọn họ, bọn họ chỉ có thể chưa kịp công đã chết uổng trong tay quan binh sau xa trận.

Bạch Y binh ôm tấm ván gỗ, khiêng hào kiều, được kỵ binh yểm hộ liều mạng đột tiến về phía trước, ý đồ biến chiến hào thành đất bằng phẳng có thể thông hành, để kỵ binh phát huy, hậu phương trận đi lên. Lưu Lục thấy Dương Hổ dũng mãnh vô địch tự thân chỉ huy, từng hàng binh lính vẫn không ngừng ngã trong khói thuốc súng tràn ngập, chiến mã mất chủ chạy tứ tán bốn phía, trận địa công kích tử thương vô số, không khỏi lòng nóng như lửa đốt.

Mộc Vân sắc mặt tái nhợt đứng bên cạnh gã, khom người không ngừng ho khan, qua hồi lâu mới thở hào hển đứng lên, thấy Lưu Lục chau mày, liền nói:

- Lưu đại ca, công thành cũng thế, đoạt chiếm ưu thế trước đối phương cũng vậy, nhất định phải dùng mạng người để lấp đấy. Chúng ta không có trọng pháo nha. Tuy nhiên quan binh thiện thủ không giỏi công, hơn nữa Nam quân sợ chiến, hơn nữa chiến mã cực ít, chỉ cần đột phá đạo phòng tuyến này, quan binh sau xa trận nhất định tan tác.

Lưu Lục thở dài nói:

- Ta biết. Có điều thấy nhiều huynh đệ chết vô nghĩa như vậy, lòng ta sợ hãi đau đớn.

Mộc Vân cười lãnh đạm, không nói gì thêm. Y đỡ yên ngựa, lại cong người ho khan. Mấy ngày nay không biết y mắc bệnh gì, luôn ho khan không ngừng, tim khó thở. Trên đường đi y đã mời người xem, lúc công hãm thành trấn còn tìm danh y khám và chữa bệnh, đáng tiếc đều không thể chẩn đoán chính xác, thuốc uống thì nhiều mà lại hoàn toàn không có hiệu quả.

Mộc Vân chính là Lý Đại Lễ, võ nghệ siêu phàm dưới trướng Kỳ huynh Lý Đại Nghĩa. Y giả mạo hộ săn bắn trà trộn vào Bạch Y Quân, vẫn chỉ hiển lộ võ nghệ thô thiển. Nhưng hiện giờ bỡn quá hoá thật rồi. Nói hành công vận khí, chỉ cần khí lực hơi lớn, sẽ đau như đao cắt. Không thi triển đại thần thông được, mà ngay cả võ nghệ giả mạo hộ săn bắn cũng chỉ có thể thi triển được ba bốn phần.

Nhưng hiện tại Bạch Y Quân đang đi hướng nam, dần dần dựa theo hướng đi mà Thánh giáo thiết kế ra. Tuy y võ lực đã kém nhiều, nhưng lại rất được Dương Hổ tín nhiệm, trước mắt loại thế cục này y thật sự đi không được còn thật sự cần y hỏi thuốc.

Lấy tử vong làm cái giá, Bạch Y Quân rốt cục phá tan từng đạo chiến hào, tiếp cận được trước trận hàng chiến xa cuối cùng rồi. Khoảng cách đánh gần như vậy, tốc độ đạn dược nhét vào hỏa khí theo không kịp, Mộc Vân không khỏi cười thoải mái: Quân Minh sắp tan tác rồi, đánh Kim Lăng đủ để chấn động nửa bên Giang Nam. Nếu binh lính quân Minh đang chạy tứ tán trực tiếp giết vào thành, vậy càng thú vị.

Nhưng nụ cười của y chợt cứng lại, bởi vì quân Minh hề chạy trốn. Trong mắt y, chiến lực Nam quân vốn yếu, hơn nữa quân Minh trước mắt chỉ cậy vào địa lợi và hỏa khí, quân đội thì toàn bộ là bộ tốt, sao đối phó được kỵ binh đang tiếp cận?

Kỵ binh có ưu thế tốc độ. Có thể phản phục cướp giết, một vạn thiết kỵ đối kháng hơn mười vạn bộ binh đúng là bình thường. Khi Sở Hán chi tranh, ba vạn thiết kỵ của Hạng Võ trên cơ bản đã toàn diệt bốn mươi vạn bộ tốt của Lưu Bang. Đó chính là trận chiến điển hình trong lịch sử. Tướng lĩnh quân Minh này là ai? Cũng quá ngu xuẩn đi.

Chỉ thấy quân Minh bỏ cung nỏ hỏa thương xuống quay người lui lại, nhưng chỉ lui xa hơn mười trượng, liền cúi người, nhặt trường thương sắp xếp dưới đất lên. Khi Giang Nam kháng Oa dùng trường thương tre trúc, cây trẩu ngâm, dây thừng quấn cán, vừa chắc chắn lại nhẹ. Đại mao thương dài bốn xích hai trượng cương khó đoạn rậm rạp xông lại.

Nếu đám người Mộc Vân, Lưu Lục có thể đứng ở lầu nhìn, bọn họ sẽ phát hiện quan binh nhìn hỗn loạn nhưng lại rất có quy luật, năm sáu cán trường thương, nhất định là đâm một người theo bốn phương tám hướng đấy, trong đó ít nhất có một người cầm chính là cơ nỏ hoặc là đoản súng. Đây căn bản là biến chủng của Choang gia uyên ương trận

Chu Đức An đào chiến hào đã đổ toàn bộ đất đắp thành đống, chiến mã căn bản khó có thể phát huy uy lực, lại thêm đấu pháp binh sĩ này, Bạch Y Quân xung phong tới lập tức lâm vào khổ chiến.

Đầu thành đại pháo vẫn không ngừng nã pháo về hướng trung hậu Bạch Y Quân như cũ. Lúc này bên sườn vọng ra tiếng hò hét, Mã Ngang vung một cây trường thương, lĩnh một đám Phiêu Kỵ mãnh tướng mãnh liệt xông lại. Bọn họ vẫn là thương binh, tuy nhiên có một số thương binh dùng câu liêm thương, phía trước có nhọn, phía sau cong như lưỡi hái, chẳng những đánh người, còn có thể chém đùi ngựa.

Trong đó một ít binh lính trong mệnh lệnh của Mã Ngang bắt đầu phá hỏng ván gỗ bắc qua hào sâu, ném vào trong khe rãnh, chặt đứt liên hệ của mã đội Bạch Y Quân. Kỵ binh của Bạch Y Quân ưu thế ở chiến xa bát địa, nếu đánh ở nơi không bằng phẳng sẽ hoàn toàn mất đi ưu thế nên có, ngồi trên lưng ngựa lại trở thành mục tiêu sống.

Một trận chiến này song phương đều thương vong thê thảm và nghiêm trọng, tuy nhiên Bạch Y Quân rõ ràng chịu thiệt nhiều hơn. Dương Hổ bị trúng hai phát, da tróc thịt bong, máu tươi chảy ròng. Điêu Linh tiễn cắm trên đầu vai vẫn rung lên, được người khác đỡ thất tha thất thểu đến trước mặt Dương Hổ, chiến mã của gã đã bị bắn chết rồi.

Lưu Lục đỡ gã, nói:

- Dương huynh, ngươi thế nào?

Dương Hổ lau mặt, lắc đầu nói:

- Chạy đi. Tập kích bất ngờ thất bại, chúng ta nên trốn ngay, không nên liều chết công thành nữa. Tiếp tục xuôi nam, có thể vào Chiết Giang thì đi Chiết Giang. Nếu không được thì đi Giang Tây cũng được. Hôm nay bị nhục, muốn lấy thành sẽ khó, quan binh nghe tin đang trên đường cứu viện tới, chớ để người ta diệt toàn quân.

Mộc Vân nghe vậy mừng thầm, vội hỏi:

- Đúng vậy, Lưu đại ca, tiếp tục xuôi nam đi. Chỉ cần chúng ta quay lại như gió, quan binh sẽ không làm gì được.

Lưu Lục dẫm chân, căm giận nói:

- Thôi, gõ kẻng thu binh, nhanh chóng xuôi nam!

Trong lửa đạn ù ù, tiếng đồng la đơn bạc vang lên, vô cùng chói tai.

Dương Lăng được Hoàng đế liên tục mời cuối cùng đã quay lại triều rồi.

Trải qua buộc tội thất bại, lại bị Hoàng thượng thông qua "chỉ tang hòe mạ" quở trách, đám quan viên phản đối cải cách đã sửa cung dịch thương, không công kích Dương Lăng tham gia vào chính sự nữa mà quay sang tích cực ủng hộ cải cách.

Việc đầu tiên bọn họ ủng hộ, chính là vào ngày đầu tiên Dương Lăng lên triều, liền dâng tấu buộc tội Sơn Đông Diễn Thánh Công lợi dụng quyền lực thôn tính thổ địa người khác, trốn thuế lậu thuế, người người chống đối. Liền tự tiện vận dụng trọng hình đánh vào đít mệnh quan triều đình, thỉnh cầu Hoàng thượng nghiêm trị.

Mỗi người đều biết rằng, Uy Quốc Công Dương Lăng hồi triều, là muốn cùng Dương Đình Hòa chủ trì việc cải cách và tiêu diệt phỉ. Đây rõ ràng chính là cho hắn một uy thế phủ đầu, không khỏi đồng loạt nhìn về phía hắn.

Dương Lăng sớm đã cho người cầm mật chỉ Hoàng đế và tự mình viết hai phong thư mang đến Sơn Đông. Mật chỉ là dành cho Diễn Thánh Công đấy, mật thư còn lại là gửi cho Học chính Trương Thái An đã soái sĩ cùng với Tham tướng Kiều Tứ Hải lúc tiêu diệt phỉ thì kết giao hảo với Sơn Đông Phủ Dân. Trương Đa Khí chính là vị lão gia từng từ Thái An phá vây, chạy đến Tế Nam buộc học trò của mình Lã Bố chính sứ xuất binh.

Trương Đa Khí khôi hài hài hước, tính cách rộng rãi chính trực, cũng không phải là hủ nho, rất có uy vọng trong sĩ lâm Sơn Đông. Dương Lăng ở Sơn Đông hơn một tháng, từng có giao tiếp với ông ta, giao tình không tệ. Người này cũng có chút giao tình với Diễn Thánh Công phủ, Dương Lăng muốn lợi dụng Diễn Thánh Công để tăng thêm lực cho cải cách, liền nghĩ đến lão nhân kia.

Hiện giờ tấu chương của Diễn Thánh Công phủ còn chưa đến kinh thành. Phía Trương Đa Khí cũng còn chưa có hồi âm. Tuy nhiên bên Kiều Tứ Hải cũng đã có cấp báo thông qua quân dịch truyền đến, từ trong thư đã biết đủ việc của y. Vị Diễn Thánh Công kia đã bị gây sức ép không còn dám làm gì, bên Sơn Đông nhất định là không có vấn đề.

Cho nên những người này đứng ra buộc tội Diễn Thánh Công, Dương Lăng chỉ cười lạnh lùng, lập tức đứng ra tấu:

- Hoàng thượng. Thiên hạ quyền hoạn tranh nhau chiếm thổ địa, theo kết quả đo đạc của triều đình năm nay cho thấy, Đại Minh ta từ mấy trăm năm khai quốc đến nay, đất vườn nạp thuế từ tám trăm vạn khoảnh giảm xuống còn bốn trăm vạn khoảnh, trong đó vẻn vẹn một vùng Hà Nam đã từ một trăm bốn mươi vạn giảm xuống còn đến bốn mươi vạn khoảnh.

Nhiều thổ địa như vậy là biến thành đất hoang sao? Cũng không phải, là bị huân thích quan lại, thân hào địa chủ thôn tính rồi. Họ không nộp thuế, đem số thuế chưa nộp lên triều đình phân chia cho đám người trung nông, khiến bọn họ phải nộp thuế má gấp đôi, đem đất của mình giả gửi trốn hộ, nhằm giấu tên tuổi, tội lớn vô cùng.

Hiện giờ triều đình nộp thuế thổ địa mới chỉ bằng một nửa của ban đầu lập quốc, từ đó đến nay số thuế nộp lên triều đình chỉ có một thành, vậy bốn thành kia đi đâu? Tất cả đều là giao cho dân chúng nghèo khổ quấn lưng buộc bụng phải nộp lên. Vì tiền thuế nộp không đủ, quan điền hại dân, nhà giàu được điền dân nạp tô, hàng năm thuế cũ kết khoản nợ mới, nông dân sản đi thuế tồn, tình cảnh bi thảm, đây là việc lớn dao động nền tảng lập quốc, bất kể người nào phạm phải, đều nên nghiêm trị không tha.

Diễn Thánh Công là thần tử của hoàng thượng, là con dân của Đại Minh, hơn nữa là hậu duệ của Thánh nhân, càng nên cẩn thận, tự làm gương. Thần đã nghiêm túc điều tra, nếu thật sự có việc phạm pháp, cũng sẽ trừng phạt nghiêm minh. Đối mặt với quốc pháp, tất cả đều bình đẳng, trước mặt quốc pháp, đối đãi bình đẳng.

Lời này nói có khí phách, chính khí nghiêm nghị, xem như là một câu trả lời cho mọi người trên triều đình: Đừng có tiếp tục ảo tưởng trong lòng nữa. Cho dù là Diễn Thánh Công, nếu làm việc phạm pháp, triều đình cũng sẽ nghiêm trị không tha. Thể diện của ngươi có lớn hơn Diễn Thánh Công không?"

Hình Bộ Thị lang Triệu Giản Chi ho khan một tiếng, nhướn mày nhìn hắn, chợt đứng ra tấu:

- Hoàng thượng, thần có một vụ án, thần không dám vọng nghị, đặc biệt trình báo Hoàng thượng, mời Hoàng thượng cân nhắc quyết định.

Chính Đức Hoàng Đế thấy quả nhiên có mấy người lấy Diễn Thánh Công ra để đè ép, nghe ngữ khí của Dương Lăng, hiển nhiên là đã giải quyết Diễn Thánh Công xong rồi nhưng vẫn không thiếu kẻ không biết lúc này bị ăn thiệt phải ngẠmiệng lại. Y đang âm thầm buồn cười, lại nghe có bản tấu, không khỏi buồn cười, không chút để ý nói:

- Ái khanh có bản tấu gì, cứ nói.

Triệu Giản Chi liếc Dương Lăng, khóe miệng hiện ý cười:

- Hoàng thượng, có Kinh Châu pháp ti chuyển tới một hồ sơ vụ án, cáo trạng Hồ Bắc Kinh Châu Liêu Vương điện hạ ức hiếp ở xã, gây nhục bách tính, tham chiếm trang ấp, đánh chết mười mấy bách tính sau khi nghe nói triều đình thi hành tân chính hậu tiền đi tác điền, lời nói ngông cuồng Phượng Tử Long tôn, không coi trọng tân pháp. Liêu Vương điện hạ thân phận quý trọng, chỉ có trình lên ngự tiền, mời hoàng thượng xử trí.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 382: Cuộc chiến lại nổi lên

Chính Đức nghe xong lời của Triệu Giản Chi, không khỏi giật mình, y vội nhìn về phía Dương Lăng, gương mặt hắn cũng hơi biến sắc. Phiên Vương Phượng Tử Long Tôn các vùng, cậy đặc quyền mà lộng hành làm chuyện bất hợp pháp chắc chắn là có, không thể trông cậy vào từng người trong số họ tuân theo luật pháp, làm người như Thục Hiền Vương.

Bất kỳ thời đại nào, xã hội nào cũng đều phải ngầm đồng ý sự tồn tại của một vùng đất xám, nhưng lộ liễu phát ngôn bừa bãi chống lại chính sách mới của triều đình như thế này, đánh chết hơn mười dân thường vô tội, đó không còn là chuyện nhỏ nữa. Nếu hôm nay dễ dàng tha thứ cho hành động của vị Thân vương này thì những Phiên vương khác sẽ học theo, trên làm dưới theo. Cải cách vừa có chút khởi sắc đã vì chuyện này mà dần bại hoại, cuối cùng không thể thực thi quyết không thể nào.

Sắc mặt của Dương Lăng chìm xuống, xử lý một vị Thân vương không phải chuyện hắn làm chủ được. Dương Lăng lặng lẽ đưa mắt nhìn Chính Đức Hoàng đế đầy thâm ý. Trước bao nhiêu con mắt dõi theo, hắn không có cách nào bàn bạc thêm với Chính Đức. Bây giờ, Hoàng đế phải đứng ra nói những lời nên nói, làm những điều nên làm, không thể chuyện gì mình cũng gánh vác thay cho Hoàng đế được. Nhưng xử lý một Thân vương không phải là chuyện nhỏ, y có thể quyết định được sao?

Những quan viên phản đối cải cách đó nhìn sắc mặt, thầm đắc ý: không phải ngươi muốn cải cách sao? Không phải ngươi muốn dẹp sạch thôn tính thổ địa, làm trong sạch đội ngũ lại trị, thay đổi chế độ thuế phú sao? Được! Một người là hậu duệ Khổng thánh gương tốt muôn đời, một người là hoàng thân quốc thích, con cháu của lão Chu gia, ngươi hãy xử lý đi!

Kinh Châu còn có tên là Giang Lăng, nơi này vốn phong Thái tổ đệ thập nhị tử Tương Vương Chu Bách, Kiến Văn đế tước phiên đã tìm một lý do, nói cung điện ông ta xây dựng đã vượt quá quy mô của Vương gia, phái Cẩm Y Vệ đến tra hỏi, trong nỗi hoảng sợ, Chu Bách đã dẫn cả nhà lớn bé chạy tới núi Khê Nga – Quan Nam tự thiêu tỏ ý chống cự.

Nhất mạch Bách Vương đã tuyệt, Yến Vương Tĩnh Nan giành được đất nước, Liêu Vương cũng từng tung lực. Chu Lệ đã làm Hoàng đế, đã đem Thập ngũ đệ Liêu Vương Chu Thực từ vùng đất lạnh giá Quảng Ninh Liêu Đông di phiên tới Kinh Châu, Hồ Bắc, nhất mạch Liêu Vương đã dừng lại ở Kinh Châu.

Chính Đức không có ấn tượng gì với vị Vương gia này, tuy nhiên biết đó là một vị hoàng thúc, y chần chừ một lát mới nói:

- Sự việc liên quan đến Thân vương? Chuyển hồ sơ tới Tông Nhân Phủ, trẫm phải xem qua tội trạng của ông ta, sau khi hiểu rõ tình hình mới định đoạt.

Triệu Giản Chi dương dương đắc ý, chắp tay đáp:

- Thần tuân chỉ.

Chính Đức Hoàng đế vội vàng xử lý xong công sự, tuyên bố tan triều. Dương Lăng dừng bước, cho đến khi quần thần lui ra khỏi cung điện, trên kim điện yên tĩnh chỉ còn lại hai người, Chính Đức mới lên tiếng:

- Dương khanh, bọn họ mang Diễn Thánh Công ra, là muốn dùng danh để dọa trẫm, mang Liêu Vương ra, là dùng tình để dọa trẫm.

Dương Lăng chắp tay nói:

- Hoàng thượng anh minh!

Chính Đức phẩy tay áo, giả vờ cả giận nói:

- Anh minh cái gì, trẫm hỏi khanh phải làm sao đây?

Dương Lăng vẫn chắp tay đáp:

- Trước tiên khám tội, nếu tội trạng là thật, xử trí thế nào chính là ý của hoàng thượng.

Chính Đức do dự một lúc, nói:

- Ông ta dù sao cũng là hoàng thúc của trẫm, nếu trẫm cởi tội cho ông ta thì sao?

Dương Lăng thản nhiên đáp:

- Vậy cũng không có gì, hủy bỏ chế độ cải cách mới, tất cả khôi phục chế độ cũ, tệ nạn như cũ, dân chúng nổi dậy như cũ là được.

Chính Đức Hoàng đế trợn mắt hỏi:

- Trẫm chẳng phải đang bàn bạc với khanh sao? Khanh nghĩ trẫm nên làm thế nào?

Dương Lăng cười nói:

- Thần là Quốc công, dựa vào uy danh của bệ hạ, thần có thể xử phạt Diễn Thánh Công, chỉ thế thôi.

Chính Đức giật giật lông mi, cười khan nói:

- Trẫm hiểu rồi. Khanh chỉ có thể xử phạt Diễn Thánh công, vậy thì tên Liêu Vương này phải chờ trẫm ra tay?

Dương Lăng lại chắp tay:

- Hoàng thượng anh minh!

Chính Đức hừ hai tiếng, nói tiếp:

- Đả hổ thân huynh đệ! Khanh một tên, trẫm một tên, mau về làm việc đi!

Hoàng thượng đi được hai bước, đột nhiên dừng bước, kỳ quái hỏi:

- À, chân khanh sao thế?

Nhớ tới giây phút tươi đẹp vừa đau vừa sung sướng của đêm động phòng, Dương Lăng cười gượng đáp:

- Hồi bẩm Hoàng thượng, hai ngày trước cưỡi ngựa, không cẩn thận bị đạp phải.

Chính Đức Hoàng đế bĩu môi, vênh mặt lên, vẻ mặt kiêu ngạo tỏ vẻ 'thuật cưỡi ngựa của ta mạnh hơn ngươi', dương dương tự đắc bước đi.

Một vị là Liêu Vương, một vị là Diễn Thánh Công.

Một người là dựa vào quan hệ, một người là dựa vào danh vọng, đều là nhân vật cực khó dây dưa, bất cứ sự xử lý không tốt nào cũng đều dẫn tới một loạt những hậu quả khó xử lý. Thế nhưng không xử lý hai người này thì giống như hai chướng ngại vật, chuyện cải cách rất khó tiến hành.

Sau khi Chính Đức hồi cung lập tức lệnh cho Xưởng Vệ điều tra việc phạm pháp cụ thể của Liêu Vương, Dương Lăng cũng ở trong nhà sốt ruột chờ đợi tình hình ở Sơn Đông. Lúc này, thư hồi âm của Thái An học chính Trương Đa Khí và tấu chương của Diễn Thánh Công đã ở trên đường tới kinh .

Dương Đình Hòa thờ ơ lạnh nhạt ở trên triều cũng nhìn ra được, đây là một chiêu cuối cùng của phe phản đối. Hai vị Vương gia này, Quốc công cũng đều không dễ dây vào, buộc tội họ ở trên triều đường, cho dù thành công hay không, trước tiên đã là đắc tội với hai thế lực lớn, nếu không phải bị ép tới đường cùng, họ cũng không dùng thủ đoạn ấy, do đó giờ chỉ cần giải quyết thành công hai chuyện này thì lực cản trên triều cơ bản không tồn tại.

Nhưng mà sát khí của Dương Lăng quá nặng, mỗi lần làm chuyện gì đều là gió tanh mưa máu, ông ta rất sợ huyết khí phương cương của Dương Lăng, hay hành động theo cảm tính, làm hỏng chuyện. Triều đình cải cách là chuyện có lợi cho giang sơn xã tắc, có lợi cho lê dân bách tính, cũng phù hợp với quan niệm chính trị của ông, ông quả thực không muốn nhìn thấy chuyện tốt như thế lại chết yểu giữa đường, vậy nên sau một hồi suy nghĩ, cuối cùng quyết định tới nhà thăm Dương Lăng.

Đây đã là hai ngày sau, Dương Đình Hòa ngoại trừ trước đây phụng hoàng mệnh đến nhà thăm một lần ra thì chưa bao giờ tới Dương phủ. Dương Lăng đang chơi đùa với con trai ở bên cạnh lò sưởi, chợt nghe nói ông ta tới, Dương Lăng vô cùng kinh ngạc, hắn vội cởi áo, thay khinh bào, giao con lại cho Vân Tâm, sau đó vội tới trung đường gặp khách.

Dương Đình Hòa hàn huyên mấy câu, liền nói thẳng ý đồ đến đây, ý tứ rất đơn giản: hai nhân vật lớn này nhất định phải xử lý, kể cả hoàng thượng không muốn, cũng phải nỗ lực khuyên giải, phải khuyên Hoàng thượng hạ quyết tâm trừng phạt.

Tuy nhiên cách trừng phạt phải có sự khác biệt, vụ Liêu Vương nếu là thật, nhất định phải nghiêm trị, khi đang ở đầu gió, phải trừng phạt gấp đôi mới thu được hiệu quả. Còn Diễn Thánh Công thì phải uyển chuyển hơn, tránh lỡ miệng để người đời đàm tiếu.

Ý kiến của ông ta không hẹn mà rất hợp ý của Dương Lăng. Dương Lăng thực ra cũng không phải nhất định cần dùng đại sát đại phạt để uy hiếp lòng người, chỉ là chuyện hắn gặp phải trước đây thực sự là thiên hạ đều căm ghét, không nghiêm trị bằng trọng hình không đủ dẹp nỗi căm phẫn của dân chúng, còn cải cách là một chuyện lâu dài, phải cho phép một số người có ý kiến bất đồng, hoặc dần thay đổi quan niệm, không thể dùng dao bức người phải phải tán đồng. Chỉ cần phục tùng, ý kiến cá nhân theo hắn đi.

Thế nhưng Dương Lăng lại có một trực giác đối với việc xử lý Liêu Vương và Diễn Thánh Công, một người cứng rắn, một người nhu hiền, không có nguyên nhân trật tự rõ ràng. Dương Đình Hòa phân tích thấu đáo hơn: Liêu Vương tội nặng, Diễn Thánh Công tội nhẹ, đây là điểm thứ nhất; Liêu Vương là hoàng thân, Diễn Thánh Công là ngoại thần, hoàng thân khinh xử còn ngoại thần trọng xử, dễ khiến người đời đàm tiếu, đây là điểm thứ hai; Điểm thứ ba chính là tâm lý căm thù giàu có, ái mộ danh tiếng.

Diễn Thánh Công cũng không nghèo, nhưng Khổng gia quá nổi tiếng, mọi người đều chú ý tới tên tuổi của ông ta, mà không để mắt tới danh lợi của ông ta, còn Liêu Vương thì ai cũng biết lão ta giàu có, trừng phạt lão ta chỉ sẽ ai nấy vỗ tay khen hay, còn nói Hoàng thượng đại nghĩa diệt thân, nghiêm luật.

Về phần Khổng gia, người trong thiên hạ dù sao đều là những vị quan đọc sách của Khổng lão phu tử, làm nhà ông mặt xám mày tro thì mặt mũi mọi người đều rất khó coi. Danh khí của Khổng Thánh quá lớn, các triều đại xưa đều rất hậu đãi hậu nhân của ông, cho nên xử phạt thì phải chú ý mức độ, phải suy xét đến thể diện của những người đọc sách trong thiên hạ.

Dương Lăng không ngờ ông ta phân tích rõ ràng như vậy. Dương Lăng vẫn không nói ra ý kiến của mình tương đồng với ông ta từ lâu, ngược lại luôn miệng tán thưởng và nói lời cảm tạ ông ta. Tỏ vẻ nhất định tôn trọng ý kiến của ông ta.

Dương Đình Hòa thấy hắn quyền cao chức trọng nhưng vẫn khiêm tốn như thế. Cảm thấy mình từ trước đến nay cố ý xa lánh bởi chuyện hắn thân thiết với Dương Nhất Thanh đúng là có phần nhỏ mọn. Ngươi kính ta một thước, ta trả lại ngươi một trượng, Dương Đình Hòa cũng thư thái hơn, chuyện trò vui vẻ, không nghiêm túc như lúc mới tới.

Hai người trò chuyện cực kỳ vui vẻ, cho đến khi Cao quản gia tiến vào nhỏ giọng bẩm báo có người đưa thư tới, Dương Đình Hòa lúc này mới mỉm cười đứng đậy cáo từ. Dương Lăng không để ý tới chuyện người đưa thư, trước tiên cung kính tiễn ông ta, nhìn thấy ông ta lên kiệu rời đi, lúc này mới hỏi quản gia:

- Người đưa thư từ đâu tới?

Cao quản gia vội đáp:

- Nói là người của phủ Trương đại nhân Trương Đa Khí của Thái An học chính ở Sơn Đông.

Dương Lăng khẽ biến sắc, vui vẻ nói:

- Sơn Đông có tin sao? Mau mau, dẫn gã tới gặp ta!

Người đó là gia đinh thân tín của Trương phủ, dáng người cao lớn, còn có võ công rất giỏi, thấy Dương Lăng gã cung kính dâng lên phong thư giấu trong người, Dương Lăng mở ra đọc kỹ một lượt, bèn vỗ tay cười to, hắn gọi quản gia cầm mười lượng bạc ban thưởng cho tên gia đinh này, còn dặn dò một lát, phái gã rời đi, lúc này mới cười sằng sặc đi vào hậu viện.

Sáng nay trời mưa sũng nước, tới giờ vẫn còn khá mát mẻ, một đám nữ nhân đang đá cầu ở hậu hoa viên.

Theo Dương đại quan nhân nói, đá cầu có lợi cho sức khỏe và bồi đắp tinh thần đoàn kết, có thể hun đúc tình cảm sâu đậm, mở mang tầm nhìn, vì thế hắn rất tán thành. Đương nhiên, kiểu vận động này có thể giúp những người phụ nữ của hắn giữ được khí lực khỏe mạnh, rèn luyện tính dẻo dai của tứ chi và độ đàn hồi rắn chắc của mông eo đùi, có lợi cho việc tăng cường tình thú khuê phong, đánh chết hắn cũng không công khai điều này.

Bởi vì Dương Lăng đồng ý, nữ nhân trong nhà lại khá đông, Hán Ấu Nương bèn may một bộ võ phục ngắn cho tất cả mọi người trong nhà chỉ dùng ở hậu hoa viên, khi mọi người đá cầu, tư thế hiên ngang, vô cùng quyến rũ.

Cỏ xanh được cắt ngắn trên mặt đất, váy lụa trắng như tuyết của mấy nàng, chân đạp phượng đầu ủng thô nhỏ, thân trên cũng là áo ngắn cùng màu,ống tay áo lụa màu trắng hẹp mà bó sát, hai tay đều được bó cổ tay, thắt dây thêu kim, ai nấy đều thắt eo bé xíu, bộ ngực tròn trịa, trông hết sức hấp dẫn.

A Đức Ny cũng thích kiểu vận đọng do người phương Đông phát minh này, dáng nàng cao nhất, bắp đùi thon dài được bó sát bởi ống quần, tỉ lệ cực đẹp, trông càng động lòng người. Hàn Ấu Nương, Ngọc Nhi, Thành Khởi Vận, Sở Linh ai nấy đều có thân hình cân đối, dáng người tuyệt đẹp, trên bãi cỏ chỉ thấy toàn eo thon, chân dài, khiến cho người ngoài không nỡ nhìn theo bóng, cứ nhìn chằm chằm vào người là đủ rồi.

Dương Lăng thấy các nàng đang đá bóng, bước chân liền chậm lại, ngồi xuống bàn đá, cầm một chiếc chén sứ không ai dùng để châm trà, mỉm cười nhìn họ đá cầu. Thành Khởi Vận nghiễm nhiên là huấn luyện viên bóng đá, một quả bóng cao su bay lên bay xuống quanh người nàng, thắt lưng mềm mại như cành liễu, đùi ngọc móc bóng tự nhiên, các loại tuyệt kỹ làm cho một đám mỹ nữ duyên dáng gọi to mãi.

Thành Khởi Vận nhìn thấy Dương Lăng tới, quả bóng cao su bị mũi chân nàng chấm một nhát, bỗng nhiên đưa lên trước, đùi duỗi thẳng tắp, tạo thành một đường thẳng với mũi chân, quả bóng đó bắn vù một cái về phía Dương Lăng. Dương Lăng cười ha hả, đặt chén trà xuống giơ tay ra, dùng chiêu Thái cực đẩy "dẫn tự quyết" trong tay, quả bóng cao su liền chuyển đến đầu ngón tay của hắn. Dương Lăng thuận tay phất một cái, quả bóng bèn bắn về phía A Đức Ny.

A Đức Ny học đá bóng trong thời gian ngắn nên trông thấy đã kinh hãi, vội vàng ra sức đón bóng, một chân đá quả bóng lên không trung, khi hạ xuống đã lệch năm đến sáu trượng, Sở Linh chạy gấp tới, móc ngược bắn quả bóng về. Đám Hàn Ấu Nương và Ngọc Đường Xuân lần lượt đi tới, quả bóng đó từ đầu đến giờ chưa hề rớt xuống.

Tuyết Lý Mai có bầu không thể đá bóng, cầm một gói quả mai khô ngồi bên cạnh xem rất hào hứng. Thành Khởi Vận tiện tay giật khăn tay bên dây lưng xuống, vừa lau sạch mồ hôi trên trán, vừa thong thả bước tới ngồi xuống bên cạnh Dương Lăng, cười khanh khách hỏi:

- Hôm nay sao lại có thời gian rảnh rỗi tới hậu hoa viên đi dạo thế?

Dương Lăng lôi ra một phong thư từ trong tay áo, cười hì hì đưa cho nàng, đáp:

- Nàng xem đi.

Thành Khởi Vận nhận lấy bức thư, chăm chú đọc., Dương Lăng vừa thưởng thức trà, vừa thưởng thức vẻ xinh đẹp của các thê thiếp. Thành Khởi Vận xem xong, ưỡn bộ ngực căng đầy, liếc mắt nhìn hắn, mỉm cười vừa quyến rũ lại ngọt ngào, nói:

- Thành công rồi sao? Ha ha, đây mới là tú tài gặp binh, có lý nói không rõ. Nói đạo lý với văn nhân, thật giống với phụ nữ buồn nôn, đó là tự mình chuốc lấy cực khổ, hay là biện pháp của đại nhân người hay nên Diễn Thánh Công ngạo mạn một đời cuối cùng cũng phải cúi đầu.

Dương Lăng cười nói:

- Cậy vào bóng của Khổng Tử, trong mắt ông ta ngoài Hoàng đế ra đâu có người nào khác. Ta cũng sai người truyền mật chỉ của Hoàng đế cho ông ta, nghiêm khắc răn dạy thêm, đầu tiên làm tiêu tan điệu bộ kiêu ngạo hống hách của ông ta đã. Lúc này mới để đám đại binh và tên chủ giàu có đó dùng những thủ đoạn vô lại để sửa chữa. Cuối cùng lại để Trương lão phu tử ra mặt khuyên răn, con cá lớn này ngoan ngoãn mắc câu. Ha ha, Diễn Thánh Công ra mặt tán đồng cải cách chế độ, con cháu đích hệ của thánh nhân ủng hộ nền chính trị mới, khiến cho không ít hủ nho đạo học câm miệng ở đây.

Hóa ra, Dương Lăng xin một thánh chỉ, sai người truyền nhanh tới Khổng phủ, Diễn Thánh Công cậy quyền thế, cấu kết quan phủ, bắt buộc người khác bán ruộng, làm nhục nề nếp gia đình của thánh nhân, còn có người buộc tội ông ta chuyên dùng đại hình, bức đánh các tướng lĩnh dẹp thổ phỉ có chiến công, lạm dụng ân thưởng triều đình, khiển trách hỏi ông ta có phải muốn lập quốc gia khác trong quốc gia hiện giờ không? Tội danh này có chút tàn nhẫn, vừa nghe Hoàng đế cực kỳ phẫn nộ, khiến Khổng lão tiên sinh sợ toát mồ hôi lạnh.

Cuối cùng trong ý chỉ lại lạnh lùng nói, lỗi lầm của ông ta đã làm nhục nề nếp gia đình thánh nhân, nể mặt của Khổng thánh tiên sư, Hoàng đế không công khai khiển trách, lần này cũng không nghiêm trị, muốn ông ta tự mình suy nghĩ, từ nay về sau biết kiềm chế.

Hoàng đế hạ thánh chỉ nghiêm khắc như thế, Diễn Thánh Công sao không hoảng hốt chứ? Mà ý chỉ này lại là trung chỉ, người ngoài không ai biết, chuyện xấu này bản thân ông ta đương nhiên sẽ không tung hô ra ngoài, lẽ nào khua chiêng gõ trống nói mình ngang ngược làm Hoàng đế nổi giận nên bị Hoàng thượng khiển trách sao?

Nhận ý chỉ này trong tay, Diễn Thánh Công ngang ngược giống như quả cà bị phơi sương, an phận hơn nhiều. Ông ta an phận rồi, Kiều Tứ Hải nhận được mật thư của Dương Lăng đã có người tâm phúc, nhưng ông ta không an phận. Ông ta cũng không tới Khổng phủ gây rối, chỉ là trong vùng bắt đầu lan truyền tin tức nói Bạch Y Phỉ Đậu Hủ Lang ở núi Thái Hành Sơn đã lẻn tới Khúc Phụ, hơn nữa trong đêm còn có một nhóm Bạch Y Phỉ len lỏi khắp nơi, mặc dù không trộm cướp, nhưng người khác nhìn thấy cũng đủ dọa người.

Khi Đậu Hủ Lang phá vây cùng đại đội bỏ chạy, chưa cùng Dương Hổ xuôi nam thì kết quả đã bị Dương Lăng lập phục binh khắp nơi giết chóc tán loạn, chúng phải tự chia thành các tiểu đội chạy tan tác.

Đậu Hủ Lang cuối cùng chỉ dẫn theo ba trăm người đi tới bình nguyên, ở nơi Lưu Bị tai to từng làm Huyện lệnh lại trúng mai phục của đoàn luyện dân tráng, Đậu Hủ Lang dẫn người tháo chạy, tới chỗ khúc sông của phủ Trương Sĩ, lúc này bên mình chỉ còn lại sáu bảy người, y thấy tình thế không ổn, bèn chạy trốn bằng đường thủy.

Kỹ năng bơi của Đậu Hủ Lang không tốt, nhưng cách đó không xa là một bãi cỏ lau, đoán rằng nơi đó nước không quá sâu, y nín thở lặn đến đó sẽ có thể mượn địa lợi trốn thoát. Không ngờ nước ở đó quả nhiên không sâu, nước rất đục, không nhìn rõ đáy, Đậu Hủ Lang lao mạnh xuống, cắm đầu vào trong bùn nước.

Cả huyện bình nguyên Sơn Đông là một vùng đất rộng lớn, rất ít khi nhìn thấy đá, nếu trẻ con đào đất cát chơi có thể đào được tảng đá đều có thể dẫn tới đánh nhau vì gặp đồ hiếm lạ, tới mùa hè trẻ con thường tới chỗ đất bùn phát sáng đen thui trên bờ sông để xối nước, là có thể cởi truồng làm thang trượt, không cần phải lo va đập bị rách ra.

Trong khúc sông đó toàn là bùn nước vừa sâu vừa mềm, Đậu Hủ Lang vừa đâm đầu xuống, muốn leo ra nhưng rất khó khăn. Y muốn rút đầu ra, nhưng chỗ hai tay chống đất đều là bùn nước nhão nhoét, không lấy sức được, hơn nữa khi muốn rút lên trên thì lực hút của bùn đặc biệt lớn.

Các thanh niên trai tráng trong phủ đuổi mấy tên tàn binh bại tướng đến khúc sông, chỉ thấy một đôi chân lớn trôi dập dềnh trên mặt nước, hai thanh niên cường tráng thắt dây thừng vào chân y. Khi rút y lên giống như rút củ cải, trong lồng ngực của Đậu Hủ Lang đáng thương toàn là bùn nước, người đã tắt thở. Vị nhân huynh này đúng thật là sống thì uất ức, chết lại nghẹn khuất.

Tuy nhiên mặc dù y đã chết, nhân mã của y chỉ bị đánh tan tác mà thôi, bọn đạo phỉ dần tụ hợp, lại tổ chức thành một đội ngũ bảy tám trăm người, bắt đầu len lỏi khắp nơi trong vùng Sơn Đông. Tạm thời vẫn chưa bị diệt trừ.

Bạch Y Phỉ xuất hiện ở Khúc Phụ, khiến cho lòng dân trong vùng bàng hoàng. Tri phủ Khúc Phụ lập Tri huyện Khúc phủ, tri huyện Khúc Phụ này thường do người của Khổng gia đảm nhiệm, đây là quy tắc của triều đình. Bởi vì Tri huyện là vị quan nha môn của triều đình trực tiếp cai quản chuyện sinh hoạt và sinh lão bệnh tử của dân chúng trong vùng, thường gọi là quan phụ mẫu, thử hỏi quan viên trong thiên hạ, có người đọc sách nào không phải là môn sinh của Khổng thánh? Họ có thể quản được người nhà Khổng thánh không? Đương nhiên phải để cho người của Khổng gia tự quản.

Cho nên Khổng gia này không những phải phụ trách an toàn của gia viên, mà còn phải quản lý cả một huyện, lần trước thế lực của lưu phỉ lớn, xưng là mười vạn đại quân, bọn họ lấy danh nghĩa bảo vệ di vật của tiên thánh để tiến vào kinh, lần này chỉ có mấy trăm đạo phỉ nhưng không thể chạy trốn được nữa.

Tri huyện Khúc Phụ cũng là người của chi trưởng Khổng gia, vừa nghe nói thổ phỉ len lỏi khắp vùng, để sắp xếp phòng vụ địa phương bèn tới gặp Kiều tham tướng đang đóng quân ở địa phương, thỉnh cầu đại quân hiệp trợ.

Kiều tham tướng khá nhiệt tình với ông ta, xếp hàng chào đón, mời ông ta vào trong soái trướng. Quát mắng ầm ĩ tên Bách hộ thuộc hạ của mình bị Khổng gia đánh đập tàn nhẫn kia có mắt như mù, đã đắc tội với Lão quốc công gia, sau đó không đợi ông ta nói rõ ý đồ tới đây, đã nói để không làm cho đám đại binh không hiểu quy củ này lại làm Quốc công gia tức giận nữa, chúng sẽ lập tức rời khỏi Khúc Phụ.

Khổng tri huyện vừa nghe vậy đã nóng nảy, ông vội vàng nói ra tin tức Bạch Y Phỉ xuất hiện ở trong vùng, yêu cầu Kiều tham tướng không rời quân đi. Kiều tham tướng lại muốn ông ta đưa ra chứng cớ. Nếu không muốn gần vạn đại quân đóng quân lâu dài ở đây, trừ khi có quân lệnh của Binh bộ. Khổng tri huyện nào có chứng cứ gì đưa cho gã?

Kiều tham tướng tiếp đãi long trọng với Khổng tri huyện, tính cách rất tốt, nhưng không có chứng cứ thì gã vẫn kiên quyết nói sẽ rời đi ngay trong ngày. Bạch Y Phỉ ấy cũng kỳ lạ, buổi tối đến quấy rầy quan phủ và Khổng phủ, nhưng trời vừa sáng đã không thấy bóng dáng.

Mọi người trên dưới trong Khổng phủ đều sợ hãi, đạo tặc để ý tới ai trong người nhà Khổng thánh nhân? Từ khi Bạch Y Phỉ xuất hiện, số nhà quyền quý bị phá cửa diệt tộc nhiều vô số kể. Gia sản bị quét sạch sẽ, phụ nữ bị chịu đủ lăng nhục. Khổng gia có thể không sợ sao, hàng đêm đều không được yên ổn.

Khổng lão thái gia là chủ của một gia đình, bị nạn thổ phỉ làm cho sứt đầu bể trán, tên chủ đất bị lão ép bán với giá thấp sao có thể ăn gan hùm gan báo, còn dám công khai đối đầu. Vị nhân huynh này đã xây một cái miếu nhỏ bên cạnh mảnh đất bị lão ép bán, bên trong cúng bài vị của Khổng thánh nhân, hàng ngày chạy đến khóc lóc kể lể oan khuất, có người qua đường là gã kéo lại kể lể, kể thành chuyện cổ tích. Thanh danh quan trọng nhất của Khổng gia lần này sao chịu được chứ!

Nhưng Diễn Thánh Công vừa mới nhận được mật chỉ khiển trách của Hoàng thượng, đâu dám sử dụng lực lượng quan phủ? Người ta lại cúng cả lão tổ tông nhà mình, còn đập vỡ khắp nơi, một tên vô lại như thế, để mặc cho gã qua lại kể lể khắp trong làng xã, làm bại hoại thanh danh của mình, mà ông không có cách nào.

Lúc này, Thái An học chính Trương Đa Khí đến nhà thăm hỏi, nói rằng nghe nói Diễn Thánh Công trở về từ trong kinh nên đặc biệt tới thăm. Lão là nhân vật nổi tiếng trong sĩ lâm Sơn Đông, có kết giao thân thiết với Khổng gia, thường cùng với rất nhiều trưởng lão đích tôn và các quản sự của Khổng phủ uống rượu chơi cờ, cũng được coi là bằng hữu trong sỹ lâm.

Nghe hảo hữu kể những phiền não này của Diễn Thánh Công, Trương Đa Khí liền âm thầm tùy cơ hành động với mấy vị hảo hữu của Khổng gia: Đương kim Hoàng thượng đang cải cách chính sách mới, mặc dù nói Hoàng thượng có lòng ủng hộ nhà ngươi, không công khai khiển trách, nhưng cây to đón gió, những hào môn bị tổn hại lợi ích đó nghe được phong thanh nhất định sẽ lôi Khổng gia ra làm lá chắn.

Hiện tại đã mất lòng Hoàng thượng, lại bị những người đó ép bức, khó nói Hoàng thượng sẽ không khai đao với Khổng gia, như vậy chi bằng làm đẹp một chút, đặt công phu lên trước, vừa không để mọi người mang chuyện sơ hở của Khổng gia ra kể lể, lại có thể cứu vãn được long ân của Hoàng thượng, chẳng phải là tốt sao? Mấy vị quản sự lão gia của Khổng gia biết vị lão phu tử này tâm nhãn sâu xa, nghe nói vậy liền mừng rỡ, lập tức mời ông ta ra nghĩ kế.

Trương lão phu tử nói:

- Chuyện huyện lân cận mua đất cực dễ làm, Khổng gia nhà to nghiệp lớn, cũng không kém chút đất đấy, tuy nhiên đám hạ nhân vì tranh nguồn nước đã nổi lên tranh cãi, Diễn Thánh Công muốn giáo huấn họ một chút mà thôi. Khổng thánh nhân nói "bảo vệ dân", "yêu dân", ngài nhường một bước, tuyệt đối sẽ không ai nói ngài sợ chuyện, trái lại sẽ thánh phục di phong thánh nhân của Diễn Thánh Công.

Vùng đất đó hãy trả lại cho gã đi, thân phận Diễn Thánh công gia tôn quý, trước đây ra mặt chẳng qua là chuyện nhỏ, cũng là do gã làm việc không chu toàn gây động tĩnh quá lớn, Diễn Thánh Công trăm công ngàn việc, đâu biết những chuyện nhỏ nhặt này? Rõ ràng là hạ nhân làm việc tắc trách, trách phạt họ một phen, đối với hương lý và với Hoàng thượng đều có thể giải thích.

Các trưởng lão của Khổng gia nghe vậy liên tục gật đầu đồng ý. Trương Học Chính lại nói tiếp:

- Về phần quan binh, mấy vị cũng biết, đám đại binh đó biết được mấy chữ? Lời nói không lễ phép không phải là trong lòng thật sự muốn mạo phạm Khổng gia, mà do thiếu dạy dỗ mà thôi, người thô kệch mà thôi, so đo với bọn họ chẳng phải tự hạ thân phận hay sao?

Huống chi bọn họ chinh chiến sa trường, ném đầu lâu vẩy máu nóng, nhân lúc triều đình dụng binh, Diễn Thánh Công lão nhân gia phạt nặng tướng sĩ có công, làm họ đau lòng, điều này khó trách làm Hoàng thượng để ý.

Tuy nhiên đã thăng công đường rồi, người cũng đánh rồi, đường đường là Diễn Thánh Công gia đâu có chuyện xin lỗi gã, hơn nữa ca ca của gã là người quản sự trong phủ của Khổng gia. Theo lệ xưa, lén lút đưa cho huynh đệ của gã một số vàng bạc, liền nói là chi phí chữa trị, chẳng phải thể hiện được sự từ bi của Công gia sao? Đồng thời còn đề bạt ca ca của gã, bọn họ đâu có không thức thời thế.

- Những chuyện này chỉ là vỗ về họ một chút, tránh bị người khác lợi dụng công kích Khổng gia. Nếu muốn lấy lòng Hoàng thượng, trước mắt còn có một cơ hội lớn, Đương kim Hoàng thượng chí hướng cao xa, dốc lòng cách tân, để Đại Minh chấn hưng uy danh. Triều đình nếu uy gia vũ nội, tứ hải thần phục, là hậu duệ của Khổng thánh sẽ có thể đem uy danh truyền bá khắp nơi, giáo hóa tám phương, đây là chuyện tốt.

Không bằng mấy vị khuyên bảo Diễn Thánh công, tập trung công việc trong phủ lại, dọn dẹp vùng đất đó, tạo ra một địa sách khác, không phải ở tốt xấu, mà là số lượng, sau đó dâng tấu chương lên. Nói Khổng phủ dù chưa thôn tính đất đai, tuy nhiên từ xưa đến nay, triều đình đã ban thưởng vô số, giờ triều đình thi hành chính sách mới, Khổng gia cảm ân Hoàng thượng, nguyện hiến một ít đất đai dùng để sắp xếp cho lưu dân.

Đó là tầm ảnh hưởng lớn biết bao của Khổng gia, làm xong chuyện này, chính là trọng thần có công ủng hộ chính sách mới của Hoàng thượng, nói mấy lời hay, một số vùng đất hoang có cũng được không có cũng chẳng sao này đã lấy lòng được được Hoàng thượng lần nữa, các vị nói xem như thế có được không?

Mấy vị quản sự thấy rất có lý, vì thề liền đổ xô đi thuyết phục Diễn Thánh Công. Diễn Thánh Công cũng đang lo lắng vì mất thánh sủng, dù sao Khổng gia là hào môn nhiều đời, lợi ích ở chỗ lâu dài. Đại Minh mở cửa phong khí, từ lâu dân gian đã có cuồng sĩ nói rằng Khổng thánh danh không xứng với thực, Khổng gia hưởng thụ nhiều ban ân như thế thực không thể chấp nhận, yêu cầu hủy bỏ tước vị thừa kế của Khổng gia.

Nếu mất thánh ân, những danh hiệu này chưa chắc đã bị bác bỏ, nhưng rất nhiều đãi ngộ đặc thù là chuyện chỉ cần một lời của Hoàng đế, vì cái nhỏ đánh mất cái lớn thực không thể chấp nhận, vậy nên ông ta quả quyết chọn dùng chủ ý của Trương Đa Khí, chuẩn bị thể hiện tốt một chút trong cuộc cải chách chế độ mới do Hoàng đế đích thân chủ trì.

Trương Đa Khí thấy đạt được mục đích, trong lòng vui vẻ, ở lại Khổng phủ mấy ngày mới cáo từ. Tuy nhiên ông chỉ viết thư đơn giản kể lại sự tình, phái người nhà thân tín lập tức đưa đến kinh. Dương Lăng thấy thư của ông, biết ít ngày nữa tấu chương của Diễn Thánh Công sẽ đến kinh thành, hiển nhiên vô cùng vui sướng.

Dương Lăng kể lại các chi tiết trong thư chưa viết, thở phào một hơi nói:

- Người phản đối chính sách mới cũng chỉ có một chiêu như vậy, tấu chương của Diễn Thánh Công vào kinh sẽ giáng một đòn vào bọn họ, có hậu duệ Khổng thánh tán thành chính sách mới, bọn họ không còn gì để nói về pháp lý đạo nghĩa nữa.

Phía Hoàng thượng đã quyết định nghiêm trị Liêu Vương, những phiên vương có phần nhanh nhạy đã viết tấu chương hoặc trực tiếp phái trung quan vào kinh, giao địa sách ủng hộ chính sách mới, triều đình cải cách chế độ đã trở thành xu thế tất yếu. Nói đến những chuyện cụ thể, điều phối phối hợp, ta thật không bằng nội các, mấy vị lão thần kinh nghiệm phong phú trong lục bộ, những việc cụ thể vẫn phải do họ làm.

Ta chuẩn bị mấy ngày nay đợi trong triều hoàn toàn ổn định lại, sẽ lập tức đi Sơn Tây, trên núi Trung Điều, Sơn Tây, Triệu Phong Tử chiếm núi lập trại, đặc biệt là ở khu biên giới, còn ngoại cảnh lại cực kỳ yên tĩnh, không được để gã bắt rễ ở đó.

Thành Khởi Vận gật đầu, trầm tư chốc lát nói:

- Ừ, đại nhân nếu đi Sơn Tây, e rằng không thể quay về trong chốc lát, ta sẽ nhân cơ hội đi Liêu Đông một chuyến, ở đó chúng ta có bãi cỏ chăn nuôi, xưởng vũ khí, xưởng da lông, xưởng thuốc sâm nhung, dệt nhuộm, dầu thực vật, còn có vô số ruộng tốt còn chưa mở rộng.

Vu Vĩnh vẫn đang thu xếp ở bên đó, gần đây gã phải đi đường biển tới Di Châu, nhìn thấy bến tàu đường biển và đội tàu của chúng ta được xây dựng ở đó, việc làm ăn ở Đông bắc vẫn chưa hoạt động thành thục, ta không yên lòng. Huống hồ xưởng đóng tàu ở sông Tùng Hoa còn có cổ phần lớn nhất của chúng ta, ta cũng muốn đi xem một chút.

Dương Lăng gật đầu, hạ giọng nói:

- Ta ở trong triều, thật sự không quan tâm được những chuyện này. Vận nhi, những việc này nàng phải vất vả rồi.

Thành Khởi Vận tự nhiên cười nói, ánh mắt đong đưa, thân thiết nói:

- Chuyện của huynh không phải chuyện của ta sao? Ta không vất vả vì huynh thì bận rộn vì ai đây?

Vẻ mặt vô cùng quyến rũ, tình cảm nồng nàn, giọng điệu mềm mại, rung động đến tâm can, khiến người nghe lay động tâm tình. Dương Lăng bất giác rung động trong lòng.

Thành Khởi Vận để ý đôi mắt nồng nhiệt của hắn, không khỏi mỉm cười đắc ý vì sự hấp dẫn của mình. Nàng chuyển ánh mắt nhìn sang đám mỹ nữ đang vui vẻ đá bóng trên bãi cỏ, hơi nghiêng người, Dương Lăng chỉ cảm thấy mùi hương cây cỏ thoang thoảng qua.

Cùng với hơi thở thơm dịu, còn truyền đến một giọng nói nhẹ nhàng:

- Hai ngày nay thiếu nữ xinh đẹp mà huynh mới nạp thêm đã vào cửa rồi, người ta cũng không quấn chàng. Ít ngày nữa ta phải đi Liêu Đông rồi. Lần này đi mấy tháng liền, người ta nhớ huynh lắm. Tối nay... huynh có tới không? Người ta muốn... muốn tối nay huynh tặng hết "cổ phần" cho người ta.

Dương Lăng thấy trong lòng nóng lên, khẽ đáp:

- Được, cho nàng hết cổ phần, ha ha. Ta nhất định cắm vừa sâu vừa chắc, không hoàn vốn gốc.

Thành Khởi Vận che miệng cười nói:

- Huynh dùng từ gì thế, chẳng phải huynh nói...một dòng, một dòng lại một dòng sao?

Dương Lăng vui đùa cười nói:

- Vận nhi, giờ nàng theo ta học cái hư rồi. Ha ha ha.

Thành Khởi Vận cắn môi, mỉm cười quyến rũ với hắn, nói:

- Đàn ông không hư, phụ nữ không yêu mà. Trong khuê phòng, huynh càng hư, người ta càng thích.

Dương Lăng ngẩng đầu nhìn, chỉ thấy đôi mắt dịu dàng quyến rũ của Thành Khởi Vật rõ ràng sắp rơi lệ, khóe mắt ươn ướt, giống như ánh trăng trong sương mù. Chỉ lộ ra một tia sáng chọc người, chút xuân tình nhè nhẹ, hết sức chọc người.

Tấu chương của Diễn Thánh Công đã vào kinh, tất cả kẽ hở đều được bịt lại, còn chủ động lấy mấy vạn mẫu đất quyên góp cho triều đình, chiêu đẹp này vừa hóa giải vừa phản công, phản thủ vi công, chẳng những không có tội mà còn có công. Lần này ai còn dám lấy chuyện Khổng gia ra nói. Đó chẳng phải là sự phản đối chính sách mới quanh co lòng vòng, xung địa là Hoàng thượng sao? Quan viên phe phản đối lập tức choáng váng.

Bọn họ dâng tấu chương kết tội mới chỉ có hai ngày. Dương Lăng thần thông quảng đại thế nào cũng không thể thông báo được cho Diễn Thánh Công trong thời gian ngắn như thế, bảo ông ta xử lý hết hậu họa, chủ động hiến đất bày tỏ sự trong sạch, tấu chương cũng không thể nhanh truyền đến kinh như thế. Chỉ có thể nói Diễn Thánh Công đi nước cờ cao, đa mưu túc trí, quan sát triều hướng trong triều kịp thời dẹp bỏ ẩn họa, tác thành cho Dương Lăng.

Tình thế hiện giờ, Thánh Công nghiễm nhiên là người tiên phong của phe cải cách, không thể buộc tội ông ta nữa, ánh mắt của mọi người đổ dồn hết vào Liêu Vương, chỉ xem Hoàng đế sẽ xử phạt huyết thống chí thân nhà mình ra sao.

Chính Đức Hoàng đế cũng không hàm hồ, Dương Lăng đã giải quyết Diễn Thánh Công, y quả nhiên phải xử lý Liêu Vương.

Xưởng Vệ dâng kết quả điều tra lên, Chính Đức Hoàng đế lập tức hạ chiếu: Liêu Vương chèn ép hương lý, ức hiếp dân chúng, chống lại pháp luật, giết người, đúng là tội ác tày trời, ra lệnh lột tước làm thứ dân, con trai trưởng của ông ta sẽ kế nhiệm Vương tước.

Quyết định này thật nhanh gọn, dứt khoát, quả nhiên dấy lên nỗi kinh hoàng.

Một vị Thân vương hoàng tộc bị lột bỏ tước vị, người khác có gì không dám chứ?

Dương Lăng vốn nghĩ còn có kẻ không thức thời, tiếp tục khuyên ngăn lấy hoàng trang làm ví dụ, bèn tấu mời Hoàng thượng thoái hoàng trang. Hoàng thượng nghe theo yêu cầu cải cách, tác dụng làm gương này tất lập tức phá hủy sự bố trí công kích của người phản đối, không ngờ nửa đường giết Trình Giảo Kim, Liêu Vương không chịu nổi cô đơn nhảy ra, chẳng những giết bừa hơn mấy chục dân lành, còn ngông cuồng nói Vương hầu không cần phục tùng chế độ mới, lần này đã thành con gà được nuôi trong chuồng, đám Vương hầu đó không ai dám lấy hoàng trang làm cái cớ nữa.

Mặc dù như thế, hoàng trang vẫn phải trả đất, Dương Đình Hòa dâng tấu lên triều, liệt kê từng lý do sinh ra hoàng trang hoàng điếm, thỉnh cầu Hoàng đế hủy bỏ hoàng trang hoàng điếm, giải tán quản sự hoàng trang hoàng điếm, dùng chính luật pháp làm gương. Chính Đức Hoàng đế lập tức đồng ý, hạ chiếu thi hành.

Ngay sau đó, một số phiên vương bắt đầu dâng tấu lên Hoàng thượng bày tỏ sự ủng hộ chính sách mới. Thục Vương phủ hoàn thành việc điều tra điền trang trước tiên, toàn bộ chuyển giao cho Hộ bộ quản lý. Ninh Vương càng coi trọng hơn, phái trung quan vào kinh, mang danh sách điền trang vương điếm ra, còn hiến hai trăm ngàn lượng bạc ròng, ủng hộ triều đình tiêu diệt thổ phỉ, Chính Đức mừng rỡ, lập tức biểu dương hai vị phiên vương này.

Đến lúc này, cải cách chính sách mới đã là xu thế tất yếu, ai còn có ý kiến thì chỉ có bị đập nát, cũng không ai ngăn cản được.

Ninh Vương phái người vào kinh, trong lòng Dương Lăng thầm cảnh giác, hắn lập tức sai người theo dõi chặt trung quan trong phủ Ninh Vương, chú ý nhất cử nhất động của gã, kết giao với ai, có mục đích gì. Ninh Vương rất biết làm trò, nếu không phải nắm trước được sơ hở thì cho đến giờ, tất cả hành động của gã, ai dám nói gã muốn tạo phản?

Khi hoàng đế đang cần tôn thất ủng hộ cải cách, gã lại xuất hiện như thế, cho dù thế nào, bây giờ không phải lúc có hành động nào với hắn, chủ động xuất kích chính là tự vùi lấp bất nghĩa. Hiện giờ không những không thể đối phó gã, mà còn phải ca ngợi thêm. Dương Lăng cũng chỉ có thể âm thầm đề phòng, gặp chiêu phá chiêu.

Cùng lúc đó, ánh mắt của hắn bắt đầu hướng về Sơn Tây nhìn thì bình yên, hướng về núi Trung Điều. Nơi đó có một kẻ điên chí hướng rất lớn, còn có một nương tử cố chấp quật cường.

Lúc này, ở hồ Thanh Hải xa mấy ngàn dặm, Bá Nhan Mãnh Khả cũng đang ngắm nhìn phương xa, nhìn về thảo nguyên phương bắc. Nơi đó có Hoa Đương mà y hận không thể ăn thịt uống máu, còn có một vị Hoàng hậu ngày đêm mong nhớ.

Hồ Thanh Hải là thủ phủ của địa bàn Ngõa Lạt, hơn nữa hiện giờ thế lực của Bá Nhan tổn thất hơn phân nửa, chính là lúc đuổi cùng giết tận, tiêu diệt hoàn toàn cái đinh trong mắt, họ sẽ không để tuột mất thời cơ. Thám mã truyền tin về, Ngõa Lạt và Hỏa Si đang tập kết binh mã, xem ra chuẩn bị xuôi xuống phía nam.

Nước và cây cỏ ở hồ Thanh Hải dồi dào tươi tốt quả không sai, tuy nhiên quá nhiều bộ tộc phản đối y, không có địa lợi nhân hòa, cộng với thảo nguyên nơi đây dù sao cũng có hạn, đường sống có thể di chuyển được không lớn, sẽ rất khó đối phó với liên quân Ngõa Lạt và Hỏa Si. Đồng thời các nước Tây Vực cũng nóng lòng muốn thử. Biên giới Đại Minh bị phong tỏa, dường như cũng có vẻ khởi động xuất binh, cục diện hiện tại quả là tứ bề khốn đốn.

Đám Pháp vương, Phật sống của Thanh Hải đã trở về, dưới lời hiệu triệu của họ, các bộ tộc vốn xé lẻ đã bắt đầu liên minh lại, chuẩn bị chống lại tên cường địch Bá Nhan, Thanh Hải không còn trụ nổi nữa.

Lại là hoàng hôn mênh mông, đám mục dân nhốt dê bò lại, mùi thịt và tiếng ca bắt đầu phiêu đãng.

Doanh trướng của Gia Tư Bố giờ đã đổi thành doanh trướng Đại Hãn của Bá Nhan Mãnh Khả, trong trướng tập trung các tướng lĩnh thân tín của y và các thủ lĩnh bộ tộc, trường án được bày ra, thảm đỏ rải xuống đất, mọi người ngồi vây quanh trong đại trướng, ở giữa có một chậu lửa to, trên khung sắt treo mấy con dê nướng vàng chảy mỡ, mọi người bưng bát to uống rượu, mồm ăn nhồm nhoàm thịt dê, hưởng thụ đồ ăn ngon của tối nay.

Trong những người này có thuộc hạ của Gia Tư Bố đầu hàng tới, còn có một số bộ lạc vốn trung thành với gia tộc Mãn Đô Hải, khom lưng trước tình thế, không những không cúi đầu. Bá Nhan Mãnh Khả biết bọn họ chưa chắc đều một lòng một dạ, nhưng giờ y phải đoàn kết tất cả lực lượng có thể lợi dụng được, đành tạm thời khoan nhượng cho sự tồn tại của họ.

Mãn Đô Hải Hoàng hậu lại mất tích, đương nhiên, thuyết pháp đối ngoại bà căn bản chưa từng xuất hiện. Người phụ nữ vận mệnh làm nhiều điều sai trái này đã chủ định là người thừa trong trận đấu quyền lực. Bà là bậc tiền bối của Bá Nhan, chẳng sao cả, bà lớn hơn Bá Nhan hơn ba mươi tuổi, cũng chẳng sao, nhưng người phụ nữ này quá hùng mạnh, chỉ cần bà tồn tại, anh hùng dũng mãnh vô địch như Bá Nhan Mãnh Khả cũng không còn là duy nhất trên thảo nguyên.

Người chịu cúi đầu nghe lệnh với bà quá nhiều, cho dù bà tuyệt đối không gây bất lợi cho Bá Nhan, nhưng anh hùng như Bá Nhan sẽ không dễ khoan nhượng cho trường hợp có thể dễ dàng đoạt lấy quyền lực của mình, đến nỗi y có bất kỳ quyết định trọng đại nào đều phải được sự cho phép của người phụ nữ này, đó là một sự nhục nhã.

Chuyện trên thảo nguyên phương bắc y đã biết, bộ tộc bị Hoa Đương tiêu diệt, nữ nhân yêu thương trở thành đồ chơi trên giường của Hoa Đương, khiến Bá Nhan Mãnh Khả nhục nhã và đau đớn. Thế nhưng tin tức được thuộc hạ bị y đánh tan đưa tới.

Hơn một vạn binh sĩ hoàn thành nhiệm vụ dương đông kích tây đã chạy về thảo nguyên trong đêm tối, mục đích là mau chóng bù đắp thực lực phòng vệ của bộ tộc trước khi các bộ lạc nghe được tin tức chính xác rằng y xuất binh, từ đó xuống tay với bộ tộc của y, nhưng họ vẫn đã đến muộn, không những bộ tộc của mình bị Hoa Đương chiếm hữu toàn bộ, mà con hồ ly già nham hiểm đó còn sắp xếp đại binh ở trong doanh trướng bộ tộc của mình, thực hiện một cuộc phục kích hoàn mỹ với đám binh lính mệt mỏi vừa quay về của y.

Thế lực của y ở phương bắc đã tan tành mây khói, nhưng nếu muốn đứng lên lần nữa, y không thể làm con rùa rụt cổ, phải mau trở về, giết chết Hoa Đương, uy danh của y sẽ được xây dựng lại, y vẫn có hy vọng trở thành vua của thảo nguyên.

Tin tức truyền về thảo nguyên phương bắc đã bị y phong tỏa. Chỉ có mấy tướng lĩnh thân tín nhất của y biết được tình hình cụ thể, y không thể nói thẳng toàn bộ sự việc cho đám thuộc hạ biết, nếu không sẽ có một số bộ tộc từ chối theo y trở về thảo nguyên phương bắc đã mất đi đó để liều mạng. Chỉ có dẫn họ về, đưa đến chiến trường, để họ buộc phải chiến đấu vì sinh tồn.

Bá Nhan Mãnh Khả dùng bàn tay lớn bóng nhẫy cầm một chiếc đùi dê béo ngậy nặng khoảng ba cân, vừa nuốt thịt dê luộc thơm ngon, vừa bê bát rượu lớn lên uống. Xem ra, giờ y rất thoải mái, nhưng ánh mắt của y lại liên tục lướt qua mặt đám thuộc hạ, như thể đang quan sát nét mặt và hành động của họ.

Mọi người ăn ướt đẫm mồ hôi, mặt đỏ phừng phừng, sáu nữ tì ở giữa múa hát, nhìn mọi người ăn uống say sưa. Bá Nhan Mãnh Khả đón lấy khăn tay từ người hầu, xoa xoa tay, sau đó bưng một chén rượu lớn, chậm rãi đứng lên.

Trong doanh trướng đã dần bớt huyên náo, có người phất tay, đám vũ nữ dừng nhảy múa và ca hát, khom người lui ra. Nhạc công cũng ôm nhạc khí lui ra ngoài. Bá Nhan Mãnh Khả nhìn lướt qua một lượt với ánh mắt nghiêm nghị, cao giọng nói:

- Hồ Thanh Hải rất đẹp, nguồn nước và đồng cỏ ở đây cũng rất phong phú, nhưng đây không phải nơi chúng ta có thể ở lâu, bầy lang sói đang rình rập nơi này từ bốn phía, có ý định tấn công chúng ta.

Hồ Thanh Hải nhỏ bé không nuôi nổi hùng ưng trên thảo nguyên, trời đất rộng lớn của chúng ta ở phương bắc, nơi đó có thảo nguyên rộng hơn, chúng ta có thể đứng trên đó, biến nó thành bãi cỏ chăn nuôi của chúng ta. Nhưng trước tiên chúng ta phải mài sắc dao đối phó với ác lang, vì thế chúng ta phải quay về. Tiêu diệt tất cả kẻ thù phản đối chúng ta ở phương bắc.

Trong đại trướng yên tĩnh, mọi người đều đang nghe y nói.

Bá Nhan Mãnh Khả ưỡn thắt lưng, ánh mắt kiên nghị, trang trọng nói:

- Gia Tư Bố dẫn các ngươi ra ngoài, đưa các ngươi tới đây làm kẻ nhu nhược. Ta muốn dẫn các ngươi về, các ngươi đều là những chiến sĩ anh dũng, rời khỏi lưng ngựa và chiến đao, vinh quang và của cải của các ngươi từ đâu mà có?

Y nhìn quanh một vòng, cất cao giọng:

- Trường Sinh Thiên khí lực lý, đại phúc ấm hộ trợ lý. Ta ra lệnh cho các ngươi, dũng sĩ của ta hãy trở về thảo nguyên của chúng ta, giết chết kẻ địch của chúng ta, chiếm đoạt nữ nhân và dê bò của họ!

"Trường sinh thiên khí lực lý, đại phúc ấm hộ trợ lý", đây là chiếu mệnh của Hoàng đế, chiếu mệnh của Đại Nguyên Hoàng đế, tương đương với câu "Phụng thiên thừa vận Hoàng đế, chiếu viết" mà người Hán thường nói, câu đầu tiên trong thánh chỉ mà người Hán nghe nhiều thành thuộc chính là do Chu Nguyên Chương viết ra sau khi lập quốc.

Câu trong thánh chỉ Nguyên đình này dịch thành văn ngôn của người Hán là Thượng thiên quyến mệnh, sau khi Đại Minh lập quốc chuẩn bị chọn dùng cái này, Chu Nguyên Chương cho rằng không đủ khiêm tốn, ông trời dựa vào cái gì chỉ chiếu cố mình ngươi? Tự mình đa tình mà thôi, cuối cùng còn không phải bị lão tử đuổi về thảo nguyên chăn dê sao?

Ông ta bèn đổi thành phụng thiên thừa vận, tuân theo ý chỉ của ông trời, gánh vác sứ mệnh ông trời ban cho, vì thế mới thống trị thiên hạ, cung kính như vậy, ông trời không dùng ông ta thì còn dùng ai? Mà với Khả Hãn trên thảo nguyên, mở rộng đất đai vẫn là cách thức chiếu mệnh của triều đình Đại Nguyên, Bá Nhan Mãnh Khả là hậu duệ gia tộc hoàng kim, là Khả Hãn trên thảo nguyên, tự cho mình là triều đình Bắc Nguyên, y đương nhiên có thể hạ mệnh lệnh như vậy.

Bá Nhan Mãnh Khả chiếu mệnh một lát, tướng lĩnh thân tín của y và đầu lĩnh bộ thuộc lập tức quỳ lạy tiếp chỉ, các thủ lĩnh của các nước chư hầu vừa tới phục tùng đang ngơ ngác nhìn nhau, cũng đành cúi đầu nghe lệnh. Bá Nhan Mãnh Khả đánh mắt, lướt qua một tia hào quang sắc như đao run sợ mãnh liệt, nếu Hoa Đương giờ đứng trước mặt Bá Nhan, cùng với ánh mắt sắc bén của y, một ánh đao như dải lụa xẹt qua bầu trời, chém xuống đầu y.

- Mọi người về chuẩn bị sớm đi, sáng sớm ngày mai, chúng ta nhổ trại quay về phương bắc!

Bá Nhan Mãnh Khả thu lại hung quang trong mắt, thản nhiên hạ mệnh lệnh cuối cùng.

Kinh sư đã chuẩn bị chiêng trống rùm beng, Uy Quốc phủ công đèn đuốc sáng trưng. Dương Lăng cũng sắp khởi binh tới Sơn Tây, bắt đầu chiến dịch thứ hai tiêu diệt Bạch Y quân!

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 383: Tiêu diệt và trấn áp

Trong kinh tràn trề sức sống, Lại bộ đang thi hành luật thi cử của quan lại, Hộ bộ đang di dân, thực hiện cải cách diện tích lớn về đất đai và thuế phú, còn tiến hành định lượng toàn bộ những thành tích chính trị này, liên hệ với thi cử của Lại bộ.

Cùng lúc đó, Lễ bộ liền tổ chức thi hương và nội dung của phần sách luận thời thế tăng cường học cung của các nơi trong cả nước cũng đang được luận chính cẩn thận. Đây chỉ là bước đầu tiên, cùng với việc đám học tử chui ra từ trong đống giấy giấy lộn mốc meo, hướng tầm nhìn vào xã hội hiện thực, chúng sẽ nhận ra rằng ngôn luận của thánh hiền xưa không thể giải quyết tất cả vấn đề trước mắt, chúng tự nhiên sẽ suy nghĩ, sẽ nghiên cứu những thứ hiện thực hơn.

Cải cách giáo dục mới là thứ quan trọng và nền tảng nhất, cũng là thứ không dễ vì con người mà phế bỏ chính sách nhất. Đồng thời, nó cũng là thứ thâm căn cố đế nhất khó lay động được, vậy nên Dương Long đã phải dùng cách vòng vèo này, phong khí của Đại Minh mở ra, trong đám sĩ tử vốn có nhiều người bắt đầu nghi ngờ Trình chu Lý học, việc tăng cường sách luận thời thế sẽ tăng tốc độ ham học hỏi, nó là một dẫn chứng.

Qua dẫn chứng này, dần dần có ngày càng nhiều người có học thức thông qua chú trọng và hiểu biết về thời thế để dẫn ra những suy nghĩ cho tương lai, từ đó diễn sinh rất nhiều học thuyết và lý luận mới, mà thông thương đường biển mở cửa lúc này liên tục mang thông tin và học vấn nước ngoài về, mà những kiến thức mới này sẽ có tác dụng thúc đẩy, dẫn dắt và bổ sung cho nhau.

Trí tuệ cổ nhân, tuyệt đối không được khinh thường. Sĩ tử xưa mới là sức mạnh trung kiên của thời đại này, họ mới là người quen thuộc nhất với các câu chuyện ân tình thời đại này, người phát triển xã hội về phương hướng lớn sửa chữa một chút, xúc tiến một chút, giống như sửa kênh trị thủy, họ tự sẽ đi theo con đường thông suốt nhất, đây là cách của Dương Lăng.

Trong lục đại nha môn ngoài ba nha môn này cũng chỉ có Bộ binh là bận rộn nhất, khiển binh điều tướng, bay vây chặn đánh, một mặt dần thu hẹp vòng vây, ngày càng nhu nhỏ phạm vi hoạt động của Bạch Y quân để dồn ép, một mặt bắt đầu bố trí chuyện tiêu diệt thổ phỉ Sơn Tây. Thám tử phái đi quan ngoại cũng liên tục đưa tin tình báo của phương bắc và Tây vực về, để Bộ binh bất cứ lúc nào cũng hiểu được động hướng của người Mông Cổ.

Thái Hành, Lã Lương, Lạc Dương, Đồn Quan, Bồ Tân Độ, Long Môn Độ, những con đường sông Thái Hành liên tiếp này cùng với cửa ải hiểm yếu của đường núi và thành trì trọng yếu bắt đầu liên tục tăng binh đóng quân, sắp xếp đại pháo. Dãy Trung Điều Sơn cây cối rậm rạp, cửa ải hiểm yếu có thể thông tới đông tây nam bắc đều bắt đầu tập kết trọng binh, Dương Lăng còn chưa ra khỏi kinh thành đã bắt đầu thiết binh bố phòng, lặng lẽ khép kín vòng vây.

Chiêu hàng là thượng sách, có thể không động binh đao là tốt nhất. Tuy nhiên nếu Triệu Phong Tử không chịu đi vào khuôn khổ thì đành phải động binh. Một tay mềm, một tay cứng, hai tay đều phải chuẩn bị. Còn một khi động binh, chung sống như thế nào với Hồng Nương Tử đó, Dương Lăng có muốn cứng rắn cũng không làm nổi, mềm cũng không mềm được, đành đi một bước nhìn một bước, tùy cơ ứng biến.

Thành Khởi Vận đi Liêu Đông trước một bước, A Đức Ny cũng không phải là người bó buộc trong nhà cao cửa rộng, nên đã cùng nàng đi Liêu Đông, nếu không phải là đang mang thai thì có lẽ Tuyết Lý Mai cũng sẽ đi theo, đàn bà trong Dương gia ngày càng không an phận.

Sự dung túng của Dương Lăng, cùng với thành tựu của Thành Khởi Vận, Mã Liên Nhi, A Đức Ny khiến các nàng không còn cho rằng phụ nữ một khi gả cho người khác rồi thì không được bước chân ra khỏi cửa, ở nhà giúp chồng dạy con, bây giờ thì ngay cả Hàn Ấu Nương luôn tuân thủ nghiêm ngặt chuẩn mực đạo đức, coi là điều luật hàng đầu của thê tử cũng nóng lòng muốn thử.

Các nàng thực ra đều chỉ là những cô gái mười sáu mười bảy tuổi, khí thế bừng bừng, Dương Lăng cũng không muốn các nàng cả ngày buồn bã ở nhà. Vậy nên trong lúc rời khỏi kinh thành, hắn đã giao việc kinh doanh dược phẩm từ đông bắc tới kinh thành cho Cao Văn Tâm, giao việc buôn bác hàng da, lương thực cho Hàn Ấu Nương xử lý, để các nàng thử làm quen trước.

Tuy nhiên đường đường là Uy Quốc Công phu nhân thì không thể nào xuất đầu lộ diện làm việc này, đại chưởng quỹ kinh nghiệm phong phú sẽ xử lý phía trước, các nàng chỉ đứng sau rèm mà thôi, Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai là kế toán trưởng, kinh doanh hiện tại là của nhà mình, đương nhiên phải là người nhà kiểm soát khâu cuối cùng.

Dương Lăng phát binh đi Sơn Tây. Vốn định đồng thời sắp xếp đôi tình nhân Ngũ Hán Siêu và Tống Tiểu Ái xuôi xuống phía nam theo đường thủy tới thành Kim Lăng đón Mã Liên Nhi hồi kinh, đúng lúc này nhận được thư của Mã Liên Nhi từ Nam Kinh gửi tới. Việc buôn bán của họ ở Giang Nam thực ra quá đồ sộ, giờ Vu Vĩnh ở Di Châu, Thành Khởi Vận ở Liêu Đông, Giang Nam chỉ còn lại một mình nàng, muốn giao cho rõ ràng rất nhiều việc như thế này, không thể kết thúc trong chốc lát.

Dù sao việc kinh doanh này không phải của riêng mình nhà Dương Lăng, rất nhiều hoàng thân quốc thích, hào môn ở Giang Nam đều tham gia cổ phần chia hoa hồng, hoặc góp vốn kinh doanh. Là người kinh doanh chính trong đó, nếu như không trình bày rõ ràng đã đi mất, thì trong lúc Bạch Y Quân đang gây rối Giang Nam, có lẽ những cổ đông góp vốn này sẽ càng ngờ vực vô căn cứ, vì thế nàng còn phải ở lại thêm mấy ngày, làm rõ sổ sách, cũng phải căn dặn rõ ràng với các đại chưởng quỹ trong các mối làm ăn ở Giang Nam xong thì mới đi được.

Bạch Y Quân tấn công Kim Lăng gặp thất bại, chuyển hướng Giang Tây, nhất thời chưa chắc sẽ quay về, hơn nữa thành Thạch Đầu có viên mãnh tướng Chu Đức An, cũng không phải dễ phá, người này mặc dù sát khí nặng, cũng quá khát khao danh lợi, nhưng là một kiêu tướng rất giỏi đánh giặc.

Đến lúc này tiểu Ngũ và tiểu Ái sẽ không phải vội vã xuôi nam nữa, vậy nên Dương Lăng liền dẫn họ đến Sơn Tây. Hai người này đều có kinh nghiệm nhất định trong chiến đấu trên mặt đất và trên núi, trong lúc khẩn cấp nói không chừng có đất dụng võ.

Ngựa kêu gió thổi ào ào, mặt trời đỏ soi chiếu đại kỳ!

Trên vách núi phía trước có một quan ải, quan ải xây bên cạnh núi, tường thành phía bên phải chính là đỉnh núi, bên trái là vách đá, nhìn nghiêng cực kỳ hiểm trở, dường như thành lầu của quan ải đó xiêu vẹo bất cứ lúc nào cũng có thể rơi xuống, thực là nơi hiểm yếu một người canh giữ vạn người không thể khai thông.

Cửa thứ chín của Vạn Lý Trường Thành, đến Nương Tử quan rồi.

Qua quan ải này coi như đã vào đất Sơn Tây.

Vũ khí leng keng, tinh kỳ tung bay, Dương Lăng vẫn chỉ huy ba ngàn thiết kỵ. Tù và kêu ù ù trên quan ải, cửa chính mở rộng, tướng lĩnh canh giữ nghênh đón từ xa, Dương Lăng cưỡi ngựa đi đầu, hắn không mặc giáp trụ, đầu đội khăn vấn, mặc áo choàng bằng lụa mỏng xanh, thắt dây lưng da, trông tự nhiên phóng khoáng như một thư sinh.

Chí điểu tương kích, ti phi liễm dực; Mãnh thú tương bác, nhị nhĩ phủ phục. Chiêu bài đánh đã là chiêu an, vậy thì phải lấy chút thành ý hòa bình ra. Vì thế, Dương Lăn mới dẫn binh tới.

***********************

- Triệu tú tài, sao lại thu binh thế?

Hồng Nương Tử bước nhanh vào sơn động, bước chân nhẹ nhàng, thắt lưng uyển chuyển, Phong Lôi đi theo sau, nhìn chằm chằm vòng eo thon nhỏ của nàng, ánh mắt khi thì lơ lửng, khi thì đăm đăm.

Đột nhiên chú ý tới ánh mắt đầy hàm súc của Triệu Toại, Phong Lôi mới giật mình tỉnh lại, mặt gã không khỏi nóng bừng, ngượng ngùng chắp tay nói:

- Tham kiến Triệu Nguyên soái!

Hình lão hổ là chủ soái mã đạo ở Sơn Tây, Triệu Toại là phó soái, sau khi Hồng Nương Tử lên núi hợp binh cùng bọn họ, cũng đảm nhiệm chức Phó nguyên soái. Thôi Oanh Nhi mặc dù tạo phản, nhưng vẫn không có giác ngộ tranh giành giang sơn, nắm giữ thiên hạ, vì thế cảm thấy không được tự nhiên với cách xưng hô Nguyên soái. Thấy Hình lão hổ và Triệu Phong Tử đều gọi là Hình đại ca, Triệu tú tài. Có lẽ trong lòng nàng, chỉ có tên thư sinh trên núi Bạch Đăng kia mới xứng là Nguyên soái.

Hồng Nương Tử mặc quần áo nam nhân, hơn nữa là quần áo ngắn, đầu chít khăn vải, đai vải quấn thắt lưng, cắm nghiêng một thanh đoản kiếm. Chân đi giày leo núi, trên đùi buộc xà cạp cuộn ngược nghìn lớp, oai hùng hiên ngang.

Hồng Nương Tử hiên ngang ngồi trên một chiếc ghế đá, vịn đầu gối nhìn Triệu Toại, uy phong lẫm liệt nói:

- Hứa Thái, Giang Bân đều là kiêu tướng trong triều đình, tuy nhiên chúng ta chiếm cứ địa lợi, đất có thể tấn công, lui có thể phòng thủ, hiện giờ còn chiếm thế thượng phong, không dễ thu hẹp quân đội.

Mấy tháng nữa tuyết lớn sắp bịt kín núi rồi, giờ phải cố gắng dự trữ lương thực, cho nên các con đường giao thông chính không được để cho quan binh chiếm cứ ngăn chặn. Nhân mã của ta vẫn đóng ở Sơn Tây, còn chưa tung sức đâu. Tú tài nếu quân mỏi tướng mệt rồi thì hãy đổi phòng ngự, để nhân mã của ta đóng ở hướng đông bắc.

Triệu Toại thở dài đáp:

- Thôi soái, triều đình đã đổi người tới, chủ tướng không phải là Hứa thái nữa.

Thôi Oanh Nhi nhướn cặp chân mày lá liễu lên:

- Thế thì sao? Binh đến thì chặn, nước đến đất ngăn, quan binh lâm trận đổi tướng, đúng là bọn họ tự gây loạn trạn cước, còn sợ gì nữa chứ?

Triệu Toại cười nhạt một tiếng, nói:

- Lần này thì khác, người triều đỉnh cử tới là Dương Lăng!

- Dương... Dương Lăng?

Thôi Oanh Nhi giật mình, bỗng nhiên cảm thấy chỗ ngồi không thoải mái, nàng khẽ động đậy người, rồi mới nói:

- Hắn... ấy, chẳng phải ngươi nói hắn ở trong kinh chủ trì cải cách chế độ mới mà, sao... sao triều đình lại cử hắn tới chứ?

Hồng Nương Tử mặc võ phục toàn thân, tám phía oai phong. Vốn rất có khí khái nam nhi, lúc này bờ vai đổ xuống, lông mày cụp lại, giọng nói cũng nhỏ hơn.

Triệu Phong Tử bùi ngùi thở dài đáp:

- Dương Lăng chắc chắn khám phá ra chiến lược chúng ta thao quang mù mịt tới nay, ung dung mưu mưu tính đại kế, vì thế mới vội vã xuất binh thảo phạt. Dương Lăng vừa đến liền trói buộc quan binh không tiến công nữa, không biết hắn án binh bất động là có dụng ý gì, người tới không mạnh, nhưng ta cũng phải cẩn thận hơn chút.

Gã tiếc nuối thở dài nói:

- Hình thế Sơn tây vững chắc nhất, bên ngoài có các ngọn núi Thái Hành, Lã Lương và Vương Ốc, Tích Thành, Trung Điều... tạo nên bình phong ngăn cách bên ngoài, phía trong có các núi Hằng Sơn, Ngũ Đài Sơn, Quản Sầm Sơn, Hệ Chu Sơn, Thái Nhạc Sơn, Vân Trung Sơn, Hoắc Sơn, Tắc Vương Sơn đều phân bố đan xen, tạo thành hiểm yếu vòng trong.

Nơi này là nơi cực tốt cho tác chiến nội tuyến, chỉ cần cho ta một đến hai năm để kinh doanh lớn mạnh ở đây, thu được toàn cảnh Sơn Tây, sau đó thì ra Việt Lâm Tấn, Bạc Long Môn, xuống vùng Kinh Vị; Cũng có thể ra Thiên Tỉnh, xuống Hồ Quan, Hàm Đan, sang phía đông tới Tỉnh Hình, hướng vào quân tiên phong, chỉ thắng tới kinh thành, khi bất lợi lại dựa vào địa thế hiểm yếu mà phòng thủ. Làm gì chứ, thời gian không chờ ta mà.

- Dương Lăng thì sao? Hắn cũng chỉ là trên vai gánh cái đầu ăn cơm mà thôi? Ta nhổ vào! Sợ hắn làm gì chứ? Hắn là cái đếch gì!

Phong Lôi trừng mắt, ấm ức quát to.

- Đầu heo! Ta và tú tài nghị sự, ngươi chõ miệng vào làm gì chứ? Tránh sang một bên nghỉ ngơi đi!

Thôi Oanh Nhi không vui, liếc mắt sang, Phong Lôi ngoan ngoãn ngậm miệng, cúi đầu xuống, rắm cũng không dám đánh một cái.

Triệu Phong Tử nhíu mày nói:

- Tên Dương Lăng này dụng binh đánh giặc cực kỳ mưu lược, mặc dù chưa chắc đã là danh tướng đệ nhất thiên hạ, nhưng nhìn tổng quát hắn xuôi phía nam ngược phía bắc, thủy chiến, lục chiến, sơn địa chiến đều có cả.

Quan trọng nhất là, đánh nhau không chỉ dùng chiến thuật, trong triều có người cản trở hay không, chiến lược đề ra có được tán thành hay không, đại tướng dưới tay có nghe theo mệnh lệnh của mình hay không, lương thảo cung cấp có kịp thời không, tất cả đều là điểm máu chốt của thắng bại. Nếu không làm được những điểm then chốt này, dù có là Vũ Mục tái sinh, Võ Hầu tái thế cũng phải chịu thất bại.

Dương Lăng là sủng thần của đương kim Hoàng thượng, muốn binh được binh, muốn tiền cho tiền, các nơi trong triều tích cực hưởng ứng. Hắn là kiêu binh mãnh tướng, thuộc hạ của hắn đều phải lẫm liệt quên mình phục vụ, cho nên Dương Lăng xuất chiến, chỉ cần không ra hôn chiêu, nhất định giành thắng lợi. Ứng phó được với tinh binh bách chiến của Miêu Quỳ, Hứa Thái, nhưng ứng phó không lại với uy thế kẹp Thái Sơn tới của Dương Lăng.

Ánh mắt Thôi Oanh Nhi chợt lóe sáng, thốt lên:

- Ngươi chuẩn bị...đi?

Triệu Toại trầm mặc một lát, đáp:

- Đại nguyên soái bị bệnh, đang có xu hướng nặng thêm, ở Trung Điều Sơn thiếu thầy thiếu thuốc, thật sự không chống cự nổi. Ngoài ra, Lưu Lục huynh đệ hô ứng từ xa với chúng ta, đôi bên phối hợp với nhau, chúng ta mới có thể an tâm phát triển, giờ họ đã dần dần bị quan quân ép vào một góc, rơi vào tình cảnh gian nan ở Giang Nam. Lưu Lục đã viết thư tới, yêu cầu chúng ta điều quân xuôi xuống phía nam giải vây cho gã, Hình đại ca cũng có ý này...

Triệu Toại nói tới đây liền dừng lại, Hồng Nương Tử đã hiểu ý của y. Triệu Toại túc trí đa mưu nên được đề cử làm người chỉ huy thật sự của nhóm nghĩa quân. Nhưng nòng cốt trong quân và tướng lĩnh cấp cao của y bao gồm Đại nguyên soái Hình lão hổ trên danh nghĩa, đều là người của Lão Lục, có câu Dương Lăng binh hùng tướng mạnh, túc trí đa mưu hẳn là một lý do, y muốn xuôi nam, hẳn là vì áp lực mạnh mẽ từ trong nội bộ.

Phong Lôi vừa nghe nói muốn xuôi nam tụ hợp với đám Lưu Lục, Lưu Thất thì không khỏi hưng phấn xoa xoa tay, gã đang định phát biểu ý kiến liền thấy Hồng Nương Tử đang trầm tư, vội ngậm chặt miệng lại.

- Ngươi chuẩn bị làm thế nào?

Hồng Nương Tử đã định lại suy nghĩ, ý của nàng vốn không ở giang sơn, mà là mượn thực lực giúp đỡ của nghĩa quân tạo phản để đối phó với thẻ thù giết cha là Chu Đức An, tuy Dương Hổ giờ đang ở Giang Nam, đó là người nàng cực kỳ không muốn gặp, nhưng Triệu Toại chỉ huy quân xuôi phía nam, rõ ràng là một cơ hội tốt.

Triệu Toại phất tay bảo hai bên lui, thì thầm nói rõ suy nghĩ của mình với Hồng Nương Tử, nàng nhận lệnh đi, Phong Lôi đang định lui ra theo, Triệu Toại chợt nói:

- Phong Tướng quân dừng bước.

Đợi Hồng Nương Tử rời đi, Triệu Toại đến trước mặt Phong Lôi. Ánh mắt nhìn chằm chằm vào gã một lúc lâu, mới khẽ nói:

- Phong Lôi, ngươi lập tức tuyển chọn ba đến năm trăm thuộc hạ võ nghệ cao cường, tinh nhanh trung thành từ trong binh mã của chúng ta, sau đó rẽ đường nhỏ xuống núi, qua Hà Nam để vào Trung Nguyên trước.

Phong Lôi ngạc nhiên hỏi:

- Ta? Chỉ dẫn vài trăm người đi trước?

Triệu Toại gật đầu, nói:

- Đúng, ngươi và Lưu Nhập Thất cùng đi, hiện giờ có rất nhiều người hành thương để trục lợi vận chuyển lương thực từ phía đông sang tây, ta đã chuẩn bị vàng bạc cho ngươi, đi Thiểm Tây trước, sau đó mua một số xe la chở gạo, đóng giả làm hành thương đi về phía đông, ta muốn ngươi đi...

Phong Lôi nghe xong chợt hiểu ra, gã hưng phấn nói:

- Triệu Nguyên soái đúng là có diệu kế, tại hạ xin đi chuẩn bị ngay.

Phong Lôi nói xong chắp tay, hào hứng rời đi.

Triệu Toại dõi theo Phong Lôi rời đi, khẽ thở dài rồi lại lắc đầu. Từ khi Hồng Nương Tử lên núi, vẻ mặt của Phong Lôi có chút khác thường, bản thân gã che giấu rất giỏi, thực ra không chỉ mình Triệu Toại nhìn ra, có lẽ Hồng Nương Tử cũng cảm nhận được, nếu không sẽ không bỗng nhiên thay váy đỏ, cả ngày mặc quần áo nam nhân.

Tên Phong Lôi này năm xưa cũng là một trong những người cạnh tranh mạnh mẽ đấu võ chiêu thân với Thôi gia lão trại, võ công không thua kém Dương Hổ, đáng tiếc gã không có chống lưng, so sánh thì không có ưu thế bằng Dương Hổ. Võ nghệ của gã dù cao, nhưng vẫn không bằng được Hồng Nương Tử, Thôi đại tiểu thư không thả nước, sao gã qua được cửa ải này?

Phong Lôi bị đánh bại bởi vẻ xinh đẹp mạnh mẽ của Hồng Nương Tử, từ đó trúng tiếng sét ái tình với nàng, nhớ mãi không quên, gã không muốn nhìn thấy cảnh vợ chồng Dương Hổ ân ái, lại càng không muốn dưới thế Dương Hổ, Dương Hổ là Bắc lục lâm Tổng đà cầm, gã liền rời khỏi lục lâm, nhập vào nhóm cướp đường.

Cho đến khi nghe nói vợ chồng Dương Hổ bất hòa, Thôi Oanh Nhi sau khi chuyển về nhà thôi gia lão trại ở, tâm tư của Phong Lôi bỗng lanh lợi lên hẳn. Khi ở Bá Châu, đám Trương Mậu và Lưu Lục nghị sự, Phong Lôi động chút là cổ xúy mọi người kéo đội ngũ đi làm sơn tặc, tới Thái Hành Sơn nương tựa Dương Hổ, thực là có dụng ý khác.

Dương Hổ không bỏ vợ, như thế Hồng Nương Tử mãi mãi là con dâu của Dương gia, trong lục lâm đạo phạm vào tội dâm từ sẽ bị trừng phạt cực nặng, Phong Lôi cũng không có suy nghĩ gì xấu, chỉ là Hồng Nương Tử đã rời khỏi Dương Hổ, trong mắt gã vẫn là Thôi đại tiểu thư mà gã thầm yêu thương sâu sắc trước đó.

Nghĩ đến nàng trong lòng đã thấy rất ngọt ngào rồi, nếu có thể ở bên cạnh bầu bạn lâu dài, nhìn nàng cười một tiếng, nghe nàng nói đôi câu thì đã là hạnh phúc mà gã tha thiết mơ ước rồi. Hồng Nương Tử đột nhiên tới Trung Điều Sơn, hàng ngày Phong Lôi đều nhìn thấy bóng hình xinh đẹp, không khỏi vui mừng, lời nói vẻ mặt khó tránh khỏi đôi lúc thất thố.

Triệu Toại nhìn trong mắt, sợ rằng viên mãnh tướng dưới tay của mình sẽ nhất thời sai lầm làm ra chuyện đại nghịch bất đạo, hơn nữa Hồng Nương Tử không những là đàn bà đã có chồng, còn là thê tử thủ lĩnh của một nhóm nghĩa quân khác, một khi thật sự gây ra chuyện dây dưa. Bạch Y Quân đại chiến với bọn cướp đường, Trương Phi giết Nhạc Phi, xác chết bay đầy trời thì hay rồi.

Thế nhưng chuyện này thực sự không thể mở miệng ra nói, suy đi tính lại, hiện giờ cũng chỉ có cách để gã tới Giang Nam xử lý việc quan trọng, tạm thời điều gã đi, đợi đến khi quân đội của mình cũng tới Giang Nam, hợp binh cùng với quân của Dương Hổ thì trước mặt tướng công của người ta, Phong Lôi hẳn có thể dẹp bớt chút tà niệm nhớ nhung này chăng? Nếu không, đây chính là ẩn họa từ bên trong.

Bộ tướng không nhìn xa, không đếm xỉa tới việc ngoài lỏng trong chặt của triều đình, vẫn đang từng bước thu nạp, ý đồ vây khốn hiện thực của Bạch Y Quân ở Giang Nam, mù quáng yêu cầu hợp binh với Dương Hổ và Lưu Lục. Còn đứng chưa vững ở Sơn Tây đã xuất hiện kẻ địch mạnh là Dương Lăng tới, suy trước tính sau, Triệu Phong tử vỗ đùi, thở dài nói:

- Ôi, đàn bà là kẻ gây tai họa. Cổ nhân thật sự không gạt ta!

Triệu Phong Tử bùi ngùi, tên thị vệ chạy vào thở hồng hộc nói:

- Triệu Nguyên soái, quan binh lên núi rồi.

Triệu Phong Tử kinh ngạc, bỗng đứng lên nói:

- Mau mau nghênh địch!

Thị vệ kia ngẩn người, vội đáp:

- Là quan binh phái người... lên núi, muốn gặp Đại nguyên soái và ngài.

Triệu Phong Tử tức giận, hận không thể vả vào mồm cái tên ngu xuẩn này, gã trừng mắt nói:

- Bọn họ phái người lên núi làm gì?

- Chiêu hàng!

Trong thư phòng của Thái Nguyên vệ, Chỉ huy sứ đại nhân, bồi rượu bên bếp, thức ăn đủ vị, Lý Phúc Đạt và Giang Nam Nhạn đang ngồi đối diện nhau nâng chén. Lý Phúc Đạt đắc chí nói:

- Đại lễ đã đầu độc Dương Hổ, đám Lưu Lục đi Giang Tây rồi. Lần này Ninh Vương nắm binh quyền đã có thể danh chính ngôn thuận rồi.

Đại Nhân bày mưu cho Ninh Vương tiên phong hưởng ứng việc cải cách chế độ của Chính Đức, còn quyên góp rất nhiều ngân lượng, việc này cũng rất hợp ý ta, hành động này có thể dẹp bỏ sự cảnh giác của Chính Đức. Người của ông ta hoạt động thật tốt trong kinh, những viên quan trong kinh đó chỉ cần mắt nhắm mắt mở trước việc Ninh Vương can thiệp quân vụ, như vậy Ninh Vương có thể nắm chắc binh lực đủ để khởi sự rồi.

Giang Nam Nhạn nhắc nhở:

- Giáo chủ, Dương Lăng đã đến Sơn Tây rồi. Lần trước tới Đại Đồng. "Kế hoạch buộc rồng" của chúng ta bị hắn phá hoại, thế lực mà bổn giáo phát triển nhiều năm ở Đại Đồng bị quét sạch sẽ. Người này không đơn giản đâu. Giáo chủ nhất định không được xem nhẹ.

Lý Phúc Đạt bình tĩnh nói:

- Sao phải căng thẳng, những người như Miêu Quỳ, Hứa Thái, Sơn Tây tiêu diệt thổ phỉ vô công, thế lực của Phong Tử ngược lại ngày càng lớn mạnh, Dương Lăng không thể không đến. Tuy nhiên hắn đến là lao tới chỗ Triệu Phong Tử ở Trung Điều Sơn, có ảnh hưởng gì tới chúng ta?

Giang Nam Nhạn vội la lên:

- Giáo chủ, ý của thuộc hạ là... người này thực ra là một mối họa lớn của giáo phái ta, hắn đã đến Sơn Tây rồi, có phải nên tìm cơ hội giết hắn không?

Lý Phúc Đạt ngưng ánh mắt lại, trầm giọng nói:

- Hắn giờ là Quốc công, tùy tùng ra vào nhiều như mây, ra tay thế nào? Một khi sắp thành lại bại, nếu chẳng may rò rỉ ra dấu vết, tất cả những nỗi vất vả tổ chức của ta ở đây chẳng phải đều chảy hết sạch sao? Còn nữa, Thái Nguyên là khu vực phòng thủ của ta, nếu hắn xảy ra chuyện ở đây thì chính Tấn Vương cũng phải chịu trách phạt, một Vệ chỉ huy sứ như ta còn có thể giữ được quan vị, giữ được binh quyền sao? Chớ làm chuyện ngu xuẩn!

Thấy vẻ mặt không cam lòng của Giang Nam Nhạn, khẩu khí của Lý Phúc Đạt chậm lại, nói tiếp:

- Dương Lăng năm lần bảy lượt phá hỏng đại sự của bản giáo, Đại Nghĩa lại..., ngươi cho rằng ta không hận hắn sao? Ta hận không ăn thịt, uống máu được hắn! Thế nhưng càng như vậy, càng không thể vì cái nhỏ mà đánh mất cái lớn. Nếu có cơ hội làm ta khoát khỏi can hệ, ta đương nhiên sẽ không bỏ qua cho hắn, nếu không thì không thể hành động thiếu suy nghĩ.

Giết chết một đối thủ tiềm ẩn mạnh mẽ, nhưng lại mất đi cơ hội tốt vấn đỉnh giang sơn, chẳng phải vì cái nhỏ mà lỡ cái lớn sao? Khiêu chiến đặt nền móng hơn trăm năm, triều đình Đại Minh như cây lớn rễ sâu có khó không? Ta đây đều không sợ, ta sẽ kiêng dè như hổ với Dương Lăng? Chỉ có điều giết cũng được, không giết cũng được, phải suy xét toàn diện, tính toán xem cái chúng ta đạt được và mất đi, cái nào nhiều hơn. Nam Nhạn, nhịn, đặc biệt khó khăn!

Nghe thấy giọng nói hơi run của Lý Phúc Đạt, Giang Nam Nhạn vội nói:

- Giáo chủ, đại cục làm trọng, là do thuộc hạ làm theo cảm tính.

Lý Phúc Đạt bùi ngùi thở dài, trầm mặc một lúc lâu mới nói:

- Triều đình hạ chiếu, lệnh cho các địa phương nỗ lực tổ chức và thành lập đoàn luyện dân cường tráng tham gia tiêu diệt thổ phỉ, chắc là ngân khố đã không còn tiền, đành phải dùng dân đoàn thay cho quân đội. Xì! Tổ chức và thành lập đoàn luyện quy mô lớn, người của lão Chu sẽ tính toán xem làm thế nào chiếm được ưu thế, Chu Nguyên Chương dồn điền nuôi binh, Chu Hậu Chiếu càng có tiền đồ hơn, xây dưng dân đoàn thay thế cho quân đội tiêu diệt thổ phỉ.

Nam Nhạn, hôm nay tìm ngươi tới đây là vì chuyện này. Triêu đình không phải đã dặn dò địa phương nỗ lực tổ chức và thành lập đoàn luyện, cùng sử dụng tiêu diệt thổ phỉ sao? Ta cố ý tới Phủấn Vương hoạt động một phen, lại tặng cho Đô chỉ huy sứ một phần hậu lễ, kiếm được chức vị Đoàn luyện sứ binh bị đạo Sơn Tây cho ngươi.

Giang Nam Nhạn nghi hoặc nói:

- Tổ chức và thành lập đoàn luyện dân cường tráng?

Lý Phúc Đạt lạnh lùng cười nói:

- Đúng vậy, tổ chức và thành lập đội dân cường tráng, triều đình chẳng phải vì tiết kiệm tiền mà không muốn nuôi quân sao? Lý Phúc Đạt ta nuôi thay cho họ.

Y nắm chặt chiếc cốc trong tay, thản nhiên nói:

- Hiện giờ tổ chức và thành lập đoàn luyện, nguồn gốc dân cường tráng không cần câu nệ ở một nơi, Nam Nhạn, ngươi vẫn không hiểu ý của ta sao?

Giang Nam Nhạn sáng ngời hai mắt, bỗng nhiên thất thanh nói:

- Thuộc hạ hiểu rồi! Giáo chủ là muốn thuộc hạ triệu tập chúng đồ của giáo phái ta, minh kiến đoàn luyện, ngầm xây dựng...

Gã mới nói đến đây, Lý Phúc Đạt đã đưa ngón tay vào môi, ra hiệu im lặng, y mỉm cười nói:

- Hiểu rồi thì đi làm. Ta muốn gió, Chính Đức sẽ đưa ta gió, ta muốn mưa, Chính Đức sẽ đưa ta mưa, Hoàng đế Đại Minh thức thời biết điều như thế, bổn giáo lo gì không thành đại sự chứ?

Nghĩ thông suốt các điểm mấu chốt trong đó, Giang Nam Nhạn cũng không khỏi hớn hở:

- Giáo chủ anh minh, chúng ta...

- Chớ có lên tướng, có người tới.

Quả nhiên, ngoài cửa vang lên tiếng bước chân, thân binh thị vệ của Lý Phúc Đạt nói:

- Khởi bẩm đại nhân, Uy quốc công truyền quân lệnh tới.

Lý Phúc Đạt và Giang Nam Nhạn ngơ ngác nhìn nhau, vội vàng bước nhanh ra thư phòng, chỉ thấy một vị Trung quân đứng ở trước đường, người mặc áo giáp trụ, bụi bặm mệt mỏi, thấy Lý Phúc Đạt xuất hiện, vị Trung quân đó lập tức bước nhanh về phía trước, tay phải giơ binh phù lệnh tiễn trong tay, trầm giọng nói:

- Thái Nguyên vệ Trương Dần, thấy quân lệnh này, lập tức thống lĩnh binh mã hai vệ, tấn công tới Đông Hoa Sơn.

- Mạt tướng tiếp lệnh!

Lý Phúc Đạt khom người nhận lệnh, cao giọng trả lời, lập tức tiến lên giơ hai tay lên trước nhận binh phù lệnh tiễn, sau đó xoay người uy nghiêm hạ lệnh:

- Người đâu, đánh trống tụ họp! Kẻ nào ba trống vẫn chưa tới, chém!

Ánh mắt của y chạm vào ánh mắt của Giang Nam Nhạn, trong lòng đã hiểu. Lần trước Dương Lăng truyền quân lệnh rằng: "Thẩm định thế lực lũ đạo tặc, phân bố chiến thủ. Phòng thủ vững chắc, khôi phục tiêu diệt".

Rõ ràng, bây giờ đã đến lúc thực hiện chiến lược bước thứ hai rồi.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 384: Song sát

- Chiêu an...lần trước chiêu an bọn chúng đã làm phản rồi. Lần này liệu còn nghe lời triều đình nữa không?

Cho dù đã phái người lên núi, Miêu Quỳ vẫn rất nghi ngờ, không kiềm chế được lại mở miệng nói.

Trong doanh trại đại quân Triều đình dưới chân Đông Hoa Sơn, mấy vị tướng chủ chốt ngồi theo thứ tự. Đám người Miêu Quỳ, Hứa Thái toàn thân mặc áo giáp, vẻ mặt Miêu Quỳ bất cần, kiếm đeo ở sườn, nói với sắc mặt u ám.

Cũng khó trách y tâm trạng không vui, trong vòng ba trăm dặm Đông Hoa Sơn cửa ải trùng trùng, Triệu Phong Tử ngồi trên đỉnh Ngũ Lão, cậy vào địa thế hiểm trở mà cố thủ, đại quân triều đình tổn binh hao tướng, không làm được gì, bị Hoàng đế Chính Đức khiển trách nghiêm khắc.

Trên ý chỉ khiển trách bọn họ "Thảo tặc hơn một tháng mà chưa được, ngược lại để cho thổ phỉ chiếm giang sơn, chiêu binh mãi mã. Không có kinh lược, phần lớn là các tướng ham chơi, giữa lại có đố kỵ, thực là khiến trẫm thất vọng quá, niệm tình nay là lúc cần dùng binh, đều không thể thiếu, quân đội sở thuộc do Dương Lăng điều khiển, lấy công chuộc tội"

Những lời này đã xóa sạch chiến công trước đây ở Đại Đồng của y, đương nhiên trong lòng thấy bất bình.

Dương Lăng cười nói

- Miêu công công, thắng bại là chuyện thường tình của nhà binh, huống chi đám loạn phỉ này sức chiến phi phàm, lại có địa lợi nữa? Ta tập trung toàn lực của Sơn Đông cũng chưa chắc đã tiêu diệt tận gốc loạn phỉ áo trắng, chạy vào trung nguyên có năm vạn dân, hai vị có thể ép Triệu Toại lên Trung Điều Sơn, khiến thế lực của y không thể nào mở rộng thêm đã là một công lớn rồi.

- Quan trọng nhất là, bọn họ muốn cố thủ Trung Điều Sơn, nhất định phải giải quyết vấn đề lương thực, các ngươi chặn các ngả giao thông quan trọng và phủ huyện trọng yếu xung quanh, vườn không nhà trống khiến chúng không có lương thực để cướp, số lương thực hiện có khó có thể qua được mùa đông, như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc ép chúng rời khỏi núi.

- Trong lòng Hoàng thượng biết rõ về những công tích của các ngươi, cũng rất hiểu cho chỗ khó của mọi người. Chỉ là trong triều các quan luôn chỉ vì cái lợi trước mắt, vừa thấy việc tiêu diệt thổ phỉ không có gì tiến triển lập tức đưa ra luận tội mà không biết rằng cái khó của dùng binh là phải đi một bước xem ba bước, phải suy tính toàn diện. Hoàng thượng hạ chỉ trách cứ, chỉ là để bịt miếng đám người bọn họ, đồng thời nhân cơ hội này thị uy, trấn áp quân đội địa phương Sơn Tây thôi.

Các tướng lĩnh khác đều đã bị cho lui, trong trướng chỉ còn lại ba người Miêu Quỳ, Hứa Thái, Giang Bân, cho nên Dương Lăng mới mạnh dạn nói, trấn an. Miêu Quỳ nghe vậy, sắc mặt dần dần dịu xuống. Dương Lăng nói tiếp

- Lần này ta đến với nguyện vọng làm hòa, tính sẽ đánh. Hoàng thượng ban cho ra thanh Thượng Phương bảo kiếm, có thể chặt đầu trước quân, các ngươi nói điều này chỉ giống như mong đợi chiêu an thôi sao?

Hắn đứng dậy, bước đi chậm rãi trong trướng, nói

- Đỉnh Ngũ Lão cách Hoàng Hà và Hoa Sơn tương đối, cũng được gọi là Đông Hoa Sơn, Tây Hoa Sơn là một đường của Hoa Sơn từ xưa đến nay, Đông Hoa Sơn này cũng dễ thủ khó tấn công. Triều đình muốn lấy Đông Hoa Sơn không ngoài hai con đường. Một là tấn công núi bất chấp cái giá phải trả. Một con đường khác chính là tập trung binh lực bao vây tứ phía, thiết lập thành cố thủ, lấy hiểm chế hiểm.

- Cách thứ nhất, thương vong quá lớn. Cách thứ hai lại kéo dài, triều đình không đủ sức chịu nhiều tiền bạc và lương thực như vậy. Cho nên, nếu có thể thuận lợi chiêu an là tốt nhất, nếu không được mới dùng đến vũ lực. Trong vòng ba trăm dặm Đông Hoa Sơn không giống như núi rừng phía Nam nơi chốn rậm rạp, hỏa công không có tác dụng, đường núi gập ghềnh, dùng pháo cũng khó. Nếu thực sự phải dùng vũ lực tấn công, cái giá phải trả không cần nói cũng biết, thắng bại cũng khó đoán trước.

Giang Bân lớn tiếng nói

- Quốc công nói phải, Giang Bân tôi đánh trận thực sự là ra sức, nhưng đánh Đông Hoa Sơn này tôi có lực mà không có chỗ dùng, cường cung lợi nỏ cách xa đã bắn tới rồi, có khi hai bên giao chiến kịch liệt nửa ngày mà vẫn còn cách cả khe sâu, khe núi, sườn núi, muốn tấn công mà khó như lên trời

- Thật sự đã không màng đến thương vong mà tấn công rồi. Bọn giặc thất thủ lùi về phòng tuyến phía sau, lại mất nửa ngày bắn qua bắn lại. Kết quả vừa đến đêm, bọn chúng nhân trời tối lại tấn công lại. Cứ giằng co như vậy, đỉnh Ngũ Lão này cưa không đổ.

Hứa Thái nghe vậy không nhịn được, mặt lộ vẻ tươi cười nói

- Lời của Giang Bân thô nhưng không thô, đỉnh Ngũ Lão trên Đông Hoa Sơn, đỉnh Ngọc Trụ ở giữa, bốn đỉnh Đông Cẩm Bình, Tây Cẩm Bình, Thái Ất Bình, Kỳ Bàn Sơn xung quanh. Nơi này núi non trùng điệp, vách đá hiểm trở, ngọn núi cao và kỳ dị, chi chít như sao trên trời, thực sự là nơi dễ thủ khó công.

Dương Lăng gật đầu nói

- Cho nên ta mang thành ý lớn nhất đến chiêu an Triệu Toại đấy, nếu có thể thành công thì công đức vô lượng. Nếu không thành, dùng sách lược chiêu an và tiêu diệt cùng lúc, trước chiêu an sau tiêu diệt, nhất định cũng có thể làm dao động thế lực trong nội bộ bọn chúng, mượn chiêu an Triệu Toại chia rẽ chúng, để tiện kích phá chúng.

Giang Bân ngạc nhiên nói

- Mạt tướng càng đánh dữ bọn chúng càng đoàn kết, làm sao mà chiêu an lại có thể chia rẽ chúng được? Mong Quốc công chỉ rõ.

Dương Lăng đi trở về soái án ngồi xuống, nói theo án

- Thế lực trên đỉnh Ngũ Lão chia làm ba phái rõ ràng, phái lớn nhất là Triệu Toại, phái thứ hai là ...Hồng Nương Tử, phái thứ ba là Lý Hoa vốn là người chiếm núi làm vua ở Trung Điều Sơn. Trong nội bộ phái lớn nhất lại chia thành hai phái, một là ba anh em Triệu Toại, một là Hình Lão Hổ, Dương Nhập Thất, Phong Lôi.

- Triều đình chiêu an, trong nội bộ bọn họ chắc chắn có người đồng ý hàng, có người muốn đánh, có người muốn đi, giữa các thế lực này sẽ nảy sinh ngăn cách. Triệu Toại tuy rằng thực tế chỉ huy đội quan này, nhưng trên danh nghĩa trên y còn có một đại ca Hình Lão Hổ, như vậy gã muốn chuyên quyền độc đoán sẽ danh bất chính, ngôn bất thuận.

- Hơn nữa, thời gian ngắn như vậy, y không có khả năng tập hợp các nhánh quân nghe theo mệnh lệnh của mình, cho dù không c Hình Lão hổ, y cũng khó mà quyết đoán. Ta thực hiện chiêu an là hi vọng dưới sự bao vây của đại quân có thể ép nội bộ bọn chúng có thể thống nhất ý kiến, hiện nay ta đang điều động đại quân từ các nơi như Thái Nguyên đến viện trợ bao vây núi, tạo thành thế tấn công hùng mạnh, chính là xuất phát từ mục đích này.

- Nhưng nếu trong tình huống này mà chiêu an vẫn không thành công thì sao? Thì làm như vậy cũng không phải là hoàn toàn không có hiệu quả. Chiêu an nhất định sẽ khiến nội bộ chúng không hợp, đỉnh Ngũ Lão sẽ không còn bền chắc như thép nữa, còn chúng ta sẽ có cơ hội rồi.

Giang Bân gật đầu, nghi hoặc nói

- Quốc công, đại quân chúng ta tiếp cận, tấn công núi thường xuyên, đám loạn phỉ trên núi liều chết chống cự, giống như một khối thép chắc chắn, chẳng lẽ một phong thư, một đôi môi có gươm lưỡi có kiếm lại có thể đọ được với uy lực của thương pháo binh mã sao?

Miêu Quỳ như bừng tỉnh, vuốt cằm nói

- Đúng vậy, Quốc công nói không sai. Bọn chúng là một khối thép cũng được, là một đống cát cũng tốt, cũng chỉ là do chữ Lợi mà tụ hợp thôi. Cùng chung mối thù là vì một khi phá núi tổn thất của bọn chúng là giống nhau, kế chiêu an có thể chia rẽ tan rã bọn chúng, còn vì tiếp nhận hoặc không tiếp nhận chiêu an mà lợi ích của bọn chúng cũng khác nhau nữa.

Hứa Thái vui vẻ nói

- Từ xưa đồng hoạn nạn dễ, cùng phú quý khó. Như vậy xem ra, tin Quốc công chiêu an đưa lên núi, trên đỉnh Ngũ Lão hiện tại hẳn là có một phen tranh chấp rồi.

Trên đỉnh Ngũ Lão. Hội nghị vừa tan trong không khí không vui.

Hình Lão Hổ cũng ôm bệnh mà tham gia hội nghị quan trọng về việc chiêu an này. Bọn hưởng mã quân Trung Điều Sơn quả nhiên vì tờ giấy chiêu an của Dương Lăng mà lâm vào đấu tranh nội bộ.

Hai anh em Triệu Phan, Triệu Hạo vốn là thiếu gia nhà giàu, tuy rằng tập võ từ bé, nhưng chưa từng nếm qua trái đắng, sau khi lăn lộn một thời gian dài ở Trung Điều Sơn bọn họ mới biết được quá trình đấu tranh giành thiên hạ nắm chính quyền không đơn giản và thoải mái như trong sách viết, khi phong quang thì nắm quyền lớn, sinh sát trong tay, khi nghèo túng thì cũng vào sinh ra tử, cơm áo lúc có lúc không.

Hai người này nghe được lời bình, đùa giỡn, đại thiếu gia bị du hiệp liệt truyện đầu độc đã hối hận rồi. Vừa nghe nói triều đình chiêu an, không khỏi mừng rỡ, lập tức mạnh mẽ tán thành tiếp nhận triều đình chiêu an. Bọn họ bây giờ tiếng nói cũng có trọng lượng, hưởng mã đạo trong quá trình chạy trốn đã chiêu binh mãi mã, những binh lính mới tuyển mộ đều giao cho hai người này dẫn dắt, hai người hợp lại cũng có hơn vạn tên lính trong tay.

Phong Lôi và Lưu Nhập Thất tuyển chọn tinh binh, đang chuẩn bị đào đường nhỏ thoát ra Trung Điều Sơn, lấy đường qua Hoàng Hà. Người vẫn chưa đi, triều đình đã đến chiêu an, thế là hai người liền quay về để tham dự hội nghị. Vừa nghe ý kiến của anh em nhà họ Triệu, hai người lập tức đứng ra phản đối, đặc biệt Lưu Nhập Thất cũng là thân tín của Trương Mậu. Trương Mậu bị Giang Bân làm hại, Lưu Nhập Thất hận Giang Bân tận xương tủy, muốn hắn đầu hàng về cùng một phương với Giang Bân đúng là chết cũng cũng không chịu.

Hình Lão Hổ vốn là thuộc hạ của Lưu Lục Thất. Người này không có dã tâm và chí lớn gì, trước giờ chưa từng nghĩ sẽ nắm hết quyền hành, nếu không cũng sẽ không đem binh quyền giao hết cho Triệu Toại, hơn nữa gã rất coi trọng nghĩa khí giang hồ, cho nên ý kiến của y là đem quân phá vây, xuôi về phía nam hợp nhất với Dương Hổ, Lưu Lục. Hình Lão Hổ mặc dù chỉ là đại soái trên danh nghĩa, nhưng ý kiến của hắn lại không thể khinh thường, ý niệm mỏng manh tiếp nhận chiêu an trong đầu Triệu Toại lại bị tiêu hao đi vài phần.

Lúc này, Lý Hoa ngồi trên Trung Điều Sơn trong đầu lại xuất hiện ý niệm chiếm núi làm vua, đầu hàng triều đình y không chịu, chuyển sang Giang Nam y cũng không đồng ý, Lý Hoa kiệt lực khuyên bảo Triệu Toại ở lại Trung Điều Sơn, căn bản không cần lo triều đình vây khốn. Theo gã lý giải, gã ở Trung Điều Sơn nhiều năm như vậy, quan binh cũng không làm gì hắn được, hiện tại binh hùng tướng mạnh, càng không cần lo lắng quan binh bao vây tiêu diệt. Đầu quân cho triều đình nếu chẳng may bị phản công, muốn chạy cũng không chạy được, đi Giang Nam thì không có căn cứ, lại quá mạo hiểm.

Hồng Nương Tử không có ý kiến gì, lúc đầu gia nhập Bạch Y Quân tạo phản chỉ là vì muốn khống chế nhân mã của Thôi gia lão trại tránh bị Dương Hổ thâu tóm hoặc lợi dụng, nàng không có hứng thú với tranh đấu giành thiên hạ, giết kẻ thù giết cha Chu Đức An có thể mượn dùng nghĩa quân liền mượn dùng nghĩa quân, nếu không được thì hành thích ám sát cũng là nghề của nàng, nhưng Thôi phó soái không nói lời nào, mấy vị thúc phụ bề trên của nàng lại mồm năm miệng mười, ý kiến gì cũng có.

Triệu Toại bị làm cho choáng váng đầu óc, người này tính tình ngay thẳng, không có sở trường cân đối mối quan hệ phức tạp như vậy, gã tuy có dã tâm nhưng không có uy vọng và quyền lực tuyệt đối, đến lúc liên quan đến lợi ích cá nhân thân thiết thì căn bản không thể giải quyết được các thế lực.

Triệu Toại bất lực, đành phải thương nghị với Hình Lão Hổ, Thôi Oanh Nhi, quyết định đàm phán với triều đình trước, nhân cơ hội này làm rõ bố trí và thực lực của đại quân triều đình sau khi Dương Lăng đến, sau đó mới quyết định là đánh hay là hàng hay là đi. Đáp án lập lờ nước đôi này cuối cùng cũng tạm thời trấn an được đám thuộc hạ.

Lý Hoa sắc mặt u ám trở về đỉnh Kỳ Bàn Sơn nơi mình cố thủ, phó trại chủ Chu Bàn nhìn thấy sắc mặt y không tốt vội tiến lên phía trước nghênh đón, nói

- Đại ca, Triệu nguyên soái mời huynh sang đó để thương nghị chuyện quan trọng gì thế?

Lý Hoa ngồi xuống một cách uể oải, nói

- Còn có thể có chuyện gì nữa? Haiz! Triều đình chiêu an.

- Chiêu an?

Chu Bàn giật mình.

- Triều đình muốn chiêu an chúng ta? Thế... ý của Triệu Nguyên Soái thế nào?

Lý Hoa nói

- Y không nói thẳng, nhưng ta nghĩ là ý đó, Triệu Nguyên Soái có chút dao động rồi, cũng may đám người Hình đại soái và Phong Lỗi, Lưu Nhập Thất đều biểu thị phản đối, Triệu Nguyên Soái mới quyết định tạm thời nghị hòa với triều đình, tùy cơ hành sự.

Chu Bàn nghe vậy mới yên lòng lại, nếu tiếp nhận chiêu an thì người khó xử nhất chính là bọn họ, vì bọn họ kết một mối thù hận lớn với Bồ gia - hào môn thế gia của Sơn Tây, Cơ gia- võ lâm thế gia ở Bồ Châu.

Bồ gia có người con gái, gả đến Cơ gia ở Bồ Châu. Đám người của Chu Bàn khi xuống núi cướp đã cướp cả vị thiếu phu nhân nhà Cơ gia đang đi dâng hương trên chùa Phổ Tế lên núi, vơ vét hết tiền bạc cũng không thả người, lăng nhục một thiếu phụ đang sống sờ sờ đến chết.

Thiên hạ các nơi đều có một số hào môn thế gia, gia nghiệp to lớn, thế lực vững chắc. Bồ gia Sơn Tây chính là một hào môn như thế, nếu thực sự chấp nhận triều đình chiêu an, cho dù bọn họ làm quan cũng làm sao mà đấu lại được với thế lực của Bồ gia? Huống chi Cơ gia lại là võ lâm thế gia, hiện nay Cơ gia đã có người làm tham tướng võ quan ở ngoại tỉnh. Trong núi bọn chúng là to nhất, ra khỏi núi sớm muộn gì cũng bị chúng tiêu diệt.

Chu Bàn vừa mới thở phào nhẹ nhõm lại nghe Lý Hoa nói

- Nhưng ý Hình Đại Soái là rời khỏi Trung Điều Sơn, dẫn quân đi trung nguyên. Lưu Lục Lưu Thất và Dương Hổ bọn họ bị quan binh bao vây khắp nơi, ở trung nguyên giống như là chó mất nhà. Nếu chúng ta mất đi nơi hiểm trở Trung Điều Sơn này, chạy đến Trung Nguyên, chỉ sợ không những không cứu được y, ngay cả chúng ta cũng rơi vào đó, chiêu này quá ngu xuẩn, Hình đại soái và anh em Lưu Lục tình thâm, chúng ta dựa vào cái gì mà đi theo bán mạng?

Lý Hoa hối hận nói

- Biết vậy chẳng làm, chúng ta làm sơn đại vương, tiêu diêu tự tại. Đều tại ta nhất thời quỷ mê tâm hồn còn thực sự cho rằng bọn họ có thể thành đại sự, lập tức khởi binh hưởng ứng, kết quả dẫn lửa thiêu thân. Hiện giờ bọn họ phải chấp nhận chiêu an hoặc bỏ núi mà đi, chúng ta làm thế nào? Đi theo đám bọn họ làm giặc cỏ sao?

Chu Bàn nói

- Đại ca, lão muốn đi Giang Nam, chúng ta cùng lắm chia đôi ngả, tiếp tục ở lại Trung Điều Sơn này. Tâm trí quan binh đều ở Hình Lão Hổ, Triệu Phong Tử, bọn họ muốn đi thì để họ đi, dụ quan binh rời đi chúng ta sẽ an toàn.

- Haiz! Nếu bọn họ chấp nhận chiêu an thì sao? Thế lực của bọn họ lớn hơn chúng ta, bốn đỉnh còn lại đều do bọn họ đóng. Chỉ cần chấp nhận chiêu an, bọn họ lập tức biến thành quan binh, chúng ta có thể trốn vào hướng nào?

- Cái này...đại ca, bọn lão định đàm phán ở đâu?

- Trên thư quan phủ nói nếu Triệu nguyên soái đồng ý nghị hòa sẽ do chúng ta chọn thời gian, địa điểm định trên cầu Tiên Nhân ở Lưu Vân Độ, cầu này là một cây cầu dài ở giữa đèo sâu, gai bên đèo các nhau tương đối, không sợ đối phương cho binh mai phục

Chu Bàn đảo mắt, ghé sát vào lỗ tai y nói

- Đại ca, huynh đệ nghĩ ra được một biện pháp ngăn cản Triệu nguyên soái chấp nhận triều đình chiêu an, xem đại ca có cái gan này không

- Biện pháp gì?

- Lão tam là thần tiễn có tiếng, nhân xưng Kim nhãn điêu, trong rừng rậm bắn hồ thỏ cũng là trăm phát trăm trúng, hơn nữa lực tay gã siêu quần, có thể khiến ngũ thạch cung xuyên qua Dương Lăng cách đó trăm bước. Hội đàm ngày đó, nếu không ngại thì để gã ở trong rừng rậm trên đỉnh núi dùng ám tiễn bắn chết Dương Lâm, như thế việc chiêu an tất nhiên sẽ bị hủy bỏ.

- Cái gì?

Lý Hoa giật mình kinh hãi

Chu Bàn vội an ủi

- Đại ca yên tâm, ai có thể đoán được là chúng ta động tay chân? Nói về thù hận, Hình đại soái, Phong Lôi, Lưu Nhập Thất bọn họ có mối thù với triều đình sâu hơ chúng ta nhiêu. Hơn nữa, cho dù đoán được nhưng không có chứng cứ ai có thể làm gì được chúng ta?

Lý Hoa suy nghĩ một lúc lâu, cắn răng một tiếng nói

- Được, cứ làm như thế, tuy nhiên nhất quyết không được ngộ thương Triệu nguyên soái. Lão tam đâu?

- Lão tam gác ở trước núi rồi, đệ đi gọi hắn về?

- Đi đi, cẩn thận chút, không được để lộ ra điều gì

- Huynh đệ hiểu ý

Chu Bàn nói xong vội vàng đi ra khỏi cửa phòng, nhìn tứ phía sau đó vội vàng đi về phía trước núi

Hai vệ binh mã của Lý Phúc Đạt đã chạy đến thành Bồ Châu, đồng thời bắt đầu di chuyển địa điểm đóng quân về hướng Đông Hoa Sơn theo lời dặn của Dương Lăng.

Lúc này, phụng mệnh Dương Lăng, các vệ sở binh quan và bộ phận biên quân vốn đóng giữ các nơi, phòng ngừa Triệu Phong Tử chạy khắp nơi đều lần lượt tiến về phía Đông Hoa Sơn, bọn họ trấn giữ ở hết thảy cửa ải giao thông thủy bộ hiểm yếu, đóng vững đánh chắc, từng bước bố trí phòng vệ, vòng vây càng ngày càng nhỏ.

Những chuyện này là do Dương Lăng trước khi xuất kinh đã an bài trừ trước, cho nên làm đâu ra đấy. Binh vệ của Thái Nguyên Vệ không tham gia vào việc bố trí từng bước từng bước thành lũy tấn công, hắn điều hai vệ binh mã đi trước hiển nhiên là vì tăng cường lực lượng tấn công núi.

Lý Phúc Đạt cưỡi một con ngựa cao lớn, ánh mắt gã mơ hồ, tâm trạng đang suy đoán kế hoạch thông bàn của Dương Lăng một cách căng thẳng, căn bvản không chú ý đến cảnh đẹp núi non thanh tú ở bên đường.

Giang Nam Nhạn trợ thủ đắc lực của gã bị lưu lại Thái Nguyên tổ chức dân đoàn, Di Lặc giáo cần người có người, cần tiền có tiền, khuyết điểm từ xưa là không thể hoạt động công khai, tập trung tín đồ trung thành huấn luyện thành một chi đoàn quân đội trung thành với mình.

Mượn thế lực của Vũ Định Hầu Quách Huân, hiện tại gã thành công nắm giữ Thái Nguyên Vệ, hơn nữa ngoài sứ tả vệ, trung vệ chỉ huy ra, gã còn lợi dụng chức quyền và cơ hội khi Lưu Cẩn loạn chính, hoặc tặng lễ đút lót, hoặc gây hấn bãi chức, đem quan tướng trung hạ tầng thay hết thành người của mình. Gã chắc rằng một khi khởi sự có thể nhanh chóng giết chết hai chỉ huy sứ, nắm tam vệ trong tay.

Nhưng chỉ là lực lượng vũ trang này suy cho cùng cũng rất yếu, hơn nữa độ trung thành của binh sỹ vẫn là một vấn đề, cơ hội lợi dụng sức mạnh triều đình tổ chức bộ đội huấn luyện thành vũ trang tư nhân của mình thì phần nắm chắc sẽ lớn hơn nhiều.

Ở Sơn Tây gã có rất nhiều tín đồ trung thành, trong đó có một số tài chủ giàu có một vùng, tấn thương chi phú, thiên hạ đệ nhất. Dựa vào của cải do những tín đồ trung thành này cống hiến để mua ngựa, binh khí, giáp trụ, lương thảo. Tập trung những tín đồ trung thành với bổn giáo lập thành một chi quân đội hoàn toàn trung thành, dựa vào đại pháp sư, pháp sư, các vị trưởng lão, hương chủ tiến hành huấn luyện, nghiệp lớn có hi vọng rồi.

Tuy nhiên có hai việc gã không ngờ đến. Một là Dương Lăng từ trong kinh thành đến, không đến Thái Nguyên trấn thủ trung tâm chỉ huy mà nửa đường chuyển hướng trực tiếp đến Bồ Châu. Hai là Dương Lăng sẽ điều binh của hắn đến trợ chiến.

Từ khi Triệu Toại chạy trốn vào Sơn Tây đến nay, vùng này đã nhận được lệnh của Dương Lăng: để tránh tự loạn trận cước, các phủ đạo ai chịu trách nhiệm của người đấy, phòng vệ địa phương. Ngăn chặn giao thông, không được để thoát ra ngoài cùng bọn thổ phỉ, bọn họ chỉ phụ trách bao vây, truy binh do kinh sư phái tới phụ trách tiêu diệt. Như vậy Lý Phúc Đạt muốn đục nước béo cò, khiến Triệu Toại nhân cơ hội làm loạn Sơn Tây cũng không được rồi.

Nay Dương Lăng điều gã đến, đề nghị của Giang Nam Nhạn trong lòng y lại trỗi dậy. Trong tâm y, giang sơn là số một, vì giang sơn y có thể từ bỏ tình thân, nhẫn chịu mối thù với Dương Lăng. Nhưng hiện nay Dương Lăng không ở trong khu vực phòng thủ của y, ý niệm tìm cơ hội xử lý họa lớn trong lòng này lại trở nên tha thiết.

Còn nữa, đó chính là Dương Lăng muốn nghị hòa, tuyệt đối không thể ngồi chờ Triệu Toại nương nhờ vào Dương Lăng, khiến hắn rảnh tay ra tập trung toàn lực đối phó với Dương Hổ vừa chạy đến Giang Tây, việc nghị hòa này nhất định phải phá. Hai chuyện này dường như có thể giải quyết cùng lúc.

Nghĩ đến đây, Lý Phúc Đạt lóe lên tia sáng hung ác trong mắt, y ngẩng đầu lên, gọi to

- Tiểu Sở

Một thị vệ trẻ khôi ngô tuấn tú thúc mạnh ngựa, tiến nhanh lên hai bước, chạy đến bên cạnh y.

Người này là một nghĩa tử trẻ tuổi được y chọn từ trong Di Lặc giáo, võ nghệ tương đối phi phàm, Lý Phúc Đạt cúi đầu căn dặn một hồi. Tiểu Sở trên mặt lộ ra vẻ hưng phấn nóng lòng muốn thử, chắp tay nói nhỏ

- Nghĩa phụ yên tâm, con nhất định hoàn thành mệnh lệnh

Lý Phúc Đạt đảo mắt nhìn bốn phía, thản nhiên cười nói

- Ừm...bây giờ đi chuẩn bị đi. Nhớ lấy, nhất định không được làm thương Triệu Phong Tử, người này còn hữu dụng

- Tuân lệnh

Tiểu Sở quất ngựa, chạy về phía sau đội ngũ hành quân dài.

Lý Phúc Đạt thúc ngựa đi về phía trước

- Trung quân, truyền lệnh đi, toàn quân tăng tốc đi về phía trước, đi tới điểm đóng quân lập tức đào chiến hào, sừng hươu, an bài tốt tất cả phòng ngự mới dựng trại đóng quân, chôn nồi nấu cơm, ai dám làm nhỡ việc quân cơ của quốc công xử theo quân pháp

Quan trong quân lập tức truyền lệnh xuống, toàn quân đột nhiên tăng nhanh lộ trình. Lý Phúc Đạt nhìn đội ngũ đang gấp rút hành quân, trên mặt tràn đầy vẻ cười như không cười

- Năm ngoái hao binh tổn tướng, mọi việc không thuận, một năm trôi qua rồi nhiều điều đã khác, đầu tiên là Bạch Y Quân, sau đó là bọn giặc cỏ, Chính Đức vội vàng đưa quân bến, Dương Lăng vội dẫn xác đến, phải chăng năm nay xoay chuyển vận thế rồi?

Vừa vào Sơn Tây đã toàn núi, dọc đường Dương Lăng nhìn thấy cũng nhiều rồi, nhưng đặt chân lên núi thì đây là lần đầu. Ngoài ba trăm dặm chạy dài Đông Hoa Sơn, là một trong những nơi hiểm yếu nhất của mạch chính Trung Điều Sơn, núi cao hiểm trở, thác nước Lưu Vân có thể nói là đẹp không sao tả xiết.

Nhưng cảnh đẹp của núi nằm ở kỳ lạ. Nếu là du sơn ngoạn thủy thì đương nhiên thế núi càng kỳ lạ càng hiểm càng tốt, nhưng dùng binh đánh trận thì làm người ta phải đau đầu rồi. Dương Lăng nhìn những dãy núi trùng điệp liên miên không đứt, rừng rậm chỗ nào cũng thông reo cuồn cuộn như cột sống của thú lớn, cây hiếm đá thạch kỳ quái lởm chởm, dễ phòng thủ khó tấn công, cũng không khỏi âm thầm kinh hãi.

Mặt trời mới lên ở hướng đông, đỉnh Ngũ Lão chập chùng liên miên giống như đang ngủ trong mông lung, ngàn kênh vạn suối phơi bày ra nét đẹp lỳ lạ của nó giữa đất trời. Lưu Vân Độ là thung lũng nhỏ ở giữa hai ngọn núi, trong hẻm thung lũng có ẩn giấu bóng hình màu xanh đậm. Khói khí bồng bềnh làm tăng thêm mấy phần thần bí cho không khí yên ắng. Nhìn kỹ lại, mới nhìn ra đó là khói khí sương mù, bị ánh mặt trời khúc xạ, hơn nữa trong thung lũng âm u nên thành ra màu đó.

Cầu Tiên Nhân là một cây cầu treo bằng xích sắt trên Lưu Vân Độ, hai đầu đóng đinh thật sâu vững chắc vào trong nham thạch, những tấm ván được cố định trên xích sắt. Hai bên là lan can bảo hộ cao hơn người. Lan can bảo hộ hai bên trái phải dùng ba dây xích sắt cộng thêm tre gỗ bện thành, mắt lưới nhiều, hướng về hai bên, thân cầu hơi đung đưa, dường như không có gì che chắn treo ở giữa không trung. Nhát gan mà bám vào lan can cầu cũng không dám qua.

Quái thạch hai bên đầu cầu dựng đứng, muôn hình vạn trạng, mỗi khi mây mù bao phủ, lúc đi qua cầu như đi giữa sương mù, lâng lâng như tiên, cho nên cầu này được gọi là "cầu Tiên Nhân". Dưới cầu vách đá dựng đứng thông thiên, quái thạch sừng sững, mơ hồ có thể nghe được tiếng nước, nhưng lại không nhìn ra chỗ suối chảy, chỉ có đám rêu xanh trên vờ vực, mờ mờ ảo ảo mà ớn lạnh.

Cây cầu dài hẹp lắc lư, căn bản không thể dùng binh sĩ xung phong. Bốn phía lại không thể bố trí mai phục, có thể nói là một nơi đàm phán vô cùng an toàn. Ngũ Hán Siêu vì sự an toàn của Dương Lăng có thể nói đã tốn công tốn sức, tướng lĩnh của đối phương ai ai võ nghệ cao cường, mà võ nghệ của vị Quốc công gia này, tuy hắn luôn đắc chí, nhưng trong mắt của Tiểu Ngũ này chỉ là mèo ba chân, vẫn không ăn thua.

Trên người hắn mặc dù có hỏa khí, nếu bị đột kích ở gần, chung quy lại không nhanh bằng rút đao ra, cho nên Ngũ Hán Siêu liền nhanh chóng lên núi, sắp đặt ở trên cầu Tiên Nhân. Dùng xích sắt vắt lên nhau kết thành một tấm lưới ngang ở giữa cầu, chia cầu thành hai, phân tách người đàm phán của hai bên ra.

Từ trên cây cầu lắc lư này muốn trèo sang đây, bên này lại có cao thủ hộ tống đúng là tìm đến cái chết. Trên bờ rừng rậm rạp, nếu có ẩn nấp thích khách bắn tên cũng phải suy nghĩ đến, cho nên Ngũ Hán Siêu mặc áo giáp hộ thân cho Dương Lăng, ngoài khoác mãng bào, bản thân mình và Giang Bân thì mang đao kiếm và khiên chắn, giấu nỏ trong tay áo, về mặt hộ vệ có thể nói là làm đến cực hạn rồi.

Bên bờ kia thị vệ san sát, bắt đầu có đoàn người hướng đến cầu Tiên Nhân, Dương Lăng phóng tầm mắt nhìn ra xa, trong đám người không có bóng dáng của Hồng Nương Tử, bất giác hắn thở phào nhẹ nhõm.

Dương Lăng hướng nhìn Ngũ Hán Siêu khẽ gật đầu. Bốn người Ngũ Hán Siêu, Hứa Thái, Giang Bân, Tống Tiểu Ái hộ tống hắn, cũng bắt đầu hướng về đầu cầu. Ở giữa cầu, cách tấm lưới sắt có hai chiếc ghế vịn, lẳng lặng đặt yên ở đó, nhịp nhàng đung đưa theo bề mặt cầu, xa xa Triệu Toại cùng với Phong Lôi, Lưu Nhập Thất, Lý Hoa, Triệu Cao từ từ đi lên đầu cầu.

Triệu Toại làm phản, tin tức truyền về kinh sư, Dương Lăng liền điều tra rõ y là Triệu tú tài mà hắn kết giao ở trấn Thắng Phương, tết Nguyên tiêu hai người còn gọi nhau là huynh đệ, cùng nhau thưởng thức hoa đăng, hôm nay gặp lại đã là kẻ địch cầm binh, Dương Lăng cảm khái không thôi, bước chân cũng trở nên chậm dãi.

Chỗ núi cao rừng sâu, Kim Nhãn Điêu lau mồ hôi, chặt bụi gai, nhét Khai Sơn Đao vào bên hông, sau đó nằm phục trên một khối đá kỳ dị nhô ra, hướng về phía cầu quan sát.

Núi cao rừng rậm, quản nhiên không dễ bị người khác phát hiện, nhưng cũng gây bất lợi cho bản thân, không phải đứng chỗ nào cũng có thể nhìn rõ ràng tình hình ở trên cầu Tiên Nhân, lại còn dễ dàng bắn tên. Kin Nhãn Điêu vốn là thợ săn trong núi, ánh mắt tinh tường, tất nhiên sẽ nhìn ra vị trí nào có thể nhìn thấy rõ ràng hết thảy cầu Tiên Nhân, lại dễ ẩn nấp không bị phát hiện.

Nơi y chọn là một chỗ quái thạch lởm chởm trên núi, cây cối cỏ dại đan xen ở giữa, từ trên nhìn xuống có thể nhìn không xót một cái gì, hơn nữa từ dưới nhìn lên chỉ có thể nhìn thấy một tảng đá, do vấn đề tầm mắt, đừng nói nằm sấp bên trên, cho dù ngồi lên trên, ở dưới cũng không dễ gì phát hiện ra. Kim Nhãn Điêu xuất thân trong giới thợ săn, giỏi nhất là ngụy trang, y mặc bộ quần áo màu sắc rực rỡ, nằm ở chỗ đó càng bị che khuất.

Vũ khí y sử dụng là Ngũ Thạch Cung. Ngũ Thạch Cung có thể xuyên đá xuyên tường, muốn bắn thủng tấm chắn cũng như bẻ gẫy cành khô, có thể sử dụng loại cường cung này thiên hạ không mấy người, đám người Triệu Toại cũng không biết y có công phu này, nhưng một lão tam tầm thường của sơn trại lại có được tuyệt kỹ kinh người như vậy.

Có điều cho dù y có thần lực trời sinh, Ngũ Thạch Cung này nhiều nhất cũng chỉ có thể bắn ra sáu tên, nhiều hơn cũng không có khí lực nữa. Kim Nhãn Điêu vốn không để ý đến điều này, với tài bắn cung cực kỳ chuẩn xác của y, đoán rằng một mũi tên là có thể xuyên qua Dương Lăng từ trên xuống, khiến cả người hắn dính lên trên cầu, quan binh ôm tấm chắn bằng sắt trong tay cũng giống như một khối đậu phủ đối với Ngũ Thạch Cung này, căn bản không có gì trở ngại.

Kim Nhãn Điêu lấy thiết bản chỉ đội lên, từ trong túi đựng tên lấy ra một mũi tên Điêu Linh Lang Nha, từ từ khoác lên dây cung. Giữa cầu Tiên Nhân cách một tấm lưới sắt có hai người đang ngồi, như đang đàm phán gì đó. Phía sau hai người có bốn người, đứng cách ghế khoảng năm sáu bước chân.

Ghế dựa đã cho y mục tiêu chỉ thị tốt nhất, ngồi ở đó, tự nhiên sẽ trở thành mục tiêu săn bắt của y, mũi tên lạnh lùng từ từướng về phía cầu, di chuyển đến chiếc ghế đối diện với tấm lưới, con người đó.

- Dương Lăng, ngươi ở trên cầu Tiên Nhân này thăng thiên thành tiên đi

Kim Nhãn Điêu nở một tia cười lạnh lùng nơi khóe miệng.

Đối diện trên núi, Tiểu Sở cũng vào vị trí tấn công.

Toàn thân gã mặc quần áo màu xanh, lưng đeo đơn đao, khăn đen che kín mặt, bộ dạng của người đi trong đêm. Đây là một cây đại thụ, cây tách ra làm hai nhánh ở giữa không trung, nhánh dựa vào núi vẫn kín đáo, nhưng nhánh hướng về vách núi này lại thưa thớt hơn, cây này cũng không biết là cây cổ thụ bao nhiêu năm rồi, nhánh cây mọc ra giữa không trung cũng to đến kinh người.

Tiểu Sở ngồi vững trên một cành ngang rộng như ghế dựa, lấy cung từ trên vai xuống. Đàm phán không chỉ vài lời nói là kết thúc nên gã không vội. Tiểu Sở giết người trước giờ đều rất có nhẫn nại.

Vũ khí gã dùng là tam thạch cung. Tam thạch cung là tiêu chuẩn trang bị trong quân đội, trên thực tế ngoài trừ số ít tinh anh trong những tay cung thủ chuyên nghiệp ra, phần lớn không ai dùng được tam thạch cung. Đại đa số người trong quân đội phía Bắc chỉ có thể sử dụng lưỡng thạch cung, còn vệ sở binh phía Nam, ví như loại cung mà khi Dương Lăng ở Tiền Đường kinh ngạc chứng kiến đám vệ sở binh biểu diễn thần công "cung tên bất nhập" cũng chỉ coi như chuyện cười mà thôi.

Tiểu Sở là cao thủ võ thuật, nhưng khí lực không phải là sở trường, cung tiễn là khi gã cùng nghĩa phụ đặc trách chỉnh quân ở Thiểm Tây mới đắt đầu học. Gã biết nghĩa phụ sau này sẽ giành thiên hạ, giành thiên hạ phải nhờ vào công phu trên ngựa, cung tiễn là vũ khí tất yếu dùng đến, võ thuật đánh ngắn thuộc sở trường của mình chỉ e sau này không dùng đến, từ đó gã bắt đầu khổ luyện thuật cưỡi ngựa, binh khí dài và cung tiễn, đến nay cũng được coi là một tay thần tiễn có tiếng trong vệ quân Thái Nguyên.

Ngồi vững trên đỉnh cây, bắn vào tấm bia không nhúc nhích, gã chắc chắn rằng một mũi tên bắn trúng hậu tâm của Dương Lăng. Nhưng gã nhất định phải chờ, Dương Lăng không thể cứ ngồi yên bất động ở đó, gã phải chờ đến khi Dương Lăng đứng dậy đi lại, khi hắn quay người mũi tên đột nhiên bắt đi, mũi tên như tia chớp, chờ khi hắn ngã xuống sẽ không ai biết mũi tên được bắn ra từ hướng nào.

Dương Lăng bỗng nhiên đứng dậy, Tiểu Sở mắt sáng lên, nhanh chóng lau tiễn, lên dây, quỳ bắn đúng tư thế.

Cung giương lên như trăng tròn, sát khí ngập tràn, mũi tên này sắpbắn đi.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 385: Thần thương ám tiễn

Dương Lăng thản nhiên đi đến giữa cầu treo. Triệu Toại dẫn bốn mãnh tướng cũng đến đối diện, Dương Lăng mỉm cười chắp tay, nói

- Triệu đại ca, đã lâu không gặp

Triệu Toại hơi kinh ngạc, định thần nhìn hắn chăm chú, có chút quen mặt, nhưng chưa nghĩ ra mình quen biết Quốc công gia khi nào. Gã đáp một tiếng, chắp tay đáp lễ:

- Quốc công gia xưng hô như thế tại hạ không dám nhận

Dương Lăng cười ha hả nói:

- Có gì mà không dám nhận, hội đèn Nguyên tiêu, huynh đệ chúng ta trò chuyện vui vẻ với nhau, lúc đó còn làm huynh tốn kém, mua bát bánh trôi cho tiểu đệ ăn đêm. Triệu huynh quý nhân nhiều việc, vậy mà lại quên mất sao?

- A! Người đó...người đó là ngươi ư.

Triệu Toại kinh ngạc nói.

Dương Lăng cười dài hành lễ, nói:

- Đúng là tiểu đệ, từ biệt ở Thắng Phương, không ngờ hôm nay gặp lại lại là binh tặc gặp nhau trên đỉnh Ngũ Lão này, thế sự biến hóa khôn lường, khiến người ta nghẹt thở.

Triệu Toại đã định thần, cười lạnh một tiếng, nói:

- Hôm nay Quốc công gia đến không phải là muốn ôn lại chuyện cũ với ta đấy chứ?

Dương Lăng thoải mái tự nhiên nói:

- Cố nhân gặp lại, ôn lại chuyện cũ trước cũng không sao. Ha ha, mời Triệu huynh ngồi.

Triệu Toại hừ nhạt một tiếng, quay người trở về vị trí. Dương Lăng cũng ngồi xuống phía đối diện, nhấc chân bắt chéo, gió cuồn cuộn, thổi áo bào tung bay, tứ trảo kim long trên áo bào như muốn xuyên mây bay lên. Dương Lăng nhìn xung quanh vui vẻ nói:

- Ở trấn Thắng Phương, chợ hoa như ban ngày. Hôm nay, trên cầu Tiên Nhân ở Lưu vân độ này cũng rất thú vị. Ta với Triệu huynh gặp nhau thật đúng là tình thơ ý họa.

Triệu Toại trên mặt hơi lộ ra vẻ mất kiên nhẫn, Phong Lôi, Lý Hoa, Lưu Nhập Thất càng lộ vẻ nghi ngờ, ánh mắt nhìn Triệu Toại mang theo chút khác thường. Triệu Toại quay đầu lại, đột nhiên nhìn thấy, không khỏi rùng mình trong lòng:

- Phải chăng bọn họ nghi ngờ mình?

Nhân lúc này, Dương Lăng nhìn hai mặt đại kỳ ở đầu cầu đối diện, cao giọng nói:

'Hổ bí tam thiên,

Trực để Y Yến chi địa

Long phi cửu ngũ

Trọng khai hỗn độn chi thiên'

Triệu huynh thật chí hướng lớn, bài thơ này là Thái tổ của triều đình ta dùng khi phản Nguyên khôi phục giang sơn người Hán, Triệu huynh muốn noi theo Thái tổ, làm khai quốc chi quân sao?

Đám người Phong Lôi nghe vậy càng kinh sợ, bọn họ đại đa số không biết chữ, mấy người biết chữ thì nào biết được câu đối này là Chu Nguyên Chương đã dùng qua, còn tưởng rằng Triệu tú tài nghĩ ra được, bọn họ đích thực rất bái phục tài văn thao võ lược của Triệu Toại. Nhưng nói làm hoàng đế, bọn họ vẫn hướng về Lưu Lục Lưu Thất, thảo nào mà Triệu Phong Tử đề nghị Hình Lão Hổ Giang Nam ra sức khước từ như vậy, chẳng lẽ gã lại có ý dụng ủng binh tự trọng?

Triệu Toại vừa tức vừa vội, gã tức giận nói:

- Nói láo! Đương kim triều đình bất công, chúng ta đúng là phải lật đổ hôn quân, đề bài thơ này chỉ là lên án Đại Minh nếu có ngày lừa dân tàn bạo như năm đó, chúng ta phải thay đổi lại càn khôn. Họ Dương kia, hôm nay ngươi đến đây chẳng lẽ chỉ vì lời lẽ khiêu khích, châm ngòi thị phi hay sao?Nếu như thế, ta xin thất lễ.

- Khoan đã, khoan đã, haha. Tiểu đệ chỉ đùa một chút, Triệu huynh đâu cần tức giận thế.

Dương Lăng tươi cười chân thành, Triệu Toại tức đến nỗi gân xanh nổi lên trên trán. Nếu cứ vậy quay đầu bỏ đi, không khỏi lộ vẻ chột dạ, nếu không đi lại sợ Dương Lăng nói ra những lời nào khác, thuộc hạ dưới tay mình nếu đều là người mưu trí thì không sao, nếu không những lời nói của Dương Lăng không khiến bọn họ đem lòng sinh nghi mới là lạ.

Triệu Toại cố nhịn, phủi tay áo, quắc mắt nói:

- Quốc công hôm nay đến là vì chiêu hàng sao?

Dương Lăng cười cười nói:

- Đúng vậy. Nếu không ta đích thân đến nơi nguy hiểm này làm gì?

Triệu Toại ngửa mặt lên cười to:

- Hahaha...Dương quốc công, lẽ nào ngươi không nhìn thấy sao, ta khởi nghĩa vũ trang, đến nay chưa tròn một năm đã quy tụ mấy vạn người, tại sao? Quan bức dân phản, dân không thể không phản; tâm dân muốn phản, không phản thì phải chịu. Hành động này của ta chính là thiên đạo, chính là lòng người, nhìn thấy tiền đồ bừng sáng trước mắt. Ngươi đến chiêu hàng làm sao có thể thành công?

Dương Lăng bật cười nói:

- Tiền đồ tươi sáng? Ha ha, buồn cười! Thật sự buồn cười!

Phong Lôi tiến tới một bước cả giận nói:

- Ngươi trẻ người non dạ, lão tử ta một quyền đánh cho ngươi mồm miệng đầy răng!

Tống Tiểu Ái mày liễu dựng lên, bước nhanh đến phía trước nói:

- To gan! Dám vô lễ với Quốc công gia như thế, nếu không phải cách tấm lưới này, bản cô nương ta một đao chém cái đầu chó của ngươi!

- Ấy ấy ấy, đừng thể hiện nữa. Cái lưới này không thể hủy đi đâu!

Dương Lăng đứng dậy cười khuyên giải, sau đó tiến về phía trước hai bước, trong lòng đã có dự tính mà nói:

- Triệu huynh, ta và huynh cũng xem là quen biết nhau, cho nên huynh có đại nạn đến đầu, tiểu đệ ta không dám thấy nguy mà không báo. Đệ dám chắc, các ngươi mà tạo phản, chưa đến một năm chắc chắn sẽ sụp đổ, tan thành mây khói. Bạch Y Phỉ, hưởng mã đạo, tất bại!

Triệu Toại cũng đứng bật dậy, đằng đằng tiến về phía trước ba bước, ngạo mạn nói:

- Chúng ta tay cầm trọng binh, bách chiến bách thắng, không gì không đánh được. Quan binh hủ bại, chỉ có thể cậy vào nhân chúng bao vây chặn đánh, chỉ có thể dựa vào địa lợi, cố thủ theo hiểm trở. Ta tung hoành ngang dọc, hai lần qua kinh sư, không gì cản nổi, quan binh nghe tin đã sợ mất mật. Sụp đổ? Hahaha, quốc công gia phải chăng đang nói đùa?

Ở phía trên cao bên phải, Kim Nhãn Điêu đứng đằng sau quái thạch đang giương cung lắp tên nhắm bắn, từ từ thả lỏng. Mũi tên kéo căng lên như trăng tròn bắn ra, tên này mà bắn đi sẽ nhanh tựa tia chớp. Tuy gã nhìn thấy đằng sau Dương Lăng bỗng nhiên có một tiểu tướng đi qua, tiếp đến lại có một người đi qua kéo tới kéo lui với hắn, nhưng góc độ đứng của kẻ đó cũng không thể ngăn cản đường bắn, hơn nữa tên của ngũ thạch cung cho dù võ công kẻ đó có cao cường thì cũng chưa chắc đã kịp ngăn lại.

Không ngờ lúc này Triệu Toại cũng đứng lên, bước nhanh đến phía trước nói chuyện qua tấm lưới với hắn. Từ góc độ này của hắn nếu mũi tên phát ra có thể sẽ xuyên qua cổ của Triệu Toại trước, mới có khả năng bắn tới Dương Lăng. Tuy gã không biết chữ, nhưng từ việc điều hành chỉ huy hàng ngày cũng có thể nhìn ra, trên núi này các mãnh tướng chỉ biết đánh không biết thủ, việc điều binh khiển tướng vẫn phải dựa vào Triệu Toại, người này trên núi thực sự là quá quan trọng. Đại ca cũng giao phó không được đả thương y, làm sao mà bắn tên đây?

Cường cung của ngũ thạch cung cho dù có thần lực kinh người thì nhiều nhất cũng chỉ có thể bắn được sáu mũi, phải tổn hao tinh lực lắm rồi, mũi tên này phí sức rồi, gã phải thả lỏng dây ra, thư giãn một tý.

Phía sau đá chỉ có một khe hở có thể đứng thẳng được, bên cạnh có nhiều cỏ mọc ra, đằng sau là khe hở giữa núi và tảng đá lớn. Bên dưới sâu không lường được, gió núi thổi đến đây do bị tảng đá lớn chặn lại nên phát ra tiếng vọng dữ dội, gã không dám đứng lâu, lại nằm lên nham thạch, nhìn ra xa chờ cơ hội.

Kim Nhãn Điêu vừa mới nằm lên tảng đá, khóe mắt chợt lóe lên ánh sáng. Kim Nhãn Điêu không khỏi giật mình kinh hãi:

- Đây là ánh sáng phản quang của binh khí!

Y không chút nghĩ ngợi, lập tức nghiêng người sang bên cạnh, nằm trên mặt đá phơi nắng hầm hập, tim đập bình bịch. Bầu trời xanh thẳm một vùng, có mây trắng bay qua, nằm ngửa mặt như vậy mới nhìn thấy, quan người gió núi gào thét, thậm chí có chút cảm giác choáng váng.

- Ai vậy? Đối diện bên trong rừng có người ẩn nấp, chẳng lẽ là người của quan binh an bài? Không biết gã có phát hiện ra ta hay không. Nếu....không đúng! Phải chăng Dương Lăng nghị hòa chiêu an là giả, muốn ám sát nguyên soái của ta mới là thật?

Nghĩ đến đây, trong lòng Kim Nhãn Long lo lắng, lập tức nhẹ nhàng di chuyển vị trí, ngẩng đầu nhìn phía đối diện. Gã hàng năm đi săn bắn trong núi, tiễn thuật thần thông, nhãn lực đương nhiên cũng vô cùng tốt, có người khen gã săn bắn hồ thỏ trong rừng rậm cũng là bách phát bách trúng. Đó là loại nhãn lực như thế nào? Vừa rồi ánh sáng lóe lên gã đã nắm rõ vị trí.

Phía đối diện trên cây cổ thụ ngàn năm, Tiểu Sở cũng dùng sức hạ cung tiễn xuống. Tống Tiểu Ái chạy lên phía trước mắng người và Ngũ Hán Siêu vội vàng đuổi theo kéo tay nàng đã vô tình trở thành lá chắn, vừa khít đứng chắn ở trước mặt Dương Lăng. Tài bắn cung của y không xuất thần nhập hóa như Kim Nhãn Điêu, bóng người bất ngờ xuất hiện trước mặt Dương Lăng, mũi tên này của y đã không kịp thu lại.

Ám tiễn đả thương người tối kỵ nhất là làm bại lộ mình, nếu mũi tên này bắn trúng phó xe thì làm sao còn có cơ hội xuống tay? Tiểu Sở không kịp thu tên, đành phải hướng cung xuống phía dưới, mũi tên dời cung, hướng thẳng xuống phía dưới thâm cốc, trong chốc lát đã không thấy bóng dáng.

Tiểu Sở sợ toát mồ hôi lạnh, tay y vịn lên cây gỗ, tim đập thình thịch, một lúc lâu sau mới bình tĩnh trở lại.

Nơi này trước sau vẫn có cây cối mọc nghiêng ra đến trong cốc, xanh um tươi tốt che đi bóng dáng của y. Nhưng trên đỉnh nhánh cây tương đối thưa thớt, ánh mặt trời xuyên suốt xuống, ánh sáng sặc sỡ, vừa rồi y đột nhiên ấn tiễn nằm rạp người xuống, ánh sáng chiếu xuống từ giữa các lá cây chiếu chính diện vào mặt đơn đao trên lưng y, khúc xạ ánh sáng, lóe lên qua mắt Kim Nhãn Điêu, y lại hoàn toàn không biết.

Trên cầu, Dương đại quan nhân vẫn đắc chí nói:

- Cử binh khởi sự, quan trọng ở việc xem xét thời thế, khéo léo dẫn dắt, quan trọng ở việc biết người biết ta, tinh tường thuận nghịch, mà các ngươi, mọi thứ đều hành sự theo chiều nghịch, nói gì thành công?

Bốn tướng phía sau Triệu Toại đều chạy lại, bốn người đám Giang Bân thấy thế cũng vội vàng tiến lên phía trước nghênh đón, vây hai người ở chính giữa. Triệu Toại cười lạnh, khinh thường nói:

- Mời quốc công gia chỉ giáo.

Dương Lăng vui vẻ cười nói:

- Ngươi gọi ta là quốc công gia? Xem ra còn biết chính thống thiên hạ ở nơi nào. Hổ bí tam thiên, trực để Y Yến chi địa; long phi cửu ngũ, trọng khai hỗn độn chi thiên. Nghe thì tráng lệ, nhưng các ngươi muốn thay thế nhà Minh, quân lâm thiên hạ lại không biết thời gian qua đi cảnh vật thay đổi, thế cục hiện nay và thời Mông Nguyên hoàn toàn khác nhau.

- Ta nói một chút về xem xét thời thế. Mông Nguyên là dị tộc, đối với thiên hạ người Hán thì bạc bẽo vô cùng, đem người trong thiên hạ chia thành bốn loại, người Hán trong mắt người Mông Cổ giống như nô lệ, cho nên bách tính chưa bao giờ quy thuận. Tới cuối thời nhà Nguyên, thiên hạ đã đổ nát cực kỳ, mất hết lòng người, triều chính khó có thể duy trì.

Vào lúc này tể tướng Mông Nguyên Bá Nhan lại đưa ra hôn chiêu, góp lời với hoàng đế Nguyên Thuận, để tiêu trừ thế lực nhà Hán, giết hết thiên hạ năm họ lớn Trương, Vương, Lý, Triệu, Lưu. Năm dòng họ lớn lúc đấy chiếm một phần tư thiên hạ người Hán, những người này lại có bạn bè chí cốt, hành động này không khác nào tàn sát hết tất cả người Hán.

Các lộ hào kiệt lúc này lòng người bàng hoàng hết sức, đều khởi binh chống quân Nguyên, hoàn toàn thuận theo lòng dân, cho nên chưa đến mấy năm, tựa như bẻ gãy cành khô, dễ dàng lấy được thiện hạ, kết quả như thế vừa do con người tạo ra, cũng là ý trời.

- Nhưng hiện nay thì sao? Đại Minh lập quốc hơn trăm năm, căn cơ vững chắc, tiên đế Hoằng Trị cũng là vị quân vương sáng suốt hiếm có. Trong 18 năm tại vị, chọn hiền tài đảm nhiệm, cần chính yêu dân, càng là theo lòng dân. Đương kim hoàng đến sau khi kế vị, tuy tuổi trẻ ham chơi, đã từng để gian nịnh gây loạn triều cương, nhưng gian nịnh cũng chỉ hai năm là đã bị thanh trừ. Đại Minh quốc gia vận mệnh chưa suy, hiện tại hoàng đế chăm lo việc nước, cải cách triều chính.

- Giảm miễn tiền lương thuế ở Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Đông, các người biết không? Thanh lý thôn tính thổ địa, cai trị anh minh, cải cách quân chế, di dân Liêu Đông, mở biển thông thương, khuyến khích nông canh, có việc nào không phải là việc tốt lợi quốc lợi dân? Những biện pháp này, một khi phát đi, bách tính có hi vọng, ai còn theo các ngươi tạo phản?

- Các ngươi hiện tại mặc dù quy tụ mấy vạn binh mã, nhưng sau này khó mở rộng quy mô, binh sĩ càng ngày càng ít, không tin sao? Ngươi xem Lưu Lục, Dương Hổ, vốn quy tụ được mấy vạn binh sỹ trong vòng mấy tháng, đến nay chu du Giang Nam, nơi chốn vấp phải trắc trở, còn lại bao nhiêu dân chúng hưởng ứng nữa? Các ngươi ếch ngồi đáy giếng, không biết thế gian biến hóa, vẫn còn ngồi đây tự cao tự đại!

Triệu Hạo, Lý Hoa nghe thấy mặt như màu đất. Phong Lôi, Lưu Nhập Thất tức giận bất bình. Hai tay Triệu Toại hơi run rẩy, những lời Dương Lăng nói, câu nào cũng giống như đao kiếm, cứa vào tim y. Y không phải là không suy nghĩ đến việc tiếp nhận chiêu an, dù sao giành giang sơn nắm chính quyền cũng chỉ là một giấc mơ từ sau khi y bị ép buộc làm thổ phỉ. Bây giờ, cùng với phản ứng rất nhanh của triều đình, cái ý nghĩ này đã dần dần phai nhạt.

Ban đầu triều đình chỉ muốn tiêu diệt thổ phỉ, càng tiêu diệt, bách tính càng gánh nặng, gánh nặng tăng lên người đầu quân cho thổ phỉ càng nhiều, cho nên Lưu Lục, Triệu Toại bọn họ căn bản không sợ quan binh tiêu diệt, thiên hạ sẽ đại loạn, nỗi oán ghét và thất vọng với triều đình càng ngày càng lớn, không những làm khổ dân chúng, thậm chí một số sỹ tử cũng đầu quân dưới trướng bọn họ.

Nhưng sau khi Dương Lăng rời núi, một trận đánh lớn đã khiến Dương Hổ quân tan rã, đuổi gã ra khỏi Sơn Đông nơi mà triều chính thối rữa, bất kỳ lúc nào cũng có thể chiêu mộ được binh mã, liền sau đó hắn tổng chỉ huy tiêu diệt thổ phỉ, xoay mình biến hoá trở thành lý chính đại thần. Trở về triều đình tiến hành cải cách, trước đuổi thổ phỉ, sau chỉnh đốn gia viên, nhân cơ hội dọn sạch đám trầm tích ảnh hưởng triều đình.

Tình cảnh này quả thực giống Bạch Y quân phía trước khai hoang, triều đình phía sau gieo giống, không những bách tính có hi vọng, cho dù những vệ sở binh không muốn đánh trận nhất khi nghe triều đình hai năm nữa sau khi thiên hạ thái bình chuẩn bị "chế độ mộ lính", bản thân không muốn đời đời kiếp kiếp làm lính, đánh trận cũng có tinh thần, cứ theo đà này, hi vọng trước đây đúng thật là rất khó thực hiện.

Nhưng...tự mình có thể làm chủ của thuộc hạ được không?

Trừ phi hạ quyết tâm hại chết mấy tên chủ tướng như Hình Lão Hổ Phong Lôi, Lưu Nhập Thất, nhưng Triệu Toại ta làm sao có thể làm ra những chuyện bất nghĩa thế được?

Triệu Phong Tử cảm xúc mênh mông. Sau một hồi lâu, hít một hơi dài, trầm lặng nói:

- Đúng là giỏi mồm mép, ngươi tiếp tục nói, chúng ta như thế nào là không biết mình biết ta?

Hồng Nương Tử ở trong phòng vui đùa với đứa nhỏ. Khí Cừu từ sau khi uống thuốc do nàng hao tâm tổn sức làm ra đã hoàn toàn bình phục. Có bí phương luyện võ gia truyền của Thôi gia bồi dưỡng nguyên khí, thằng bé đã trở nên chắc khoẻ.

Mùa đông năm ngoái, ở Đại Đồng trời đưa đất đẩy làm sao mà đã sinh ra nghiệt duyên với Dương Lăng. Không ai ngờ tới thành thân với Dương Hổ lâu như vậy, trước giờ chưa từng có thai, chỉ qua một đêm xuân phong, không ngờ âm thầm kết trái lại có thai.

Nàng lợi dụng cơ hội trở mặt với Dương Hổ, sống một mình ở trại cũ của Thôi gia ở sau núi, sau khi đến đó thân mình mang thai đã dần dần không giấu được nữa, mượn cớ xuống núi giải khuây, len lén trốn đi, cho đến khi sinh con xong mới quay về núi, chỉ là đáng thương cho đứa bé, chỉ có thể nói trên đường nhặt được đứa trẻ bị vứt bỏ để tránh tai mắt người đời, Thôi Oanh Nhi lần đầu làm mẹ, mỗi lần nhìn thấy con mình đều không khỏi thấy áy náy.

Hiện giờ đưa trẻ đã bảy tháng tuổi, mắt nhìn thấy cốt nhục của mình càng lớn càng đáng yêu, trong lòng nàng tràn đầy tình yêu và sự thoả mãn của một người mẹ. Không biết có phải là tác dụng của tâm lý không, nàng luôn nhận thấy con mình càng lớn càng giống cha của nó, Dương Lăng-cái người mà khiến nàng thương nhớ, vừa yêu vừa hận.

Khẽ vuốt vuốt khuôn mặt non nớt của Dương Khí Cừu, Thôi Oanh Nhi thở dài:

- Mẹ cả ngày chém chém giết giết, đúng là vất vả cho con rồi. Ôi!..người cha đáng hận của con...

Thôi Oanh Nhi buồn bã im lặng, không nói thêm gì nữa. Với tính cách kiên cường cao ngạo của nàng, cho dù là yêu Dương Lăng đi nữa, với thân phận hổ thẹn là vợ người khác cũng không tự làm mất mặt đến cầu xin tình cảm, tình nguyện làm vợ người khác. Tất cả đều là vì đứa trẻ nàng mới nhẫn nhục đi tìm Dương Lăng, mong hắn có thể giúp mình báo thù giết cha, mượn cớ đó thể lưu lại bên cạnh hắn.

Đáng hận thay, con người đó công tư phân minh như vậy. Rõ ràng là một người tham quyền lợi, hắn lại nói một phen đạo lý, chính là không chịu giúp đỡ. Nếu là từ nay không được gặp hắn thì đã đành, đằng này bản thân đến Sơn Đông, hắn liền đến Sơn Đông diệt thổ phỉ, bản thân đến Sơn Tây, hắn lại giết đến Sơn Tây, đúng là không chịu để cho nàng yên tĩnh. Nhưng Hồng Nương Tử lại làm sao lừa dối mình quên được người đàn ông khiến nàng suốt đời khó quên này?

- Ngoại trừ hai huynh đệ Triệu tú tài ra, trong sơn trại không có ai muốn tiếp nhận chiêu an, lần nghị hoà này của Dương Lăng nhất định sẽ không thành công. Hình đại ca muốn xuống Giang Nam, y là chủ soái, Triệu tú tài không thể kháng lại ý của người. Xem ra từ sau ngày hôm nay, đại quân sẽ phải chuẩn bị đi Giang Nam sao?...Nhưng hi vọng...hắn sẽ không đuổi đến, triều đình nhiều quan như thế, sao hắn cứ xuất hiện thế?

Thôi Oanh Nhi vừa nghĩ, không khỏi chợt có chút lo sợ. Nghĩ là mong hắn đừng có đuổi đến nữa, nhưng ở sâu trong nội tâm thì nghĩ từ này về sau núi cao nước xa không được gặp lại hắn, trong lòng lại thấy trống trải, có một cảm giác không nắm bắt được.

Tuy rằng không thể ở bên nhau mãi, nhưng lúc nào cũng biết nhất cử nhất động của hắn như vậy, biết hắn đang gần trong gang tấc, trong lòng yên tâm hơn nhiều, nếu thực sự từ giờ về sau xa ngút ngàn dặm...Thôi Oanh Nhi phun ra một ngụm, bị sự mắc cỡ của chính mình làm đỏ mặt.

Đứa bé tỉnh ngủ rồi, mở đôi mắt đen như điểm sơn, ngoan ngoãn nhìn nàng. Mẹ tuy mặc trang phục nam nhân, nhưng trong mắt đứa trẻ không biết thế sự này, không biết là có cái gì kỳ quái, cho dù đang mắt nhắm mắt mở, ngửi thấy mùi lạ của nàng. Nó cũng hiểu được đó là mẹ ruột của nó sẽ lập tức bình tĩnh trở lại.

Nhìn vẻ mặt đứa trẻ ngây thơ hồn nhiên, trên mặt Thôi Oanh Nhi lộ ra nụ cười ngọt ngào, lông mày cong môi vểnh, cười như một dòng nước:

"Có con là đã mãn nguyện. Bản thân mình lãnh binh tạo phản, xông pha gây ra đại hoạ, cho dù hắn thân là quốc công, cũng không thể còn có biện pháp tự mình giải thoát? Chỉ cần giết Chu Đức An, báo thù cho cha và những người thân chết thảm trong trại, ta sẽ mang theo con ẩn cư chân trời, nuôi dưỡng nó thành người, Dương Lăng...chúng ta kiếp này vô duyên."

Cười mà lòng có chút chua xót, nước mắt trong suốt chậm rãi tràn ra khoé mắt, đứa bé vẫn không rõ sự tình, nó chỉ có thể nói "bi bô", xoè hai bàn tay ra, hi vọng mẹ có thể ôm nó.

Đúng lúc này, Tam Thẩm vén một bên rèm bước đến, nói lầm bầm:

- Hình như bệnh của Hình Lão Đại càng ngày càng nặng rồi, ôi, cả ngày hành quân đánh trận, cũng không có thời gian điều trị, thật đúng là phiền toái.

Thôi Oanh Nhi vội vàng ôm lấy đứa con, lấy tã của nó lau nước mắt của mình. Nhìn từ phía sau giống như nàng đang ôm hôn đứa con.

Tam Thẩm cười ha hả:

- Đứa bé càng lớn càng đáng yêu chứ? Đứa trẻ này, tuấn tú đấy, khiến người khác yêu mến. Thẩm thẩm cũng yêu thích nó lắm. Tam thúc của cô cứ muốn hôn nó, bị ta đạp cho mấy đá không dám nữa rồi, cái mi mắt kia thảm lắm, miệng đầy râu mép, con nhỏ da thịt mềm làm sao chịu nổi? Mà cái lão ấy còn không vui đâu.

Thôi Oanh Nhi cũng cười rộ lên, nàng thuận thế đem con giao cho Tam thẩm, nói:

- Thẩm à, người trông cháu trước, con ra ngoài một lát.

Tam thẩm nghi hoặc nói:

- Đi đâu đấy? Hôm nay nghỉ binh nghị hoà, quan binh đã lui khỏi núi rồi, thám mã mười mấy đường, còn sợ có người cướp?

Thôi Oanh Nhi thắt khăn eo thật chặt, thuận tay đeo đoản kiếm lên, nói:

- Ồ...không phải, con đi xem Hình Lão Đại.

Thôi Oanh Nhi ra khỏi nhà cỏ, đón lấy mặt trời đỏ hoa lệ hít một hơi dài, rảo chân đi về phía trước núi, nghiệt duyên của hai người, vốn là xấu hổ, nay lại gây thành quan và thổ phỉ, chưa nói chuyện ở bên nhau, cho dù gặp mặt cũng khó hơn lên trời. Hôm nay hắn đi Lưu Vân Độ cùng Triệu tú tài nghị hoà, lén đi nhìn hắn một cái...có lẽ cả đời này đây là lần cuối cùng gặp hắn.

Kim Nhãn Điêu lặng lẽ thò đầu ra từ phía sau nham thạch, chỉ nhìn thấy đối diện xanh um tươi tốt, một vùng xanh đậm, lắm cành nhiều lá, gió thổi cây đung đưa, giống như sóng xanh đồng thời không có chỗ nào bất thường.

- Chẳng lẽ do mắt mình nhìn nhầm sao?

Kim Nhãn Điêu âm thầm nghi hoặc, thị lực của gã kinh người. Người này dù nổi tiếng bởi thần lực và tài bắn cung, nhưng biệt danh lại gọi là Kim Nhãn Điêu, do đó có thể nhìn ra điểm mạnh nhãn lực của gã, vào lúc cảnh giác cao độ này, làm sao có thể sơ suất nhìn nhầm được?

Kim Nhãn Điêu quay đầu nhìn một cái, nhìn trên cầu hai bên đang chen vào một chỗ đang bàn chuyện hăng say, không có một chút cơ hội để xuống tay, liền kiên nhẫn, chuyển sang tìm kiếm ở bên trong rừng phía đối diện, đặc biệt chú ý quan sát nơi vừa rồi loé sáng. Đột nhiên, lại một trận gió đến, lay động cành bụi rậm, Kim Nhãn Điêu ánh mắt sáng lên, đã có phát hiện rồi.

Tiểu Sở mặc bộ y phục đi đêm, nếu gã mặc quần áo màu sắc sặc sỡ như Kim Nhãn Điêu, mượn rừng cây yểm hộ, Kim Nhãn Điêu chưa chắc đã phát hiện ra, nhưng bây giờ gã phục trên tàng cây không có động tĩnh gì, Kim Nhãn Điêu vẫn chú ý tới nơi này có gì bất thường, gã chăm chú nhìn nơi đó, cây cối lắc lư, bóng dáng khả nghi của Tiểu Sở ở trên cây cũng lúc ẩn lúc hiện.

Làm lại một trận gió đến, khi nhánh cây lay động vừa đúng lúc Tiểu Sở chuyển mình một cái, mặt của Kim Nhãn Điêu lập tức lộ ra nụ cười đầy sát khí:

- Nơi đó quả nhiên có người. Xem ra quan binh là muốn ám sát Triệu nguyên soái.

Y không biết hai bên đàm phán trên cầu Tiên Nhân bao giờ mới quay về vị trí ngồi xuống, thích khách của đối phương bất cứ lúc nào cũng có thể phóng tên ám sát Triệu nguyên soái, lúc này không thể chờ được nữa, y lập tức lấy một mũi tên ra, âm thầm hướng về phía bên phải một chút. Tảng đá lớn nhô ra này không phải bằng phẳng gì, nghiêng về một bên, cao hơn một đầu của cầu, như thế di chuyển một hướng, quỳ trên đá giương cung lắp tên cũng không sợ bên kia có người phát hiện.

"Ti ta ta", dây cung rung lên, Kim Nhãn Điêu nheo mắt, giống như một mãnh cầm đi săn, lẳng lặng chờ đợi cơ hội tốt nhất.

Lại một trận gió thổi qua...

Cành lắc lư, người xuất hiện, ào ào một mũi tên!

Tên bắt đi, Kim Nhãn Điêu liền quay người trên tảng đá, chửi thầm một tiếng.

Y lập tức xoay tay lại rút ra một mũi tên nữa, lắp lên dây cung, nhanh chóng nhìn vị trí mục tiêu, nín thở định thần, không nhúc nhích. Nhìn từ xa, tựa như trên đá có đúc một người sắt vậy, màu sắc rực rỡ như bị gỉ đục khoét nhưng mặc kệ gió thổi mưa rơi, sừng sững bất động.

Mũi tên này trước khi rời cung, y nhìn thấy người mặc áo xanh ở phía đối diện di chuyển sang bên cạnh một chút, từ động tác mà nói, chắc là hành động vô thức, có thể là nhìn bóng người trên cầu, di chuyển vị trí thích hợp để tìm vị trí bắn tên, nhưng thời cơ này rất đúng lúc, Kim Nhãn Điêu theo kinh nghiệm liền lập tức biết mũi tên này bắn vô ích rồi.

Mũi tên bắn vào cây, ngoại trừ đối phương là kẻ điếc, nếu không tuyệt đối không có khả năng không phát hiện ra. Kim Nhãn Điêu căng thẳng chăm chú, chờ đội đối phương có phản ứng. Bất luận đối phương phản kích, né tránh đều đừng hòng tránh khỏi mũi tên thứ hai. Vừa rồi là trùng hợp trước khi mũi tên bắn ra di dời khỏi vị trí ban đầu, nhưng lúc này kẻ kia đã không kịp làm gì để ứng biến.

Cung của ngũ thạch, tiễn phá dây cung mà bắn ra. Nhãn lực khó lường, tốc độ nhanh hơn tia chớp, chính là ở trên đất bằng cũng khó tránh né được, huống chi là trên tàng cây?

Vả lại là y có chuẩn bị tâm lý, có thể dự đoán phương hướng hành động của đối phương?

Cây kia cao tới 15~16 trượng, muốn nhảy xuống tất phải chết hoặc là tàn phế. Mũi tên thứ hai này, gã chết chắc rồi!

"Rào!", "leng keng" gió thổi bên tai, lực gió chà xát cổ nóng bỏng, Tiểu Sở còn chưa phục hồi tinh thần lại, một âm thanh "Ong ong" truyền đến, khiến gã hoảng sợ, còn tưởng rằng không cẩn thận đụng phải tổ ong vò vẽ. Quay đầu nhìn lại, Tiểu Sở lập tức bị dọa đứng người, một mũi tên nhọn đâm vào cây hơn thước, thân tên thô thô mà to như ngón cái, rung động gấp gáp, vung ra một quang ảnh hình quạt, đây là mũi tên nhọn đáng sợ đến mức nào.

Tiểu Sở cứng lại, gã nắm chặt cung, mồ hôi thấm ướt lòng bàn tay, thân mình cứng ngắc vẫn không nhúc nhích. Qua hồi lâu, gã mới chậm rãi ngẩng đầu nhìn theo hướng đuôi tên chỉ, khi ngẩng đầu dường như khớp xương cổ đều bị mắc kẹt kêu thành tiếng. Góc độ này, đầu cành vừa hay có một lùm lá cây che đi tầm mắt của gã, có thể nhìn thấy tảng nham thạch đối diện, cũng đoán chừng đã có người bắn tên từ nơi ấy, nhưng không cách nào thấy rõ vị trí người đó.

Tài bắn cung như vậy, cường cung như vậy, thật là đáng sợ. Có lẽ đối diện đánh giáp lá cà, người này không phải đối thủ của gã, nhưng đối bắn cung tiễn như thế này, tự mình có thể có bao nhiêu phần chắc chắn?

Là chiến! Hay là đi?

Tiễn từ đối diện phóng tới... Chẳng lẽ là Triệu Toại bố binh mai phục, chuẩn bị ám sát Dương Lăng? Nếu như là như vậy, bằng công phu thần xạ thủ này, Dương Lăng hôm nay mười phần chín phần chạy không thoát, đỡ phải tự mình động thủ.

Nhưng bây giờ đối phương rất rõ ràng coi gã là người của Dương Lăng phái tới ám sát người của Triệu Toại, lặng lẽ chuồn đi như vậy sao? Giáo quy nghiêm khắc, bản thân nhận lệnh mà đến, nếu chẳng may đối phương lỡ tay, mình lại một mũi tên chưa bắn, giáo chủ sẽ bỏ qua cho mình sao?

Phải làm sao bây giờ? ứng phó với cái người đáng sợ này như thế nào đây, không thể giải thích ý đồ thật của mình? Giết thần tiễn thủ có uy hiếp sinh mạng đối với mình sau đó tự mình hoàn thành nhiệm vụ ám sát Dương Lăng, tự mình có thể làm được sao?

Từng giọt mồ hôi lớn như viên trân châu chảy xuống từ trán Tiểu Sở...

Là chiến...hay là đi...

- Ta nói ngươi không biết mình, là bởi vì trên đỉnh núi của các ngươi đông người, phe phái nhiều, căn bản không thể thống nhất hiệu lệnh, trên dưới một lòng.

Trong rừng rậm đang tiến hành một cuộc so tài bắn cung ám tiễn, trên cầu Tiên Nhân Dương Lăng cũng đang lấy lời lẽ làm đao kiếm, đánh vào tâm lý.

- Lưu Lục, Dương Hổ, Lý Hoa, Hồng Nương Tử. Còn ngươi nữa Triệu huynh, tự dẫn đội ngũ, chiếm các đỉnh núi, tự lập cờ hiệu, các ngươi thật sự hiểu làm được không tranh quyền đoạt lợi, cùng chung mối thù sao? Cho dù các ngươi chịu, ngươi một mình khuất phục dưới người khác, thủ hạ của ngươi toàn bộ phải khuất phục dưới người khác, những người đến góp sức cho các người, bọn họ đồng ý sao?

Dương Lăng hai tay sau lưng, cười lạnh nói:

- Lực lượng tập hợp do khốn cảnh tạm thời, Nói gì lâu dài? Chỉ cần các ngươi có chút đắc thế, liền nảy sinh lòng tranh quyền đoạt lợi, khi khổ chiến bảo tồn thực lực của mình; khi có lợi ích, đảm bảo mình được lợi; những chuyện này các ngươi không tránh khỏi, tất nhiên dẫn đến toàn bộ đội ngũ lòng người chia rẽ, khinh nghĩa trọng oán, khó ra hồn.

- Ta nhổ vào! Các ngươi người trong triều đình biết cái gì là nghĩa khí giang hồ? Huynh đệ chúng ta trên dưới một lòng, lý nào lại như thế? Tề đại ca vào tù chịu đủ khổ hình, nhất mực không chịu tiết lộ một chút bí mật nào của chúng ta; Trương Mậu đại ca nghĩa khí ngất trời, là hảo hán số một của Bá Châu. Tên quan chó nhà ngươi, không cần lấy lòng tiểu nhân, đo bụng quân tử!

Phong Lôi tức giận mắng, hung hăng trừng mắt nhìn Giang Bân. Ánh mắt kia như đao, nếu không phải cách một tấm lưới sắt, thì đã xông qua cùng hắn quyết chiến một trận rồi.

Giang Bân nhún nhún vai không có vấn đề gì, rũ mặt nói:

- Nhìn ta làm chi? Từ xưa trung nghĩa không thể lưỡng toàn. Ta là quan tướng triều đình, nên lấy giang sơn Đại Minh làm trọng?

Lưu Nhập Thất khinh miệt gắt một cái, mắng:

- "Phì! Đồ chó cũng không ăn, ngươi là quan, chúng ta là phỉ, chúng ta sạch sẽ gấp một vạn lần so với ngươi!

- Ngươi nằm mơ đi, giữa huynh đệ với nhau nói nghĩa khí đã cảm thấy tự mình rất giỏi rồi hả? Các ngươi công thành cướp trại, đốt giết đánh cướp, cưỡng hiếp phụ nữ. Không có điều ác nào không làm, nói là thay trời hành đạo, bị các ngươi đốt giết, không biết bao nhiêu khổ, gia đình hạnh phúc cũng không còn, người cũng đã chết, ta nhập mẹ ruột ngươi, các ngươi công kích Bá Châu, đem vợ nhỏ của ta đi đâu rồi?

- Súc sinh các người đáng giết nghìn đao. Một tiểu mỹ nhân yểu điệu như vậy, các ngươi cũng nỡ giết? Đám khốn khiếp các ngươi trời không thu đất không dung, thần ghét quỷ ghét, tội ác chồng chất, chết chưa hết tội, chém thành trăm ngàn mảnh, đầu óc ngu muội vô tri, kỹ nữ nuôi dưỡng!

Giang Bân nhảy chân mắng to, càng mắng càng phẫn nộ. Lưu Nhập Thất bị y mắng cho tức giận trong lòng, rút đao ra, lớn tiếng quát:

- Có gan ngươi lại đây, lão tử ta một đao chém ngươi!

Giang Bân cũng không hàm hồ, hai thanh Trảm Mã Đao keng một tiếng giữ trong bàn tay, cười lạnh liên tục mà nói:

- Chỉ bằng ngươi? Lăn lại đây, lão tử một cước đá ngươi xuống cốc làm tên ngốc!

Dương Lăng và Triệu Toại tất cả đồng thanh địa quát:

- Im miệng cho ta!

ai người vẫn không chịu phục, một bên thu đao lui về phía sau, một bên hung hăng trừng mắt nhìn đối phương.

Dương Lăng nói:

- Triệu huynh mưu lược hơn người, là một viên mãnh tướng, đáng tiếc, ngươi chỉ có một chi hưởng mã đạo, khó có thể chỉ huy các bộ phận, bọn hưởng mã đạo một khi lớn mạnh, để sáp nhập các phái thế lực, lật quân giết tuớng là không thể tránh được. Trương Mậu? Trương Mậu chẳng qua chỉ là Tiều Thiên Vương trên Thủy Bạc Lương Sơn thôi, như vậy ai mới là Tống Công Minh giả nhân giả nghĩa, bán bạn cầu vinh đây?

Dương Lăng nhìn Phong Lôi liếc mắt một cái, cười nói:

- Ngươi là một viên mãnh tướng, nhưng ngươi chỉ hiểu đánh đánh giết giết, tranh đấu giành thiên hạ cho ngươi một mình làm anh hùng cũng làm không được. Uống máu ăn thề, nâng nghĩa đàn đám, từ xưa tạo phản ai là không phải như vậy mà nên? Nhưng một khi thành thế? Đã hợp vì lợi, ắt vì lợi mà phân. Những người từ dân thường lên làm hoàng đế, có ai không trăm phương nghìn kế tìm kiếm tội danh, có mới nới cũ, được chim quên ná, đặng cá quên nơm, tại vì sao?

- Nguyên nhân chính là những huynh đệ kết nghĩa uống máu ăn các ngươi hiểu nhất lai lịch của cái người trở thành Hoàng đế kia, biết hắn không là cái gì mà chân long thiên tử, hắn cũng chẳng qua là xuất thân từ một lớp người quê mùa, các ngươi đối với hắn là trở thành huynh đệ tốt, chứ không phải trở thành một chủ tử được kính sợ....

Dương Lăng nói đến đây đột nhiên cảm giác không ổn, như thế nào lại quên mất Thái tổ bổn triều cũng là xuất thân bình dân? Mặc dù nói đối phương là kẻ tặc, bốn viên võ tướng bên người cũng không sợ, nhưng loại chuyện này vẫn ít nói thì hơn, cho nên lập tức lại vòng sang chuyện khác.

Hắn vốn muốn nói, lấy các vương hầu đại hào cát cứ các nơi khởi binh, ngay từ đầu danh vọng và thế lực của mình cũng đã rất lớn, đầu quân cho người đó vốn đã đối đãi như chủ công, một khi được nước, chỉ là làm từng bước, phong vương phong hầu, người làm Hoàng đế sẽ không cảm thấy có uy hiếp, tự nhiên cũng sẽ không thực thi đồ sát.

Mà người bình dân làm đế vương, lại có ý chí như vậy đấy, bởi vì bọn họ đi đúng theo đám người Lưu Lục bây giờ đang đi, xưng hô huynh đệ lẫn nhau, hoàn toàn dựa vào nghĩa khí và tình cảm huynh đệ duy trì loại quan hệ tổ chức này, mỗi người đều có thế lực khá độc lập, mà khuyết là một đại thủ lĩnh có đầy đủ sự khâm phục.

Như vậy, khi người đó làm Hoàng đế, uy hiếp lớn nhất sẽ đến từ huynh đệ ngày xưa này, những người còn chưa rõ mà chuyển hóa thân phận mình và Hoàng đế từ huynh đệ thành quân thần phụ tử, hơn nữa lại là người tay trong cầm trọng binh.

Bình thường lúc này người mới chiếm giang sơn làm Hoàng đế, tuổi cũng cũng không trẻ nữa rồi, không có thời gian khiến kiêu binh mãnh tướng thích ứng với thân phận mới của bọn họ, thành lập trật tự mới của riêng mình. Vì củng cố giang sơn, vì hậu thế, hoàng đế có thể áp dụng biện pháp tốt nhất, chính là giết công thần.

Cái vòng lẩn quẩn này, cũng là biện pháp của việc không có cách nào. Ai có thể cam đoan những công thần chết uổng mạng này thực sự chưa từng có dã tâm muốn làm hoàng đế? Nước có thiếu chủ, mà đại tướng cầm binh là khai quốc người có công lớn, ví dụ kết quả bị thay thế, từ xưa đến nay quá nhiều rồi....

Công thành vi hạ, công tâm vi thượng (Đánh vào thành trì chỉ là kế dở, đánh vào lòng người mới là kế hay), Dương Lăng tin tưởng lấy sử làm gương, những hiện thực đẫm máu này có thể làm động lòng những con người này, mở ra trong lòng bọn họ những vết nứt. Rủ rỉ nói tới những chuyện này, chẳng những khiến ba huynh đệ Triệu Toại thông hiểu văn sử sinh lòng cảnh giới, từ nay về sau không còn hoàn toàn tín nhiệm đối với đám người Lưu Lục, Dương Hổ nữa. Dù là mấy đại tướng thiếu đầu óc như Phong Lôi trung thành một cách mù quáng cũng phải tính toán, hiện giờ đành phải lấy lí do khác thoái thác. Có điều tuy rằng thu lại lời nói kịp lúc, nhưng xem bộ dạng kia, ba huynh đệ Triệu thị, hiển nhiên đã nghe hiểu rồi, mục đích cũng coi như đã đạt thành một nửa

Dương Lăng thở dài nói:

- Vài vị an tâm một chút chớ vội, Dương mỗ này đến thành tâm chiêu an. Phân tích lợi hại, cũng là hy vọng các ngươi có thể suy nghĩ thật tốt, nếu như có thể hoà hợp êm thấm, đó là tốt nhất. Nếu các ngươi vẫn đang quyết định gặp nhau bằng binh đao, nói đã nói tận, chúng ta cũng không thấy uổng trong lòng. Lại nói biết người...

Trên cầu lời lẽ đanh thép, trong rừng ngấm ngầm cuộc chiến bắn tên. Trên cầu giằng co, Tiểu Sở và Kim Nhãn Điêu trong rừng cũng giằng co. Kim Nhãn Điêu là một thợ săn có kiên nhẫn. So với sự kiên nhẫn giết người của Tiểu Sở thì y còn kiên nhẫn hơn, mặt trời rực rỡ xuống, gã lẳng lặng quỳ một gối xuống ở trên tảng đá, híp mắt không nhúc nhích.

Y từng ở trong mùa đông tuyết lớn, ở dưới một thân cây nâng tiễn kiên nhẫn chờ gần hai canh giờ, đợi cho con Tuyết Hồ giảo hoạt kia xuất hiện, một mũi tên bắn xuyên hai lỗ tai nó, giữ nguyên vẹn bộ Tuyết hồ da, bán được giá cao. Hiện tại, y chính là coi Tiểu Sở đối diện trên cây kia giống như Tuyết Hồ giảo hoạt, hắn đang lẳng lặng chờ đợi săn thức ăn.

Có lẽ y chỉ là một nhân vật hèn mọn. Nhưng mũi tên trên tay, lại cách một khoảng không thể vượt qua lạch trời, y sẽ không sợ bất kỳ một cao thủ nào, bất cứ người nào, trong lĩnh vực đắc ý của y, cũng có thể cười ngạo nghễ, ta tự xưng hùng. Tiểu Sở mặc dù ở bóng cây che đậy, nhưng lại thấy hồi hộp hơn so với đối phương, kinh nghiệm săn bắn và kiên nhẫn của gã kém quá xa so với đối phương.

Trên tay không ngừng toát mồ hôi, gã rốt cục quyết định sáng suốt rời khỏi trận. Chân chậm rãi hướng về phía sau, từng tấc một di chuyển, hai mắt chăm chú nhìn đối diện, phía sau là phải dựa sát vào thân cây rồi, đồng thời bên trên cũng không có bóng cây che đậy, phải hoàn toàn bại lộ ra trong tầm mắt đối phương.

Chỉ cần vọt người nhảy lên, vòng qua đằng sau cây cổ thụ lớn, có thể mượn thân cây yểm hộ, nhảy xuống một cành ngang khác. Gã hít sâu một hơi, di chuyển thật mạnh, toàn thân bắn ra, buông ngược hướng thân cây, xoay người hoàn mỹ giữa không trung, một tay giơ ra, ở trên cành cây vừa tìm vừa trượt, chỉ cần đi vòng qua, vậy an toàn.

Màu xanh bóng người giống như sợi khói nhẹ, chỉ loé một cái, Kim Nhãn Điêu ở đối diện liền từ trạng thái hóa đá chợt sống lại, mở cung, rời cung, loong coong một tiếng, tiễn giống như sao băng chợt lóe lên.

Thân thể của Tiểu Sở vừa mới trượt ra một thước khỏi thân cây thô to, một dòng không khí dữ dằn đã cướp tới, cái tốc độ này cho dù là ở trên đất bằng cũng làm người ta khó có thể né tránh, huống chi gã là đang trên không trung. Một người luyện công phu Thập Tam Thái Bảo, ở vạn mũi tên bắn chụm cũng không thoát khỏi một chiếc, khinh công dù cho giỏi cũng không nhanh bằng cung rời tiễn.

"Phù" tiễn từ sườn trái đâm vào, xuyên thấu trái tim, tự trước ngực đóng vào thân cây cổ thụ, thân mình Tiểu Sở chấn động, thân hình cứng đờ bay vút, sau đó chậm rãi buông xuống dưới, thân mình gã liền giống như một bộ phận của cây cổ thụ kia, vĩnh viễn đóng tại nơi này.

Không có ai biết sự tồn tại của gã, chẳng sợ ngẫu nhiên có người hái thuốc đi qua dưới tàng cây. Tiểu Sở vô danh vĩnh viễn biến mất.

Rất nhiều năm sau, cây này đúng dịp bị lôi hỏa đánh gãy rơi xuống cốc đi. Rất khéo, nó bị người ta nhặt đi làm hàng mộc mỹ nghệ. Cưa điện lướt qua một cái, vừa khéo trong đầu gỗ toác ra đầu một tên sắt, bắn trúng cổ họng tên chủ vô lương kia, chết rồi.

Cái tên thợ mộc xui xẻo kia bị quan thẩm tra một trận rồi đuổi đi, tiểu học đồ của y từ đó chuyển nghề. Lấy "Nằm mộng cũng muốnông chủ" làm bút danh, lấy chuyện đầu tên sắt viết chuyện có liên quan sinh tử luân hồi, tiểu thuyết kinh dị nhân quả báo ứng nổi tiếng trên một website tiếng Trung lớn nhất, trong một năm liên tục là quán quân bảng vé tháng.

Về lai lịch đầu tên sắt, trong sách nhắc tới những nhân vật thần thoại như Trương Quả Lão, Lã Động Tân, cũng nhắc tới Đường Huyền Tông phái Đại tướng quân đến Hoàng Hà Cổ Độ Khẩu đúc trâu sắt, người sắt trấn sông. Đương nhiên cũng nhắc tới Dương Kế Nghiệp đời Tống, Tôn Phi Hổ binh vây Phổ Cứu tự trong "Tây Sương Ký ". Còn có Dương Lăng, Tiểu Sở của Đại Minh triều vẫn là không ai hay biết.

Lịch sử, không phải do tiểu nhân vật viết.

Kim Nhãn Điêu một mũi tên bắn trúng, lại bán thân nằm nghiêng lên trên đá, thở phào một hơi dài. Y đã bắn ba tiễn rồi, mũi tên thứ ba trước khi kéo dây cung lại ngưng thần nín thở chờ đợi thật lâu, tinh thần khí lực hao tổn quá lớn, y nhất định phải nghỉ ngơi một chút.

Y nhìn phía trên cầu. Chỗ Triệu Nguyên soái đứng đã xuất hiện một đường khe hở, y chỉ cần thở gấp mấy hơi thở, khiến cơ bắp căng lên, cánh tay hơi hơi phát run trầm tĩnh lại, là có thể bắn ra một mũi tên trí mạng rồi. Trên cầu cái tên Dương Lăng kia so với thích khách trong rừng cái còn nguy hiểm hơn, hắn nhất định phải chết.

- Thở gấp hai cái nữa là tốt rồi

Kim Nhãn Điêu nghĩ, hít vào, thở ra...

Bầu trời chậm rãi, mênh mông ngàn dặm, xanh đến mức khiến người muốn bay vào. Mây trắng mềm nhẹ, như sương như sa, một góc tầm mắt, là một thân cành nghiêng ra từ thân núi, khiến cái yên tĩnh sâu thẳm ngày hôm đó trở nên sinh động.

- Không thể đợi lâu, cho dù bọn họ đàm phán còn thật lâu nữa, cơ hội còn nhiều, nhưng qua một hồi nữa. Góc độ ánh nắng đối với mình rất bất lợi.

Kim Nhãn Điêu hoạt động một chút, nắm chặt thiết thai cung của y, sau đó thăm dò nhìn một cái: "Tốt lắm, góc độ này vẫn đang rất tốt, trăm phần trăm một mũi tên trúng mục tiêu".

Y cẩn thận di chuyển hướng bên, hai chân đủ đến phía dưới nơi chỉ còn lại một đường nham thạch trên mặt đất. Từ đằng xa trông lại, nơi này chỉ là nham thạch gãy nhô ra và một đường khe hở nho nhỏ ở giữa thân núi. Trong khe hở tràn đầy cỏ dại, nảy sinh ra những nhánh cây. Đo đỏ, vàng vàng, lục lục, màu sắc rực rỡ.

Từ khe hở nho nhỏ này nhìn ra ngoài, lại trời cao đất rộng, nhìn qua thấy hết, bao gồm mục tiêu Dương Lăng.

Kim Nhãn Điêu cười lạnh, quay tay sờ bao tiễn sau vai. Trong bao còn có bốn mũi tên, loại Điêu linh lang nha tiễn đặc chế tỉ mỉ này chế tác không dễ, hơn nữa một trận chiến nhiều lắm bắn ra 6 tiễn phải hai vai thoát lực, thực không cần phải quá nhiều.

Vừa sờ, không có cảm giác lông quen thuộc, Kim Nhãn Điêu kinh ngạc sờ xuống, vỏ da sói, bình tiễn đai hoàn bằng thiếc đồng vẫn còn, lại hướng lên trên, miệng bao không có cái gì.

Tên dài lộ ra miệng bao không đến một phần tư, không có lý nào rơi xuống, Kim Nhãn Điêu kinh ngạc quay đầu lại, vừa nhìn đã kinh hãi xuýt thì nhảy xuống vách núi. Vì y quá chăm chú vào phía trên cầu, cũng không nghĩ tới sẽ có người lặng yên không một tiếng động đến phía sau y, vừa nhìn chỉ nhìn thấy một đôi mắt sáng rực, đầy ý cười.

Cặp mắt lạnh lùng hỏi:

- Kim Nhãn Điêu? Ngươi tới nơi này làm gì?

Kim Nhãn Điêu hai mắt mở to như muốn rơi ra, sau một lúc lâu mới lắp bắp mà nói:

- Thôi... Thôi phó soái, người... Người tới nơi này làm gì?

- Triệu huynh, với sức lực triều đình, càn quét Trung Điều Sơn có gì không thể? Dương mỗ tiên lễ hậu binh, thành ý chiêu an, phải không muốn gây sinh linh lầm than, mà không phải là triều đình tiêu diệt thổ phỉ vô lực. Các vị hảo hán, các ngươi tạo phản, có đủ loại nguyên nhân, hoặc do quan lại hủ bại, hoặc do trôi giạt khắp nơi, hiện tại triều đình đang chăm lo việc nước, cải cách đổi mới hoàn toàn, nhất định phải tạo phản sao?

- Theo đại nghĩa đã nói, phá rồi lại lập, nói dễ hơn làm? Giang sơn Đại Minh dễ dàng lay động như vậy sao? Lưu Lục, Dương Hổ nói là vì thiên hạ dân chúng, vì nhân nghĩa làm đại sự, chí ở tế thế cứu dân, thật ra lại đi đánh cướp giết chóc, muốn thành đại sự, phải hại bao nhiêu dân chúng lâm vào trong nước sôi lửa bỏng?

- Đội quân này của các ngươi, cấm giết cấm cướp, đương nhiên được nghĩa quân khen ngợi, nhưng các ngươi có thể thay được bọn Hưởng mã quân, Bạch Y Quân sao? Người nổi bật thì dễ bị ghét, bọn họ dung nạp được các ngươi như vậy sao? Theo tư lợi mà nói, các ngươi hoặc vì cuộc sống bức bách, hoặc bị kích do lòng căm phẫn, lúc này mới cử binh tạo phản.

- Hiện giờ triều đình đang từ bỏ ảnh hưởng chính trị, câu nói quan bức dân phản, không thể không phản của các ngươi đã không tồn tại, cưỡng ép khởi binh tạo phản, chỉ có thể tự chịu diệt vong. Quy thuận triều đình, về công, đại nghĩa khắp thiên hạ, về tư, có thể mưu lợi cho mình, làm quan một phương, công và tư cùng có lợi, cớ sao mà không làm?

- Triệu huynh và mấy vị đầu lĩnh, các ngươi đều là người thông minh. Hy vọng các ngươi có thể suy nghĩ thật kỹ lời mà ta nói..., thật muốn đem cả tính mạng toàn gia ra, đi cầu mộng Hoàng đế hư vô mờ mịt kia sao? Chính là cái gọi là nên ngừng không ngừng, phản chịu loạn này, các vị vẫn nên thật sự suy nghĩ một chút sau này đi con đường nào.

Những lời này như là một cây trường thương như kích. Cho dù là đám người Phong Lôi, Lưu Nhập Thất cũng im lặng không nói. Triệu Toại thầm kêu một tiếng "Lợi hại!"

Gã chắp tay, cười lớn nói:

- Quốc công một lời tâm huyết, Triệu mỗ ghi nhớ trong lòng những việc này. Trở lại sơn trại, Triệu mỗ còn phải bẩm báo với Hình đại nguyên soái, mới có thể định đoạt.

- Được! Dương mỗ ta thành tâm chiêu an, đương nhiên lấy thành ý mà gặp, lấy thời hạn ba ngày, trong vòng ba ngày, quan binh vây mà không công, Dương mỗ lặng chờ tin lành của Triệu huynh!

Triệu Toại nhìn hắn thật sâu, chắp tay nói:

- Cáo từ!

Dương Lăng cũng vừa chắp tay, Triệu Toại đem ống tay áo phủi một cái, xoay người đạp mạnh đi.

Dương Lăng yên lặng dừng nhìn bóng lưng của bọn họ, trong lòng thầm than:

- Triệu Toại có thể là anh hùng một phương, không phải là nhân tài xưng bá. Người này tự phụ khoe khoang, có tâm bi thương, không có ý đề phòng người khác, có hành động khẳng khái, không có lực tàn nhẫn quyết đoán, vừa có ý tự lập, lại do dự, đắm mình trong nghĩa khí, không thể quyết đoán cướp lấy binh quyền bộ đội sở thuộc, làm sao được trên dưới một lòng, như thế nào thành được đại sự?

- Ta quá coi trọng năng lực của hắn rồi, người này còn không làm chủ được đám cướp Trung Điều Sơn. Ôi! Ta tự trở về chuẩn bị thôi, chỉ mong Hình Lão Hổ có thể bị hắn nói động, nếu không, ba ngày sau, vẫn là khó tránh khỏi một trận chiến!

Dương Lăng quay người đi về, Giang Bân, Hứa Thái vội vàng bảo vệ tả hữu, Ngũ Hán Siêu, Tống Tiểu Ái cản phía sau, một mặt cảnh giới hành động của Triệu Toại, một mặt lui về phía sau coi rừng cây xanh um tươi tốt gió đưa sóng lớn, cho đến khi tới gần đầu cầu, hai người mới vội vàng quay người, vây quanh Dương Lăng tiến vào đại đội quan binh bên trong.

Tại đây trên cầu nghị hoà, Ngũ Hán Siêu có thể làm công tác phòng vệ được như thế đã là đáng quý rồi. Hơn nữa gã là kẻ tài cao gan cũng lớn, Dương Lăng trên người là mặc một lớp da giáp một lớp khóa tử giáp đấy, cung tiễn khó làm thương tổn. Bọn Hưởng mã đạo dù có hỏa khí, cũng không thể dùng, bởi vì đồ vật kia, trừ phi thợ thủ công tốt nhất Quân khí cục, tốn thời gian nửa năm tỉ mỉ tạo ra một hai tinh phẩm chuyên dụng, chính xác đều kém nhiều lắm. Về phần đầu mặt Dương Lăng, bằng thanh kiếm trong tay hắn tự có thể bảo hộ kín không kẽ hở.

Dương Lăng vừa vào đoàn người, gã cuối cùng cũng yên tâm một chút. Có thể sử dụng ngũ thạch cung xuyên phá giáp, trên đời chẳng mấy ai. Nếu Ngũ Hán Siêu biết ở phía đối diện bên trong khe nham thạch còn có một người có tài bắn cung cao thủ như vậy, không biết còn có thể tiếp tục yên lòng hay là trầm xuống tận cùng đây...

Thôi Oanh Nhi lặng yên đứng ở khe hở tảng đá nhô ra, đầu cành lá cây xanh biếc lay động thấp thoáng dung nhan nàng, vẻ ngoài tâm lý luôn luôn cứng rắn, tại đây bốn bề vắng lặng, trong hoàn cảnh chỉ có nham thạch cứng rắn, rốt cục bóc đi rồi, lộ ra trái tim mềm yếu của nàng.

Bốn bề vắng lặng, người chết không tính là người, Kim Nhãn Điêu đã bị chết.

Hồng Nương Tử cũng là từ nhỏ trèo đèo lội suối quen sống ở trong núi, chỉ hơi đánh giá, nàng liền chọn trúng nơi này, đây là nơi có thể nhìn thấy rõ ràng hết thảy trên cầu nhất, lại không dễ bị người phát hiện, vì thế nàng liền từ trong rừng lặng yên đến đây. Nàng thầm nghĩ trộm lén nhìn mặt hắn, sau đó lại lén chạy trở về.

Gần đến chỗ nham thạch, nhìn thấy trên đá có người, Hồng Nương Tử phản ứng đầu tiên chính là khẩn trương né ra, bởi vì... chuyện nữ nhi của mình làm sao mà cho người khác biết, làm sao mà nhìn người khác được? Nhưng nàng nhìn thấy trong tay người kia có cung, trên lưng có tiễn, chậm rãi di chuyển về hướng vách đá.

Ẩn giấu ở cái nơi này, tay cầm cường cung mũi tên nhọn, hắn muốn giết ai? Hồng Nương Tử vừa nghĩ đến đây, cũng không suy nghĩ nhiều, lập tức thi triển khinh công thuở nhỏ luyện tập ở núi non trùng điệp, chân không dính bụi, bay vút qua đó.

Nàng cũng không muốn giết Kim Nhãn Điêu, tuy rằng cái tên khốn đáng chết một vạn lần này suýt nữa thì đả thương Dương Lăng. Có điều nếu đã đến kịp thời, Dương Lăng không việc gì, giết chết Kim Nhãn Điêu đều là người trong sơn trại coi như không có lập trường rồi. Biệt tài của Kim Nhãn Điêu một thân thần lực, Thôi Oanh Nhi quyết định, bắt y sau khi trở về không đợi cầu xin lập tức gán tội vi phạm sơn quy phế đi hai cánh tay y.

Không ngờ người không có ý giết 'điêu', 'điêu' lại muốn mổ lòng người. Đám người Lý Hoa tuy là hổ ở Trung Điều Sơn, nhưng sau khi đám người Triệu Toại, Hồng Nương Tử đến đây, bất kỳ một thế lực nào cũng đều lớn hơn bọn họ, sớm biến thành ba phái. Triệu Toại lấy danh nghĩa nghĩa quân tự xưng, hiện tại tự mình chạy tới hành thích ám sát, khiến Hình Lão Hổ, Triệu Toại một đám chủ soái vào thế bất nghĩa, Triệu Toại trị quân lại xưa nay chú ý quân quy, có thể tha được cho mình sao?

Thêm nữa, một khi nghị hoà thành công, ai sẽ quan tâm lợi ích của đám thổ phỉ trên Trung Điều Sơn nữa? Bọn họ không bị Bồ gia và Cơ gia hai nhà quyền quý Sơn Tây này giết chết mới là lạ. Vừa nghĩ đến đây, Kim Nhãn Điêu chợt nảy sinh ác niệm, người trong võ lâm quyền thuật chú ý tránh chỗ thực, tìm chỗ hư, thân pháp phối hợp, kẽ hở nham thạch này bọn họ loay hoay cũng không mở ra được.

Mình thần lực vô cùng, Hồng Nương Tử danh khí tuy lớn, rút cuộc cũng là tiểu mỹ nhân yểu điệu, có thể có bao nhiêu khí lực? Không bằng một phen bóp chết nàng ta, thần không biết quỷ không hay, vừa có thể hoàn thành mệnh lệnh của đại ca, cũng sẽ không bị người khác phát hiện.

Kim Nhãn Điêu nghĩ đến liền làm, quên mất người có cơ bắp vạm vỡ đều có đay gân, cũng có huyệt đạo, khi bị cao thủ có chỉ lực siêu quần công kích sẽ bị tê liệt không có sức lực. Cho nên, người trên đời có thể dùng được ngũ thạch cung lại mất đi một rồi.

Hồng Nương Tử thay thế vị trí Kim Nhãn Điêu, nàng cũng đang dùng tiễn ngắm chuẩn lấy Dương Lăng, dùng ánh mắt chỉ có ở nơi này mới có thể không kiêng nể gì, chính là biểu hiện tình ý và yêu say đắm của mình, phóng ra mũi tên tình cảm du dương.

Ánh mặt trời, từ trên cây cỏ xanh um chiếu xuống, chiếu vào khuôn mặt diễm lệ hao gầy kia, nhìn bóng dáng Dương Lăng dần xa khuất một cách si tình. Ánh nhìn quyến luyến vẫn đuổi theo, đuổi đến khi thân mình hắn hoàn toàn bị người khác che khuất.

Người đẹp như trăng, như tuyết, nhẫn nại xem ánh tà dương thanh thu. Cùng chung trăng sáng, dáng cô bồng, cùng chân trời với lang quân. Khí nuốt hổ, kiếm như cầu vồng, cười nhìn mây nhẹ gió thanh. Ngư Dương trêu đùa, già khuyến khích, giáo dài hét gió tây.

Hai tròng mắt nhẹ nhàng hợp nhiễu, lông mi xinh đẹp chỉnh tề hơi hơi nháy mắt động lên, hai dòng nước mắt lặng lẽ chảy xuống, rơi vào dưới chốn vực sâu không người. Nàng xoay người, bóng dáng thản nhiên nhảy nhẹ nhàng, chớp mắt chợt lóe lên nhập vào núi rừng rậm rạp.

Trên tảng đá, Kim Nhãn Điêu ngửa mặt nhìn trời, dưới ánh mặt trời, chỉ có một đôi con ngươi còn mơ hồ lộ ra một chút sáng bóng. Không trung, đang có một con điêu đang xoay quanh...

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenFun.Vip